Đề tài Hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư vay vốn tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn- Chi nhánh Nam Hà Nội

- Nghiên cứu xây dựng chiến lược khách hàng tín dụng, phân loại khách hàng và đề xuất các chính sách ưu đãi đối với từng loại khách hàng nhằm mở rộng theo hướng đầu tư tín dụng khép kín: sản xuất, chế biến, tiêu thụ, xuất khẩu - Phân tích kinh tế theo ngành nghề kinh tế kỹ thuật, khách hàng, lựa chọn biện pháp cho vay an toàn và đạt hiệu quả cao. - Thẩm định và đề xuất cho vay các dự án tín dụng theo phân cấp uỷ quyền. - Thẩm định dự án hoàn thiện hồ sơ trình Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cấp trên theo phân cấp uỷ quyền. - Tiếp nhận thực hiện các công trình, các dự án thuộc nguồn vốn trong nước, nước ngoài. Trực tiếp làm dịch vụ uỷ thácnguồn vốn thuộc Chính phủ, Bộ, ngành khác và các tổ chức kinh tế, cá nhân trong và ngoài nước. - Xây dựng và thực hiện các chương trình tín dụng thí điểm thử nghiệm trong địa bàn, đồng thời theo dõi đánh giá, sơ kết, tổng kết, đề xuất với giám đốc cho phép nhân rộng.

doc82 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1089 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư vay vốn tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn- Chi nhánh Nam Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
6 6 8,000 732 4,500 8,732 03/2017 6 4,500 257 - 4,757 Tổng 128 95,000 59,922 154,922 Trả gốc: 6 tháng/lần trả lãi: 6 tháng/lần Đảm bảo nợ vay: bảo đảm bằng toàn bộ tài sản của dự án được hình thành từ vốn tự có và vốn vay ( bao gồm cả quyền sử dụng đất). Điều kiện giải ngân: chủ đầu tư thực hiện đúng các quy định hiện hành về quản lý đầu tư xây dựng cơ bản ( các hồ sơ pháp lý có liên quan tới dự án, quyết định giao đất của cấp có thẩm quyền, tiến độ thi công và quản lý thi công chi tiết...) Số tiền giải ngân tương đương với tỷ lệ vốn tự có đã tham gia vào dự án trên tổng số vốn tự có. Khi tiến hành giải ngân chủ đầu tư có trách nhiệm cung cấp đầy đủ các chứng từ có liên quan cho ngân hàng. Các cam kết: chủ đầu tư cam kết dùng các nguồn thu khác để trả nợ ngân hàng trong trường hợp nguồn thu từ dự án không đủ trả nợ. Chủ đầu tư cam kết phối hợp cùng ngân hàng để thực hiện các biện pháp bảo đảm tiền vay theo quy định trước khi giải ngân và sau khi hoàn thành công trình, chủ đầu tư gửi hồ sơ quyết toán cho ngân hàng. Đối với công tác thẩm định dự án đầu tư xây dựng trường ĐH Dân lập Thăng Long, tổ thẩm định đã thực hiện theo đúng quy trình thẩm định, các nội dung thẩm định tương đối đầy đủ, chỉ có một số nội dung cần đánh giá kỹ hơn và đưa ra nhận xét cụ thể. Việc chấp thuận cho vay cũng được xem xét kỹ lưỡng và tổ thẩm định cũng đưa ra những điều kiện ràng buộc để đảm bảo khả năng thu hồi nợ của ngân hàng. 3. Đánh giá thực trạng thẩm định dự án đầu tư cho vay tại chi nhánh ngân hàng NHNo & PTNT Nam Hà Nội. 3.1 Những thành tựu đạt được và nguyên nhân. 3.1.1 Thành tựu đạt được Trong thời gian qua, hiệu quả nổi bật nhất của công tác thẩm định các dự án của Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nam Hà Nội là là tổ chức thực hiện thẩm định các dự án đầu tư lớn, các dự án có nhiều chi nhánh của Ngân hàng cùng tham gia. Năm 2008, Việt Nam đối mặt với khó khăn do kinh tế thế giới rơi vào khủng hoảng. Tổng sản phẩm quốc nội trong nhiều năm đạt tốc độ tăng trưởng hơn 8% đến năm 2008 chỉ đạt 6,23%. Lạm phát đã vượt lên mức hai con số, đỉnh điểm lên đến 23%, cao nhất trong vòng 20 năm trở lại đây. Thị trường chứng khoán ảm đạm, chỉ số giá chứng khoán giảm đã đẩy nhiều nhà đầu tư vào thua lỗ và hàng loạt Công ty chứng khoán đứng trước nguy cơ phá sản. Tuy nhiên với nỗ lực, nền kinh tế Việt Nam vẫn đạt được những thành tựu đáng kể: Kim ngạch xuất khẩu đạt mức cao nhất trong vòng 10 năm qua (65 tỷ USD), tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký tại Việt Nam đạt hơn 64 tỷ USD, tăng gấp 2 lần năm 2007, là mức cao nhất từ trước tới nay. Đây cũng là một năm khó khăn đối với các Ngân hàng. Chính sách tiền tệ từ định hướng thắt chặt và linh hoạt nửa đầu năm 2008 chuyển dần sang nới lỏng một cách thận trọng trong những tháng cuối năm. Đi cùng với quá trình này là tần suất điều chỉnh các công cụ điều hành của Ngân hàng nhà nước, tập trung ở các lãi suất chủ chốt, tỷ lệ dự trữ bắt buộc và biên độ tỷ giá. Tình hình trên đã ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động của Ngân hàng No&PTNT Việt Nam nói chung và Chi nhánh Nam Hà Nội nói riêng. Công tác thẩm định ngày càng hoàn thện và có chất lượng hơn. Việc thẩm định dự án từ chỗ ít kinh nghiêm dần đến áp dụng các phương pháp có tính khoa học, nhìn nhận vấn đề rộng hơn, kỹ thuật thẩm định được thể hiện ở nhiều phương diện : thị trường, kinh tế- xã hội, kỹ thuật và tài chính dự án. Trước đây thường một bản thẩm định chỉ nêu chung chung về sự cần thiết phải đầu tư, tính toán hiệu quả trước và sau đầu tư mà chưa quan tâm đến yếu tố chiết khấu khi thẩm định. Ngày nay, các chỉ tiêu tính toán trong công tác thẩm định được mở rộng từ chỗ tính toán khả nảng sinh lời và nguồn trả nợ của dự án đã bổ xung thêm chỉ tiêu phân tích như điều hoà vốn, giá trị hiện tại ròng (NPV), tỷ suất sinh lời nội bộ (IRR) và được coi là tiêu thức quan trọng trong việc lựa chon cũng như quyết định đầu tư. Bên cạnh đó, các chỉ tiêu đánh giá về khả năng tiêu thụ, khả năng cạnh tranh trên thị trường, tuổi đời dự án cũng được tính toán sử dụng . Công tác thẩm định cho vay đã phục vụ kịp thời chiến lược kinh doanh, đổi mới cơ cấu đầu tư của chi nhánh, đáp ứng nhu cầu vốn cho sự nghiệp CNH-HĐH đất nước. Cho nên việc đánh giá đúng hay không đúng tính khả thi và hiệu quả của việc lựa chọn sử dụng ít vốn mà vẫn đạt hiệu quả là phụ thuộc rất nhiều vào công tác thẩm định dự án của chi nhánh. * Tổng dư nợ đến 31/12/2008 là 2.350 tỷ đồng, trong đó dư nợ tại địa phương là 1.839 tỷ, tăng 135 tỷ so với năm trước, giảm 29 tỷ so với KH và bằng 98% KH năm. Chi tiết : - Dư nợ VNĐ : 1.421 tỷ, tăng 607 tỷ so với năm trước, tăng 21 tỷ so với KH và vượt 1% so với KH năm, chiếm tỷ trọng 77% tổng dư nợ. Phần dư nợ VNĐ tăng thêm là dư nợ ngắn hạn, tăng theo cơ chế 115 (nguồn vốn vượt kế hoạch). Trong đó : + Dư nợ trung hạn là 54 tỷ, giảm 22 tỷ so với năm trước, giảm 26 tỷ so với KH và bằng 68% kế hoạch năm. + Dư nợ dài hạn : 334 tỷ, tăng 147 tỷ so với năm trước, giảm 65 tỷ so với KH và bằng 84% kế hoạch năm. - Dư nợ USD : 19.975 ngàn USD tương đương 339 tỷ, giảm 30.416 ngàn USD so với năm trước, giảm 3.025 ngàn so