Đề tài Hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Bộ Kế hoạch và Đầu tư

Một trong những nhiệm vụ quan trọng của việc quản lý đầu tư và xây dựng là quản lý tốt công tác chuẩn bị đầu tư, trong đó có việc lập, thẩm định và phê duyệt dự án đầu tư. Thẩm định dự án được xem như một nhu cầu không thể thiếu và là cơ sở để ra quyết định hoặc cấp giấy phép đầu tư. Thẩm định dự án được tiến hành đối với tất cả các dự án thuộc mọi nguồn vốn, mọi thành phần kinh tế. Tuy nhiên, yêu cầu thẩm định đối với các dự án này là khác nhau. Trong những năm qua, thực hiện chủ trương phát huy nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế của Đảng và Nhà nước nhằm tranh thủ mọi tiềm năng, cơ hội để phát triển kinh tế, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã trở thành một bộ phận không thể thiếu, đóng góp ngày càng lớn vào việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế xã hội của đất nước. Là một nguồn vốn giữ vai trò quan trọng và được triển khai theo những dự án lớn, Việt Nam cần nhận những dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài tốt mang lại lợi ích cho tổng thể nền kinh tế và loại bỏ những dự án xấu. Để thực hiện được mục tiêu đó, quá trình đánh giá các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài trên cơ sở thẩm định là hết sức quan trọng. Bộ Kế hoạch và Đầu tư với tư cách là cơ quan đầu mối trong việc thu hút, quản lý các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài thường xuyên chú trọng tới công tác thẩm định dự án đầu tư để ra quyết định đầu tư hoặc đề xuất báo cáo trình Chính Phủ quyết định. Để đưa ra những quyết định ngày càng đúng đắn và phát huy mạnh mẽ hơn nữa hiệu qủa của nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài , việc nâng cao chất lượng tiến tới hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được đặt ra ngày càng bức xúc. Xuất phát từ lý do trên, cùng với lòng nhiệt tình muốn nâng cao hiểu biết về lĩnh vực thẩm định dự án, trong thời gian thực tập tại Văn phòng thẩm định - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, em đã tập trung đi sâu tìm hiểu công tác thẩm định đối với các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài và đã quyết định chọn đề tài nghiên cứu “Hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Bộ Kế hoạch và Đầu tư ”. Do sự hiểu biết và thời gian thực tập có hạn nên bài viết không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo và các bạn sinh viên để Chuyên đề được hoàn thiện hơn. Em xin bày tỏ lòng biết ơn đến cô giáo Lưu Thị Hương và các cô chú cán bộ Văn phòng thẩm định của Bộ Kế hoạch và Đầu tư nơi em thực tập đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này. MỤC LỤC CHƯƠNG 1: Lý luận chung về công tác thẩm định dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài . 1.1. Dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài. 1.1.1.Khái niệm và đặc điểm dự án đầu tư . 1.1.2.Dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài. 1.1.2.1.Khái niệm, đặc điểm và vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài. 1.1.2.2 Các hình thức dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài 1.1.2.2.1.Hợp đồng hợp tác kinh doanh 1.1.2.2.2. Doanh nghiệp liên doanh 1.1.2.2.3. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài 1.1.2.2.4. Hợp đồng xây dựng- kinh doanh- chuyển giao 1.2.Công tác thẩm định dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài 1.2.1.Tổng quan về thẩm định dự án 1.2.2. Nội dung thẩm định dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài 1.2.2.1. Thẩm định tài chính dự án 1.2.2.2.Thẩm định tư cách pháp lý, năng lực tài chính của nhà đầu tư nước ngoài và Việt Nam 1.2.2.3.Thẩm định lợi ích kinh tế-xã hội 1.2.2.4.Thẩm định kỹ thuật công nghệ 1.2.2.5.Thẩm định các mục tiêu của dự án 1.2.2.6.Thẩm định mức độ phù hợp mục tiêu dự án với quy hoạch, tính hợp lý của việc sử dụng đất, phương án đền bù giải phóng mặt bằng và định giá tài sản góp vốn của bên Việt Nam. 1.2.3. Các bước thẩm định và cơ quan đơn vị thực hiện thẩm định dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài 1.2.3.1.Các bước thẩm định 1.2.3.2. Cơ quan, đơn vị thực hiện thẩm định 1.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng tới công tác thẩm định dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài 1.2.4.1.Phương pháp thẩm định 1.2.4.2. Lựa chọn đối tác 1.2.4.3.Môi trường pháp luật 1.2.4.4.Thông tin 1.2.4.5.Quy trình thực hiện thẩm định 1.2.4.6.Quản lý nhà nước đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài 1.2.4.7.Đội ngũ cán bộ thẩm định 1.2.4.8. Vấn đề định lượng và tiêu chuẩn trong thẩm định dự án CHƯƠNG 2: Thực trạng công tác thẩm định dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Bộ Kế hoạch và Đầu tư 2.1. Khái quát chung về các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thời gian qua 2.1.1. Tình hình cấp giấy phép đầu tư 2.1.2. Tình hình thực hiện dự án 2.1.3. Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hình thức đầu tư 2.1.4. Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo ngành, lĩnh vực 2.1.5. Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo đối tác đầu tư 2.2. Quy trình tổ chức thẩm định dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Bộ Kế hoạch và Đầu tư 2.3. Ví dụ về thẩm định một dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Bộ Kế hoạch và Đầu tư 2.4. Đánh giá thực trạng công tác thẩm định dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Bộ Kế hoạch và Đầu tư CHƯƠNG 3: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Bộ Kế hoạch và Đầu tư 3.1. Triển vọng các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam 3.2. Giải pháp 3.3. Kiến nghị

doc97 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1625 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Bộ Kế hoạch và Đầu tư, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c thời hạn với số vốn khoảng 8 tỷ USD và số vốn đã được thực hiện là 2,1 tỷ USD, trong đó thời kỳ 1996-2000 có 406 dự án giải thể và vốn đăng ký là 6,56 tỷ USD, tăng 69% về số dự án và gấp 4,3 lần về vốn giải thể so với 5 năm trước. Nguyên nhân việc số dự án bị giải thể tăng lên một mặt do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực, do môi trường kinh doanh ở Việt Nam còn nhiều mặt kém thuận lợi , do Việt Nam có sự điều chỉnh định hướng thu hút đầu tư nước ngoài trong một số lĩnh vực. Nhưng mặt khác còn do phần lớn các dự án bị giải thể thời kỳ này đã được cấp giấy phép đầu tư giai đoạn từ năm 1995 trở về trước, trong đó có những dự án ngay trong quá trình thẩm định tuy đã có những ý kiến phân vân về tính khả thi (lựa chọn đối tác không phù hợp, dựa trên những dự báo không chính xác về cung cầu…) nhưng vẫn được cấp giấy phép đầu tư vì những lý do khác nhau. Bên cạnh đó, thông tin về các chủ đầu tư nước ngoài nhiều khi sai lệch khiến cho công tác thẩm định khá vất vả. Cụ thể trong dự án cấp nước BOT vừa nêu trong phần ví dụ, thông tin do các chủ đầu tư nước ngoài cung cấp ghi trong hồ sơ dự án rất khả quan. Tuy nhiên, trong quá trình thẩm định đã phát hiện không phải mọi thông tin về các công ty đầu tư đều đúng sự thật. Nghiên cứu tiền khả thi của dự án đó đã được Thủ tướng Chính phủ thông qua về nguyên tắc, gồm 4 công ty đầu tư nước