Mặt khác, đối với những doanh nghiệp hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác nhau mà có hai hay vài ngành nghề đều mang lại tỷ lệ doanh thu lớn và đều nằm trong chiến lược phát triển đồng đều các ngành nghề đó của doanh nghiệp. Khi đó, ta có thể phân tách các ngành nghề đó, rồi thực hiện XHTD doanh nghiệp đó trên cơ sở: Chấm điểm tài chính giống nhau và chấm điểm phi tài chính khác nhau đối với từng ngành. Điểm tổng hợp của doanh nghiệp là tổng điểm tài chính và phi tài chính có tính trọng số theo doanh thu từng ngành.
- Đối với một số trường hợp đặc biệt
+ Đối với các doanh nghiệp mới thành lập hay mới chia tách, sát nhập
Hầu hết khách hàng muốn vay vốn của Chi nhánh đều được chấm điểm và xếp hạng theo quy trình chung mà NHCT VN ban hành. Tuy nhiên đối với những đơn vị mới thành lập, hay chia tách sát nhập là các đối tượng chưa có đầy đủ thông tin tài chính, vì vậy cần có quy định riêng đối với các đối tượng này, cụ thể là:
Đối với các doanh nghiệp mới thành lập: Do chưa có báo cáo tài chính đầy đủ, việc chấm điểm các chỉ tiêu tài chính nên được kết hợp với việc đánh giá phương án kinh doanh, tính toán các chỉ tài chính theo năm vừa hoạt động và các chỉ tiêu kế hoạch của phương án để có cái nhìn khái quát về doanh nghiệp. Còn đối với các chỉ tiêu phi tài chính thì chỉ nên chấm một số tiêu chí điển hình. Tuy nhiên, để xếp hạng đối với những đối tượng này, Cán bộ chấm điểm nên chú trọng đánh giá thang điểm phi tài chính hơn.
Đối với doanh nghiệp mới chia tách, sát nhập, hợp nhất: Nếu công việc này không làm ảnh hưởng lớn đến tình hình sản xuất, tài chính của khách hàng thì việc chấm điểm và xếp hạng như những khách hàng bình thường. Trường hợp có những thay đối lớn thì àp dụng chấm điểm và xếp hạng như doanh nghiệp vừa mới thành lập.
+ Đối với các doanh nghiệp mới có quan hệ vay vốn với NHCT: NHCV chấm điểm các tiêu chí phi tài chính như bình thường nhưng riêng với tiêu chí quan hệ tín dụng có thể chấm tối đa ở mức điểm nào đó (<10). Nếu khách hàng phát sinh nợ quá hạn, nợ cơ cấu hoặc trả thay NHCV cũng có thể chấm điểm các tiêu chí này ở thang điểm thấp hơn. Tuy nhiên, trường hợp mà doanh nghiệp có cam kết ngoại bảng với NHCT, mới phát sinh quan hệ vay vốn lần đầu, NHCV có thể xem xét chấm điểm các tiêu chí quan hệ tín dụng và phi tín dụng tối đa ở mức điểm nào đó nhưng bốn tiêu chí: NHCT phải trả thay; Thời gian quan hệ tín dụng với NHCT; Mức độ sử dụng các dịch vụ; Tình hình quan hệ tín dụng với các TCTD khác được chấm điểm theo số liệu thực tế.
108 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2045 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoàn thiện công tác Xếp hạng tín dụng doanh nghiệp tại Chi nhánh ngân hàng công thương Ba Đình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
T Ba Đình sẽ thực hiện xếp hạng tín dụng đối với bên bảo lãnh).
