CHƯƠNG 1 
TỔNG QUAN VỀ THẨM ĐỊNH RỦI RO TÀI CHÍNH 
TRONG TÍN DỤNG DỰ ÁN ĐẦU TƯ TẠI CÁC NGÂN 
HÀNG THƯƠNG MẠI 
1.1. Dự án đầu tư và phân loại dự án đầu tư 
1.1.1. Khái niệm dự án đầu tư 
Ngân hàng thế giới (World Bank) - một định chế tài chính đa quốc gia rất nổi 
tiếng trong lĩnh vực tài trợ dự án ở khắp nơi trên thế giới đã đưa ra định nghĩa như 
sau về dự án: “Dự án là tổng thể các chính sách, hoạt động và chi phí liên quan với 
nhau được hoạch định nhằm đạt được những mục tiêu nhất định trong một thời gian 
nhất định”. 
Tổ chức Tiêu chuẩn quốc tế (ISO 8402) thì đưa ra định nghĩa: “Dự án là một 
quá trình bao gồm các hoạt động được phối hợp thực hiện và quản lý trong một giai đoạn 
xác định nhằm đạt được một mục tiêu cụ thể trong điều kiện hạn chế về nguồn lực”. 
Ở nước ta hiện nay, theo quy chế quản lý đầu tư và xây dựng do Chính phủ 
Việt Nam ban hành thì dự án được hiểu như sau: Dự án là một tập hợp những đề 
xuất có liên quan đến việc bỏ vốn để tạo mới, mở rộng hoặc cải tạo cơ sở vật chất 
nhằm đạt được sự tăng trưởng về số lượng hoặc duy trì, cải tiến, nâng cao chất 
lượng sản phẩm hoặc dịch vụ trong khoảng thời gian xác định. 
Từ các định nghĩa trên đây chúng ta có thể rút ra được các yếu tố cơ bản sau 
đây hình thành nên một dự án đầu tư: 
- Các chính sách, giải pháp và đề xuất về việc bỏ vốn, chi phí hay nguồn 
lực phải được hoạch định, lập kế hoạch, tính toán cụ thể. 
- Các mục tiêu mà dự án cần phải đạt được là mục tiêu tăng trưởng, cải 
tiến, nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ và/hoặc lợi ích kinh tế xã hội. 
- Dự án phải được hoàn thành trong một khoảng thời gian xác định.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
64 trang | 
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2224 | Lượt tải: 1
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoàn thiện công tác thẩm định rủi ro tài chính trong tín dụng dựán đầu tư tại các ngân hàng thương mại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của chính phủ, cần phải thực hiện từ khi triển khai tới khi dự án bắt đầu đi vào 
hoạt động bình thường. Từng khoản chi phí đầu tư này cần phải được xác định theo 
năm, được dự kiến từ lúc bắt đầu quan tâm và nghiên cứu dự án. 
- Kế hoạch doanh thu: Để xác định doanh thu cần phải lập kế hoạch sản 
xuất, kế hoạch sản lượng và dự kiến giá bán trong suốt vòng đời của dự án. Giá bán 
sản phẩm của dự án cần phải xác định thay đổi theo từng năm. Muốn vậy giá bán 
sản phẩm dự kiến khi triển khai dự án được nhân với chỉ số lạm phát qua các năm 
đã được xác định ở bảng lạm phát. 
-36- 
- Kế hoạch chi phí hoạt động: Bao gồm tất cả các chi phí phát sinh kể từ 
khi dự án đi vào hoạt động bình thường. Từng khoản chi phí này cần được xác định 
theo từng năm mà ta dự kiến nó xảy ra. 
- Lịch vay và trả nợ: Được xây dựng nhằm mục đích xác định các khoản 
nợ vay tài trợ cho dự án và các khoản trả lãi nợ vay. Tất cả các khoản này đều phải 
tính tới tác động của lạm phát, nếu không sẽ dẫn đến tình trạng thiếu vốn để thực 
hiện dự án và không tính hết các chi phí để trả lãi vay. Các lịch vay và trả nợ sẽ bao 
gồm: 
+ Lịch vay nội địa (tính bằng nội tệ). 
+ Lịch vay nước ngoài (tính bằng ngoại tệ). 
+ Lịch vay nước ngoài quy đổi ra nội tệ. 
- Tính toán vốn luân chuyển: Bao gồm tiền mặt, các khoản phải thu trừ đi 
các khoản phải trả và hàng tồn kho. Tất cả các khoản mục này phải được tính theo 
năm mà dự án dự kiến xảy ra. Đây là các khoản mục chịu tác động của lạm phát rõ 
nhất nên cần phải chú ý đến yếu tố lạm phát khi tính toán. 
- Lịch khấu hao: Chi phí khấu hao không phải là một hạng mục trong 
bảng ngân lưu nhưng được sử dụng để tính toán thuế, giá trị tài sản thanh lý. 
- Bảng giá thành đơn vị sản phẩm: Tập hợp chi phí sản xuất: nguyên vật 
liệu trực tiếp, công nhân, trực tiếp, chi phí sản xuất chung để tính giá thành và giá 
thành đơn vị sản phẩm cho từng năm. 
Giá vốn hàng bán: Bảng tính này nhằm mục đích tính toán giá trị hàng tồn 
kho. Khi thẩm định dự án có tính đến tác động của lạm phát, mặc dù lượng hàng tồn 
kho không thay đổi nhưng dưới tác động của lạm phát sẽ làm giá vốn hàng bán thay 
đổi. Tác động của lạm phát tới chi phí hàng bán tùy thuộc vào phương pháp hạch 
toán hàng tồn kho (LIFO, FIFO hay bình quân gia quyền). 
- Bảng báo cáo thu nhập: Báo cáo thu nhập cho biết trong một chu kỳ kế 
toán, doanh nghiệp đã hoạt động kinh doanh lãi hay lỗ bằng con số cụ thể. Trong 
báo cáo thu nhập, lãi hay lỗ của doanh nghiệp là hiệu số giữa tổng thu nhập từ 
doanh thu và tổng chi phí. Đây là khoản thu nhập chịu thuế của doanh nghiệp. Thiết 
-37- 
lập bảng báo cáo thu nhập là nhằm mục đích xác định khoản thuế thu nhập để đưa 
vào bảng ngân lưu. 
- Chi phí cơ hội: Chi phí cơ hội là những khoản thu nhập mà công ty phải 
mất đi do sử dụng nguồn lực vào dự án. Chi phí cơ hội không phải là một khoản 
mục thực chi nhưng vẫn được tính vào ngân lưu vì đó là một khoản thu nhập mà 
công ty phải mất đi khi thực hiện dự án. Tuy nhiên trong thực tế rất khó lượng hóa 
chi phí cơ hội trong các dự án, do đó các nhà phân tích dự án thường có khuynh 
hướng ghi nhận sự tồn tại của chi phí cơ hội hơn là cố tìm cách định lượng nó. 
- Xử lý chi phí lịch sử: Chi phí lịch sử là chi phí cho những tài sản sẵn có 
của công ty được sử dụng cho dự án. Chi phí này có được tính vào ngân lưu dự án 
hay không là tùy theo chi phí cơ hội của tài sản, nếu chi phí cơ hội của tài sản bằng 
không thì không tính, nhưng nếu tài sản có chi phí cơ hội thì sẽ được tính vào ngân 
lưu dự án như trường hợp chi phí cơ hội. Chi phí lịch sử cần phải được xử lý khi 
thẩm định dự án nhằm tránh các bóp méo khi ra quyết định đầu tư. 
- Chi phí đất đai: Đất đai là loại tài sản cố định không khấu hao. Cần xử 
lý đất như một khoản đầu tư riêng biệt. Không được gộp lãi hoặc lỗ về đất như một 
khoản thu nhập hay chi phí đối với khoản đầu tư vào đất nếu như sự đầu tư đó 
không làm cho chất lượng của đất được cải thiện hay bị hư hại đi. 
- Thiết lập báo cáo ngân lưu: Không có một khuôn mẫu trình bày một 
cách tiêu chuẩn cho báo cáo ngân lưu của một dự án đầu tư. Nhưng ta biết rằng 
ngân lưu ròng của dự án là khoản chênh lệch giữa tổng thu và tổng chi. Do đó báo 
cáo ngân lưu có thể được trình bày thành hai phần thu và chi. 