với KH và bằng 87% kế hoạch năm. Dư nợ USD chiếm tỷ trọng 18% tổng dư nợ địa phương. Trong đó: + Dư nợ trung hạn là 273 ngàn USD tương đương 5 tỷ, giảm 348 ngàn USD so với năm trước, giảm 178 ngàn USD so với KH và bằng 61% kế hoạch năm. + Dư nợ dài hạn là 15.477 ngàn USD tương đương 263 tỷ, giảm 17.910 ngàn USD so với năm trước, giảm 827 ngàn USD so với KH và bằng 95% kế hoạch. - Dư nợ EUR : 3.330 ngàn EUR tương đương 80 tỷ, tăng 62 ngàn EUR so với năm trước, chiếm tỷ trọng 4% tổng dư nợ địa phương. Toàn bộ là phần dư nợ dài hạn. * Nợ xấu : đến 31/12/2008 là 25.367 trđ, bằng năm trước. Tỷ lệ nợ xấu là 1.38%, giảm 0.09% so với năm trước và giảm 5.62% so với KH giao. Để có được những thành tích trên là sự đóng góp không nhỏ của công tác thẩm định cho vay, đặc biệt với những khoản vay lớn, có thời hạn kéo dài mà điển hình là cho vay theo dự án. Trong các nội dung thẩm định dự án đầu tư, thì khía cạnh được Ngân hàng quan tâm là phương diện tài chính của dự án, đó là căn cứ quan trọng để thấy được mức độ an toàn của số vốn mà Ngân hàng cho vay, khả năng trả nợ và lợi nhuận mà Ngân hàng nhận được trong tương lai. 3.1.2 Nguyên nhân chủ yếu của các kết quả trên: - Chi nhánh đã tổ chức công tác thẩm định theo đúng quy định của Ngân hàng Nhà nước và Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, với thái độ làm việc nghiêm túc, chặt chẽ theo một quy trình khoa học, sáng tạo. + Đối với các dự án nhiều Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Ngân hàng thương mại là đầu mối, chi nhánh tổ chức thành lập tổ thẩm định tại Chi nhánh, tổ chức thẩm định sơ bộ, đánh giá hiệu quả và các yêu cầu thiết yếu khác của dự án gửi cho các Chi nhánh tham gia,khi có sự chấp thuận của Chi nhánh và các Ngân hàng thương mại khác khác đồng thời với sự chấp nhận cho phép thẩm định đầu tư của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Thực hiện thành lập tổ thẩm định chung thực hiện kết quả thẩm định được gửi cho các Ngân hàng tham gia phê chuẩn và tham gia sửa đổi, bổ sung. Kết quả với phương thức tổ chức thẩm định trên Ngân hàng đầu mối có sự thống nhất cao của các Chi nhánh tham gia. + Đối với các dự án mà chi nhánh tham gia đồng thời tài trợ các Ngân hàng thương mại khác làm đầu mối, tổ thẩm định được thực hiện chặt chẽ từ thành lập thẩm định đến cử cán bộ thẩm định trên Ngân hàng đầu mối có được sự thống nhất cao của các Chi nhánh tham gia. + Đối với các dự án lớn mà chi nhánh cho vay, Ngân hàng tách thẩm định của đơn vị cho vay và thẩm định của phòng thẩm định, trên cơ sở đó thành lập tổ đánh giá thẩm định lại kết quả của 2 báo cáo thẩm định nêu trên (đặc điểm của tổ thẩm định ngoài thành phần cán bộ tín dụng do yêu cầu của dự án còn có cán bộ thanh toán quốc tế tham gia) + Đối với cho vay thông thường khác như cho vay từng lần theo hạn mức tín dụng, bảo lãnh, chiết khấu, mở L/C thì thực hiện thẩm định theo mức phân quyền phán quyết trên cở sở mức phân quyền phán quyết của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (Theo Văn bản 729/NHNN- QĐ ngày 23/8/2004) và linh hoạt điều chỉnh theo yêu cầu về quản lý tín dụng. Cụ thể: trước tháng 9/2004 tại nơi quản lý và cho vay trực tiếp thẩm định nhu cầu vay vốn, bảo lãnh, mở L/C, tu chỉnh L/C ngoài việc tổ chức của đơn vị nơi cho vay được chuyển và giao cho phòng thẩm định tổ chức thẩm định. Đặc biêt, đối với cho vay theo hạn mức tín dụng mỗi lần giải ngân thực hiện thẩm định gần như cho vay từng lần (bớt phần hồ sơ) và từ chối giải ngân nếu đánh giá thấy không an toàn. Đối với tất cả các khoản bảo lãnh, mở L/C bằng vốn tự có ký quỹ dưới 100% được thẩm định như khi cho vay. Đối với bảo lãnh, mở L/C bằng vốn tự có ký quỹ 100% được thẩm định đặc biệt các yêu cầu về trách nhiệm của Ngân hàng trong việc phát hành, thanh toán, bồi hoàn. Các phương thức tổ chức thẩm định nêu trên ngoài dự án lớn, các nhu cầu về tín dụng, bảo lãnh đã từ chối đầu tư. - Về thiết lập hồ sơ và nội dung thẩm định, nội dung kết cấu của các loại hợp đồng tín dụng, tài sản, bảo hiểm đã tiếp nhận được trình độ và yêu cầu hiện đại phù hợp với pháp luật và hội nhập, được trụ sở chính đánh giá cao và các Ngân hàng thương mại khác đồng thuận, đặc biệt và việc xây dựng các hợp đồng cho các dự án đầu tư lớn, thời gian dài. - Kỹ năng và kỹ thuật thẩm định được nâng cao, áp dụng tin học vào thẩm định, sản phẩm thẩm định đạt trình độ chính xác cao, nhanh chóng (dựa trên bảng tính điện tử Excel). - Ngân hàng đã đưa các loại rủi ro vào trong quá trình thẩm định dự án bằng các phương tiện hiện đại như phân tích độ nhạy. - Khi thẩm định Ngân hàng luôn quán triệt nguyên tắc: Đánh giá dựa trên quan điểm của người cho vay, do đó thường đặc biệt chú trọng vào mức sinh lời của dự án, nguồn và khả năng trả nợ. - Ngoài ra cũng phải kể đến sự đoàn kết, gắn bó, tin tưởng lẫn nhau trong tập thể, tạo nên sức mạnh của Ngân hàng. Trong Ngân hàng luôn luôn tạo bầu không khí vui vẻ, học hỏi lẫn nhau, giúp đỡ và phối hợp với nhau trong toàn Ngân hàng tạo ra sự tin tưởng giữa nhân viên và Ban lãnh đạo. 3.2 Một số hạn chế của công tác thẩm định dự án và nguyên nhân. 3.2.1 Hạn chế Bên cạnh những thành công đã đạt được thì việc chỉ rõ những hạn chế của công tác thẩm định thẩm định dự án đầu tư là vấn đề quan trọng nhằm tìm ra những giải pháp hoàn thiện và nâng cao chất lượng thẩm định, hạn chế rủi ro, tránh cho Ngân hàng phải đối mặt với khả năng không thu hồi được nợ. Những hạn chế đó là: - Cán bộ phần lớn là cán bộ mới vào ngành còn chưa có kinh nghiệm nghiệp vụ, trong khi đó khối lượng thẩm định dự án là rất lớn và rất đa dạng trên nhiều lĩnh vực, do đó đòi hỏi cán bộ phải có trình độ nhất định về nghiệp vụ chuyên môn, kiến thức và các vấn đề của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội. - Các chỉ tiêu tài chính được xem xét, tính toán trong thẩm định còn mang tính chưa chính xác. - Ngân hàng còn quá coi trọng việc bảo lãnh, thế chấp trong quyết định cho vay nên nhiều khi công tác thẩm định tài chính dự án không mang nhiều ý nghĩa thực sự. - Đánh giá tình hình tài chính dự án trong điều kiện rủi ro chưa thực sự được thực hiện cho dù để đưa một số phương pháp phân tích như phân tích độ nhạy vào quá trình thẩm định nhưng việc phân tích này mới chỉ dựa trên giả thiết chủ quan sự thay đổi của các nhân tố ảnh hưởng. - Việc xác định dòng tiền của dự án chưa chính xác, chưa thực tế còn phần lớn dựa vào những luận chứng kinh tế, kỹ thuật mà doanh nghiệp trình cho Ngân hàng 3.2.2 Nguyên nhân của những hạn chế trên: - Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nam Hà Nội do mới được hình thành không lâu, bên cạnh những cán bộ lâu năm có kinh nghiệm thì phần lớn là đội ngũ cán bộ trẻ chưa có nhiều kinh nghiệm. trong khi đó công tác thẩm định tài chính dự án không những đòi hỏi kiến thức sâu rộng mà quan trọng là kinh nghiệm từng trải qua nhiều lần thẩm định dự án. Cán bộ thẩm định chỉ có thể phân tích sâu một vài khía cạnh có liên quan đến dự án nên kết quả nhiều khi không chính xác. - Mặc dù cán bộ thẩm định thường xuyên cập nhật và xử lý thông tin về khách hàng không chỉ từ hồ sơ vay vốn của doanh nghiệp mà còn từ các tờ báo và phương tiện thông tin khác. Nhưng để lấy được thông tin nhanh chóng về khách hàng khi cần thiết đòi hỏi Ngân hàng phải xây dựng được một hệ thống thông tin riêng, xây dựng được một hệ thống cơ sở dữ liệu đầy đủ, đa dạng trên nhiều mặt nhằm phục vụ cho công tác thẩm định. - Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào trong quá trình thẩm định còn hạn chế, chưa ứng dụng những phần mềm hiện đại để phân tích tính toán nhiều chỉ tiêu phức tạp mà thủ công không làm được. - Các văn bản quy định về đầu tư, xây dựng cơ bản, quản lý tài chính, hệ thống kể toán của cấp Nhà nước còn chồng chéo, chưa rõ ràng, chưa đầy đủ, lại hay thay đổi gây khó khăn cho việc thẩm định. việc định hướng, quy hoạch phát triển vùng địa phương chưa ổn định, cụ thể cùng với sự can thiệp quá nhiều trong hoạt động cho vay của các Bộ, ngành, uỷ ban nhân dân các cấp đã làm giảm hiệu quả công tác thẩm định. - Các định mức kinh tế kỹ thuật, các tiêu chuẩn hiệu quả kinh tế, tài chính cho từng ngành nghề để làm chỉ tiêu tham chiếu so sánh chưa có. - Việc trao đổi thông tin và kinh nghiệm giữa các Ngân hàng còn hạn chế. Công tác đào tạo và nâng cao nghiệp vụ cho các cán bộ trong Ngân hàng nói chung và cán bộ thẩm định nói riêng chưa được Ngân hàng chú trọng và đầu tư có bài bản. Chương II: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư tại chi nhánh Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Nam Hà Nội. 1. Phương hướng công tác thẩm định dự án đầu tư tại chi nhánh thời gian tới. Đối với Ngân hàng, chất lượng, hiệu quả, an toàn trong hoạt động kinh doanh, đặc biệt trong hoạt động tín dụng là điều kiện tồn tại và phát triển. Điều kiện đó chỉ có thể có được trước hết và bắt đầu từ công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư. Vì vậy, công tác thẩm định tài chính dự án phải được đặt đúng vị trí của nó, dưới sự chỉ đạo chặt chẽ, có cơ chế quy trình công nghệ toàn diện và đồng bộ với quy trình công nghệ của các nghiệp vụ khác, tạo thành một tổng thể giải pháp mang tính chiến lược trong định hướng cũng như điều hành. Để củng cố, phát triển công tác này trong thời gian tới được tốt hơn, Ngân hàng trên cơ sở phương hướng hoạt động kinh doanh trong năm tới, đã đưa ra định hướng công tác sau: 1.1 Định hướng hoạt động cho vay: - Duy trì và phát huy các biện pháp huy động vốn hữu hiệu, có khả năng cạnh tranh cao, nhằm thu hút nguồn vốn nhàn rỗi của dân cư và các doanh nghiệp, củng cố uy tín cao ở trong và ngoài nước để tranh thủ tiếp nhận được nguồn vốn uỷ thác của Nhà nước và các tổ chức nước ngoài có như vậy ngân hàng mới đầu tư vào những dự án lớn, cho các ngành và các tổ chức kinh tế mũi nhọn của Nhà nước. - Hoạt động tín dụng bảo đảm tăng trưởng, an toàn, hiệu quả. - Dành lượng vốn lớn để cung cấp tín dụng cho các doanh nghiệp quốc doanh, các tập đoàn kinh tế của nhà nước, các dự án có tầm cỡ quốc gia và lĩn vực sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu. Mở rộng tín dụng đi liền với củng cố và nâng cao hiệu quả, chất lượng tín dụng, đảm bảo khả năng thu hồi vốn giảm tỉ lệ nợ quá hạn, nợ khó đòi xuống tỷ lệ cho phép. 1.2 Định hướng của công tác thẩm định Thẩm định tài chính dự án đầu tư với tư cách là một hoạt động có khâu tố chức điều hành, quy trình riêng cũng như đội ngũ cán bộ thực hiện nên trước khi đưa ra các giải pháp hoàn thiện nó cũng cần phải có định hướng rõ ràng. Dưới giác độ ngân hàng (cụ thể là Ngân hàng NHNo & PTNT nhằm phát huy tối đa các lợi thế tiềm năng của ngân hàng, đạt được mục tiêu đề ra trong hoạt động đầu tư tín dụng cũng như chiến lược phát triển chung) nên có những định hướng sau: - Thẩm định tài chính dự án đầu tư phải đứng trên quan điểm của người cho vay phải đứng trên quan điểm của người cho vay để xem xét tính khả thi, hiệu quả của dự án, nhận thức rõ lợi ích của ngân hàng gắn bó chặt chễ lợi ích của dự án. - Phát huy từ tình hình thực tiễn trong ngành và phục vụ cho hoạt động cho vay của ngân hàng Công thương trong từng giai đoạn. - Công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư phải được quán triệt trong toàn hệ thống không chỉ các cán bộ trựctiếp thực hiện thẩm địnhmà có cả các bộ phận khác với những mức độ yêu cầu cho công việc khác nhau. - Thẩm định tài chính của dự án phải được tiến hành thường xuyên liên tục với tất cả các dự án xin vay với cả 3 giai đoạn trước và trong khi cho vay. - Xác định phương hướng, nhiệm vụ trước tiên phải xuất phát từ việc nhận thức đúng vị trí, vai trò và nội dung của công tác thẩm định tài chính da đầu tư. Thực hiện tốt công tác này là một trong những yếu tố chính quyết định, góp phần bảo vệ và nâng cao vị thế, uy tín và sức mạnh của Ngân hàng. - Củng cố, kiện toàn bộ máy tổ chức thẩm định dự án, phát triển lực lượng thẩm định cả về số lượng và chất lượng. Tăng cường công tác đào tạo cụ thể nghiệp vụ thẩm định cho cán bộ thẩm định và bồi dưỡng, trao đổi nghề nghiệp chuyên môn. - Đầu tư trang thiết bị, công nghệ hiện đại để thích ứng và phù hợp với xu hướng hội nhập khu vực và quốc tế. - Chú trọng công tác kiểm tra sau cho vay, làm tốt công tác kiểm tra chuyên đề thẩm định. 2. Giải pháp nâng cao chất lượng công tác thẩm định. Không ngừng đổi mới tìm tòi, khai thác thế mạnh của mình. Song dù đã rất cố gắng NHNo & PTNT cũng không thể không có những yếu điểm. Qua phân tích đánh giá trên, chúng ta càng nhận ra công tác thẩm định có một vai trò quan trọng đặc biệt đối với sự phát triển của Ngân hàng. Để tránh tình trạng vốn đóng băng hoặc sử dụng vốn không có hiệu quả thì chất lượng tín dụng lại càng cần có những giải pháphữu hiệu hơn. Nâng cao chất lượng công tác thẩm định là nhằm đi tới mục tiêu của việc thẩm định. Ngân hàng thẩm định dự án đầu tư nhằm: - Rút ra những kết luận chính xác về tính khả thi, hiẹu quả kinh tế khả năng trả nợ và những rủi ro có thể xảy ra của dự án để quyết định cho vay hoặc từ chối. - Thăm gia góp ý cho chủ đầu tư về những sai