Sau 6 năm triển khai công tác XHTD khách hàng nói chung và đối với doanh nghiệp nói riêng và nhiều lần sửa đổi cho phù hợp với quy trình chuẩn quốc tế, Công tác XHTD doanh nghiệp tại chi nhánh NHCT Ba Đình đã đạt được khá nhiều thành tựu, góp phần vào sự phát triển và nâng cao năng lực cạnh tranh của NHCT VN trên trường Quốc tế. Cụ thể như sau:
- Chi nhánh có cái nhìn tổng quan về khách hàng thông qua công tác XHTD doanh nghiệp như: Toàn bộ thông tin về ngành nghề, lĩnh vực hoạt động, quy mô doanh nghiệp, tình hình tài chính, tình hình quan hệ với ngân hàng trong thời gian qua…Từ đó có cơ sở để đánh giá thống nhất và mang tính hệ thống về khách hàng trước khi quyết định cấp tín dụng.
- Thông thường trước khi cho vay thường đánh giá trên ba khâu chính là: tính khả thi của phương án vay vốn; tình hình kinh doanh trong thời gian qua của khách hàng và Xếp hạng tín dụng khách hàng. Do đó, chấm điểm và XHTD khách hàng là một khâu quan trọng trong quy trình trên. Kết quả XHTD có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng vì đó là một tiêu chí mà dựa vào đó ngân hàng có thể đưa ra quyết định cho vay hay không? Đồng thời, ngân hàng cũng sẽ căn cứ vào hạng của khách hàng để xem xét điều kiện đảm bảo và áp dụng chính sách khách hàng hợp lý.
- Đối với mỗi tiêu chí trong chấm điểm và XHTD, chi nhánh NHCT Ba Đình đã có những hướng dẫn cụ thể cách tính hay cách xác định chi tiết, do đó giảm thiểu được sai sót trong quá trình xếp hạng.
- Việc định kỳ đánh giá XHTD giúp ngân hàng có thể cập nhật thông tin thường xuyên và nhanh chóng về khách hàng. Từ đó, có thể xác định tiếp tục có quan hệ với khách hàng đó hay không và chính sách áp dụng cho khách hàng trong thời gian tới là gì? Mặt khác, ngân hàng có thể đưa ra những khuyến nghị đối với doanh nghiệp trong thời gian tới (như giúp doanh nghiệp xác định được chính xác hơn nhu cầu vay vốn…) dựa trên kết quả đánh giá định kỳ của mình.
- XHTD là công cụ phục vụ đắc lực cho công tác quản lý rủi ro tín dụng: Kết quả XHTD giúp cho ngân hàng có thể hạn chế được rủi ro tín dụng trước, trong và sau quá trình cho vay. Cụ thể là: Thực hiện xếp hạng doanh nghiệp thành 10 hạng theo quy định của NHCT VN có các mức độ từ thấp lên cao (AA+, AA, AA-, BB+, BB, BB-, CC+, CC, CC-, C). Tương ứng với đó, đối với những khách hàng xếp hạng từ loại CC+ trở xuống, Chi nhánh từ chối cho vay. Còn đối với những khách hàng được ngân hàng đồng ý cho vay thì ngân hàng sẽ quyết định điều kiện tài sản bảo đảm hay có các quy định khác nhằm giảm thiểu rủi ro có thể xảy ra trong quá trình cho vay dựa trên mức độ đánh giá rủi ro theo kết quả xếp hạng khách hàng của ngân hàng theo bảng sau:
Loại
Đặc điểm
Mức độ rủi ro
AA+: Loại tối ưuĐiểm tín dụng tốt nhất dành cho các khách hàng có chất lượng tín dụng tốt nhất
- Tình hình tài chính lành mạnh- Khả năng sinh lời tốt- Hoạt động đạt hiệu quả cao, ổn định- Triển vọng phát triển lâu dài- Khả năng cạnh tranh rất vững vàng trước những tác động của môi trường kinh doanh hoặc độc quyền nhà nước- Đạo đức tín dụng cao
Thấp nhất
AA : Loại ưu
- Tình hình tài chính lành mạnh- Khả năng sinh lời tốt- Hoạt động đạt hiệu quả và ổn định- Triển vọng phát triển lâu dài- Quản trị tốt- Đạo đức tín dụng tốt
Thấp nhưng về dài hạn cao hơn khách hàng loại AA+
AA- : Loại tốt
- Tình hình tài chính ổn định nhưng có những hạn chế nhất định- Hoạt động đạt hiệu quả nhưng không ổn định như khách hàng loại AA- Triển vọng phát triển tốt- Quản trị tốt- Đạo đức tín dụng tốt
Thấp
BB+ : Loại khá
- Tình hình tài chính ổn định trong ngắn hạn do có một số hạn chế về tài chính và năng lực quản lý và có bị thể tác động mạnh bởi các điều kiện kinh tế, tài chính trong môi trường kinh doanh- Hoạt động hiệu quả và có triển vọng trong ngắn hạn.