Cần phải chú ý phân biệt sự khác nhau giữa việc xây dựng báo cáo ngân lưu 
và báo cáo thu nhập. Muốn vậy cần phân biệt sự khác nhau giữa doanh thu và khoản 
thu, giữa chi phí và khoản chi. Điều khác biệt đó xảy ra do các nguyên tắc kế toán 
ấn định. Chẳng hạn như thời điểm ghi nhận doanh thu khác với thời điểm thu tiền; 
ghi nhận những khoản chi phí nhưng không thực chi bằng tiền mặt; ghi nhận những 
khoản thu nhập nhưng không thực thu bằng tiền mặt… Lợi nhuận trong báo cáo thu 
nhập chỉ đơn giản là hiệu số giữa doanh thu và chi phí, còn trong báo báo ngân lưu 
-38- 
thể hiện những dòng thu, dòng chi bằng tiền mặt - trừ một trường hợp ngoại lệ đó là 
chi phí cơ hội. 
c. Chưa quan tâm đến yếu tố lạm phát và tỷ giá hối đoái trong thẩm định 
dự án 
Hiện nay hầu như toàn bộ các các ngân hàng thương mại khi thẩm định dự 
án thông qua việc tính toán các chỉ tiêu, lập bảng báo cáo ngân lưu chưa tính đến 
yếu tố lạm phát và sự thay đổi của tỷ giá hối đoái, đặc biệt là các dự án có dòng thu 
và chi bằng ngoại tệ. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến tính chính xác khi tính 
toán các chỉ tiêu hiệu quả của dự án. 
Việc xác định không đúng về các biến số tài chính trong bảng phân tích ngân 
lưu của dự án là một trong những nguồn sai số thông thường nhất trong việc soạn 
thảo nghiên cứu khả thi cũng như công tác thẩm định. Đặc biệt, điều này xảy ra 
trong trường hợp tỷ lệ lạm phát dương được dự kiến sẽ tồn tại trong suốt thời hạn 
dự án. Việc xem xét ảnh hưởng của lạm phát trong phân tích dự án là cần thiết vì: 
- Việc không xem xét tác động của lạm phát có thể làm sai lệch đáng kể 
kết quả phân tích dự án. 
- Lạm phát cũng là một yếu tố bổ sung vào tính không chắc chắn làm ảnh 
hưởng đến rủi ro của dự án. 
Kết quả là những số thu lợi tài chính thực (sau khi trừ thuế) trong suốt thời 
hạn dự án có thể được thể hiện sai một cách nghiêm trọng, đơn giản là do hậu quả 
của việc sử dụng các phương pháp không đúng để tính lạm phát. 
Các tác động của lạm phát lên điều kiện tài chính của một dự án gồm (1) các 
tác động trực tiếp do những thay đổi trong chi phí trong thời gian đầu tư, cân đối 
tiền mặt, các khoản phải thu, các khoản phải chi và lãi suất danh nghĩa, (2) các tác 
động về thuế bao gồm chi phí lãi, tiền lãi, khấu hao và hàng tồn kho, và (3) tác động 
lên tỷ giá hối đoái thị trường. Lạm phát thay đổi số lượng và thời gian của các 
khoản lời hay khoản lỗ tài chính của các bên khác nhau tham gia vào dự án gồm chủ 
sở hữu, bên cho vay và chính quyền, tính toán các thay đổi đó là điều kiện cần thiết 
để xác định toàn bộ dự án tùy theo quan điểm của các bên khi phân tích. 
-39- 
Chúng ta có thể xem xét tác động của lạm phát lên một số yếu tố khi xác 
định ngân lưu dự án như sau: 
- Tác động của lạm phát đối với khoản phải thu (AR: Account 
Receivable): 
So sánh dòng ngân lưu của khoản phải thu trong hai trường hợp lạm phát 0% 
và 10%: 
Năm 0 1 2 3 
- Trường hợp 1: Tốc độ lạm phát g=0%: 
Khoản phải thu (AR) 0 500 500 0
Thay đổi trong khoản phải thu (ΔAR) 0 500 0 -500
Hiện giá của ΔAR với r=15% $106 
- Trường hợp 2: Tốc độ lạm phát g=10%: 
Chỉ số lạm phát 1 1.1 1.21 1.331
Khoản phải thu thực (ARR) 0 500 500 0
Khoản phải thu danh nghĩa (ARN) 0 550 605 0
Thay đổi trong khoản phải thu danh nghĩa 
(ΔARN) 
0 550 55 -605
Thay đổi trong khoản phải thu thực, ΔARN
(khử lạm phát) 
0 500 45 -455
Hiện giá của ΔARR với r=15% $170 
Hiện giá của ΔAR trong trường hợp có lạm phát lớn hơn so với không lạm 
phát, ảnh hưởng làm tăng dòng ngân lưu ra và làm giảm hiệu quả dự án (giảm 
NPV). 
- Tác động của lạm phát đối với khoản phải trả (AP: Account Payable): 
So sánh dòng ngân lưu của khoản phải trả trong 2 trường hợp: lạm phát 0% 
và 10%: 
-40- 
Năm 0 1
- Trường hợp 1: Tốc độ lạm phát g=0%:
Khoản phải trả (AP) 0 400 400 0
Tha
2 3
y đổi trong khoản phải trả (ΔAP) 0 400 0 -400
Hiện giá của ΔAP với r=15% $85
- Trường hợp 2: Tốc độ lạm phát 
Chỉ số lạm phát 1 1.1 1.21 1.331
Khoản phải trả thực (APR) 0 400 400 0
Khoản phải trả danh nghĩa (APN) 0 440 484 0
Thay đổi trong khoản phải trả danh 
nghĩa (ΔAPN) 0 440 44 -484
Thay đổi trong khoản phải trả thực, 
ΔAPN (khử lạm phát) 0 400 36 -364
Hiện giá của ΔAPR với r=15% $136
Hiện giá của ΔAP trong trường hợp có lạm phát lớn hơn so với không lạm 
phát, ảnh hưởng làm tăng dòng ngân lưu vào và tăng hiệu quả của dự án (tăng 
NPV). 
Cách tính toán và lập luận tương tự được áp dụng cho các khoản mục còn lại 
của vốn lưu động: hàng hóa tồn kho và tiền mặt tồn quỹ. 
Đối với các nước đang phát triển, tỷ lệ lạm phát thường không ổn định và có 
xu hướng dương nên khi thẩm định dự án đầu tư cần tính đến biến rủi ro này. Thực 
tế thời gian qua ở nước ta tỷ lệ lạm phát có chiều hướng gia tăng, tỷ lệ lạm phát qua 
các năm gần đây như sau: 
Bảng 6: Tỷ lệ lạm phát trong nước từ 2001- 9/2005: 
Năm 2001 2002 2003 2004 9 tháng 
2005 
Tỷ lệ lạm phát (%) 0,8 4,0 3,0 9,5 6,5 
Nguồn: Tổng cục thống kê 
-41- 
Tỷ lệ lạm phát (%)
0
2
4
6
8
10
2001 2002 2003 2004 9 tháng 2005
d. Sử dụng tỷ suất chiết khấu khi thẩm định dự án chưa hợp lý 
Một trong những yếu tố quan trọng liên quan đến việc ra quyết định đầu tư là 
tỷ suất chiết khấu của dự án. Một dự án có NPV dương khi tỷ suất sinh lợi mang lại 
từ dự án vượt quá tỷ suất sinh lợi yêu cầu của dự án. Tỷ suất sinh lời yêu cầu của 
một dự án phải bằng với tỷ suất sinh lời mang lại từ việc đầu tư vào một tài sản có 
độ rủi ro tương đương trên thị trường tài chính. Vì vậy tỷ suất sinh lời yêu cầu tối 
thiểu chính là chi phí sử dụng vốn của dự án. 
Tỷ suất chiết khấu chính là chi phí cơ hội của vốn đầu tư, là cái giá mà công 
ty phải trả khi đầu tư vào dự án, hay tỷ suất sinh lợi mà các nhà đầu tư đòi hỏi từ 
chứng khoán của công ty. Nếu dự án có rủi ro cao hơn rủi ro của công ty thì tỷ suất 
sinh lời yêu cầu tối thiểu đối với dự án phải cao hơn tỷ suất sinh lời đối với công ty. 
Chi phí sử dụng vốn sẽ được xác định trên thị trường vốn và phụ thuộc vào rủi ro 
của công ty hoặc rủi ro của dự án. Thực tế do khó xác định được rủi ro của dự án 
cao hơn hay thấp hơn rủi ro của công ty và do công ty là người đứng ra vay vốn để 
đầu tư vào dự án chứ không phải bản thân dự án đứng ra vay vốn nên chúng ta có 
thể xem xét mức độ rủi ro của dự án như là mức độ rủi ro của công ty. 