ngoài. Trên thực tế, công ty A- với tư cách là nhà đầu tư chính, đóng góp 60% vốn pháp định- không còn tồn tại nữa, nhưng đã đứng dưới danh nghĩa một tên khác để tham gia đầu tư. 2.3.2.3. Hệ thống luật pháp, chính sách đang trong quá trình hoàn thiện nên chưa đảm bảo tính rõ ràng và dự đoán trước được, gây khó khăn không ít cho quá trình thẩm định dự án. Tính ổn định của luật pháp, chính sách chưa cao. Một số luật pháp, chính sách liên quan trực tiếp đến đầu tư nước ngoài thay đổi nhiều. Có những trường hợp chưa tính kỹ đến lợi ích chính đáng của nhà đầu tư nên đã làm đảo lộn phương án kinh doanh và gây thiệt hại cho họ. Nhiều vướng mắc liên quan đến phạm vi điều chỉnh của các luật chuyên ngành như luật đất đai, quản lý ngoại hối, công nghệ môi trường, lao động, xuất nhập cảnh, pháp lệnh thi hành án…chậm được sửa đổi khiến cho nhiều khi cán bộ thẩm định không có được những cơ sở rõ ràng và cập nhật để tiến hành thẩm định. Thêm vào đó, nhiều văn bản dưới luật ban hành chậm so với quy định. Một số văn bản hướng dẫn của các Bộ, ngành, địa phương có xu hướng xiết lại, thêm quy trình dẫn đến tình trạng “trên thoáng dưới chặt”, một số chính sách mới của Chính phủ chậm được đưa vào cuộc sống hoặc không được cơ quan cấp dưới chấp hành nghiêm chỉnh làm giảm lòng tin của cộng đồng đầu tư nước ngoài. 2.3.2.4. Công tác quy hoạch còn chậm, chất lượng chưa cao, thiếu cụ thể. Các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam chủ yếu với động cơ tìm kiếm lợi nhuận và nhằm vào thị trường tiêu thụ nội địa gần 80 triệu dân. Nhưng một mặt, quy mô của thị trường Việt Nam còn nhỏ bé, sức mua thấp, nhất là vùng nông thôn. Mặt khác ta lại chủ trương khuyến khích đầu tư hướng về xuất khẩu, nhiều dự án phải xuất khẩu trên 80% nên tính khả thi của dự án không cao. Nhiều lĩnh vực đầu tư có sức hấp dẫn nhưng vào thời điểm hiện nay đã và đang bão hoà (khách sạn, văn phòng cho thuê, lắp ráp ôtô xe máy, hàng điện tử gia dụng…). Tình hình trên cộng với ảnh hưởng tiêu cực của khủng hoảng kinh tế khu vực đã làm cho công suất huy động của nhiều sản phẩm thuộc khu vực đầu tư nước ngoài đạt thấp. Việc cấp phép những năm đầu trong một vài lĩnh vực cũng còn hiện tượng thiên về số lượng, nặng về thay thế nhập khẩu, tuy có bổ sung hàng hoá cho thị trường, tiết kiệm ngoại tệ nhập khẩu, nhưng tình trạng này kéo dài không kịp thời điều chỉnh đã dẫn đến chênh lệch cung cầu, tạo sức ép lớn đối với sản xuất một vài sản phẩm trong nước. Cũng do thiếu quy hoạch cụ thể nên một mặt các địa phương phải chờ xin ý kiến của các cơ quan trung ương mất nhiều thời gian, mặt khác dẫn đến tình trạng quan điểm xử lý đối với dự án không nhất quán. Hình thức đầu tư nước ngoài cũng chưa phong phú. Hơn 10 năm qua, đầu tư nước ngoài tại Việt Nam thực hiện theo 4 hình thức là doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, Hợp đồng hợp tác kinh doanh và hợp đồng BOT. Tuy nhiên các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài chỉ được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn. Trong chỉ đạo và điều hành ta dành ưu tiên cho hình thức liên doanh nhưng chính doanh nghiệp liên doanh lại có tỷ lệ lỗ vốn, giải thể nhiều nhất, mâu thuẫn giữa các bên liên doanh là khá phổ biến. Hình thức hợp đồng BOT tuy được khuyến khích phát triển và thực tế đã chứng minh là chứa đựng rất nhiều lợi thế đặc biệt đối với các nước đang phát triển trong các dự án mang tính chất phúc lợi công cộng, xây dựng cơ sở hạ tầng…nhưng do nhiều nguyên nhân khách quan vẫn chưa thực sự phát huy được sức mạnh của mình cho dù nhà nước đã tạo nhiều điều kiện khuyến khích phát triển. Trong quá trình thẩm định các dự án BOT, nếu không có một hệ thống toà án tin cậy, không có khả năng đứng ra bảo vệ quyền lợi của từng cá nhân và xí nghiệp thì các nhà đầu tư nước ngoài sẽ không cảm thấy yên tâm khi đưa ra những cam kết đầu tư lâu dài ở Việt Nam. Thủ tục hành chính trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài còn quá rườm rà. Việc xin cấp giấy phép đầu tư, thủ tục thuê đất, xin giấy phép xây dựng cũng như các thủ tục triển khai thực hiện dự án còn nhiều phức tạp. Công tác lập hồ sơ dự án còn nhiều thiếu sót, sơ sài và buộc phải sửa đổi bổ sung khiến thời gian thẩm định và cấp giấy phép kéo dài. Đặc biệt khi được cấp giấy phép đầu tư, để có được giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, các chủ đầu tư phải mất khá nhiều thời gian mới triển khai thực hiện được dự án. Việc phức tạp trong thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hiện đang là một vấn đề nổi cộm và làm ảnh hưởng rất lớn đến công tác thẩm định dự án. Bên cạnh đó, phương thức quản lý cồng kềnh, các thủ tục rắc rối phiền hà kéo dài thời gian làm giảm lại tiến độ phê chuẩn và thực hiện dự án. Do vậy bên cạnh Luật đầu tư nước ngoài, các văn bản dưới luật cũng phải nhằm mục tiêu khắc phục những bất hợp lý nảy sinh. Thi hành chế độ một cửa có hiệu lực, điều chỉnh hệ thống giá cả có liên quan nhằm giảm chi phí cho nhà đầu tư , chú trọng đào tạo nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ thẩm định dự án. Ngoài ra cần huỷ bỏ những ràng buộc hệ thống ngân hàng và các dịch vụ kèm theo nhằm tạo môi trường thông thoáng cho các nhà đầu tư. Thành lập các khu vực mậu dịch tự do, khu chế xuất cho các ngành công nghiệp xuất khẩu…là giải pháp hữu hiệu thu hút FDI và củng cố lòng tin của các nhà đầu tư nước ngoài vào công cuộc kinh doanh ở Việt Nam. 2.3.2.6. Mặt thẩm định công nghệ còn thiếu nhiều kinh nghiệm. Chuyển giao công nghệ là một thành tố quan trọng của đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên nhiều hoạt động chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư nước ngoài được thực hiện không theo các quy định của pháp luật (chẳng hạn như không lập và ký kết hợp đồng hoặc chỉ ký kết hợp đồng giữa bên giao và bên nhận mà không trình để phê duyệt…) làm cho cơ quan thẩm định rất khó có những căn cứ chính xác và nhất quán để thực hiện công tác thẩm định về mặt công nghệ. Nhiều hợp đồng chuyển giao công nghệ được ký kết giữa các bên là do bên nước ngoài soạn thảo sẵn với những điêù khoản có lợi cho họ, trách nhiệm của bên giao không rõ ràng và có những điều khoản trái với quy định của pháp luật Việt Nam, chi phí chuyển giao công nghệ không hợp lý, vượt quá nhiều so với quy định. Những hợp đồng đó thường bị sửa lại nhiều lần làm kéo dài thời gian phê duyệt. Bên cạnh đó cũng chưa có được một đội ngũ cán bộ thẩm định thực sự thông thạo về các thiết bị công nghệ hiện đại cũng như thông thạo ngoại ngữ và luật pháp quốc tế dẫn đến nhiều trường hợp công nghệ đưa vào không đáp ứng được mục tiêu của dự án đề ra. kinh nghiệm thẩm định giá và mức độ tiên tiến của công nghệ và máy móc còn nhiều hạn chế dẫn đến hiệu quả thấp, đặc biệt là trong các dự án liên doanh rất nhiều dự án bị giải thể trước thời hạn. Chưa có sự thống nhất giữa Chính phủ và Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong đánh giá thẩm định dự án. Thông thường, những kết quả đánh giá thẩm định do Bộ Kế hoạch và Đầu tư đưa ra sau quá trình thẩm định là những căn cứ trực tiếp để Chính phủ ra quyết định đầu tư và cấp giấy phép đầu tư. Tuy nhiên, cũng có những trường hợp không có sự thống nhất trong đánh giá dự án giữa Chính phủ và Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Cụ thể, trong dự án cấp nước BOT vừa được lấy làm ví dụ, mặc dù kết quả đánh giá thẩm định do Bộ Kế hoạch và Đầu tư đưa ra về dự án là còn nhiều vấn đề tồn tại, nhiều vấn đề còn nghi vấn cần phải xem xét kỹ lưỡng mới có thể đưa ra kết luận cuối cùng, tuy nhiên dự án vẫn được Chính phủ chấp nhận và thông qua. Nguyên nhân của vấn đề trên có thể ở chỗ chưa có những tiêu chuẩn cụ thể để đánh giá xếp loại dự án, chưa có quy định chi tiết về những điều kiện dự án cần phải đạt đủ để được cấp giấy phép đầu tư. CHƯƠNG 3: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Bộ Kế hoạch và Đầu tư. 3.1. Triển vọng các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam. 3.1.1. Bối cảnh tình hình. Những thuận lợi: Tình hình kinh tế- xã hội của nước ta tiếp tục ổn định và phát triển. Đặc biệt, những thành tựu to lớn và rất quan trọng của 15 năm đổi mới đã làm cho thế và lực của ta mạnh lên, cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế được tăng cường. Sự phát triển có nhiều triển vọng của nền kinh tế trong môi trường chính trị xã hội cơ bản ổn định, môi trường hợp tác, liên kết kinh tế quốc tế có nhiều thuận lợi cùng với những tiềm năng lớn về tài nguyên, lao động của đát nước sẽ tạo nhiều điều kiện thuận lợi để tiếp tục thu hút mạnh hơn nữa các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài để phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước. Môi trường kinh doanh nói chung và môi trường đầu tư nói riêng không ngừng được cải thiện; công tác quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài đã rút ra được nhiều bài học kinh nghiệm và dần đi vào nền nếp; đội ngũ cán bộ trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài ngày một trưởng thành. Xu hướng toàn cầu hóa kinh tế đang gia tăng mạnh cùng với sự phát triển nhảy vọt của cách mạng khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ thông tin đã thúc đẩy sự hình thành nền kinh tế tri thức, tạo nên sự dịch chuyển mạnh cơ cấu kinh tế quốc tế và gia tăng mạnh các dòng chuyển vốn trên thế giới. Mặt khác, kinh tế thế giới đã phục hồi và tăng trưởng trở lại. Thời gian tới, Châu á- Thái Bình Dương tiếp tục là khu vực phát triển năng động của thế giới. Trong bối cảnh đó, nước ta cũng có những cơ hội thuận lợi để thu hút thêm các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài Những khó khăn. Nền kinh tế phát triển chưa vững chắc, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp. Nhịp độ tăng trưởng kinh tế 5 năm qua chậm dần. Năm 2000 có chiều hướng tăng lên nhưng chưa đạt được mức tăng trưởng cao như 5 năm đầu thập niên 90. Cơ cấu kinh tế dịch chuyển chậm, tích luỹ nội bộ nên kinh tế còn thấp, các cân đối vĩ mô còn thiếu vững chắc. Môi trường kinh doanh, đầu tư còn nhiều hạn chế. Nhu cầu thị trường tăng chậm, dung lượng thị trường nhỏ và sức mua trong nước còn rất thấp trong khi cung về nhiều sản phẩm trong nước đã bão hoà. Quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài còn bất cập, đặc biệt thủ tục hành chính còn phiền hà, tình trạng chấp hành chưa nghiêm luật pháp chính sách còn khá phổ biến. Cạnh tranh trong thu hút các dự án đầu tư nước ngoài trên thế giới và trong khu vực diễn ra ngày càng gay gắt. Hiện nay, ba phần tư vốn đầu tư nước ngoài trên thế giới là đầu tư lẫn nhau giữa các nước công nghiệp phát triển do sự tăng cường liên kết giữa các công ty đa quốc gia của Mỹ, Nhật, Tây Âu. Một phần tư số vốn đầu tư nước ngoài còn lại chảy vào các nước đang phát triển nhưng chủ yếu bị thu hút vào các nươcs công nghiệp mới (NICS) hoặc vào các thị trường đầu tư lớn như Trung Quốc, ấn Độ, Brazil, Mêhico…Trong bối cảnh đó, các nước trong khu vực đã và đang cải thiện mạnh môi trường thu hút đầu tư nước ngoài nhằm vượt lên trên các nước khác, coi đó là giải pháp chiến lược phục hồi và phát triển kinh tế. Chính điều này tạo nên sức cạnh tranh mạnh và là thách thức to lớn với Việt Nam, nhất là trong bối cảnh hiện nay môi trường đầu tư tại Việt Nam đang bị đánh giá là mất dần tính cạnh tranh và độ rủi ro trong kinh doanh cao hơn các nước trong khu vực. Sau khủng hoảng kinh tế khu vực và dựa vào kinh nghiệm thực tế tại Việt Nam, các nhà đầu tư nước ngoài đã đánh giá Việt Nam đúng hơn và trở nên thận trọng, không đầu tư ồ ạt theo hướng đón đầu như những năm đầu 90 mà thực hiện chính sách đầu tư phù hợp với tình hình kinh tế và sức mua thực tế của người dân Việt Nam. Việc thực hiện từng bước tự do hoá thương mại và đầu tư theo lộ trình AFTA, khu vực đầu tư ASEAN (AIA) cũng được các nhà đầu tư nước ngoài tính toán khi lựa chọn địa điểm đầu tư , thực hiện phân công lao động quốc tế đối với các nước trong khu vực ASEAN, tuỳ thuộc môi trường đầu tư, tiềm lực kinh tế, nguồn tài nguyên nhân lực tại chỗ, quy mô thị trường của mỗi nước. 3.1.2. Triển vọng Khả năng vốn thực hiện của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài 5 năm tới sơ bộ ước tính trên 11 tỷ USD, dựa vào nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện từ các dự án đã được cấp giấy phép từ những năm trước nhưng chưa hoặc đang tiếp tục triển khai và dựa vào vốn thực hiện của các dự án cấp mới trong cùng kỳ, trong đó dự kiến: + Số vốn của các dự án đã cấp phép nhưng chưa thực hiện (khoảng trên dưới 15 tỷ USD) sẽ tiếp tục thực hiện khoảng 4-5 tỷ USD. + Số dự án triển khai có hiệu quả, dự kiến tăng vốn khoảng 2 tỷ USD + Số vốn thực hiện của các dự án cấp mới khoảng 4-5 tỷ USD. Các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài theo ngành, lĩnh vực. Định hướng chung là khuyến khích mạnh mẽ việc thu hút các dự án vào các ngành công nghiệp chế biến xuất khẩu, cơ khí, điện tử, dầu khí, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm, khai thác thế mạnh về tài nguyên, nguyên liệu. Trong lĩnh vực nông lâm nghiệp, khuyến khích và có chính sách ưu đãi thoả đáng đối với các dự án chế biến sản phẩm nông lâm ngư nghiệp gắn với việc phát triển các vùng nguyên liệu để phục vụ xuất khẩu và tiêu dùng trong nước; chú trọng các dự án ứng dụng công nghệ sinh học sản xuất các giống mới có chất lượng và hiệu quả kinh tế cao; khuyến khích các dự án công nghiệp phục vụ nông nghiệp, các dự án dịch vụ nông thôn. Trong lĩnh vực công nghiệp, các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vừa hướng vào những ngành sản xuất hàng xuất khẩu, những ngành sử dụng nhiều lao động, vừa chú trọng những ngành có công nghệ hiện đại, công nghệ cao. Cụ thể: Tiếp tục thu hút các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài trong các lĩnh vực quan trọng: tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí, phát triển các cơ sở công nghiệp hạ nguồn dầu khí. Thăm dò, khai thác tài nguyên khoáng sản Việt Nam Sản xuất linh kiện, lắp ráp thiết bị xe máy, thi công xây dựng, thiết bị kỹ thuật cho ngành vận tải, thiết bị phụ tùng cho các ngành công nghiệp. Phát triển nguyên liệu hoá chất cơ bản, vật liệu mới, chất bảo vệ thực vật, nguyên liệu nhựa. Các dự án may mặc, da giầy xuất khẩu; các dự án sản xuất công cụ, đồ dùng gia đình. Các dự án điện tử, điện gia dụng, phần mềm tin học, điện tử y tế phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu Các dự án sản xuất các loại dược phẩm thay thế hàng nhập khẩu, sản xuất thiết bị y