sót trong công tác lập dự án để có phương án khắc phục. Chỉ ra những điều còn chưa đúng, chưa thực hiện được của dự án. - Xác định số vốn tài trợ, thời gian tài trợ mức thu hợp lý tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả. Những giải pháp trước mắt sẽ giúp cho Ngân hàng đạt được những mục tiêu trong công tác thẩm định trong thời gian ngắn, mang tính chất giải pháp tình thế. 2.1 Giải pháp về nội dung và phương pháp thẩm định. 2.1.1 Đối với nội dung thẩm định khách hàng vay vốn Việc đánh giá các thông tin về khách hàng vay vốn là một việc không đơn giản, bởi không phải lúc nào tình hình tài chính của các doanh nghiệp cũng được công khai. Do vậy trước mắt ngân hàng cần yêu cầu các báo cáo tài chính của doanh nghiệp nộp lên phải được kiểm toán. Bên cạnh đó ngân hàng cũng nên tăng cường thiết lập mối quan hệ với các cơ quan chức năng nhằm có những đánh gía đầy đủ hơn về doanh nghiệp Để đưa ra những kết luận chính xác hơn về tình hình của doanh nghiệp, ngân hàng cũng nên áp dụng các phương pháp khác nhau trong phân tích tài chính doanh nghiệp như: phương pháp phân tích tỷ lệ, phương pháp đối chiếu logic vì thực tế hiện naysố lượng các chỉ tiêu dùng để đánh giá chưa nhiều 2.1.2 Đối với nội thẩm định phương diện kỹ thuật Cán bộ thẩm định cần quan tâm hơn đến phân tích khía cạnh kỹ thuật của dự án. Thực chất họ rất khó có thể làm tốt được điều này, bởi lẽ ngân hàng hiện nay chưa có nhiều cán bộ có chuyên môn cả về nghiệp vụ lẫn kỹ thuật, đa số họ đều tốt nghiệp từ các trường khối kinh tế, trình độ nhận biết cũng như khả năng thu thập thông tin là có hạn. Các chỉ tiêu của Chính phủ, của Bộ ngành liên quan chưa đầy đủ, chưa phù hợp với tình hình hiện tại của nền kinh tế, còn ngân hàng cũng chưa có một hệ thống chỉ tiêu về kinh tê- kỹ thuật chuẩn phục vụ cho công tác thẩm định dự án. Do đó để trợ giúp cho cán bộ thẩm định đánh giá kỹ thuật, ngân hàng cần sớm nghiên cứu ban hành những chỉ tiêu kỹ thuật cơ bản phù hợp với từng ngành, từng lĩnh vực cụ thể (như các tiêu chuẩn về công nghệ, máy móc, thiết bị được sử dụng,) làm cơ sở để cán bộ thẩm định tham chiếu. Trong trường hợp những dự án quá phức tạp, ngân hàng nên thuê các chuyên gia có chuyên môn phù hợp thẩm định nội dung kỹ thuật nhằm rút ngắn thời gian thẩm định 2.1.3 Đối với nội dung phân tích thị trường Cán bộ thẩm định cần phân tích sâu hơn về phương diện thị trường của dự án, những đánh giá về tình hình cung- cầu thị trường, về khả năng tiêu thụ của sản phẩm cần được định tính toán, định lượng một cách cụ thể, chứ không nên đánh giá chung chung theo cảm tính. Ngân hàng cũng cần áp dụng các phương pháp hiện đại trong phân tích và dự báo cung- cầu sản phẩm. Hiện có nhiều phương pháp dự báo cung- cầu đã được nghiên cứu áp dụng trong thực tế, như phương pháp ngoại suy thống kê, phương pháp định mức, phương pháp hệ số co giãn cán bộ thẩm định có thể căn cứ vào số lượng và chất lượng thông tin thu thập được mà lựa chọn phương pháp tính cho phù hợp, hoặc kết hợp sử dụng nhiều phương pháp nhằm làm tăng tính chính xác cho các kết quả dự báo Ngoài ra trong quá trình thẩm định cần lưu ý tới các yếu tố khác như: khả năng thay đổi thị hiếu tiêu dùng, những thay đổi trong chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước, của nước xuất khẩuvì chúng có thể ảnh hưởng đến đầu ra của dự án. 2.1.4 Về xác định thời hạn trả nợ, phương thức trả nợ Cách xác định thời hạn trả nợ, mức thu nợ, cách thức thu nợ cả gốc và lãi phải phù hợp với năng lực sản xuất của khách hàng và tiến độ thực hiện của dự án. Hiện nay ngân hàng thường tiến hành thu đều từng kỳ hay thu luỹ thoái với mong muốn thu công nợ càng nhanh càng tốt. Tuy nhiên trong thời gian đầu các máy móc thiết bị chạy chưa hết công suất, sản phẩm sản xuất ra ở giai đoạn thăm dò thị trường Do đó nếu ngân hàng yêu cầu mức trả nợ cao từ đầu sẽ làm cho dự án chưa đủ khả năng trả, ảnh hưởng đến sản xuất. Ngân hàng không nên chia đều khoản thu gốc cho các kỳ luỹ thoái mà nên căn cứ vào dòng tiền của dự án đồng thời tiến hành thu nợ gốc tăng dần theo thời gian, như vậy sẽ phù hợp với quá trình vận hành kết quả đầu tư. Việc thu lãi cũng cần được tính toán sao cho phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tránh tình trạng các doanh nghiệp phải vay vốn ngắn hạn để trả lãi ngân hàng. 2.1.5 Giải pháp khi thực hiện thẩm định tài chính Như trên đã trình bày, các chỉ số tài chính của doanh nghiệp là rất quan trọng đối với Ngân hàng, nhưng chúng vẫn bị coi nhẹ trong công tcá thẩm định. Các cán bộ thẩm định xem nhẹ khi các chỉ số này không đạt yêu cầu sẽ dẫn đến hậu quả tăng rủi ro cho nguồn vốn tài trợ của Ngân hàng. Hệ số tài trợ, khả năng thanh toán, là một trong những chỉ số tài chính quan trọng, khi xem xét nhất thiết phải nghĩ tới mục tiêu của công tác thẩm định và nhất thiết loại bỏ các hệ số tài trợ, khả năng thanh toán < 0,5. Khi các doanh nghiệp làm ăn ngày càng có quy củ thì họ sẽ có những dự án đầu tư dài hạn. Cho nên khi thẩm định cần tích cực chú trọng tới các chỉ số Ngân hàng, IRR, BCV nhất là chỉ số NPV vì: - Phương pháp tính chỉ số này đơn giản là ít gây ra phức tạp hơn phương pháp tỷ suất sinh lời vốn nội bộ (IRR). - Đối với các dự án có quy mô đầu tư lớn thì chỉ số này tỏ ra đáng tin cậy hơn. - Phương pháp này sẽ đảm bảo tăng tối đa tài sản của công ty. • Song dể sử dụng phương pháp NPV cần lưu ý một số điểm sau: - Phải lập được dòng tiền phát sinh hàng năm là âm hoặc dương (chi hoặc thu) cho dự án. Khi đó cần phải tinh được doanh thu và chi phí hàng năm của dự án dựa trên công suất thực tế của năm đó cùng với mức giá ước tính, cuối cùng là quy tấ cả số tiền phát sinh trong cùng một kỳ vào cuối kỳ để đánh dấu các mốc cho việc tính toán. - Phải xác định được tỷ suất chuết khấu r hợp lý cho từng dự án. Để sử dụng được chỉ tiêu NPV thì việc xác định r sao cho phù hợp là rất quan trọng. Do vậy để tính toán chính xác r cần phải xem xét sự ảnh hưởng của tất cả các nhân tố cơ bản sau: + Tỷ lệ lạm phát hàng năm + Tỷ lệ gia tăng do sử dụng phương án này mà không sử dụng phương án khác dựa trên việc xác định chi phí cơ hội. Tỷ lệ gia tăng này xuất hiện khi có các phương án loại trừ. Nghĩa là chủ đầu tư có nhiều cơ hội để tiến hành cônh cuộc đầu tư nhưng chỉ được chọn mọtt trong sôa các cơ hội đó. + Tỷ lệ tăng hoặc giảm do việc thu được hoặc mất đi một lượnh giátrị do các yếu tố rủi ro hoặc may mắn. Đây là yếu tố đ• quy định việc xác định r cho từng dự án thuộc từng lĩnh vực, ngành nghề sản xuất kihn doanh khác nhau. • Thế nhưng