Qua nghiên cứu hướng dẫn thẩm định dự án đầu tư trong cẩm nang tín dụng 
của 05 ngân hàng thương mại nhà nước và các ngân hàng thương mại cổ phần thì 
hiện nay các ngân hàng thương mại chưa có khung quy định về sử dụng suất chiết 
khấu trong thẩm định các loại dự án đầu tư. Việc tính toán và sử dụng tỷ suất chiết 
-42- 
khấu chủ yếu dựa vào kinh nghiệm thực tiễn của cán bộ thẩm định. Thông thường 
cán bộ thẩm định áp dụng bằng lãi suất vay vốn trung dài hạn hoặc lãi suất cho vay 
trung dài hạn bình quân của các ngân hàng làm tỷ suất chiết khấu vì cho rằng đó 
chính là tỷ suất sinh lợi tối thiểu hòa vốn, hoặc tăng giảm một biên độ nào đó mà 
không có cơ sở khoa học. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến việc tính toán chỉ tiêu 
NPV của dự án, từ đó ảnh hưởng đến chỉ tiêu lợi nhuận của dự án mà đây là một 
trong những chỉ tiêu mang tính quyết định trong khi xác định tính khả thi về mặt tài 
chính của dự án hay không. 
e. Còn quá chú trọng vào tài sản đảm bảo 
Theo nguyên tắc tín dụng, tài sản đảm bảo là yếu tố mang tính dự phòng khi 
xem xét cấp tín dụng, nói cách khác đó là yếu tố trả nợ sau cùng. Tuy nhiên hiện 
nay khi cho vay đối với các dự án đầu tư mà đặc biệt là cho vay các doanh nghiệp 
ngoài quốc doanh, các doanh nghiệp vừa và nhỏ, do đặc điểm của dự án đầu tư là 
yếu tố rủi ro cao và chất lượng thẩm định dự án còn hạn chế nên đôi khi các ngân 
hàng thường đặt vấn đề tài sản đảm bảo lên hàng đầu trong quá trình xét cấp tín 
dụng. Điều này có thể dẫn đến hai sai lầm là cho vay một dự án tồi và đánh mất cơ 
hội tài trợ cho các dự án tốt nhưng không đáp ứng được tài sản đảm bảo. 
2.3. Những hạn chế trong thẩm định rủi ro tài chính dự án đầu tư 
 2.3.1. Chưa tách biệt hai quan điểm khi thẩm định hiệu quả tài chính dự 
án – Quan điểm tổng đầu tư và quan điểm chủ đầu tư 
Dự án có thể được thực hiện một phần từ vốn vay và một phần từ vốn cổ 
đông. Điều này dẫn đến sự khác biệt về quan điểm khi đánh giá tính chất khả thi của 
dự án về mặt tài chính, đặc biệt là trong ước lượng dòng ngân lưu dự án. 
Có thể tóm tắt các quan điểm khi ước lượng dòng ngân lưu dự án qua 
bảng sau: 
-43- 
Bảng 7 : Các quan điểm phân tích dự án 
Khoản mục Tổng đầu tư Chủ đầu tư Nền kinh tế Ngân sách 
Thực thu + + + 
Thực chi - - - 
Chi phí cơ hội - - - 
Trợ cấp + + - 
Thuế - - + 
Vay/trả nợ +/- +/- 
Ngoại tác +/- 
Ghi chú: Dấu (+) thể hiện ngân lưu vào, dấu (-) thể hiện ngân lưu ra. 
Theo quan điểm của chủ đầu tư, nhu cầu vay và khả năng trả nợ đã được xác 
định, hiệu quả của dự án được chủ đầu tư đánh giá trên cơ sở ngân lưu ròng có đủ 
bù đắp được chi phí cơ hội của vốn chủ sở hữu hay không, nên khi ước lượng ngân 
lưu cần tính cả phần tiền nhận được khi nhận vốn vay vào ngân lưu vào và phần trả 
nợ và lãi vay vào ngân lưu ra. Ngược lại, theo quan điểm tổng đầu tư hay theo quan 
điểm của ngân hàng đứng trên góc độ là nhà tài trợ, hiệu quả của dự án được xem 
xét trên toàn bộ vốn đầu tư, do đó khi ước lượng ngân lưu cần đánh giá đúng thực 
chất khả năng sinh lợi của dự án nên không đưa tiền nhận được từ khoản vay hay trả 
nợ gốc và lãi vào ngân lưu dự án. 
Tuy nhiên, kinh nghiệm thực tiễn cho thấy rằng khách hàng, mặc dù đứng 
trên góc độ nhà đầu tư, nhưng thường chỉ đưa tiền vay nhận được vào ngân lưu vào 
nhưng không đưa tiền trả nợ gốc và lãi vào ngân lưu ra, hoặc chỉ đưa lãi mà không 
tính phần trả nợ vào ngân lưu ra. Sai lầm này do vô tình hay cố ý, khiến cho ngân 
lưu ròng của dự án phản ánh sai lệch thực chất khả năng sinh lợi của dự án, từ đó 
dẫn đến đánh giá sai về tính khả thi về tài chính của dự án. 
-44- 
2.3.2. Hạn chế về nguồn thông tin phục vụ cho công tác thẩm định 
Nguồn thông tin thu thập từ các kênh hiện nay rất phong phú so với trước 
đây. Tuy nhiên để có thể thẩm định toàn diện dự án, ngân hàng còn gặp một số khó 
khăn và hạn chế. Đối với số liệu thông tin của khách hàng, đặc biệt là báo cáo tài 
chính của các đơn vị thường là cung cấp chưa đầy đủ và tính chính xác chưa cao. 
Các doanh nghiệp do mục đích vay vốn, đôi khi cung cấp cho bộ phận thẩm định 
các thông tin sai lệch so với sự thật, những thông tin này hiện nay chưa bắt buộc 
phải thông qua cơ quan chức năng kiểm tra và xác nhận, chẳng hạn như các công ty 
kiểm toán. 
Các thông tin kỹ thuật về dự án thông thường được xây dựng từ các nghề 
khác nhau và có những ngành nghề rất mới mẻ. Bản thân cán bộ thẩm định rất khó 
có thể đi sâu vào thẩm định chi tiết vấn đề kỹ thuật, chuyên môn và thị trường của 
dự án. Ở một số nước, để thẩm định khía cạnh kỹ thuật, các ngân hàng thường thuê 
các công ty tư vấn chuyên môn. Tuy nhiên, với điều kiện Việt Nam số lượng các 
công ty tư vấn trong nước còn hạn chế. Do đó để đi thuê một công ty tư vấn nước 
ngoài phải bỏ ra chi phí rất lớn nên công tác thẩm định dự án trên khía cạnh này 
thực tế chưa sâu sắc và chất lượng. 
Việc lập dự án hiện nay còn mang tính chủ quan của người lập và đôi khi cố 
chứng minh hiệu quả dự án để được duyệt hoặc được vay vốn, trong khi thẩm định 
phải đứng trên quan điểm khách quan để xem xét có quyết định có tài trợ cho dự án 
hay không. Muốn thẩm định được tin cậy giúp cho việc quyết định về dự án một 
cách đúng đắn và chính xác thì đầu tiên là xem xét các dữ liệu có chính xác hay 
không, cách lập dự toán của dự án có hợp lý và phù hợp không, nếu không chuyên 
viên thẩm định phải lập lại dự toán với các độ nhạy một cách có cơ sở. Thực hiện 
điều này sẽ tốn rất nhiều công sức và thời gian, gần như tái lập phương án tài chính 
dự án. 
-45- 
2.3.3. Hạn chế về nguồn nhân lực 
Công việc thẩm định tài chính dự án tại một số ngân hàng thương mại hiện 
nay chưa đúng với ý nghĩa thẩm định. Nhân viên thẩm định chỉ đóng vai trò của 
một người nhận và làm hồ sơ cho khách hàng. Nghĩa là công việc thẩm định chủ 
yếu dựa trên những hồ sơ mà khách hàng cung cấp, thiếu xác minh thực tế và chưa 
thực sự là người hỗ trợ tích cực cho doanh nghiệp, phát triển cùng với sự tồn tại và 
phát triển của doanh nghiệp. Vấn đề này tồn tại phổ biến hiện nay bởi: 
- Thứ nhất, trình độ thẩm định không đáp ứng được yêu cầu, “khả năng 
thẩm định dự án đồng tài trợ của cán bộ tín dụng còn yếu và không đồng đều giữa 
các ngân hàng, nhìn chung đội ngũ cán bộ còn bất cập về trình độ, kiến thức chưa 
được huấn luyện tốt về kĩ năng thẩm định” ( )1 , cán bộ thẩm định không đủ trình độ 
thẩm định, do đó việc thẩm định hiện nay chỉ dừng lại ở việc kiểm tra hồ sơ từ 
khách hàng để quyết định cho vay vốn chứ không đóng vai trò là người giúp chủ 
đầu tư phát hiện những bất hợp lý, những bất trắc rủi ro của dự án để họ có thêm 
nhận định khách quan về cơ hội đầu tư. 
- Thứ hai, do cách tổ chức sắp xếp phân công kém khoa học, chưa có tính 
chuyên môn hoá trong công việc của nhân viên thẩm định, mỗi cán bộ thẩm định 
cùng lúc phải xem xét và đánh giá tất cả các khía cạnh của rất nhiều dự án, lại thiếu 
thông tin và phải chịu sức ép về thời gian nên việc thẩm định đôi khi kéo dài nhưng 
chất lượng không đảm bảo. 