tế… Trong lĩnh vực dịch vụ, tập trung khuyến khích phát triển các dự án phát triển hạ tầng kỹ thuật kinh tế, cơ sở hạ tầng ngành du lịch, các dịch vụ tin học, chuyển giao công nghệ Các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài theo địa bàn, đối tác nước ngoài. Tiếp tục thu hút các dự án vào những địa bàn có nhiều lợi thế để phát huy vai trò của các vùng động lực, tạo điều kiện liên kết phát triển các vùng khác trên cơ sở phát huy thế mạnh của các vùng phụ cận về nguyên liệu, lao động và nguồn lực khác. Có chính sách ưu đãi hơn nữa các dự án vào các khu công nghiệp tập trung đã hình thành theo quy hoạch được phê duyệt. Đa phương hoá các đối tác đầu tư nước ngoài để tạo thế chủ động trong các tình huống. Cùng với việc tiếp tục thu hút các nhà đầu tư nước ngoài ở khu vực Đông á, ASEAN vào các dự án mà họ có nhiều kinh nghiệm và thế mạnh, tăng cường thu hút mạnh các dự án từ các nước công nghiệp phát triển nhằm tranh thủ tiềm lực kinh tế và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Có kế hoạch vận động trực tiếp các công ty xuyên quốc gia có tiềm lực lớn về vốn, công nghệ, thị trường quốc tế đầu tư vào Việt Nam, đồng thời chú ý đến cả các dự án có quy mô vừa và nhỏ, nhưng công nghệ hiện đại. 3.2. Giải pháp. 3.2.1. Giải pháp về lựa chọn đối tác tham gia đầu tư thận trọng hơn. Đối tác nước ngoài là một yếu tố quan trọng và lựa chọn đúng đắn đối tác là điều kiện tiên quyết để có được những dự án thành công. Tuy nhiên, đối tác nước ngoài rất đa dạng, ở nhiều khu vực, nhiều nước khác nhau trên thế giới nên việc tìm hiểu về đối tác và luật lệ của họ không phải dễ dàng. Vì vậy cần phải đẩy mạnh hoạt động tư vấn đầu tư để giúp các chủ đầu tư có cơ hội lựa chọn đúng đối tác. Đối tác nước ngoài phải được lựa chọn thẩm tra chính xác. Đã đến lúc không phải bất cứ loại đối tác nào chúng ta cũng hoan nghênh như trong mấy năm đầu thực hiện đầu tư. Lựa chọn đối tác đầu tư nước ngoài cần chú ý tới các tiêu chuẩn sau: + Thiện chí làm ăn lâu dài ở Việt Nam; kiên quyết phát hiện và loại trừ các đối tác có tư tưởng làm ăn chộp giật, mánh mung và thậm chí lừa đảo. Có những đối tác đến Việt Nam không phải là bạn mà sử dụng các tiểu sảo trong giao tiếp, tranh thủ tình cảm trong giao tiếp, tình cảm của bạn hàng bằng những lợi hoa mỹ, bằng quà kỷ niệm hoặc bằng những chuyến đi thăm quan nước ngoài để đạt được những ý đồ của họ. + Có năng lực cần thiết về tài chính đủ để thực hiện dự án đầu tư. + Có khả năng, kinh nghiệm trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh cụ thể. Sẵn sàng chuyển giao công nghệ cần thiết vào Việt Nam. + Cần sớm phát hiện và có biện pháp xử lý hữu hiệu đối với một số đối tác vào Việt Nam với mục tiêu phi kinh tế. Để làm được việc này cần có sự tham gia của các cơ quan chức năng của nhà nước, phải đặt mục tiêu hiệu quả kinh tế-xã hội lên hàng đầu. Để đạt mục tiêu đó, Việt Nam đã rất mong muốn được “là bạn với tất cả các nước” không phân biệt chế độ chính trị xã hội. Bên cạnh đó, cũng cần phải thực hiện chuyển đổi đối tác đầu tư. Việt Nam cần tập trung tăng cường hợp tác trực tiếp với các nước phát triển có tiềm lực kinh tế mạnh, các công ty đa quốc gia, các tập đoàn lớn trên thế giới để tranh thủ được công nghệ gốc, tiếp cận với cách thức quản lý hiện đại, tạo điều kiện cho Việt Nam hội nhập vào thị trường quốc tế. Tuy nhiên, chúng ta vẫn phải chú ý thu hút các doanh nghiệp vừa và nhỏ của nước ngoài vì đó là doanh nghiệp năng động, thích ứng nhanh với những biến động của thị trường, phù hợp với đối tác Việt Nam về khả năng góp vốn, năng lực tiếp thu công nghệ, kinh nghiệm quản lý và có điều kiện tạo nhiều việc làm. Đa phương hoá các đối tác đầu tư nước ngoài để tạo thế chủ động trong các tình huống. Cùng với việc tiếp tục thu hút các nhà đầu tư nước ngoài ở khu vực Đông á, ASEAN vào các dự án mà họ có nhiều kinh nghiệm và thế mạnh như chế biến nông sản, sản xuất hàng xuất khẩu, dịch vụ…cần tăng cường thu hút mạnh đầu tư nước ngoài từ các nước công nghiệp phát triển như Bắc Mỹ, Tây Âu, Nhật Bản nhằm tranh thủ tiềm lực về tài chính, công nghệ, kỹ thuật hiện đại, nâng cao tiềm lực kinh tế và năng lực cạnh tranh của nên kinh tế. Đối với dự án đầu tư theo chương trình của Chính phủ, các dự án trọng điểm của các Bộ, ngành, UBND và Ban quản lý khu công nghiệp cấp tỉnh, các tổ chức kinh tế Việt Nam có liên quan cần tổ chức đấu thầu lựa chọn đối tác thực hiện dự án theo quy định của Quy chế đấu thầu và Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng. Đối với các dự án khác, tuỳ tình hình cụ thể có thể sử dụng các phương thức thích hợp để xác định, lựa chọn được các đối tác đầu tư đáp ứng được yêu cầu. 3.2.2. Giải pháp về cải cách thủ tục hành chính. Để làm cho công tác thẩm định thêm tiện lợi, nhanh chóng và chính xác, cần đẩy nhanh hơn nữa tiến độ cải cách thủ tục hành chính, khắc phục sự trì trệ trong các cơ quan quản lý nhà nước, đơn giản hoá các thủ tục hành chính theo nguyên tắc “một cửa”, “một đầu mối”, nhất là thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Khi tiến hành thẩm định dự án, các cơ quan cần tiến hành đồng thời, nếu chấp nhận chẳng hạn về quyền sử dụng đất cần phải tiến hành giải phóng mặt bằng ngay để khi nhận được giấy phép đầu tư có thể đưa dự án vào thực hiện. Các cơ quan phụ trách hợp tác và đầu tư là cơ quan duy nhất tiếp nhận hồ sơ và giải quyết các công việc tiếp theo, đồng thời thay mặt nhà đầu tư đi liên hệ với các cơ quan hữu quan rồi trả lời cho các nhà đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi cho họ khi đăng ký. Về hồ sơ đăng ký cấp giấy phép đầu tư, các cơ quan chức năng phải thông báo công khai các loại giấy tờ cần có, riêng các loại dự án có tỷ lệ xuất khẩu từ 80% trở lên và một số lĩnh vực khác do Bộ Kế hoạch và Đầu tư công bố, nhà đầu tư phải đăng ký theo mẫu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Nên chăng cần tiến tới tiêu chuẩn hoá và thống nhất hoá thủ tục cấp giấy phép đầu tư từ địa phương đến trung ương và phổ biến rộng rãi các tiêu chuẩn ấy trong và ngoài nước. Về lâu dài, cần thiết phải xây dựng một cơ chế cấp giấy phép và quản lý thông tin phù hợp với các chuẩn mực khu vực và quốc tế để đảm bảo tính minh bạch rõ ràng và tính cạnh tranh trong môi trường đầu tư Việt Nam. 3.2.3. Giải pháp về nâng cao chất lượng khai thác, xủ lý và lưu trữ thông tin . Thông tin là một yếu tố rất quan trọng để tiến hành công tác thẩm định và là điều kiện tiên quyết để lựa chọn được những dự án đầu tư có chất lượng tốt. Do đặc trưng của các đối tác nước ngoài là rất đa dạng về đặc điểm, hoàn cảnh địa lý và môi trường nên việc khai thác, thu thập thông tin phục vụ cho công tác thẩm định là một công việc hết sức tốn kém về công sức, tiền bạc và thời gian. Thông tin có thể thu thập ở rất nhiều nguồn, tuy nhiên không phải nguồn tin nào cũng đáng tin cậy.Nên tìm hiểu các thông tin một cách chính thống qua các cơ quan đại diện ngoại giao, thương mại kinh tế của Việt Nam ở nước ngoài, các ngân hàng, các công ty kiểm toán tư vấn đầu tư trong và ngoài nước. Ngoài ra, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng có thể đa dạng hóa nguồn thông tin từ các bạn hàng của đối tác để nắm được tình hình tài chính, quan hệ thanh toán, tư cách , uy tín và năng lực của nhà đầu tư nước ngoài. Cùng với đó là việc thuê các công ty kiểm toán có uy tín xác định tính chính xác và trung thực của các báo cáo tài chính. Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng cần thiết lập quan hệ với các cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư của một số nước để trao đổi thông tin, kinh nghiệm, đẩy mạnh quan hệ với các công ty tư vấn pháp luật, dịch vụ tư vấn quốc tế để có nguồn thông tin và có sự trợ giúp trong công tác xây dựng luật và vận động đầu tư. Bên cạnh đó, thiết lập và duy trì mối quan hệ lâu dài với các đối tác cũng là một trong những giải pháp không kém phần hiệu quả để giải quyết vấn đề thiếu hụt thông tin. Việc thiết lập được mối quan hệ lâu dài sẽ giảm chi phí và thời gian thu thập thông tin, chưa kể đến thông tin thu thập được chắc chắn sẽ có tính chính xác cao hơn. Trong phạm vi quốc gia, đầu tư trực tiếp nước ngoài là một hoạt động phức tạp, liên quan đến thẩm quyền và trách nhiệm của những cơ quan quản lý khác nhau. Vì vậy để tạo được nguồn thông tin tốt cho công tác thẩm định cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước ở các cấp. Vấn đề then chốt là nhằm đảm bảo duy trì chế độ báo cáo định kỳ theo quy định. Ngoài chế độ báo cáo thống kê theo quy định chung của nhà nước, các Sở kế hoạch và đầu tư cần có báo cáo và thông tin nhanh về tình hình đầu tư nước ngoài trên địa bàn để Bộ Kế hoạch và Đầu tư kịp thời nắm bắt và xử lý các vấn đề phát sinh. Những năm gần đây, chúng ta đã có một bước nhảy vọt trong ngành viễn thông, trong mạng thông tin kinh tế giúp cho việc khai thác thông tin được nhanh chóng và hiệu quả hơn. Tuy nhiên, chúng ta vẫn chưa có một định huớng cụ thể, chưa có một hoạch định đúng đắn để mạng thông tin toàn cầu phục vụ đắc lực và tối đa cho các cơ quan cần nắm bắt thông tin như cơ quan thẩm định. Vấn đề mấu chốt hạn chế việc khai thác mạng thông tin toàn cầu này là giá cước truy nhập, cước viễn thông quốc tế của chúng ta còn cao mặc dù trong thời gian gần đây cũng đã có sự điều chỉnh giảm giá cước. Thiết nghĩ Tổng cục bưu điện cần tiếp tục có những cải tiến nhằm đạt tới một mức giá chung bằng các nước trong khu vực và trên thế giới để thông tin có thể đến được những đối tượng có nhu cầu một cách hiệu quả và ít tốn kém hơn. Để có được nguồn thông tin tốt thì vấn đề lưu trữ và xử lý thông tin cũng hết sức quan trọng. Với sự giúp đỡ của công nghệ tin học, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cần xây dựng và không ngừng hoàn thiện những phương pháp thu thập, phân tích , xử lý và lưu trữ thông tin có hiệu quả. Trung tâm thông tin của Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã và đang là một nguồn cung cấp thông tin quan trọng phục vụ không nhỏ cho công tác của Bộ. Tuy nhiên cũng cần phải cải tiến hơn nữa hoạt động của đội ngũ nhân viên trong việc khai thác và xử lý các thông tin trên mạng máy tính, đồng thời nâng cấp hệ thống máy tính để khai thác có hiệu quả hơn nguồn thông tin cả về số lượng và chất lượng. 3.2.4. Giải pháp về xây dựng một quy trình thẩm định hợp lý. Khâu có ý nghĩa quan trọng trong quá trình thẩm định dự án là thực hiện các công việc thẩm định. Để thực hiện tôt khâu này cần phải có một quy trình thực hiện thẩm định hợp lý, khoa học. Do nhiệm vụ tổng quát của công tác thẩm định dự án là: Thứ nhất: phân tích đánh giá tính khả thi của dự án về các mặt. Thứ hai: đề xuất kiến nghị với nhà nước liệu chấp nhận hay không chấp nhận dự án. Tức công việc thứ nhất chủ yếu là xem xét đánh giá chuyên môn, công việc thứ hai là lựa chọn phương án và điều kiện phù hợp nên để công tác thẩm định được cặn kẽ và chính xác, việc tổ chức thẩm định dự án nên chia các thành viên tham gia thẩm định thành hai khối: + Khối chuyên môn: gồm các cơ quan chuyên môn hoặc chuyên gia có trình độ chuyên môn cao liên quan đến nội dung dự án. + Khối quản lý: gồm các cơ quan hoặc chuyên gia về quản lý (ngành, lãnh thổ) có hiểu biết chung về chuyên môn nhưng có thể không sâu về chuyên ngành. Đối với khối tư vấn về chuyên môn, có thể có các cách sử dụng tư vấn sau: . Thành lập nhóm chuyên gia: bao gồm các chuyên gia làm việc tại các Bộ, sở quản lý chuyên ngành, có thể có thêm vài chuyên gia độc lập từ các viện nghiên cứu, trường đại học bên ngoài. Trong những trường hợp cần thiết, nhóm chuyên gia này có thể chia thành các tiểu ban chuyên môn để thực hiện đánh giá theo từng nôị dung chuyên môn. Ví dụ: tiểu ban công nghệ, tiều ban xây dựng, tiểu ban kinh tế… . Các tư vấn độc lập trong và ngoài nước: đó là các tổ chức hoặc cá nhân có trình độ chuyên môn cao trong các lĩnh vực có liên quan. Các tổ chức tư vấn hoặc chuyên gia này làm nhiệm vụ phản biện toàn bộ hoặc từng phần dự án theo chuyên đề. Tuỳ thuộc nội dung, tính chất dự án cụ thể, Bộ Kế hoạch và Đầu tư có thể trình người có thẩm quyền quyết định thành lập Nhóm chuyên gia hoặc chọn tư vấn phản biện để tiến hành thẩm định các dự án. Cách thức sử dụng tư vấn chuyên môn thẩm định đối với từng dự án có thể áp dụng các cách linh hoạt: có thể đầy đủ các hình thức tổ chức nói trên (có cả nhóm chuyên gia, có cả các tư vấn độc lập), có thể sử dụng một hay một vài hình thức nêu trên (chỉ gồm nhóm chuyên gia hay một vài tiểu ban chuyên môn, thậm chí có thể chỉ yêu cầu một vài chuyên gia phản biện). Trên cơ sở ý kiến của các tư vấn chuyên môn nói trên, cơ quan thẩm định sẽ xem xét quyết định để có ý kiến trình người có thẩm quyền quyết định đầu tư. Mặt khác, Bộ Kế hoạch và Đầu tư_ với tư cách là cơ quan thẩm định _ cần phối hợp với các Bộ chuyên ngành, Hiệp hội tư vấn để hình thành mạng lưới đội ngũ chuyên gia và tổ chức tư vấn tương đối ổn định, có mối quan hệ thường xuyên để huy động nhanh, đáp ứng kịp thời yêu cầu của công tác thẩm định. Nhóm chuyên gia liên ngành, các tiểu ban chuyên môn và tư vấn độc lập cũng cần sử dụng thông tin, trao đổi, phối hợp với nhau trong quá trình thẩm định đánh giá dự án theo nhiệm vụ được giao. Việc thực hiện tốt một quy trình thẩm định hợp lý một mặt sẽ đảm bảo các yêu cầu quản lý nhà nước, quản lý ngành và phối hợp được giữa các ngành, các địa phương trong việc đánh giá thẩm định dự án, đồng thời đảm bảo tính khách quan, cho phép phân tích sâu sắc, có căn cứ khoa học và thực tế các vấn đề chuyên môn, giúp Bộ Kế hoạch và Đầu tư hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ thẩm định của mình. 3.2.5. Giải pháp về cải cách công tác thẩm định dự án FDI. Thông thường, các nhà đầu tư nước ngoài và đôi khi cả bên Việt Nam chỉ quan tâm nhiều đến hiệu quả tài chính của dự án, bởi vì đứng về lợi ích riêng của nhà đầu tư thì hiệu quả cao nhất là lợi nhuận thu được. Trong khi đó, nhà nước khuyến khích nhiều hay ít một dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài không chỉ căn cứ vào hiệu quả tài chính mặc dù đó là một nhân tố làm tăng nguồn thu của ngân sách nhà nước, đóng góp vào sự phát triển của nền kinh tế. Đối với một dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài, hiệu quả kinh tế xã hội phải được lấy làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương hướng lựa chọn các dự án. Do đó, khi thẩm định xem xét một dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài cần phải đặt hiệu quả kinh tế xã hội lên trên và coi đó là phương hướng cơ bản của những biện pháp khuyến khích đầu tư. Xuất phát từ tinh thần đó, việc cải cách công tác thẩm định dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài hiện nay cần phải theo hướng: các cơ quan thẩm định không nên can thiệp quá sâu vào những tính toán kinh doanh của các chủ đầu tư đặc biệt là đôí với hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài mà cần trở lại đúng chức năng của mình là đảm bảo lợi ích nhà nước trong khuôn khổ pháp luật.Trong luận chứng kinh tế-kỹ thuật cần chú ý nhiều hơn đến phần giải trình các lợi ích kinh tế xã hội của dự án khi triển khai đem lại cho toàn bộ nên kinh tế. Các chỉ tiêu tài chính (NPV,IRR…) là việc của các chủ đầu tư. Cơ quan thẩm định không nên coi đó là điều kiện tiên quyết để cho phép đầu tư hay không. Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa là thẩm định mặt tài chính của dự án bị xem nhẹ. Riêng đối với hình thức đầu tư theo hợp đồng BOT, việc thẩm định các tính toán tài chính cần được xem xét hết sức tỉ mỉ vì theo hình thức này, sau giai đoạn đặc quyền, dự án sẽ được chuyển giao lại cho Chính phủ Việt Nam, nghĩa là chúng ta phải hoàn toàn gánh chịu những hậu quả về mặt tài chính mà một dự án BOT nếu không được thẩm định kỹ mang lại. Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan thẩm định và bên Việt Nam khi thực hiện các dự án liên doanh. Điều này sẽ giúp chúng ta tiết kiệm được thời gian và chi phí. Chẳng hạn khi bên Việt Nam tìm hiểu về đối tác đầu tư sẽ phối hợp với cơ quan thẩm định để điều tra. Hoặc khi thực hiện nghiên cứu khả thi, nhiều công đoạn có thể phối hợp để kiểm tra ngay khi nghiên cứu, chứng minh tính đúng đắn của việc nghiên cứu đó để đến khi thẩm định không phải thực hiện các bước này. Một điều đáng nói nữa là hiện nay trong phần lớn các liên doanh, phía Việt Nam thường chỉ góp vốn bằng quyền sử dụng đất, đối tác nước ngoài góp vốn bằng vật tư trang thiết bị và một phần tiền mặt. Lợi dụng những bất cập của các nhà kinh doanh Việt Nam nên phía nước ngoài đã đưa vào nhiều liên doanh những thiết bị cũ không đồng bộ hoặc khai khống giá cao hơn thực tế. Thiệt hại của chúng ta về mặt này hết sức to lớn. Do đó, để hạn chế bớt những hậu quả đáng tiếc xảy ra, Bộ Kế hoạch và Đầu tư không những chỉ thẩm định trên hồ sơ giấy tờ để cấp giấy phép đầu tư mà còn nên bắt buộc kiểm tra tiến độ và sự góp vốn của các bên liên doanh để có cơ sở pháp lý khẳng định giá trị góp vốn, giúp cho phía Việt Nam không phải gánh chịu những hậu quả xấu xảy ra. 3.2.6. Giải pháp về xác định các tiêu chuẩn trong phân tích thẩm định, đánh giá dự án . Để thẩm định đánh giá dự án, vấn đề quan trọng và cần thiết là việc sử dụng các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật. Việc sử dụng các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật cần phải giải quyết hai vấn đề là định lượng và xác định tiêu chuẩn để đánh giá của các chỉ tiêu đó. Khâu yếu trong công tác thẩm định hiện nay chính là hai vấn đề trên. Để khắc phục mặt yếu kém này, cần phải có một số giải pháp kịp thời và đòi hỏi sự nỗ lực phối hợp của các cơ quan chuyên môn có liên quan: + Cần nhanh chóng thống nhất về nội dung, phương pháp đo lường một số chỉ tiêu như chỉ tiêu sử dụng đất ở các khu công nghiệp, tính toán yếu tố lạm phát trong các chỉ tiêu tài chính, chỉ tiêu và phương pháp tính các chỉ tiêu đánh giá kinh tế, chỉ tiêu đánh giá về các yếu tố xã hội…. + Xây dựng các chỉ tiêu hướng dẫn hoặc các tiêu chuẩn áp dụng cho từng loại hình dự án, đặc biệt là các chỉ tiêu phân tích tài chính. + Phối hợp với Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường và các cơ quan khác có liên quan trong việc khai thác các thông tin về các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật có tính chất kinh nghiệm, thực tế trong và ngoài nước, đặc biệt là các thông tin về công nghệ, thiết bị, giá cả các loại vật tư thiết bị, các tỷ lệ chi phí tư vấn, chuyển giao công nghệ. Những điểm này cần phải được đặc biệt chú trọng đối với các cơ quan đầu tư tổng hợp không chỉ Bộ Kế hoạch và Đầu tư mà còn đối với các bộ khác như Bộ tài chính, Bộ xây dựng, Bộ thương mại, Bộ khoa học công nghệ môi trường và cả các địa phương. Việc nghiên cứu xây dựng các tiêu chuẩn và các chỉ tiêu hướng dẫn là rất cần thiết cho công tác thẩm định, bởi chúng chính là những cơ sở cho việc đánh giá dự án. 3.2.7. Giải pháp về nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đối với đầu tư nước ngoài. Một trong những mục tiêu của hoạt động đầu tư nước ngoài là xây dựng được một cơ cấu vốn đầu tư nước ngoài hợp lý, làm cho nguồn vốn này thực sự thúc đẩy sự phát triển toàn diện trên tất cả các lĩnh vực cũng như các địạ bàn, đặc biệt là những địa bàn có điều kiện khó khăn. Tuy nhiên, trong thời gian qua, cơ cấu vốn đầu tư nước ngoài chưa thực sự được phân bố hợp lý, chủ yếu mới chỉ tập trung vào một số ngành công nghiệp hiện đại mang lại lợi nhuận cao và các khu vực có điều kiện tự nhiên cũng như môi trường đầu tư tốt. Vì vậy,để tránh sự mất cân đối, việc xem xét thẩm định các dự án cụ thể phải có ý kiến của Bộ chuyên ngành nhằm đảm bảo dự án phù hợp với quy hoạch, khắc phục tình trạng quá tải, cung lớn hơn cầu, chèn ép sản xuất trong nước và độc quyền. Cần gấp rút xây dựng quy hoạch đầu tư nước ngoài như là một bộ phận trong quy hoạch tổng thể các nguồn lực chung của cả nước; phải gắn chặt với quy hoạch ngành, lãnh thổ, tổng sản phẩm chủ yếu. Trong quy hoạch cần khuyến khích mạnh mẽ các dự án vào cá ngành chế biến xuất khẩu và công nghệ cao, công nghiệp cơ khí, điện tử, năng lượng, những ngành ta có thế mạnh về nguyên liệu và lao động nhằm góp phần làm biến đổi cơ cấu kinh tế và phân công lao động xã hội. Xây dựng danh mục các dự án gọi vốn đầu tư nước ngoài quốc gia cho thời kỳ 2001-2005, trong đó xác định rõ sản phẩm , công suất, tiến độ công nghệ, thị trường tiêu thụ, địa bàn thực hiện dự án, các chính sách khuyến khích, ưu đãi. Bên cạnh đó, công tác thẩm định cũng sẽ được hỗ trợ đắc lực và giảm bớt được tính phức tạp đáng kể mà vẫn đạt được mục tiêu hiệu quả thông qua việc đẩy mạnh hoạt động xúc tiến đầu tư. Hoạt động này sẽ nhằm khuyến khích đầu tư nước ngoài vào các ngành mà Việt Nam có thế mạnh về nguyên liệu, lao động, ưu tiên các nhà đầu tư có tiềm năng về tài chính và nắm bắt công nghệ nguồn, các dự án có công nghệ hiện đại. Đồng thời có chính sách ưu đãi đặc biệt đối với đầu tư vào các vùng sâu vùng xa. Để hoạt động cóhiệu quả, hệ thống xúc tiến cần phải được tổ chức lại theo hướng: + Hoạch định một chiến lược xúc tiến đầu tư nhằm đáp ứng được nhu cầu của mục tiêu ổn định và phát triển kinh tế xã hội. + Củng cố bộ phận xúc tiến đầu tư đủ mạnh về đội ngũ, mạnh về trình độ, năng lực, theo hướng tập trung hoá cao độ chứ không phân tán, manh mún như hiện nay. + Tăng cường và có kế hoạch đưa các Bộ, Viện, Trường và các cơ quan làm công tác đối ngoại tham gia vào hoạt động xúc tiến đầu tư, phối hợp các chương trình nghiên cứu nhằm tạo thế chủ động trong giao tiếp và xử lý các quan hệ với bên ngoài. + Thiết lập quan hệ với các cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư của một số nước để trao đổi thông tin, kinh nghiệm. Đẩy mạnh quan hệ với các công ty tư vấn pháp luật, dịch vụ đầu tư quốc tế để có nguồn thông