hệ thống chỉ tiêu dù sao cũng là phương diện để đánh giá, phân tích mang lại. Việc đánh giá, kết luận cần lưu ý những điểm sau: - Mỗi chỉ tiêu từ hệ thống chỉ tiêu được xem xét trong dự án sẽ được so sánh với các chỉ tiêu chuẩn cháap nhậ dự án nhất định. NPV > 0; IRR >IRR(đm) Khi có nhiều dự án loại trừ nhau thì chọn dự án có IRR(max), NPV (max) Lựa chọn dự án đầu tư của doanh nghiệp phải kết hợp với thẩm định kết quả hoàt đọng sản xuất và tình hình tài chính của doanh nghiệp. Hoặc là một tiêu chuẩn qua so sánh với chỉ tiêu khác (IRR của dự án so với lãi suất Ngân hàng), có thể là một chỉ tiêu do thông kê kinh nghiệm thực tế, do thông lệ quốc tế. Lưu ý là tiêu chuẩn chấp nhận dự án ở đây cũng phụ thuộc vào điều kiện không gian cụ thể có thể thay đổi khi không gian thời gian phân tích đã thay đổi. - Cần nhận thức rỏ ràng cách giá, kết luận dự án còn phụ thuộc vào chủ thể thẩm định. Chủ dự án dr khách hàng thì thường ưu tiên cho chỉ tiêu sinh lời của dự án nhưng đối với Ngân hàng thì đôi khi không chú trọng mặt này mà ưu tiên chỉ tiêu thời gian có thể trả nợ của dự án hoặc kết cấu tài chính của chủ dự án để giảm rủi ro do mất vốn. - Về thời gian hoạt đọng: Đối với dự án mf trong đó không nêu rõ thời gian hoạt động của dự án thì nên chọn khoảng thời gian khi héet khấu hao phần thiết bị chính để tính toán và phân tích. - Nội dung bảng tính: Nên tính thời gian dự án hoạt động không nên chỉ tính trong một vài năm. - Độ nhạy của dự án: Ngân hàng nên chú trọng đưa các chỉ tiêu độ nhạy của dự án vào tính toán để xem xét các biến động của các chỉ tiêu IRR, NPV trong điều kiện biến dổi của các chỉ tiêu khác như tỷ gia, giá cả, lãi suất chiết khấu. - Về chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận/ doanh thu khi xem xét chỉ tiêu này phải dựa vaò chu kỳ sản phẩm để dự đoán khả năng sinh lời trong thời gian tới bởi vì có thể hiện tại doanh nghiệp đang sinh lời nhưng trong tương lai lại không, trong trường hợp sản phảm đi vào giai đoanụ cuối. Trong trường hợp có các dự án của các công ty liên doanh lập ra và trình Ngân hàng xem xét thì trong cách lập của họ có những khác biệt so với các dự án do các doanh nghiệp trong nước lập. Cần thiết Ngân hàng cần cập nhật và áp dụng các phương pháp kỹ thuật thẩm định tài chính hiện đại của các Ngân hàng tiên tiến trên thế giới và áp dụng một cách có sáng tạo và tình hình thực tế của nước ta vào hệ thống Ngân hàng. Các phương pháp thẩm định đều có trình bày rất kỹ lưỡng trong nhiều tài liệu khác nhau nhưng vấn đề là sử dụng và ứng dụng thực tế vào công việc một cách có hiệu quả. Để Ngân hàng thực hiện tốt giải pháp này thời gian tới các cán bộ tín dụng cần nỗ lực trong việc tự học, ban giám đốc Ngân hàng cần đưa những cán bộ thẩm định tham gia các khoá học ngắn hạn tại các trung tâm đào tạo về ngành Ngân hàng. 2.2 Giải pháp về mặt tổ chức điều hành. Một trong những nguyên nhân dẫn đến hạn chế trong công tác thẩm định dự án của ngân hàng thời gian qua là chưa có sự chuyên môn hoá trong khâu tổ chức thẩm định. Do đó trong thời gian tới ngân hàng cần có phòng thẩm định riêng, có nhiệm vụ chuyên trách thẩm định các dự án trung và dài hạn, có sự độc lập với phòng tín dụng và quản lý nợ vay. Việc tổ chức bố trí như vậy sẽ giúp cho mỗi cán bộ thẩm định giảm bớt khối lượng công việc, tạo điều kiện cho họ chuyên tâm hơn vào công việc, đồng thời có thời gian để trau dồi thêm nghiệp vụ cho bản thân. Ngân hàng cũng lưu ý tuyển chọn thêm các cán bộ có kinh nghiệm về thẩm định kinh tế-kỹ thuật dự án Mặt khác ngân hàng nên quy định chi tiết hơn về trách nhiệm cũng như quyền lợi của cá nhân các cán bộ thẩm định. Đồng thời cần thường xuyên rà soát, sắp xếp lại đội ngũ cán bộ, bổ sung cán bộ còn thiếu cho các chi nhánh, thuyên chuyển các cán bộ không đủ khả năng đi làm việc khác Ngân hàng nên tạo lập một cơ chế phối hợp chặt chẽ hơn trong quá trình thẩm định giữa các bộ phận trong ngân hàng nhằm nâng hiệu quả công việc. Phòng thẩm định cần phối hợp chặt chẽ với phòng khách hàng, phòng thu hồi nợ, phòng tài sảnđể thu thập được các thông tin chính xác về khách hàng, về dự án vay vốn 2.3 Giải pháp về đội ngũ cán bộ. Thực tế đã cho thấy con người luôn là yếu tố trung tâm, có ảnh hưởng quyết định đến chất lượng thẩm định dự án đầu tư. Chính con người quyết định sự thu thập thông tin, sử dụng các phương pháp để xử lý và đưa ra quyết định cuối cùng. Do đó để nâng cao chất lượng thẩm định dự án thì trước tiên ngân hàng cần phải nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ về mọi mặt: nhận thức, trình độ chuyên môn, kinh nghiệm công tác, đạo đức nghề nghiệp 2.3.1 Tuyển chọn nhân sự đầu vào có chất lượng cao Trong thời gian qua, đa số đội ngũ nhân viên được tuyển chọn vào ngân hàng đều có trình độ chuyên môn tương đối cao, tuy nhiên trong thời gian tới ngân hàng nên chú ý tiếp tục thực hiện công tác bổ sung, tuyển mới những người có năng lực thực sự vào làm việc. Cán bộ được tuyển chọn cần có sự kết hợp hài hoà giữa năng lực chuyên và tư cách đạo đức. Sau khi tuyển dụng, ngân hàng cần phổ biến để mỗi cán bộ đều nắm bắt được các mục tiêu, các quy định của ngân hàng cũng như các quy định của luật pháp có liên quan, đồng thời cần được hướng dẫn, đào tạo chuyên sâu cho họ về công việc sẽ được giao Ngân hàng cũng cần có các chính sách thu hút nhân tài vào làm việc lâu dài hoặc mời làm cố vấn hoặc làm cộng tác viên cho các hoạt động của mình 2.3.2 Đào tạo, trao đổi chuyên môn Trong qua trình thẩm định dự án, cán bộ thẩm định luôn có xu hướng coi trọng phương diện tài chính hơn các phương diện khác. Điều này phần lớn là do những kiến thức mà họ được trang bị ở trường Đại học còn hạn chế, thông thường họ mới chỉ biết về mặt tài chính dự án, còn việc nghiên cứu thị trường, đánh giá thị trường, đánh giá hiệu quả dự án, các vấn đề liên quan đến kỹ thuật thì ít được đề cập, do đó việc họ lựa chọn phương án tài chính là căn cứ chủ yếu để thẩm định cũng là điều có thể hiểu được. Tuy nhiên đòi hỏi về mặt chất lượng thẩm định đã dẫn đến sự khập khiễng giữa lý thuyết và thực tế. Bởi vì trong thực tế, quá trình thẩm định đòi hỏi mỗi cán bộ thẩm định phải có kiến thức tổng hợp tương đối cao về: pháp luật, kinh tế, công nghệ- kỹ thuật, thông tin thị trường, thanh toán quốc tế do đó hoàn thiện công tác thẩm định dự án trước hết ngân hàng cần từng bước nâng cao trình độ của các cán bộ thẩm định. Ngân hàng nên mở các lớp đào tạo, tổ chức các buổi hội thảo, mời các chuyên gia về nói chuyện, trao đổi kinh nghiệm với các ngân hàng bạn, tìm