Với tình hình trên, chất lượng thẩm định dự án chưa đóng vai trò tích cực 
góp phần giảm rủi ro cho hoạt tín dụng của ngân hàng. Do đó việc ngân hàng chấp 
nhận những dự án xấu và từ bỏ những dự án tốt là không thể tránh khỏi, ảnh hưởng 
đến hiệu quả hoạt động lẫn uy tín của ngân hàng. 
2.4. Hạn chế trong phương pháp phân tích rủi ro tài chính dự án đầu tư 
Việc đánh giá hiệu quả tài chính của dự án đầu tư làm cơ sở để ra quyết định 
tín dụng tại các ngân hàng thương mại hiện nay chỉ tập trung vào việc đánh giá các 
(1) Theo Tạp chí Khoa học và đào tạo ngân hàng số 4 (7/2004) 
-46- 
tiêu chuẩn về mặt tài chính của dự án, còn việc thẩm định rủi ro của dự án chưa 
được quan tâm đúng mức. Việc sử dụng các phương pháp phân tích rủi ro khi thẩm 
định mặt tài chính các dự án đầu tư của các ngân hàng thương mại còn hạn chế. 
Trong hướng dẫn phân tích thẩm định rủi ro tài chính dự án trong sổ tay tín 
dụng của các ngân hàng thương mại nước ta hiện nay chỉ dừng lại ở việc áp dụng 
phương pháp phân tích độ nhạy. Như đã biết, phương pháp phân tích độ nhạy là loại 
phân tích tất định, có một số nhược điểm là chỉ xem xét từng tham số trong khi kết 
quả lại chịu tác động của nhiều tham số cùng một lúc và không trình bày được xác 
suất xuất hiện của các tham số và xác suất xảy ra của các kết quả. Do đó phân tích 
độ nhạy chỉ giúp cho nhà quản trị “xem và hình dung” chứ không hề giúp cho họ 
dựa vào đó để ra một quyết định cụ thể nào cả. 
Chỉ với việc phân tích độ nhạy thì chúng ta không thể tính hết xác suất xảy ra 
đối với các biến đầu vào ảnh hưởng đến kết quả của các chỉ tiêu của dự án mà hiện 
nay các ngân hàng thương mại đang áp dụng. Để giải quyết bài toán này hiện nay 
trên thế giới người ta thường sử dụng các công cụ phần mềm phân tích và dự báo 
rủi ro như Risk Master, hay chương trình Crystal Ball thông qua phương pháp 
Monte Carlo chạy trên nền của phần mềm Microsoft Excel đã hỗ trợ rất tốt trong 
phân tích rủi ro tài chính dự án. Thực tế ở nước ta hiện nay một số nhà thẩm định 
dự án đầu tư, đứng trên góc độ chủ đầu tư hay là các nhà tư vấn đã áp dụng các 
công cụ hỗ trợ này trong thẩm định hiệu quả tài chính dự án. Tuy nhiên đối với các 
ngân hàng thương mại vẫn chưa áp dụng các tiện ích này. 
Cũng có quan điểm cho rằng việc áp dụng các công cụ hiện đại này trong 
phân tích rủi ro dự án là quá phức tạp, cần nhiều thông tin đầu vào và tạo ra nhiều 
kết quả gây khó khăn cho việc ra quyết định, nên chỉ ứng dụng trong những dự án 
lớn mang tính vĩ mô hơn là những dự án kinh doanh thông thường, có vốn đầu tư 
vừa phải. Tuy nhiên, trong thực tế việc vận dụng các công cụ này không mất nhiều 
thời gian cũng như không phức tạp. Tất cả các kỹ thuật tính toán đều do máy tính 
đảm trách một cách hoàn hảo, vấn đề còn lại là tính chính xác của cơ sở dữ liệu và 
các thông tin đưa vào mô hình tính toán. Do vậy, khó khăn ở đây là việc thu thập, tổ 
-47- 
chức và xử lý thông tin như thế nào và với thời gian bao lâu mà thôi. Hơn nữa, trên 
thế giới hiện nay việc ứng dụng mô hình phân tích động trong dự báo và phân tích 
rủi ro đã trở nên phổ biến thay thế cho phương pháp tất định (phương pháp tĩnh) vì 
ưu điểm nổi bật của nó là khả năng sát với thế giới thực hơn. 
Nói tóm lại, kể từ khi nền kinh tế nước ta chuyển sang kinh tế thị trường, 
kinh tế ngày càng phát triển và vai trò của hệ thống các ngân hàng thương mại cũng 
ngày càng quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế. Trong khi thị 
trường tài chính nước ta còn chậm phát triển thì vai trò của các ngân hàng thương 
mại với tư cách là người huy động và phân phối vốn cho các nhu cầu đầu tư của nền 
kinh tế đáp ứng cho công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa của nước ta càng 
chiếm vị trí quan trọng đặc biệt. Tuy nhiên hệ thống ngân hàng thương mại chưa 
phát huy tốt vai trò của mình trong nền kinh tế, quy mô tín dụng của hệ thống ngân 
hàng thương mại mỗi năm chỉ chiếm khoảng 55%/GDP trong khi tỷ lệ này ở các 
nước trong khu vực là trên 80%, bên cạnh đó tỷ trọng cho vay trung dài hạn chỉ 
chiếm khảng 40% tổng dư nợ. Chất lượng tín dụng theo đánh giá của IMF còn thấp hơn 
nhiều so với chuẩn mực của thế giới (trung bình trên 8% so với tiêu chuẩn 5%). 
Cùng với sự phát triển của khoa học thẩm định dự án, các ngân hàng thương 
mại đã từng bước ứng dụng các thành tựu về các tiêu chuẩn, chuẩn mực về thẩm 
định dự án đầu tư vào công tác thẩm định dự án, góp phần nâng cao chất lượng tín 
dụng và hạn chế rủi ro. Tuy nhiên trong thẩm định rủi ro tài chính dự án tại các 
ngân hàng thương mại vẫn còn nhiều hạn chế như đã phân tích trên đây. Do đó cần 
phải có các giải pháp tốt hơn nhằm hoàn thiện công tác thẩm định rủi ro tài chính dự 
án, góp phần kiểm soát và hạn chế rủi ro. 
-48- 
CHƯƠNG 3 
HOÀN THIỆN CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH RỦI RO TÀI 
CHÍNH TRONG TÍN DỤNG DỰ ÁN ĐẦU TƯ TẠI CÁC 
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM 
Việc nâng cao năng lực thẩm định tài chính dự án đầu tư nhằm hoàn thiện 
công tác thẩm định dự án là yêu cầu luôn được đặt ra đối với các ngân hàng thương 
mại, giúp chủ động trong việc ngăn chặn các dự án tồi và tài trợ các dự án tốt một 
cách có hiệu quả. Ngoài ra còn giúp ngân hàng chủ động trong việc tham gia ngay 
từ đầu trong việc thẩm định và tư vấn cho chủ đầu tư nhằm tiết kiệm được chi phí 
cho nền kinh tế nói chung, bảo vệ lợi ích cho chính bản thân ngân hàng và đồng thời 
cho chủ đầu tư. 
Nói rộng hơn, việc hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư nói chung và 
thẩm định rủi ro tài chính dự án nói riêng còn mang ý nghĩa hết sức quan trọng 
trong tình hình hiện nay nước ta đang tập trung đẩy nhanh tốc độ đầu tư nhằm đạt 
được mục tiêu duy trì nhịp độ tăng tưởng kinh tế, thực hiện thành công sự nghiệp 
công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước và tham gia lộ trình hội nhập kinh tế thế 
giới. Một khi đã tham gia vào thị trường thế giới thì các chủ thể trong nền kinh tế 
đều phải đối mặt với những yếu tố rủi ro và thách thức lớn hơn từ thị trường. 
Với ý nghĩa đó, nhằm góp phần hoàn thiện công tác thẩm định tín dụng dự 
án nói chung và thẩm định tài chính tài chính nói riêng tại các ngân hàng thương 
mại trên cơ sở phân tích những hạn chế và tồn tại đối với công tác thẩm định hiệu 
quả tài chính dự án đã nêu ở phần trên, tôi xin mạnh dạn đưa ra một số giải pháp cụ 
thể như sau: 
-49- 
3.1 Các giải pháp mang tính định hướng 
3.1.1. Thay đổi quan điểm về mục đích thẩm định tín dụng dự án đầu tư 
Mục đích của thẩm định dự án là xem xét sự đáng giá của dự án trước khi ra 
quyết định đầu tư hay tài trợ chứ không phải là ngược lại, quyết định đầu tư đã có 
trước mà việc lập dự án và thẩm định chỉ là công việc mang tính hình thức và thủ 
tục để được cấp giấy phép hoặc để nhận vốn, vì thế chủ đầu tư hay người thẩm định 
thường tìm cách làm cho các chỉ tiêu đánh giá dự án trở nên tốt đẹp. Mục đích cuối 
cùng của công việc thẩm định dự án nói chung là nhắm đến quyền lợi và an toàn 
của chính đối tượng có liên quan đến dự án, kể cả quyền lợi quốc gia. Kết quả của 
thẩm định vì vậy cần phải độc lập với tất cả những ý muốn chủ quan cho dù đến từ 
bất kỳ phía nào. 