Trung bình
BB: Loại trung bình khá
- Tiềm lực tài chính trung bình, có những nguy cơ tiềm ẩn- Hoạt động kinh doanh tốt trong hiện tại nhưng dễ bị tổn thất bởi những biến động lớn trong kinh doanh do các sức ép cạnh tranh và sức ép từ nền kinh tế nói chung.
Trung bình, khả năng trả nợ gốc và lãi trong tương lai ít được đảm bảo hơn khách hàng loại BB+
BB- : Loại trung bình
- Khả năng tự chủ tài chính thấp, dòng tiền biến động theo chiều hướng xấu- Hiệu quả hoạt động kinh doanh không cao, chịu nhiều sức ép cạnh tranh mạnh mẽ hơn,dễ bị tác động từ những biến động kinh tế nhỏ
Cao, do khả năng tự chủ tài chính thấp. Ngân hàng chưa có nguy cơ mất vốn ngay nhưng về lâu dài sẽ khó khăn nếu tình hình hoạt động kinh doanh của khách hàng không được cải thiện.
CC+ : Loại dưới trung bình
- Năng lực tài chính yếu, bị thua lỗ trong một hay một số năm tài chính gần đây và hiện tại đang vật lộn để duy trì khả năng sinh lời- Hiệu quả hoạt động thấp, kết quả kinh doanh nhiều biến động- Năng lực quản lý kém
Cao, là mức cao nhất có thể chấp nhận; xác suất vi phạm hợp đồng tín dụng cao, nếu không có những biện pháp kịp thời, ngân hàng có nguy cơ mất vốn trong ngắn hạn
CC: Loại yếu
- Năng lực tài chính yếu kém, đã có nợ quá hạn (dưới 90 ngày)- Hiệu quả hoạt động thấp- Năng lực quản lý kém
Rất cao, khả năng trả nợ ngân hàng kém, nếu không có những biện pháp kịp thời, ngân hàng có nguy cơ mất vốn trong ngắn hạn
CC- : Loại kém
- Năng lực tài chính yếu kém, đã có nợ quá hạn.- Hiệu quả hoạt động rất thấp, bị thua lỗ, không có triển vọng phục hồi.- Năng lực quản lý kém
Rất cao, ngân hàng sẽ phải mất nhiều thời gian và công sức để thu hồi vốn cho vay.
C: Loại rất kém
- Các khách hàng này bị thua lỗ kéo dài, tài chính yếu kém, có nợ khó đòi, năng lực ------ quản lý kém.
Đặc biệt cao, ngân hàng hầu như sẽ không thể thu hồi được vốn cho vay.
Trên đây là những thành tựu cơ bản về công tác XHTD doanh nghiệp mà Chi nhánh đã đạt được trong thời gian qua. Bên cạnh đó, còn có rất nhiều những hạn chế, vướng mắc mà chi nhánh gặp phải trong quá trình thực hiện, cần tìm hiểu rõ nguyên nhân và tìm hướng khắc phục trong thời gian tới.