tin và có sự trợ giúp trong công tác xây dựng luật vận động đầu tư. + Tổ chức mạnh mạng lưới xúc tiến đầu tư ở một số nước, khu vực trọng yếu. Tranh thủ sự giúp đỡ của các tổ chức quốc tế như UNDP, UNIDO…và Việt kiều ở nước ngoài để giới thiệu môi trường đầu tư Việt Nam. + Sắp xếp lại các công ty, các trung tâm dịch vụ, tư vấn đầu tư, kiên quyết bãi bỏ và xử lý nghiêm khắc với các tổ chức yếu kém đang làm xấu môi trường đầu tư Việt Nam. Xem lại các công ty tư nhân, trách nhiệm hữu hạn làm chức năng tư vấn trong lĩnh vực đầu tư, nếu cần thiết phải thu hồi giấy phép nếu các công ty này hoạt động không có hiệu quả. + Hoạt động tư vấn đầu tư phải giúp các chủ đầu tư có cơ hội chọn đúng đối tác. Đặc biệt là công tác lựa chọn thẩm tra chính xác đối tác đầu tư nước ngoài. Bên cạnh viêc tổ chức lại hệ thống xúc tiến đầu tư, một số các biện pháp khác cũng cần thiết phải được thực hiện. Đó là: + Hoàn chỉnh quy trình ban hành các văn bản pháp quy để ngăn chặn việc các Bộ, ngành, địa phương ban hành các văn bản trái quy định chung hoặc thực hiện không nghiêm các quyết định của Chính phủ trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài. Rà soát có hệ thống các văn bản của các ngành, các cấp liên quan đến hoạt động đầu tư nước ngoài. + Xây dựng quy chế phối hợp chặt chẽ giữa các Bộ, ngành, UBND tỉnh trong việc quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài theo đúng thẩm quyền trách nhiệm. + Quy định rõ ràng, minh bạch các thủ tục hành chính, công khai các quy trình, thời hạn, trách nhiệm xử lý; giảm đầu mối, giảm các thủ tục không cần thiết nhằm tạo nên sự chuyển biến căn bản về cải cách hành chính trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài; duy trì thường xuyên các cuộc gặp gỡ, đối thoại với cộng đồng các nhà đầu tư. + Từng bước mở rộng phạm vi các dự án thuộc diện đăng ký cấp giấy phép đầu tư, từng bước thực hiện thí điểm cơ chế đăng ký đầu tư. Cơ chế thẩm định cấp giấy phép đầu tư chỉ nên thực hiện đối với các dự án lớn và thực sự quan trọng để có thể tập trung nhiều hơn thời gian và công sức vào việc thẩm định các dự án này. + Ngăn chặn, xử lý nghiêm khắc các hiện tượng sách nhiễu, cửa quyền, tiêu cực và sự tắc trách trong công việc của cán bộ công quyền. 3.1.8. Giải pháp về nâng cao chất lượng con người. Một trong những yếu tố khiến cho công tác thẩm định dự án chưa đạt được hiệu quả như mong muốn là do một bộ phận những cán bộ làm công tác thẩm định còn chưa được trang bị những kiến thức đầy đủ và cập nhật về dự án và kỹ năng thẩm định dự án. Vì vậy, để công tác thẩm định được tốt hơn, cán bộ thẩm định phải thường xuyên cập nhật những kiến thức mới, những quy định mới nhất của nhà nước có liên quan đến lĩnh vực đầu tư. Đây là những quy định có tính chất nghiêm ngặt và chặt chẽ để bảo vệ lợi ích của nhà nước, của chủ đầu tư và của cả cộng đồng. Bên cạnh đó, một nhiệm vụ không thể thiếu được và mang tính cấp bách là đẩy mạnh công tác đào tạo. Công tác đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, nâng cao trình độ nghiệp vụ từ trước đến nay vẫn luôn được Bộ Kế hoạch và Đầu tư quan tâm và luôn được coi là một trong những nhiệm vụ quan trọng. Các cán bộ của Bộ Kế hoạch và Đầu tư nói chung và cán bộ chuyên trách công tác thẩm định nói riêng đều đã được cử đi đào tạo ở nhiều loại hình khác nhau, cả trong và ngoài nước. Tuy nhiên với nhu cầu đòi hỏi cấp bách hiện nay đối với đội ngũ làm công tác thẩm định dự án, thiết thực nhất vẫn là phải mở thêm các lớp đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ chuyên môn. Bên cạnh việc trang bị hệ thống lý thuyết đầy đủ và cập nhật, cần chú trọng kỹ năng thực hành bằng các chương trình phần mềm thẩm định trực tiếp trên máy vi tính với những ví dụ thực tế, cụ thể hơn là phương pháp truyền đạt một chiều sẽ không kích thích được tính tích cực, chủ động và không đạt được mục tiêu nâng cao kỹ năng thực hành cho đối tượng đang làm công tác thực tế. Với các lớp học, chương trình tập huấn nghiệp vụ hạn chế về chỉ tiêu, cần ưu tiên tuyển chọn những cán bộ đã được trang bị hoặc đã có tích luỹ kiến thức tương đối về thẩm định dự án, có khả năng tiếp thu và hướng dẫn lại nghiệp vụ khi về công tác tại cơ quan. Có như vậy, công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ thẩm định mới mang lại kết quả thiết thực và tiết kiệm được chi phí. Bên cạnh bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, đội ngũ cán bộ thẩm định cũng nhất thiết phải được nâng cao về trình độ ngoại ngữ. Do đặc thù là các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể sẽ phải tiếp xúc với các hồ sơ văn bản bằng tiếng nước ngoài nên việc trang bị những kiến thức ngoại ngữ chuyên môn là yêu cầu không thể thiếu được. Vì vậy, bên cạnh việc mở rộng các lớp bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, Bộ cũng cần mở thêm những lớp trang bị kiến thức ngoại ngữ chuyên ngành với giáo viên là những chuyên gia ngoại ngữ có kiến thức nghiệp vụ cả trong và ngoài nước. Cần sớm tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ thẩm định theo hướng chuyên môn hóa. Có như vậy, Bộ Kế hoạch và Đầu tư mới đào tạo được những chuyên gia chuyên sâu về từng mặt nghiệp vụ, từng loại dự án, đặc biệt là những nghiệp vụ đặc thù. Trên cơ sở tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ kết hợp với quy hoạch cán bộ, việc lập kế hoạch đào tạo sẽ đúng đối tượng, hiệu quả cao hơn. Mặt khác, cũng trên cơ sở tiêu chuẩn hoá cán bộ được công khai hoá, đội ngũ cán bộ sẽ có điều kiện chủ động trau dồi kiến thức, nâng cao trình độ, phát huy cao độ ý chí và nghị lực của mình, tự tin trong quá trình phấn đấu và công tác. Cần đa dạng hóa các loại hình đào tạo. Bộ Kế hoạch và Đầu tư là một đơn vị then chốt, tập trung nhiều cán bộ quản lý kinh tế, quản lý dự án và cũng là nơi cung cấp nhiều cán bộ quản lý cho hệ thống các Sở kế hoạch và đầu tư của các tỉnh trên phạm vi toàn quốc. Vì vậy, đẩy mạnh công tác đào tạo cần phải gắn liền với thực hiện đa dạng hoá đào tạo, phù hợp với nhu cầu đào tạo của từng địa phương, từng lĩnh vực chuyên môn. Chỉ có đa dạng hoá các loại hình đào tạo mới phát huy được nội lực của mỗi cán bộ nhân viên, của từng đơn vị thành viên và toàn hệ thống, thực hiện mục tiêu cập nhật kiến thức, vừa nâng cao trình độ cán bộ hiện tại, vừa chuẩn bị nguồn cán bộ cho tương lai để sớm thực hiện tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ. Xây dựng trung tâm đào tạo của Bộ thật sự trở thành một trung tâm mạnh về đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ nghiệp vụ đối với cán bộ nhân viên. Từ khi thành lập, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tập trung kinh phí đào tạo và bồi dưỡng của cơ quan để mở các lớp tập trung về bồi dưỡng kiến thức quản lý kinh tế cho gần 200 người, lớp nghiệp vụ cho 512 người, lớp tại chức trung cấp lý luận 62 người và ngoại ngữ anh văn 135 người. Với cách tổ chức như vậy đã tạo nên một đội ngũ đông đảo cán bộ được nâng cao trình độ, kiến thức đáp ứng yêu cầu công tác. Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng đã mở các lớp tập huấn cho các tỉnh và thành phố về công tác kế hoạch, tài chính, đầu tư, thẩm định dự án, đấu thầu, quản lý ODA…cho hàng nghìn lượt người. Công tác này cần được tiếp tục phát huy và mở rộng: + Cần tăng cường trang thiết bị phục vụ công tác giảng dạy tốt hơn, có thêm một số phòng học, hội trường, thư viện, phòng đọc rộng rãi hơn. + Xây dựng kế hoạch đào tạo gắn liền với việc tổ chức biên soạn và thẩm định, xét duyệt tài liệu, giáo trình đào tạo. Phát huy hơn nữa chức năng của Trung tâm thông tin và Tạp chí kinh tế và dự báo trong việc cung cấp các thông tin cập nhật và tài liệu tham khảo trên các lĩnh vực kinh tế như thẩm định dự án, quản lý ODA, đầu tư nước ngoài, đấu thầu… Song song với đào tạo, cần có chính sách tuyển dụng cán bộ hợp lý nhất là cán bộ trẻ để thu hút những người có năng lực và trình độ được đào tạo chuyên sâu trong và ngoài nước về lĩnh vực thẩm định dự án. Bên cạnh đó, cần thưòng xuyên mời những chuyên gia giỏi làm cố vấn hay cộng tác viên phối hợp với cán bộ của Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong công tác thẩm định. 3.1.9. Giải pháp về hoàn thiện hệ thống luật pháp và sửa đổi một số chính sách liên quan đến hoạt động đầu tư nước ngoài. Xây dựng hệ thống pháp luật hấp dẫn, thông thoáng, rõ ràng, ổn định và mang tính cạnh tranh cao so với các nước trong khu vực. Triển khai việc nghiên cứu để tiến tới xây dựng một Bộ luật đầu tư chung cho cả đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Hoàn thiện hệ thống pháp lý chung về kinh tế để tạo lập môi trường kinh doanh ổn định, bình đẳng, sớm ban hành Luật về kinh doanh bất động sản, Luật hải quan, Luật cạnh tranh và chống độc quyền… Sửa đổi thuế thu nhập cá nhân đối với người lao động Việt Nam làm việc trong các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài. Hoàn chỉnh hệ thống thuế xuất nhập khẩu, VAT, thuế tiêu thụ đặc biệt. Hoàn thiện các quy định về hợp đồng kinh tế, sở hữu trí tuệ, cải tiến hệ thống tín dụng, bảo lãnh đầu tư, phá sản đối với các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài. Đa dạng hoá các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài để khai thác thêm các kênh thu hút đầu tư mới; cho phép các tập đoàn lớn có nhiều dự án ở Việt Nam thành lập các công ty quản lý vốn; đẩy nhanh việc thí điểm cổ phần hóa các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, ban hành danh mục lĩnh vực cho phép nhà đầu tư nước ngoài được mua cổ phần của doanh nghiệp Việt Nam; thành lập một số mô hình khu kinh tế mở. Soát lại giá cho thuê đất, miễn giảm tiền thuê đất trong một số năm đầu để tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp; giải quyết dứt điểm vấn đề đền bù, giải phóng mặt bằng đang gây ách tắc đối với việc triển khai dự án. Giá cả đền bù, giải phóng mặt bằng phải hợp lý, không phân biệt đối xử với dự án đầu tư nước ngoài và trong nước để tránh đẩy giá thuê đất thực tế lên cao. Cần sớm chấm dứt cơ chế các doanh nghiệp Việt Nam góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất, chuyển sang thực hiện chế độ nhà nước cho thuê đất. Ngân hàng nhà nước cùng với Bộ tư pháp, Tổng cục địa chính ban hành các văn bản hướng dẫn việc thế chấp giá trị quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại các tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam; nghiên cứu khả năng cho phép các dự án lớn và dự án xây dựng cơ sở hạ tầng được thế chấp quyền sử dụng đất ở tổ chức tài chính nước ngoài. Xử lý linh hoạt các hình thức đầu tư : Ngoài các dự án không cấp phép đầu tư, các dự án do yêu cầu an ninh quốc phòng, giữ gìn bản sắc dân tộc về văn hoá, thuần phong mỹ tục và những dự án quốc kế dân sinh quan trọng, cần mở rộng danh mục các dự án cho phép nhà đầu tư nước ngoài được chủ động lựa chọn hình thức đầu tư xuất phát từ hiệu qủa sản xuất kinh doanh; xử lý linh hoạt việc cho phép các liên doanh trong một số trường hợp được chuyển đổi hình thức đầu tư sang doanh nghiệp 100% vốn trong nước hoặc 100% vốn nước ngoài. 3.3. Kiến nghị. 3.3.1.Kiến nghị với Bộ Kế hoạch và Đầu tư; Cần nghiên cứu xây dựng một quy trình thẩm định hiện đại, phù hợp với từng loại hình dự án đầu tư nhằm hướng đến mục tiêu đơn giản và hiệu quả. Thực hiện đúng chức năng là cơ quan thẩm định đứng trên góc độ của nhà nước và Chính phủ. Tránh can thiệp quá sâu vào công việc kinh doanh của các chủ đầu tư nước ngoài mà lơ là nhiều mặt làm ảnh hưởng đến lợi ích kinh tế xã hội của đất nước mà dự án đem lại. Đẩy mạnh cải cách hành chính trong từng bộ phận tham gia thẩm định và quyết định đầu tư. Hoàn thiện hệ thống cung cấp thông tin, báo cáo nội bộ. Phải làm sao để thông tin được thông suốt, đầy đủ, không phiến diện, làm cơ sở cho việc cung cấp thông tin cho hoạt động thẩm định dự án được nhanh chóng, thuận tiện. Khẩn trương xây dựng đề án xác định hệ thống chỉ tiêu thẩm định mang tính chuẩn mực và các tiêu chuẩn đánh giá dự án cho các dự án đầu tư theo từng lĩnh vực, từng địa bàn, từng ngành…để làm cơ sở so sánh, đánh giá dự án và ra quyết định đầu tư. Phối hợp chặt chẽ với Ngân hàng nhà nước trong việc thẩm định mặt tài chính của các dự án đầu tư nước ngoài. Cố gắng xây dựng những cơ sở và tiêu chuẩn thẩm định về mặt tài chính thống nhất và chặt chẽ để giảm bớt gánh nặng cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong mặt thẩm định tài chính đối với những dự án được phép, hoặc ít nhất, những khía cạnh tài chính đã được thẩm định bởi ngân hàng có thể trở thành cơ sở tin cậy để Bộ Kế hoạch và Đầu tư đưa ra những đánh giá cho tính khả thi về mặt tài chính của dự án. Phối hợp chặt chẽ với Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường trong việc thẩm định mặt kỹ thuật công nghệ của dự án. Thường xuyên có sự trao đổi, đào tạo cán bộ thẩm định thuộc chuyên môn kỹ thuật của Bộ Kế hoạch và Đầu tư với Bộ khoa học Công nghệ và Môi trường để nâng cao trình độ cũng như cập nhật các kiến thức mới nhất về công nghệ của thế giới nhằm nâng cao chất lượng thẩm định về mặt kỹ thuật công nghệ của dự án. 3.3.2. Kiến nghị với Chính phủ và các Bộ có liên quan. Chính phủ cần nghiên cứu xây dựng một dự án có quy mô quốc tế về việc hình thành một trung tâm thông tin kinh tế tại Việt Nam. Vai trò của nó sẽ tương tự như một siêu thị thông tin mà từ đó các cá nhân và đơn vị có nhu cầu sẽ được cung cấp các thông tin đầy đủ, nhanh chóng và chính xác nhất phục vụ cho công tác nghiên cứu, xây dựng kế hoạch hay điều tra kinh tế. Trung tâm sẽ hoạt động như một nguồn thông tin hai chiều, cung cấp cho trong nước những thông tin kinh tế từ nước ngoài và ngược laị, Chính phủ và các đối tác kinh tế nước ngoài cũng có thể tìm thấy những thông tin cập nhật về mặt thuộc lĩnh vực kinh tế của Việt Nam. Đề nghị Chính phủ giao cho các bộ ngành có liên quan triển khai nghiên cứu Bộ luật đầu tư chung nhằm tạo nên một cơ sở pháp lý tiêu chuẩn và ổn định hướng dẫn và điều chỉnh có hiệu quả hơn nữa đối với hoạt động đầu tư. Đề nghị Chính phủ chỉ đạo, phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương rà soát lại các văn bản pháp quy liên quan đến đầu tư nước ngoài, bãi bỏ những văn bản, những loại giấy phép không còn cần thiết; xây dựng quy chế phối hợp với các Bộ, ngành , địa phương trong quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài; xây dựng đề án về đăng ký cấp phép và đăng ký đầu tư.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docHon thi7879n cng tc th7849m 2737883nh d7921 n 273amp784.doc
Tài liệu liên quan