Hiện nay tại các ngân hàng thương mại đều có các quy trình thẩm định tín 
dụng trung dài hạn khoa học và mang tính thực tiễn cao, tuy nhiên ở một số ngân 
hàng chưa tách biệt giữa khâu quản lý khách hàng và khâu thẩm định, dẫn đến tình 
trạng cán bộ tín dụng phải tác nghiệp tất cả các khâu trong quá trình cho vay nên 
không còn đủ thời gian đầu tư cho công tác thẩm định. Bên cạnh đó nguồn thông tin 
phục vụ cho công tác thẩm định là do cán bộ tín dụng tự thu thập và cóp nhặt từ tất 
cả các nguồn thông tin có được nên thường không đầy đủ và không có tính hệ 
thống, các thông số của dự án đôi khi được sử dụng trực tiếp từ dự án do khách 
hàng cung cấp mà không đánh giá hay thẩm định lại một cách khách quan hơn. 
3.1.2. Cần đứng trên quan điểm hiệu quả thực sự của dự án để ra quyết 
định tín dụng 
Một nguyên tắc của tín dụng là tiền tệ đi đôi với hàng hóa. Khi cấp tín dụng 
cho một dự án đầu tư thì tài sản đảm bảo cho dự án trước hết chính là giá trị gia 
tăng mà dự án mang lại trong tương lai. Tuy nhiên, vì những hạn chế trong phương 
pháp lượng hóa những rủi ro của dự án nên ở nước ta hiện nay các ngân hàng 
thương mại thường yêu cầu chủ đầu tư phải có tài sản đảm bảo khác ngoài tài sản 
do chính dự án mang lại và đôi khi đặt yếu tố này lên hàng đầu khi cho vay. Điều đó 
-50- 
làm mất đi cơ hội đầu tư cho những dự án tốt và sai lầm khi cho vay một dự án tồi. 
Do vậy cần đứng trên quan điểm hiệu quả tài chính của dự án khi cho vay. Một 
trong những giải pháp cho vấn đề này là phải ứng dụng những phương pháp khoa 
học và hiện đại của khoa học thẩm định dự án vào công tác thẩm định dự án đầu tư. 
3.2. Các giải pháp hoàn thiện kỹ thuật đánh giá hiệu quả tài chính dự án 
3.2.1. Sử dụng tỷ suất chiết khấu hợp lý khi thẩm định các chỉ tiêu tài 
chính dự án 
Khi nghiên cứu các chỉ tiêu thẩm định tài chính dự án chúng ta thấy rằng các 
chỉ tiêu như NPV, B/C, DPP đều có chung một nhược điểm là phụ thuộc vào tỷ suất 
chiết khấu. Việc sử dụng tỷ suất chiết khấu không hợp lý có thể làm thay đổi hiện 
giá dòng tiền từ âm sang dương hay ngược lại và do đó đảo ngược việc ra quyết 
định. Vì vậy vấn đề đặt ra là phải xác định và xây dựng nguyên tắc thống nhất tỷ 
suất chiết khấu như thế nào cho phù hợp với các loại dự án khác nhau để kết quả 
thẩm định tài chính dự án đạt được độ tin cậy cao phù hợp với từng quan điểm thẩm 
định và phản ánh được chi phí của các nguồn vốn sử dụng trong dự án. 
Từ đó ta thấy, đứng trên quan điểm tổng đầu tư thì tỷ suất chiết khấu áp dụng 
phải phản ánh được chi phí vốn bình quân trọng số (WACC) của các nguồn vốn sử 
dụng trong dự án. Sử dụng WACC làm tỷ suất chiết khấu để tính NPV có ưu điểm 
là chúng ta có thể đánh giá hiệu quả đầu tư thông qua chi phí sử dụng vốn hiện tại 
của công ty. WACC có độ tin cậy cao hơn một số thông số khác trong việc chiết 
khấu dòng tiền đầu tư do phương pháp tính nó được xây dựng trên những giá trị 
bình quân của công ty và quan điểm thị trường. 
Chi phí sử dụng vốn bình quân được tính theo công thức sau: 
PPEEDD xRWxRWxRWWACC ++= 
Trong đó: 
WD: Tỷ trọng nợ vay trong tổng giá trị thị trường của công ty. 
WE: Tỷ trọng vốn chủ sở hữu trong tổng giá trị thị trường của công ty. 
WP: Tỷ trọng vốn cổ phần ưu đãi trong tổng giá trị thị trường của công ty. 
-51- 
RD: Chi phí sử dụng nợ. 
RE: Chi phí sử dụng vốn cổ phần thường. 
RP: Chi phí sử dụng vốn cổ phần ưu đãi (nếu có). 
Chi phí sử dụng nợ chính là lãi suất vay hiện tại đối với dự án. Còn chi phí 
sử dụng vốn cổ phần chính là tỷ suất sinh lời của vốn chủ sở hữu. 
Trong trường hợp lãi vay chưa được tính vào chi phí của bảng dự toán kết 
quả kinh doanh thì WACC được xác định bằng công thức sau: 
PPEEDcD xRWxRWxR)T(xWWACC ++−= 1 
Trong đó Tc là thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp. 
Mặt khác, theo quan điểm của chủ đầu tư nguồn vốn đầu tư chỉ đánh giá trên 
vốn chủ sở hữu, thì trong trường hợp này chi phí sử dụng vốn bình quân chính là tỷ 
suất sinh lời mong muốn của vốn chủ sở hữu. 
Hiện nay người ta đã đưa ra nhiều mô hình khác nhau để xác định tỷ suất 
sinh lời vốn chủ sở hữu. Một trong những mô hình được nhắc đến nhiều nhất và 
được áp dụng rộng rãi đó là mô hình định giá tài sản vốn (CAPM). Công thức xác 
định tỷ suất sinh lời vốn chủ sở hữu theo mô hình CAPM như sau: 
Re = Rf + β x (Rm – Rf) 
Trong đó: 
Rf: Tỷ suất sinh lời của chứng khoán phi rủi ro. 
Rm: Tỷ suất sinh lời kỳ vọng của thị trường. 
β : Độ nhạy cảm của chứng khoán doanh nghiệp so với thị trường. 
 Độ lệch chuẩn của chứng khoán doanh nghiệp 
β = 
 Độ lệch chuẩn của danh mục thị trường 
Tuy nhiên việc tính toán tỷ suất sinh lời vốn chủ sở hữu như trên đòi hỏi phải 
có đầy đủ thông tin thị trường để xác định tỷ suất sinh lời thị trường và hệ số β . 
Hiện nay ở nước ta thị trường chứng khoán chưa phát triển, nền kinh tế thị trường 
đang trong giai đoạn chuyển mình và chưa ổn định, do vậy chúng ta khó có những 
-52- 
thông tin phản ảnh đầy đủ về thị trường để có thể xác định suất chiết khấu hợp lý và 
đáng tin cậy khi thẩm định hiệu quả dự án đầu tư. Khi thông tin chưa đầy đủ thì tốt 
nhất là chúng ta nên sử dụng những thông tin thu thập được trong hiện tại để đảm 
bảo mức độ tin cậy nhất định hơn là áp dụng các kỹ thuật tính toán chặt chẽ nhưng 
không có số liệu hoặc số liệu thiếu chuẩn xác. 
Với quan điểm đó chúng ta có thể dựa trên một số nguyên tắc để xác định tỷ 
suất chiết khấu như sau: 
- Tùy theo dự đoán viễn cảnh của nền kinh tế và mức độ lạm phát, nếu dự 
đoán mức độ lạm phát tăng thì nên tăng tỷ suất chiết khấu và ngược lại. 
- Tùy theo mức độ thu hồi vốn của những tài sản đầu tư, nếu mức độ thu 
hồi vốn cao thì tỷ suất chiết khấu sẽ thấp và ngược lại. Theo quan niệm này thì đầu 
tư vào các ngành như bất động sản sẽ sử dụng tỷ suất chiết khấu thấp hơn các ngành 
sản xuất và những ngành đầu tư sản phẩm mới sẽ có tỷ suất chiết khấu cao nhất vì 
độ rủi ro của nó rất lớn. 