2.4.2. Hạn chế
2.4.2.1. Hạn chế
a. Về quy trình thực hiện
- Đối với việc xác định ngành nghề kinh doanh
Chi nhánh NHCT Ba Đình xác định ngành nghề theo bốn lĩnh vực hoạt động chính là: Nông, lâm, ngư nghiệp; Thương mại, dịch vụ; Xây dựng; Công nghiệp là chưa chính xác. Mặt khác, đối với doanh nghiệp hoạt động đa ngành nghề thì lấy ngành nghề nào đem lại trên 50% doanh thu cho doanh nghiệp là điều không hợp lý vì thực tế có những ngành nghề mang lại tỷ trọng doanh thu tương đương nhau nên không thể xác định theo tiêu chí đó. Việc xác định ngành/lĩnh vực hoạt động không hợp lý sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến độ chính xác của kết quả XHTD doanh nghiệp.
- Đối với việc xác định quy mô doanh nghiệp
Việc xác định quy mô doanh nghiệp dựa trên bốn tiêu chí là: nguồn vốn kinh doanh, lao động, doanh thu thuần, nộp ngân sách là tương đối hợp lý. Tuy nhiên, vẫn chưa có tiêu chí nào thể hiện tổng tài sản hay tổng nguồn vốn của doanh nghiệp.
b.Về hệ thống chỉ tiêu phân tích
Thứ nhất: Đối với các chỉ tiêu tài chính
- Việc dựa vào các chỉ tiêu tài chính để kết luận độ tin cậy của chỉ số tín nhiệm tín dụng doanh nghiệp là chưa phản ánh đúng thực tế. Để xếp hạng, Chi nhánh NHCT Ba Đinh dựa vào 11 thông số tài chính thuộc 4 nhóm chính là : nhóm chỉ tiêu thanh khoản, nhóm chỉ tiêu hoạt động, nhóm chỉ tiêu cân nợ, nhóm chỉ tiêu sinh lời. Những chỉ tiêu này chưa đầy đủ, chưa tạo được sự khác biệt và độ sâu phân tích chỉ tiêu tài chính khi đánh giá XHTD Doanh nghiệp mà cụ thể là:
+Đối với nhóm chỉ tiêu thanh khoản: Thiếu khả năng thanh toán tức thời, khả năng thanh toán dài hạn.
+ Đối với nhóm chỉ tiêu hoạt động: Thiếu vòng quay vốn lưu động.
+ Đối với nhóm chỉ tiêu sinh lời: Tính Tổng thu nhập trước thuế là không chính xác.
+ Đối với chỉ tiêu cân nợ:
1.Hệ số nợ chưa được phân tách rõ ràng theo nhóm ngành khi đánh giá XHTD Doanh nghiệp. Cụ thể là:
Đối với doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp nặng, mặc dù hệ số nợ của doanh nghiệp thấp nhưng tỷ trọng nợ ngắn hạn cao hơn so với tổng tài sản là một bất cập vì điều này cho thấy hai khả năng: Doanh nghiệp đã dùng vốn ngắn hạn đầu tư vào tài sản cổ định trong trường hợp tài sản cố định lớn hơn vốn chủ sở hữu và vốn vay dài hạn hoặc vốn lưu động không được sử dụng hiệu quả vì thừa vốn lưu động. Thực tế doanh nghiệp hoạt động trong ngành công nghiệp nặng thì tỷ trọng vốn lưu động nhỏ hơn rất nhiều so với vốn trung và dài hạn. Rất có thể khi tính chung hệ số nợ/tổng tài sản thì tình hình tài chính doanh nghiệp đó rất tốt nhưng nếu tính về khả năng thanh toán lại có vấn đề.
Đối với doanh nghiệp thương mại hoạt động chủ yếu bằng nguồn vốn ngắn hạn nhưng tỷ trọng nợ dài hạn cao so với tỷ trọng nợ ngắn hạn thì đó cũng là điều không bình thường trong sử dụng vốn.