nguồn tài liệu cho cán bộ tham khảo Bên cạnh khuyến khích động viên cán bộ tự trau dồi kiến thức, ngân hàng có thể cử những nhân viên có đủ năng lực đi đào tạo ở nước ngoài trong những khoảng thời gian nhất định, từ đó giúp cán bộ có điều kiện học hỏi, bồi dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ. Lưu ý là để công tác đào tạo đạt được kết quả cao thì quá trình đào tạo này phải được diễn ra thường xuyên và có hệ thống 2.3.3 Giáo dục về nhận thức, tư cách đạo đức Ngân hàng cần thường xuyên giáo dục về ý thức, đạo đức và kỷ luật nghề nghiệp cho các cán bộ của mình để họ nhận thức được vai trò và ý nghĩa to lớn của công tác thẩm định dự án, đồng thời có ý thức tự giác, trung thực và tinh thần trách nhiệm cao hơn. Ngân hàng cũng nên có chế độ đãi ngộ xứng đáng đối với nhân viên, kịp thời khen thưởng về vật chất lẫn tinh thần đối với các cán bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ, đồng thời phát hiện ra những biểu hiện sa sút về đạo đức để kịp thời uốn nắn. Xử lý nghiêm minh đối với các cán bộ có hành vi tiêu cực, vô tình hay cố ý làm trái các quy định chung dẫn đến những thiệt hại cho ngân hàng Việc làm tốt công tác thẩm định không chỉ phụ thuộc vào bản thân mỗi cán bộ thẩm định mà còn phải có sự kiểm tra, giám sát thường xuyên của ngân hàng. Do vậy ngân hàng cũng phải tăng cường công tác thanh tra, kiểm soát, lựa chọn và đào tạo các cán bộ thanh tra có năng lực, có phẩm chất tốt và có chuyên môn nghiệp vụ vững vàng. 2.4 Giải pháp về thông tin. Cơ sở của quá trình thẩm định dự án đầu tư là thông tin, số liệu về đơn vị, dự án và các tài liệu khác như: Luật, văn bản dưới luật, văn bản thuế Tuy nhiên trên thực tế các thông tin, số liệu đều do người lập dự án cung cấp và các số liệu này có đáng tin cậy hay không ? Ngoài ra những hồ sơ, tài liệu mà Ngân hàng nhận được từ khách hàng vay vốn cung cấp, Ngân hàng cần phỏng vấn trực tiếp một số người chủ chốt liên quan đến dự án như: Giám đốc, kế toán trưởng, cán bộ lập dự án. Đây là một “nghệ thuật”phỏng vấn mà mỗi cán bộ thẩm dịnh phải tự tạo cho mình trong thời gian làm việc. Mục đích của cuộc phỏng vấn này là kiểm tra tư cách của những người đứng đầu doanh nghiệp, kiểm tra về ý tưởng của họ, về dự án, kiểm tra về trình độ hiểu biết của họ về dự án, không nên chỉ phỏng vấn mà cần tiếp xúc trực tiếp với những người làm việc tại doanh nghiệp để nắm rõ tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong quá khứ. Sử dụng triệt để các nguồn thông tin về doanh nghiệp do phòng Phòng ngừa rủi ro cung cấp. Đây là nơi lưu giữ tất cả những thông tin cần thiết, cơ bản về doanh nghiệp nó cho phép đánh giá sơ bộ khách hàng về các mặt; Lịch sử hình thành phát triển, tình hình tài chính, mức độ tín nhiệm. Điều tra thông tin từ các đơn vị có tham gia quan hệ với với doanh nghiệp: kiểm tra khách hàng của doanh nghiệp để xem sản phẩm của doanh nghiệp có đáng tin cậy hay không? Có đảm bảo được sự phát triển trong tương lai hay không? phương thức thanh toán mà doanh nghiệp đang sử dụng, đây là khâu trực tiếp để đánh giá hiệu quả đầu tư của doanh nghiệp. Ngoài ra phải điều tra các nhà cung cấp đánh giá uy tín của doanh nghiệp trong việc trả nợ. Một cơ quan cần xem xét đó là cơ quan thuế, cơ quan thúê là cơ quan nhà nước trực tiếp theo dõi tài chính của doanh nghiệp họ cung cấp cho Ngân hàng những số liệu tài chính đáng tin cậy nhất cho doanh nghiệp về bảng cân đối kế toán, doanh thu, lợi nhuận sau thuế, Một trong những biện pháp người hay làm trong gần đây khi kiểm tra chế độ kế toán tài chính trong doanh nghiệp đó là kiểm toán. Ngân hàng có thể thuê những công ty kiểm toán để kiểm tra tính chính xác và trung thực của các báo cáo tài chính mà doanh nghiệp xin vay vốn. Do vậy cần thực hiện chế độ kiểm toán bắt buộc. Trước nắt, tài liệu cân đối kế toán và ket quả tài chính của doanh nghiệp phải có kiển toán. Để đánh giá được tính hợp lý của dự án có phù hợp với yêu cầu chung của xã hội, có nhằm trong kế hoạch phát triển của ngành địa phương. Các cán bộ thẩm định phải tham khảo thêm các tài liệu về chủ trương chính sách của Nhà nước, Chính phủ các Bộ ngành có liên quan đến dự án. Mục tiêu của giải pháp là xác định tính đúng đắn trong việc thẩm định những cơ sở pháp lý của dự án. Một nguồn thông tin quý giá mà chính Ngân hàng có thể tự khai thác đó là tình hình dư nợ trên các tài khoản vãng lai của doanh nghiệp tại Ngân hàng. Nếu trên tài khoản của doanh nghiệp luôn dư có ở mức cao chứng tỏ doanh nghiệp luôn ổn định về tài về chính, thu chi được cân đối và ngược lại, cần theo dõi sát sao về các chỉ tiêu tài chính bởi lẽ năng lực tài chính và khả năng tài chính của doanh nghịp là không đáng tin cậy. Từ đó Ngân hàng cần có những nhận xét về doanh nghiệp có quan hệ tín dụng với Ngân hàng để đánh giá uy tín của họ trong quan hệ tín dụng và tiến hành sắp xếp các doanh nghiệp theo thứ tự “an toàn trong nguồn vốn đầu tư”nghĩa là doanh nghiệp nào có khả năng an toàn cao khi bỏ vốn đầu tư thì được xếp hàng ưu tiên và ngược lại. 2.5 Giải pháp về trang thiết bị. Để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nền kinh tế hiện đại nói chung và đòi hỏi của ngành ngân hàng nói riêng, ngân hàng cần tăng cường đầu tư đổi mới trang thiết bị phục vụ cho công tác thẩm định sao cho mỗi cán bộ đều được trang bị một máy vi tính và toàn bộ hệ thống được nối mạng LAN cũng như mạng ADSL Có thể nói thẩm định dự án là một công việc khá phức tạp, khối lượng công việc lớn đòi hỏi nhiều thời gian và công sức của cán bộ thẩm định. Bởi vậy việc ứng dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ hiện đại trong công tác thẩm định là rất cần thiết, có thể giúp cho mỗi cán bộ thẩm định tiết kiệm được nhiều thời gian và sức lực. Do đó trong tương lai ngân hàng cần đẩy mạnh ứng dụng các phần mềm trong phân tích, dự báo như Crustal Ball kết hợp với Excell hoặc đặt thiết kế một chương trình hỗ trợ nghiệp vụ thẩm định từ các công ty trong và ngoài nước. 2.6 Giải pháp về hỗ trợ thẩm định. Như phần trước đã nói, thẩm định là công tác vất vả đối với các cán bộ thẩm định, những hỗ trợ cho công tác này sẽ góp phần nâng cao chất lượng thẩm định. Trang bị những thiết bị hiện đại trong công tác thẩm định và các cán bộ thẩm định. Trước mắt là trang bị những máy vi tính hiện đại cho các cán bộ thẩm định. Những máy này nhất thiết phải được nối mạng trong toàn hệ thông Ngân hàng Công thương, bởi lẽ họ có thể chủ động tra cứu về khách hàng về thông tin liên quan đến khách hàng và dự án không cần qua phồng thông tin điện