3.2.2. Cần quan tâm đến yếu tố lạm phát và tỷ giá khi thẩm định hiệu quả 
tài chính dự án 
Lạm phát và tỷ giá hối đoái là hai yếu tố có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả 
tài chính dự án, đặc biệt là đối với các dự án có hàng hóa ngoại thương trong thời 
kỳ có biến động mạnh về lạm phát và tỷ giá. Sự tác động của hai biến rủi ro này có 
thể tác động làm dòng ngân lưu của dự án từ dương sang âm và ngược lại. 
Do đó để đảm bảo dòng ngân lưu của dự án phản ánh tác động của lạm phát 
đến các giá trị thực của dự án, khi xây dựng dự án đầu tư cũng như quá trình thẩm 
định tài chính cần thiết phải tiến hành điều chỉnh phân tích dự án theo lạm phát. Tuy 
nhiên trong quá trình phân tích, cần phải nhất quán trong việc đưa yếu tố lạm phát 
vào các dòng thu chi có chịu ảnh hưởng của lạm phát để đảm bảo tính khách quan, 
không bỏ sót nhằm tránh bóp méo kết quả dòng ngân lưu. Các bước thực hiện điều 
chỉnh phân tích dự án theo lạm phát như sau: 
- Tính toán các mức giá cân đối tại thời điểm thực hiện đầu tư. 
- Giả thiết về tỷ lệ lạm phát trong nước và nước ngoài trong tương lai. 
-53- 
- Xác định những thay đổi về giá bán danh nghĩa. 
- Xác định lãi suất danh nghĩa. 
- Xác định các nhu cầu về vốn đầu tư, tiền mặt, phải thu, phải trả danh nghĩa. 
- Tính toán thu nhập chịu thuế và thuế thu nhập danh nghĩa. 
- Xây dựng báo cáo ngân lưu dự án theo các giá trị danh nghĩa. 
Việc đưa hai biến rủi ro là lạm phát và tỷ giá hối đoái vào mô hình tính toán 
và đánh giá mức độ ảnh hưởng của chúng đến hiệu quả tài chính dự án sẽ được thực 
hiện một cách nhanh chóng và dễ dàng thông qua kỹ thuật phân tích mô phỏng 
Monte Carlo. 
3.2.3. Cần tách biệt các quan điểm khi thẩm định hiệu quả tài chính dự án 
Mục đích của quan điểm tổng đầu tư là xác định độ vững mạnh của tổng thể 
dự án, còn mục đích của quan điểm chủ đầu tư là xem xét giá trị thu nhập ròng còn 
lại của dự án so với những gì họ có được trong trường hợp không thực hiện dự án. 
Hai quan điểm đánh giá khác nhau sẽ dẫn đến các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài 
chính dự án cũng sẽ khác nhau. Do đó cần thiết phải thẩm định tài chính dự án trên 
hai quan điểm để xem các bên thấy có đáng tài trợ, tham gia hay thực hiện dự án 
hay không. Việc tách biệt hai quan điểm khi thẩm định hiệu quả tài chính dự án sẽ 
càng được thể hiện rõ hơn khi sử dụng phương pháp phân tích động như phương 
pháp mô phỏng Monte Carlo trong phân tích rủi ro dự án. Điều này sẽ được thể hiện 
rõ hơn khi vận dụng vào thẩm định dự án cụ thể ở phần dưới đây. 
3.2.4. Sử dụng kỹ thuật phân tích mô phỏng Monte Carlo trong phân tích 
rủi ro tài chính dự án đầu tư 
Như đã nêu ở các phần trên, phân tích rủi ro tài chính dự án không nên chỉ 
dừng lại ở phân tích tất định mà cần thiết phải sử dụng phương pháp phân tích động, 
tức là phải xét đến sự biến động cùng một lúc của các biến và mối tương quan giữa 
các biến đó với nhau tác động đến kết quả dự án. Việc sử dụng phương pháp phân 
tích mô phỏng Monte Carlo bằng chương trình phân tích rủi ro và dự báo Crystal 
-54- 
Ball là một trong những phương pháp phân tích rất hiệu quả, giúp giải quyết vấn đề 
một cách nhanh chóng và ấn tượng. 
Để vận dụng phân tích rủi ro bằng phương pháp mô phỏng Monte Carlo cho 
một dự án cụ thể, luận văn lấy điển hình phân tích Dự án đầu tư mở rộng nhà máy 
của Công ty Cổ phần Thực phẩm Wegon. Nội dung chi tiết được trình bày trong mô 
hình trên máy tính (kèm theo đĩa mềm) và phần Phụ lục diễn giải các bước thực 
hiện. Dưới đây chỉ xin trình bày một cách tổng quát các bước thực hiện mô phỏng 
như sau: 
- Bước 1: Xây dựng mô hình tính toán bằng các bảng tính hiệu quả dự án: 
Bảng thông số dự án: chứa các thông số của dự án; bảng lạm phát; bảng kế hoạch 
vay và trả nợ; lịch đầu tư và khấu hao; bảng doanh thu; bảng chi phí; bảng vốn lưu 
động; bảng giá vốn hàng bán; bảng báo cáo lãi lỗ và cuối cùng là bảng kết quả ngân 
lưu của dự án theo quan điểm tổng đầu tư và quan điểm chủ đầu tư. 
- Bước 2: Xác định các biến rủi ro chính ảnh hưởng đến kết quả dự án gồm: 
Giá bán; các chi phí như nguyên vật liệu chính, nguyên vật liệu phụ, nhiên liệu, 
nhân công, chi phí cố định, chi phí quản lý và bán hàng; công suất hoạt động từng 
năm; tỷ lệ vay; tỷ lệ tồn quỹ tiền mặt; tỷ lệ phải thu; tỷ lệ phải trả; tỷ lệ tồn kho; tỷ 
lệ lạm phát; tỷ giá hối đoái, tỷ suất sinh lời vốn chủ sở hữu, lãi suất vay vốn đầu tư 
và lãi suất vay vốn luân chuyển. Các biến rủi ro này tập trung ở bảng thông số của 
dự án. Ta chỉ nên xác định các biến rủi ro được đánh giá có ảnh hưởng nhiều đến 
kết quả của dự án. 
- Bước 3: Định nghĩa các ô giả thiết (biến rủi ro) 
+ Xác định các phân phối xác suất thích hợp cho các ô giả thiết nêu trên 
trong bảng phân phối xác suất của Crystal Ball. Việc xác định hình dạng phân phối 
xác suất thích hợp cho mỗi biến rủi ro dựa trên các điều kiện để hình thành nên loại 
phân phối xác suất đó. 
+ Xác định các tham số cho loại phân phối xác suất được chọn: Crystal Ball 
sẽ tự động làm thích hợp loại phân phối xác xuất cho biến rủi ro lựa chọn nếu có 
dãy dữ liệu lịch sử (bằng lệnh Fit). Nếu không có sẵn dãy dữ liệu lịch sử, chúng ta 
-55- 
dựa trên óc xét đoán và dựa trên kinh nghiệm có được để xác định các tham số. 
Chẳng hạn ta xác định được dãy dữ liệu lịch sử của biến lạm phát của các năm trong 
quá khứ từ 2001 đến 2005 ta sẽ xác định được giá trị trung bình và độ lệch chuẩn để 
đưa vào giả thiết. 
 - Bước 4: Xác định và định nghĩa tương quan giữa các biến rủi ro. 
Các biến rủi ro của dự án có tương quan với nhau như: giữa giá bán, các chi 
phí với lạm phát có tương quan đồng biến nhau. Nếu có dãy dữ liệu lịch sử của các 
biến rủi ro có tương quan, Crystal Ball sẽ tự động định nghĩa độ mạnh tương quan 
giữa các biến. Nếu không xác định được dãy dữ liệu lịch sử thì ta có thể định nghĩa 
độ mạnh tương quan giữa hai biến dựa trên óc xét đoán và kinh nghiệm thực tế. 
Chẳng hạn như giữa chi phí nhiên liệu và lạm phát là hai biến có tương quan đồng 
biến mạnh. Trong thực tế các biến thường có tương quan lẫn nhau. Nếu ta càng định 
nghĩa nhiều tương quan thì khả năng xảy ra mâu thuẫn giữa các tương quan càng 
lớn làm cản trở Crystal Ball trong việc chạy mô phỏng. Các mâu thuẫn có thể nảy 
sinh khi một nhóm các giả thiết được tạo tương quan không thỏa đáng bởi các hệ số 
tương quan dương và/hoặc âm lớn. Do đó ta có thể loại bỏ một số biến có tương 
quan yếu vì chúng không ảnh hưởng nhiều đến kết quả của mô hình. 