2. Thông số: “Nợ quá hạn/tổng dư nợ ngân hàng” để làm cơ sở chấm điểm độ tín dụng của doanh nghiệp là chưa rõ ràng. Thế nào là “nợ quá hạn”? Vì hiện nay, việc phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro được thực hiện theo điều 6 và điều 7/ QĐ493 của NHNN. Do đó, việc xác định “nợ quá hạn” theo hai cách trên sẽ khác nhau, theo điều 7 thì “nợ quá hạn” sẽ cao hơn so với điều 6 -> độ tín nhiệm của doanh nghiệp thấp hơn.
- Việc chấm điểm các chỉ tiêu tài chính ở Chi nhánh chưa xét đến yếu tố loại hình doanh nghiệp là không hợp lý. Ngoài ra, đối với những doanh nghiệp mới thành lập; doanh nghiệp chia, tách, sát nhập thì việc áp dụng quy trình chuẩn XHTD trên là không chính xác, chưa phản ánh đúng tình hình thực tế về doanh nghiệp.
Thứ hai: Đối với chỉ tiêu phi tài chính
- Công việc chấm điểm và XHTD trực tiếp do CBTD thực hiện. Do đó, kết quả xếp hạng dựa nhiều vào nhận định chủ quan của cán bộ chấm điểm nên rất dễ xảy ra sai lệch.
- Nhiều chỉ tiêu phi tài chính đưa ra mang tính chất chung chung, rất khó xác định.
- Theo tiêu chí lưu chuyển tiền tệ: Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là nguồn thông tin rất quan trọng, nó phản ánh khả năng tạo tiền và năng lực quản lý dòng tiền vào, ra của chủ doanh nghiệp. Tuy nhiên việc chấm điểm theo tiêu chí này chỉ dựa trên 5 chỉ tiêu là quá ít. Mặt khác, việc đưa hệ số khả năng trả lãi và trả nợ gốc vào tiêu chí phi tài chính là điều không hợp lý.
Thứ ba: Về công tác tổ chức, triển khai
- Theo chỉ đạo của NHCT VN, Chi nhánh cũng đã triển khai thử nghiệm việc chấm điểm và xếp hạng tự động trên chương trình INCAS (chương trình quản lý hệ thống trên máy tính của NHCT VN), tuy nhiên việc thử nghiệm chưa thành công nên việc chấm điểm và xếp hạng doanh nghiệp vẫn chỉ được cán bộ xếp hạng thực hiện theo phương pháp thủ công: Cán bộ tín dụng của ngân hàng trực tiếp là người thẩm định các thông tin về khách hàng. Các thông tin này được điền vào một biểu mẫu theo các chỉ tiêu định trước. Theo đó, cán bộ tín dụng sẽ cho điểm từng chỉ tiêu. Tổng số điểm khách hàng được đối chiếu với thang điểm có sẵn của ngân hàng để xác định nhóm tín dụng. Cách thức xử lý như vậy mất rất nhiều thời gian và đạt hiệu quả chưa cao, chưa kể đến việc XHTD đôi khi còn thiếu chính xác.
- Hầu hết công việc do cán bộ tín dụng thực hiện nên công tác chấm điểm và xếp hạng mang tính chủ quan cao.
- Theo quy định của Chi nhánh NHCT Ba Đình, hàng năm sẽ định kỳ đánh giá XHTD lại khách hàng. Khoảng thời gian đó là hơi dài, gây khó khăn cho ngân hàng trong việc theo dõi và đánh giá đúng về khách hàng.
- Công tác kiểm soát lại kết quả XHTD doanh nghiệp do phòng quản lý rủi ro đảm nhiệm, tuy nhiên nhiều khi công tác này vẫn chỉ mang tính hình thức, chưa thực sự phát huy hiệu quả nhằm giảm thiểu sai sót, rủi ro có thể xảy ra.
Thứ tư: Về nguồn thông tin
- Báo cáo tài chính là một nguồn thông tin quan trọng đối với ngân hàng trong việc phân tích và xếp hạng trước khi cho vay, tuy nhiên độ chính xác của các số liệu trên báo cáo tài chính hầu hết không được đảm bảo.