tử. Thuế hai họ có thể lưu trữ tình hình thực hiện dự án khi dự án trong quá trình hoạt động. Thứ ba, máy tính sẽ hỗ trợ các cán bộ trong quá trính lập tờ trình dự án đầu tư, tính toán các chỉ số một cách đơn giản, dùng để lập các tờ trình có độ chính xác về mặt chuyên môn cao hơn. Đây không phải là việc mới mẻ gì, nhưng hiện tại Ngân hàng vẫn chưa làm được. Trong tương lai không xa khi hệ thống ngân hàng đổi mới do đòi hỏi của nền kinh tế thì lúc đó Ngân hàng sẽ trở nên lạc hậu mà ngành không được phép như vậy. Để làm được điều này các NHTM khác, Ngân hàng đầu tư máy móc và ứng dụng các phần mềm tiên tiến hiện có, đang được Ngân hàng thế giới hỗ trợ thông qua dự án tài trợ nhằm hiện đại hóa mạng lưới Ngân hàng Việt Nam. Hỗ trợ về vật chất, việc này là rất thiết thực đối với mỗi cán bộ thẩm định. Việc hỗ trợ này có tác dụng làm tang tinh thần trách nhiệm của cá cán bộ thẩm định đối với công việc của mình, có nhiều kinh phí trong việc đi thực tế tại các doanh nghiệp, chi phí tìm hiểu thông tin, đi liền với hỗ trợ thì cũng gắn trách nhiệm của các cán bộ thẩm định vào các dự án của mình thẩm định. Thực hiện điều này có thể bằng nhiều cách, cho phép các cán bộ thẩm định được hưởng một khoảng kinh phí khi tiến hành thẩm định những dự án khả thi, các khoản này có thể là cố định. Một phương án khác có thể là trích phần trăm từ trị giá hợp đồng khi món vay được thực hiện. Những hỗ trợ này có thể làm tăng chi phí của Ngân hàng, nhưng điều này không những cần thiết trong trước mắt xét về lâu dài là động lực thúc đẩy cho Ngân hàng phát triển. Ngoài những hỗ trợ về vật chất, Ngân hàng cũng không nên xem nhẹ sự hỗ trợ về mặt tinh thần. Cán bộ lãnh đạo cần có những kiến nghị kịp thời góp ý cho quá trình thẩm định được tốt hơn. Thường xuyên quan tâm, nhận xét, tiếp thu những ý kiến của cán bộ thẩm định. ngoài ra, cần ghi nhận những đóng góp của họ trong những dự án cũng như trong quá trình để có thể cân nhắc, bổ nhiệm họ vào những vị trí phù hợp với năng lực và trình độ. 3. Đề xuất kiến nghị 3.1 Kiến nghị với chính phủ. Chính phủ cần có những Nghị định nhằm đưa công tác kiểm toán phát huy hơn nữa vai trò của mình. Bên cạnh đó cũng phải có những chỉ thị cụ thể đối với Bộ tài chính nhằm làm cho các doanh nghiệp thực hiện nghiêm túc chế độ kế toán theo đúng quy định của Nhà nước. Những kiến nghị này có những tác dụng: Trước hết là làm tăng tính trung thực của các doanh nghiệp trong nộp thuế cho ngân sách Nhà nước. Sau đó sẽ hình thành thói quen trong hoạt động của doanh nghiệp dễ dàng hơn trong quá trình cổ phần hoá nhất là đối với các DNNN. Sau cùng là giúp Ngân hàng có được những số liệu chính xác về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tình hình tài chính của doanh nghiệp, làm cơ sở thẩm định doanh nghiệp nói riêng và thẩm định toàn bộ dự án nói chung. Đối với các DNNN Chính phủ cần phải giảm bớt những “giúp đỡ “để các doanh nghiệp này từng bước làm chủ sản xuất kinh doanh, chụi những quy luật cạnh tranh của thị trường. Trước mắt có thể là những khó khăn nhưng sau đó nó sẽ đứng vững và caác hoạt động có hiệu qủa hơn. Những “giúp đỡ”cần được giảm đầu tiên là trong các quan hệ tín dụng đối với các NHTM quốc doanh. Từ trước nghị định 178/NĐ- CP/1999, chủ trương của Chính phủ vẫn tách rõ ra doanh nghiệp quốc doanh và doanh nghiệp phi quốc doanh trong hoạt động tín dụng. Cho phép các doanh nghiệp Nhà nước vay vốn không cần thế chấp, điều này là hoàn toàn bất hợp lý bởi lẽ, khi không phaỉ thế chấp tài sản thì tổng số tiền vay tại các Ngân hàng có thể sẽ lớn hơn nhiều so với nguồn vốn kinh doanh hiệ có. Điều này hiển nhiên cho rằng hệ số tài trợ không có giá trị trong công tác thẩm định. Hậu quả là doanh nghiệp sẽ “phồng to”hơn so với năng lực thực tế của mình, nếu như có xảy ra rủi ro trong quá trình kinh doanh (Vấn đề này là không tránh khỏi) thì doanh nghiệp không có đủ năng lực để tàu trợ. Như vậy DNNN và NHTM quốc doanh đều là vốn của Nhà nước thì cần tách bạch rành rọt để cho mỗi chủ thể tự chủ trách nhiệm lấy nguồn vốn của mình và hoạt động có hiệu quả hơn. Tình trạng bỏ “túi lành”sang “túi thủng”như hiện nay là bất cập. Công tác thẩm định không có ý nghĩa đối với các doanh nghiệp này. Chính phủ cần có thái độ dứt khoát sắp xếp alị các doanh nghiệp, chỉ tồn tại những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, những doanh nghiệp thực sự cần thiết cho dan sinh, tạo điều kiện cho mở rộng quy mô tín dụng. Cổ phần hoá DNNN là phương thức sắp xếp lại doanh nghiệp huy động được các nguồn lực từ nhiều thành phần kinh tế khác. Cổ phần hoá là một trong những biện pháp quan trọng để Doanh nghiệp có cơ hội tăng vốn tự có từ đó, doanh nghiệp có thể tiép cận với những khoản tín dụng đảm báo điều kiện dạt ra của NH về vốn tự có. Hàng năm chính phủ đều có những kế hoạch đầu tư phát triển cho từng ngành thực hiện không đồng nhất: có hiẹn tượng các dự án của ngành thì thừa, các dự án của vùng thì thiếu. Chính những mâu thuẫn này làm cho công tác thẩm định tại Ngân hàng trở nên khó khăn hơn. Bởi vì khi thẩm định phương diện thị trường thì nhu cầu những sản phẩm hàng hoá của dự án tại vùng thì thiếu, nhưng xét trên toàn ngành thì tổng sản lượng lại thừa. Hay tình trạng các dự án cùng loại cùng một lúc thực hiện, trước khi thực hiện thì tổng cung là nhỏ hơn tổng cầu, nhưng nhiều dự án đi vào hoạt động thì tổng cầu nhỏ hơn tổng cung. Những khó khăn này Ngân hàng khó mà lường hết được trong công tác thẩm định, nhưng mà Chính phủ, các bộ có liên quan có thể điều tiết dược theo kế hoạch. Vì vậy, Chính phủ cần lưu tâm hơn nữa về điều này. Đặc biệt, các cơ quan chức năng phải chú trọng đến các chính sách hỗ trợ cho công tác thẩm định dự án đầu tư, mà quan trọng hơn là công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư: ban hành các chỉ tiêu chuẩn phục vụ cho các NHTM, các tổ chức tài chính. Nhà nước cần quy định rõ các biện pháp chế tài biện pháp xử lý nghiên trọng các trường hợp doanh nghiệp cung cấp thông tin giả để đưa các donh nghiệp hoạt động kinh doanh lành mạnh nhằm nâng cao pháp chế XHCN. Nhà nước cần phải chỉ đạo các doanh nghiệp nghiêm túc thực hiện chế độ ké toán theo đúng quy dịnh của Nhà nước, bên cạnh đó ban hành quy chế bắt buộc kiểm toán và công khai quyết toán của doanh nghiệp, tạo điều kiện giúp hệ thôngnn trong viẹc phân tích hoạt đọng sản xuất kinh doanh cuae doanh nghiệp qua đó hạn ché phòng ngừa rủi ro. Hơn nữa tạo điều kiện cho các Ngân hàng đánh giá đúng sức mạnh tài chính của dự án cũng như của doanh nghiệp có dự