- Bước 5: Định nghĩa các ô dự báo 
Có 04 ô dự báo cần đánh giá gồm NPV và IRR theo quan điểm tổng đầu tư 
và theo quan điểm chủ đầu tư. Chúng ta cũng có thể xác định các ô dự báo khác 
nhau tùy theo yêu cầu và mục đích phân tích cụ thể. 
- Bước 6: Chạy mô phỏng 
Trước khi chạy mô phỏng ta xác định các thông số như số lần thử tối đa, đồ 
thị độ nhạy. Giả sử ta cho số lần thử là 1.000 lần. Trong quá trình chạy mô phỏng 
Crystal Ball tạo ra đồ thị dự báo cho mỗi ô dự báo bằng các phân phối tần số. Sau 
khi kết thúc chạy mô phỏng, Crystal Ball tạo ra các đồ thị sau: 
-56- 
+ 04 đồ thị dự báo tương ứng vối 4 ô dự báo: NPV theo quan điểm TIPV; 
IRR theo quan điểm TIPV; NPV theo quan điểm EPV; IRR theo quan điểm EPV. 
Kết quả phân tích của dự án trên như sau: 
Chỉ tiêu dự 
báo 
NPV (≥0) theo 
TIPV 
IRR (13,2%) 
theo TIPV 
NPV (≥0) theo 
EPV 
IRR (15%) 
theo EPV 
Xác suất (%) 59,70 59,4 57,80 57,39 
+ Đồ thị độ nhạy: Liệt kê theo thứ tự tỷ trọng giảm dần mức độ nhạy cảm 
của từng biến rủi ro có ảnh hưởng đến các ô dự báo, cho phép ta dễ dàng quan sát 
được mức độ ảnh hưởng của những biến này đến kết quả cần phân tích. Trong dự án 
trên mức độ ảnh hưởng của các biến rủi ro chính (chẳng hạn ≥ 15%) đối với chỉ tiêu 
NPV như sau: 
Biến rủi ro Mức độ ảnh hưởng đến NPV (%) 
Chi phí quản lý và bán hàng -61 
Giá bán 54 
Tỷ lệ lạm phát trong nước 21 
Các khoản phải thu -15 
- Bước 7: Phân tích các kết quả sau khi chạy mô phỏng 
Sau khi chạy mô phỏng ta có thể truy xuất tất cả những thông tin đã khai báo 
cho mô hình bằng một báo cáo. Trên cơ sở những kết quả thể hiện bằng đồ thị sau 
khi chạy mô phỏng theo các bước nêu trên và báo cáo, ta dễ dàng lượng hóa được 
mức độ rủi ro của các chỉ tiêu tài chính của dự án. Đứng trên quan điểm tổng đầu tư, 
theo kết quả phân tích như trên của dự án, ta thấy chi phí quản lý và bán hàng và giá 
bán là hai biến rủi ro có tác động nhiều nhất đến NPV của dự án. Xác suất để NPV 
(13,2%) dương là 59,70% và xác suất để IRR ≥ 13,2% (tỷ suất lợi nhuận kỳ vọng 
tối thiểu) là 59,4%. Theo đó tùy theo thái độ chấp nhận đối với rủi ro của từng ngân 
hàng mà có những chính sách hay biện pháp thích hợp để kiểm soát và hạn chế rủi 
-57- 
ro cũng như có căn cứ khoa học để tư vấn cho khách hàng trong quá trình triển khai 
và thực hiện dự án. 
3.3. Các giải pháp mang tính hỗ trợ 
Việc tiến hành đổi mới phương pháp kỹ thuật trong thẩm định rủi ro tài chính 
dự án như nêu trên sẽ gặp một số khó khăn: 
- Nếu không được trang bị kiến thức đầy đủ và có tài liệu hướng dẫn cụ 
thể, cán bộ thẩm định sẽ khó có thể sử dụng thành thạo các phương pháp kỹ thuật 
đưa ra. Sự vận dụng máy móc, thiếu linh hoạt và không tính đến điều kiện thực tế sẽ 
làm chậm tiến độ và sai lạc trong kết quả tính toán. 
- Việc tiến hành thẩm định đòi hỏi một lượng lớn thông tin và dữ liệu cập 
nhật chính xác. Song việc thu thập thông tin và dữ liệu lại cực kỳ khó khăn do thiếu 
cơ sở dữ liệu, thông tin cập nhật kịp thời và tin cậy. Bên cạnh đó vấn đề đảm bảo 
yếu tố thời gian hoàn thành trong quá trình thu thập thông tin và thực hiện thẩm 
định là một trong những điều rất quan trọng. 
Vì vậy nhất thiết cần phải có một số giải pháp hỗ trợ nhằm đảm bảo chất 
lượng nguồn thông tin cũng như đảm bảo yếu tố thời gian trong quá trình thẩm định. 
3.3.1. Các ngân hàng thương mại cần sớm biên soạn và phát hành sổ tay 
thẩm định dự án đầu tư 
Hiện nay trong các sổ tay tín dụng của các ngân hàng thương mại, quy trình 
thẩm định đối với tín dụng trung dài hạn chỉ được nêu những vấn đề chung mang 
tính nguyên tắc. Việc biên soạn và phát hành sổ tay thẩm định dự án đầu tư cũng 
không kém phần quan trọng như phát hành sổ tay tín dụng. Thông qua sổ tay thẩm 
định dự án sẽ giúp cho cán bộ thẩm định nắm bắt phương pháp kỹ thuật áp dụng 
vào việc đánh giá, tính toán và thẩm định tất cả các khía cạnh liên quan đến dự án. 
Bên cạnh đó, trong sổ tay này cần giới thiệu những nghiên cứu tình huống có thể áp 
dụng trong các trường hợp cụ thể của dự án, từ đó giúp cho việc hiểu và đánh giá 
một cách dễ dàng và cần tổng hợp những dự án đã và đang thực hiện có hiệu quả để 
làm tài liệu tham khảo. 
-58- 
Trong sổ tay thẩm định dự án, đối với nội dung thẩm định rủi ro tài chính của 
dự án cần đưa ra quy định thống nhất các bước thẩm định và phân tích rủi ro theo 
quy trình sau đây nhằm đảm bảo tính khoa học và chính xác trong quá trình thẩm định: 
-59- 
1. Xác định các thông số 
quan trọng trong dự án 
2. Kiểm tra độ tin cậy 
các thông số quan trọng 
trong dự án 
3. Xây dựng các thông 
số quan trọng trong dự 
án đạt độ tin cậy 
4. Kiểm tra cơ sở khoa 
học và tính thực tiễn trong 
phương pháp lập dự án 
5. Xây dựng lại các phương 
pháp khoa học và phù hợp 
thực tiễn để tính toán 
Không phù hợp 
Không tin cậy 
Tin cậy 
6. Định nghĩa các biến rủi 
ro, khai báo mối tương 
quan các biến và xác định 
biến dự báo 
Phù hợp 
10. Kết luận, ra quyết 
định 
7. Thực hiện chạy mô 
phỏng Monte Carlo 
8. Phân tích, đánh giá kết 
quả 
9. Đề nghị bác bỏ dự án 
hoặc tư vấn thêm Kết quả xấu 
Tin cậy 
-60- 
3.3.2. Xây dựng cơ sở dữ liệu, hệ thống thông tin, trung tâm tính toán và 
dự báo quốc gia 
Việc thu thập và xử lý các thông tin là rất quan trọng trong các bước của quá 
trình thẩm định dự án. Để có được thông tin dữ liệu đầy đủ, chính xác và cập nhật 
nhanh chóng, Chính phủ cần tạo lập và vận hành tốt cơ sở dữ liệu và hệ thống thông 
tin quốc gia. Hệ thống này sẽ lưu giữ các thông tin và dữ liệu của tất cả các ngành, 
các lĩnh vực của đất nước trong mạng máy tính bao gồm các tiêu chuẩn kỹ thuật, 
chuẩn mực, định mức, các chỉ tiêu bình quân của toàn bộ các ngành, lĩnh vực của 
nền kinh tế. Mạng máy tính kết nối tất cả các cơ quan Nhà nước (cơ quan chịu trách 
nhiệm quản lý và lưu trữ dữ liệu, thông tin từng ngành, từng lĩnh vực, địa phương), 
cần đảm bảo hoạt động tốt và dễ dàng truy cập. 
Xuất phát từ nhu cầu sử dụng dữ liệu, thông tin thường xuyên cập nhật liên 
quan đến giá cả, công nghệ và các tiêu chí đầu tư, cần thiết phải xây dựng trung tâm 
tính toán và dự báo kinh tế quốc gia. Chính phủ có thể thành lập và giao cho trung 
tâm này thực hiện chức năng xây dựng, quản lý cơ sở dữ liệu và hệ thống thông 
thông tin quốc gia. Yếu tố quan trọng nhất đảm bảo hoạt động hiệu quả của trung 
tâm này là thống nhân sự, cơ sở dữ liệu và hệ thống thông tin. 