- Ngân hàng vẫn chưa tạo dựng được một hệ thống thông tin có thể đáp ứng kịp thời,có hiệu quả cho phân tích, dự báo và đánh giá tình hình kinh doanh của doanh nghiệp.
Ngoài ra, hiện nay Việt Nam vẫn chưa có thông tin về các chỉ tiêu tài chính trung bình ngành, nhóm ngành nên việc chấm điểm các chỉ tiêu tài chính khá khó khăn trong việc xác định độ chính xác của các số liệu trên báo cáo tài chính, trong việc so sánh và xác định vị thế của doanh nghiệp so với các đơn vị khác trong cùng ngành…Cán bộ tín dụng thường phải dựa trên số liệu tổng hợp từ các khách hàng có dư nợ tại ngân hàng và kinh nghiệm thực tế để đưa ra con số trung bình ước tính cho từng ngành. Do đó, kết quả XHTD có độ chính xác không cao.
Thứ năm: Về ứng dụng kết quả XHTD để thực hiện phân loại nợ
Theo quyết định 493/2005/QĐ-NHNN: Trong thời gian tối đa 03 năm, các TCTD phải xây dựng hệ thống XHTD nội bộ nhằm hỗ trợ cho việc phân loại nợ và quản lý chất lượng tín dụng. Hệ thống này sẽ là căn cứ cho các TCTD thực hiện phân loại nợ theo phương pháp định tính với các đánh giá toàn diện về năng lực tài chính và khả năng trả nợ của ngân hàng.
Tuy nhiên, Công tác XHTD doanh nghiệp tại chi nhánh NHCT Ba Đình dù đã được triển khai khá lâu nhưng kết quả xếp hạng mới chỉ bước đầu được ứng dụng làm cơ sở cho việc ra quyết định cho vay, xác định điều kiện tài sản bảo đảm, áp dụng chính sách khách hàng là chủ yếu, vẫn chưa thực hiện được theo Quyết định 493 của NHNN về sử dụng kết quả xếp hạng để phân loaị nợ và trích dự phòng rủi ro mặc dù thời hạn cuối cùng đã qua cách đây hơn 01 năm.
2.4.2.2. Nguyên nhân
Những hạn chế trong công tác XHTD doanh nghiệp nêu trên tại Chi nhánh NHCT Ba Đình chủ yếu do những nguyên nhân chủ quan và khách quan sau:
a.Nguyên nhân chủ quan
- Trình độ, năng lực của bộ phận xây dựng và bộ phận trực tiếp triển khai còn nhiều hạn chế, cụ thể là:
+ Đối với bộ phận xây dựng hệ thống chỉ tiêu phân tích: Hệ thống XHTD doanh nghiệp áp dụng tại chi nhánh NHCT Ba Đình được NHCT Việt Nam xây dựng dựa trên sự tham gia của các bộ phận: Bộ phận chuyên trách (cán bộ của phòng chế độ tín dụng, đầu tư), chuyên gia tư vấn, Trung tâm công nghệ thông tin và các phòng ban khác ở Trụ sở chính và Chi nhánh. Đây là những “chuyên gia” có kinh nghiệm, trình độ quản lý dự báo tốt. Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng hệ thống chỉ tiêu phục vụ cho công tác XHTD rất khó khăn cho các bộ phận xây dựng chỉ tiêu này trong việc đưa ra hệ thống chỉ tiêu đầy đủ, chi tiết, khoa học nhưng lại phải cân nhắc tính khả thi và mức chi phí có thể chấp nhận được. Mặt khác, do số lượng ngành và các nhóm ngành nhiều mà nếu chia nhỏ từng nhóm ngành để đảm bảo kết quả XHTD có độ chính xác cao thì ta lại phải tiếp tục xây dựng các tiêu chí chấm điểm mới cho từng nhóm ngành chia nhỏ này. Đó là một khối lượng công việc khổng lồ , đòi hỏi phải tốn nhiều thời gian và công sức. Vì vậy, NHCT VN chỉ mới xây dựng cho mình những chỉ tiêu chung nhất và phân loại theo bốn nhóm ngành nghề cơ bản trong công tác chấm điểm và XHTD.