án. 3.2 Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước Tăng cường vai trò của các trung tâm thông tin Ngân hàng. Như được biết hiện nay NHNN đã có hai trung tâm thông tin Ngân hàng là: trung tâm phòng ngừa rủi ro viết tắt là (TRP)và trung tam thông tin tín dụng (CIC) đặt tại vụ tins dụng NHNNvà có chi nhánh tại NHNNcác tỉnh thành phố. Hiện tại, CIC là trung tam thu thạp các thông tin về các tổ chức tín dụng, các doanh nghiệp lứon và phát huy được những vai trò cơ bản. Nhưng đòi hỏi của ngành Ngân hàng còn cao hơn rất nhiều so với những gì mà CIC cung cấp. Cần thiết phải cải tiến cơ chế làm việc của trung tâm này: Một là, cần sắp xếp trung tâm này trở thành một thành viên độc lập, có thể cung cấp những dịch vụ thông tin liên quan đến ngành Ngân hàng tài chính cho những ai có nhu cầu. Hai là, ngoài những thông tin về Ngân hàng tài chính họ cần phối hợp với các cơ quan liên quan của Chính phủ như: uỷ ban kế hoạch Nhà nước, Tổng cục thống kê, để thu thập những thông ton đa dạngvà phong phú hơn nữa về mọi ngành, mọi lĩnh vực trong nền kinh tế quốc dân. Các cán bộ thẩm định của Ngân hàng, có thể trực tiếp thu thập hệ thống cơ sỏ dữ liệu tại trung tâm này thông qua mạng cục bộ của Ngân hàng, khai thác những số liệu cần thiết về doanh nghiệp về ngành có liên quan đến doanyh nghiệp, về tình hình thị trường, những dự báo,.. qua đó tăng cường thẩm định các dự án. NHNN cần thực thi chính sách lãi suất thị trường để cho các NHTMcó sự linh hoạt cho lĩnh vực đầu tư các dự án. Mục tiêu của NHTM là tăng tối đa lợi nhuận, nhưng những quy định về lãi suất trong thời gian vừa qua mặc dù là một chủ trương đúng đắn nhưng nó vẫn có thể làm giảm lợi nhuận của Ngân hàng. Nếu chỉ với lãi suất thị trường thì lãi suất vẫn biến động theo tỷ lệ lãi suất chiết khấu của Ngân hàng Nhà nước làm tăng tối đa lợi nhuận cho Ngân hàng, nhất là những dự án đầu tư trung dài hạn. Những hạn chế của lãi suất cố định làm cho khi thẩm định dự án và quyết định cho vay, Ngân hàng vẫn có thể là người chịu thiệt thòi. Bởi vì, các dự án cho vay dự án thường là trung dài hạn nhưng hiện tại lãi suất là thấp ví dụ 1%/ tháng nhưng một năm sau lãi xuất tăng 2%/tháng như có dự án vẫ chỉ được hưởng lãi suất 1%/tháng. Đối với các dự án thuộc ngành có lợi nhuận siêu ngạch như thuốc lá, đồ uống, mà chúng ta không khuyến khích phát triển thì lãi suất trần sẽ gây cản trở cho Ngân hàng trong việc tăng lãi suất đối với các dự án đầu tư vào ngành này. Việc thay đổi chính sách với các dự án đầu tư vào các ngành này. Việc thay đổi chính sách lãi suất không những giúp Ngân hàng tăng hiệu quả trong việc cho vay các dự án mà còn giúp Chính Phủ điều tiết nền kinh tế đúng định hướng của mình. Ngân hàng nhà nước là cơ quan điều hành, trực tiếp của các NHTM thì nhất thiết phải có hỗ trợ các NHTM trong công tác thẩm định. NHNN cần ban hành một “cẩm nang”chung về quy trình, nội dung thẩm định dự án trên cơ sở thẩn định dự án của các cơ quan khoa học, Bộ kế hoạch và Đầu tư phù hợp với thực tiễn Việt Nam, đồng thời hoà nhập dần với thông lệ quốc tế. Chẳng hạn như việc tính toán một số chỉ tiêu điểm hoà vốn, IRR của dự án có vốn vay Ngân hàng trong điều kiện có lạm phát. Mốc để so sánh các chỉ tiêu đó của dự án nhằm đưa ra quyết định cho vay hay không ? Hoặc quan điểm về tính nguồn trả nợ hàng năm.Ngoài những cuộc hội thảo nhằm bàn bạc đúc rút những kinh nghiệm thẩm định tại NHTM, nhất thiết phải tổ chức những khoá học thường niện cho các cán bộ thẩm định do các chuyên gia của WB, IMF hoặc của một số nước khcs có ngành Ngân hàng phát triển để họ có thể nắm bắt được những tiến bộ, ứng dụng thành công vào công tác thẩm định của mình. Hiện nay Chính phủ cho phép các DNNN vay vốn không phải thế chấp tài sản làm đảm bảo thì phải có quy định rõ ràng khi doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả dẫn đến bị phá sản thì vốn vay Ngân hàng được ưu tiên hàng đầu, để tránh tình trạng thất toát vốn của Ngân hàng cũng như của nền kinh tế. Để phát huy trách nhiệm trong việc cung cấp thông tin tín dụng, chất lượng thông tin, cần lập các công ty tư vấn chuyên mua bán thông tin. Qua đó tách biệt vai trò quản lý NHà nước của NHNN và vai trò kinh doanh thông tin của các công ty tư vấn. 3.3 Kiến nghị với NHNo & PTNT Đề nghị Ban thẩm định Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt nam hỗ trợ hơn nữa trong việc tạo lập và tăng cường các mối quan hệ với các khách hàng lớn là các dự án đầu tư trung và dài hạn băng nguồn vốn đồng tài trợ giữa các Ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng khác, các ban ngành có chức năng quản lý các dự án có vốn đầu tư nước ngoài và Ngân sách của Nhà nước. Do trình độ của cán bộ có nhiều mặt bất cập, nhất là kiến thức kinh tế ngoài ngành như trình độ công nghệ, các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật... nên đề nghị Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam hệ thống hoá các văn bản về định mức kinh tế kỹ thuật của một số ngành, nghề chủ yếu trên cơ sở tiêu chuẩn Nhà nước đã ban hành, trang bị cho các chi nhánh để có sự thống nhất trong công tác thẩm định. Bên cạnh đó, Ban thẩm định Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam cũng mở các lớp tập huấn nâng cao nghiệp vụ chuyên sâu về thẩm định... để cán bộ làm công tác thẩm định hiểu sâu hơn nghiệp vụ, giúp cho công tác thẩm định được hiệu quả hơn. Kết luận Tài trợ vốn cho dự án đầu tư là một trong các hoạt động quan trọng của Chi nhành Nam Hà Nội nói riêng và Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn nói chung. Trong thời gian qua, chi nhánh đã cho vay nhiều dự án quan trọng với số vốn lơn, hiệu quả hoạt động này cũng rất khả quan. Thời gian tới, Chi nhánh sẽ tiếp tục đẩy mạnh cho vay đối với các dự án, để đảm bảo hiệu quả hoạt động của mình, Chi nhánh cần quan tâm đến việc nâng cao chất lượng thẩm định. Thẩm định chính xác thì quyết định cho vay mới chính xác, đảm bảo khả năng thu hồi vốn và có lợi nhuận. Việc hoàn thiện công tác thẩm định là một công việc phức tạp, đòi hỏi có sự tham gia của nhiều ngành, lĩnh vực và cần có quá trình. Do đó trong phạm vi chuyên đề này, em chỉ xin đưa ra một số ý kiến, hi vọng có thể đóng góp phần nào vào việc hoàn thiện công tác thẩm định của Chi nhánh Nam Hà Nội. Do trình độ, kiến thức còn nhiều hạn chế, cũng như cách diễn đạt còn khiếm khuyết nên chuyên đề của em không tránh khỏi những sai sót. Em mong nhận được ý kiến đóng góp của thầy.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc2184.doc
Tài liệu liên quan