Để có thể xây dựng được hệ thống cơ sở dữ liệu, hệ thống thông tin một cách 
tin cậy và phản ánh được những biến động của thị trường cần có hệ thống phân tích 
dự báo các chỉ số của nền kinh tế. Kết quả dự báo thông tin các chỉ tiêu của nền 
kinh tế cần được tính toán và dự báo trong một thời kỳ giúp cho các chủ thể trong 
nền kinh tế làm cơ sở tham khảo và sử dụng, chẳng hạn như làm thế nào để dự báo 
được thông tin về tỷ lệ lạm phát, giá cả những nguyên vật liệu, hàng hóa cơ bản… 
trong tương lai một cách tin cậy. Đây là vấn đề mang tính vĩ mô cần được nghiên 
cứu thông qua các lý thuyết về dự báo dựa trên các mô hình kinh tế lượng. 
3.3.3. Nâng cao nguồn nhân lực nhằm đáp ứng yêu cầu thẩm định dự án 
đầu tư 
Một trong những yếu tố không thể thiếu và được coi là hết sức quan trọng 
đối với các ngân hàng thương mại đó là yếu tố con người. Hiện nay số lượng cán bộ 
-61- 
có trình độ chuyên môn cao, am hiểu về hệ thống pháp luật trong nước và quốc tế, 
thành thạo kỹ năng thẩm định dự án đầu tư là không nhiều. Bên cạnh đó, một khi lộ 
trình tự do hóa tài chính được mở rộng, các ngân hàng nước ngoài sẽ thâm nhập vào 
thị trường Việt Nam và một trong những vấn đề quan tâm đầu tiên đó là họ sẽ thực 
hiện chiến dịch tuyển dụng nguồn nhân lực có chất lượng cao của Việt Nam nên 
vấn đề chảy máu chất xám là điều khó tránh khỏi. Nếu không có chính sách và 
chiến lược đúng đắn về nguồn nhân lực, chắn chắn nguồn nhân lực có trình độ 
chuyên môn từ các ngân hàng thương mại trong nước sẽ chuyển dịch sang làm việc 
cho các ngân hàng nước ngoài. Do đó để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho 
công tác thẩm định dự án và hạn chế chảy máu chất xám, các ngân hàng thương mại 
trong nước cần phải có các chính sách cụ thể sau: 
Thứ nhất, cần thực hiện việc kiểm tra sát hạch định kỳ nhằm đánh giá trình 
độ của cán bộ trẻ để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cho nhu cầu trước mắt và lâu 
dài. Cần gắn cam kết đào tạo với việc bố trí và sử dụng cán bộ. Cùng với sự phát 
triển của khoa học thẩm định, các ngân hàng thương mại cần phải chú trọng tăng 
cường đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về kỹ năng thẩm định bằng cách thường xuyên 
tổ chức các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ, trong đó cần chú trọng vào các kỹ năng thực 
hành trên các chương trình phần mềm thẩm định trực tiếp những dự án cụ thể và 
cách khai thác thông tin phục vụ cho thẩm định hơn là phương pháp truyền đạt một 
chiều nhằm tạo sự tích cực và chủ động trong tiếp thu và kỹ năng thực hành. 
Việc tổ chức các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ có thể được thực hiện định kỳ 
thông qua hai hình thức: Mời các chuyên gia về thẩm định dự án, các giảng viên từ 
các trường đại học hoặc theo hình thức đào tạo tại chỗ với các giảng viên là những 
người kiêm nhiệm, đã có nhiều kinh nghiệm trong cơ quan. 
Thứ hai, để tránh tình trạng chảy máu chất xám cũng như để nâng cao động 
lực cho cán bộ thẩm định, các ngân hàng thương mại trong nước cần phải: 
- Thực hiện quy chế trả lương theo hiệu quả công việc nhằm khuyến khích 
cán bộ nhân viên. Đặc biệt đối với các ngân hàng thương mại nhà nước cần thực 
-62- 
hiện cơ chế tài chính thông thoáng hơn nhằm thu hút và giữ được lao động có trình 
độ tay nghề cao. 
- Từng bước tạo lập văn hóa doanh nghiệp, thể hiện thông qua phong cách 
làm việc năng động, tự tin, lịch thiệp. Mỗi cán bộ đều có lòng tự hào về ngân hàng 
của mình, phấn đấu xây dựng và đóng góp để ngân hàng mình ngày càng phát triển, 
coi ngân hàng như ngôi nhà chung để vun đắp và có trách nhiệm với nó. 
- Cương quyết sắp xếp lại hoặc không sử dụng cán bộ không có năng lực 
phù hợp. Mạnh dạn sử dụng những cán bộ trẻ, được đào tạo căn bản, có trình độ 
chuyên môn giỏi, yêu nghề, có tư cách đạo đức tốt vào những vị trí phù hợp. 
Trên đây là một số giải pháp chủ yếu góp phần nâng cao năng lực thẩm định 
hiệu quả và rủi ro tài chính tại các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay. 
Phương pháp luận để đưa ra các giải pháp trên đây là xuất phát từ những mặt tồn 
tại, hạn chế trong thực tiễn của công tác thẩm định hiệu quả tài chính dự án tại các 
ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay trên cơ sở đối chiếu với những thành tựu 
của khoa học thẩm định dự án và sự phát triển của công nghệ thông tin. Đồng thời 
chủ yếu theo hướng đi sâu vào những giải pháp về mặt kỹ thuật thẩm định hiệu quả 
và rủi ro tài chính dự án cùng với những giải pháp mang tính định hướng từ phía 
các ngân hàng thương mại cũng như giải pháp vĩ mô từ phía Nhà nước để hỗ trợ 
cho công tác thẩm định hiệu quả và rủi ro tài chính dự án đầu tư. 
-63- 
BAÛNG BAÙO CAÙO LÖU CHUYEÅN TIEÀN TEÄ 
(Theo phöông phaùp tröïc tieáp) 
Ngaân löu theo quan ñieåm toång ñaàu tö (TIPV): 
 Naêm 0 1 2 3 4 
Ngaân löu töø hoïat ñoäng SXKD 
Ngaân löu vaøo - 65,879 94,067 112,023 119,868 1
 Doanh thu - 73,471 96,440 113,818 120,565 1
 Thay ñoåi phaûi thu - (7,592) (2,374) (1,796) (697) 
Ngaân löu ra - 68,319 88,158 105,369 111,920 1
 Chi phí hoïat ñoäng - 64,890 78,739 93,146 98,356 1
 Thay ñoåi phaûi traû - (8,174) (2,438) (1,798) (715) 
 Thay ñoåi döï tröõ tieàn maët - 3,245 692 720 260 
 Thu VAT - 7,347 9,644 11,382 12,057 
 Thueá thu nhaäp - 1,011 1,520 1,918 1,963 
Ngaân löu roøng sau thueá töø hoïat ñoäng SXKD - (2,440) 5,909 6,654 7,948 
Ngaân löu töø hoaït ñoäng ñaàu tö 
Ngaân löu vaøo - - - - - 
 thanh lyù thieát bò - - - - - 
 thanh lyù nhaø xöôûng - - - - - 
Ngaân löu ra 17,275 - - - - 
 MMTB 12,786 - - - - 
 Nhaø xöôûng 4,489 - - - - 
 Voán töï coù taøi trôï voán löu ñoäng - 5,000 - - - 
Ngaân löu roøng töø hoaït ñoäng ñaàu tö (17,275) - - - - 
Ngaân löu roøng theo TIPV (17,275) (2,440) 5,909 6,654 7,948 
NPV(13,2%) theo quan ñieåm toång ñaàu tö 4,800 
IRR theo quan ñieåm toång ñaàu tö 19.7% 
Ngaân löu theo quan ñieåm chuû ñaàu tö (EPV): 
Ngaân löu töø hoaït ñoäng taøi chính 
Ngaân löu vaøo 6,619 4,945 7,858 10,300 11,213 
 Vay ñaàu tö 6,619 - - - - 
 Vay voán löu ñoäng 4,945 7,858 10,300 11,213 
Ngaân löu ra 397 3,545 8,546 11,462 11,533 
 Traû nôï goác - 2,206 2,206 2,206 - 
 Traû laõi vay ñaàu tö 397 794 530 265 - 
-64- 
 Traû nôï vay voán löu ñoäng - - 4,945 7,858 10,300 
 Traû laõi vay voán löu ñoäng - 544 864 1,133 1,233 
Ngaân löu roøng töø hoaït ñoäng taøi chính 6,222 1,400 (688) (1,162) (321) 
 Ngaân löu roøng theo EPV (11,053) (1,040) 5,221 5,492 7,627 
NPV(15%) theo quan ñieåm chuû ñaàu tö (EPV) 3,847 
IRR theo quan ñieåm chuû ñaàu tö 24.8% 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
43461.pdf