+ Đối với đội ngũ tổ chức triển khai XHTD
CBTD là người trực tiếp thực hiện XHTD doanh nghiệp, do đó đòi hỏi người phân tích XHTD phải vừa là có trình độ chuyên môn giỏi, kiến thức thực tế rộng và khả năng linh hoạt nhạy bén với những thông tin mới, những thay đổi trong chính khách hàng của mình. Tuy nhiên, thực tế tại Chi nhánh NHCT Ba Đình cho thấy, số lượng đội ngũ cán bộ tín dụng trẻ không nhiều nên khả năng nhạy bén và linh hoạt hạn chế; kinh nghiệm thực tế ít, hầu hết các CBTD chỉ am hiểu sâu về một vài lĩnh vực nào đó. Do đó, việc XHTD doanh nghiệp tại Chi nhánh còn nhiều khó khăn.
Mặt khác, Cán bộ tín dụng là người trực tiếp đảm nhận tất cả các khâu công việc từ khi nhận hồ sơ đến khi quyết định từ chối hay đồng ý cho vay. Đó là một khối lượng công việc lớn mà việc quy định hạn mức thời gian 03 ngày CBTD phải hoàn tất tất cả các khâu công việc trên là quá hạn hẹp, thời gian ít sẽ tăng nguy cơ sai sót, rủi ro đạo đức có thể xảy ra. Điều đó ảnh hưởng đến độ chính xác của kết quả Xếp hạng doanh nghiệp.
Cán bộ tín dụng vẫn chưa coi trọng công tác đánh giá lại kết quả XHTD hàng năm, đặc biệt đối với những khách hàng trả lãi và gốc đầy đủ trong thời gian quan hệ với ngân hàng thì được xem là quan hệ tín dụng tốt, do đó việc đánh giá lại khách hàng nhiều khi chỉ mang tính hình thức.
- Chi nhánh chưa xây đựng được bộ phận chuyên hỗ trợ cho công tác XHTD doanh nghiệp, CBTD khi có thắc mắc trong quá trình triển khai Xếp hạng chỉ có thể tham khảo đồng nghiệp hoặc tự mình tìm hiểu giải đáp những thắc mắc.
- Công nghệ ngân hàng còn nhiều hạn chế: Công nghệ hiện đại hóa chuyển từ hạch toán và lưu trữ thông tin, hồ sơ thủ công sang hạch toán và lưu trữ trên máy đã được thực hiệu tại NHCT mà trong đó hệ thống INCAS đã được triển khai tại tất cả các Sở giao dịch đến các chi nhánh. Tuy công việc chấm điểm và XHTD được triển khai trên phần mềm của hệ thống nhưng tất cả các công việc vẫn do CBTD phân tích thực hiện theo phương pháp thủ công và mới chỉ có khâu cuối cùng là nhập số liệu, thông tin vào máy để chấm.
- Hiện nay các NHTM VN phân loại nợ theo hai quy định: Điều 6 và Điều 7 theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN, trong đó: Theo Điều 6 (Phân loại nợ chủ yếu căn cứ vào thời gian quá hạn của các khoản nợ), còn theo Điều 7 ( thực hiện phân loại nợ theo kết quả XHTD khách hàng từ hệ thống XHTD nội bộ). Tuy nhiên việc phân loại nợ theo phương pháp định tính có thể khiển tỷ lệ nợ xấu của một ngân hàng tăng gấp 2-3 lần so với cách phân loại định lượng chỉ dựa vào thời gian quá hạn của các khoản vay. Đặc biệt khi những biến động bất lợi của kinh tế năm 2008 ảnh hưởng trực tiếp và tức thời đến kết quả xếp hạng khách hàng theo hệ thống XHTD thông qua các chỉ tiêu về tình hình tài chính của doanh nghiệp. Đây là một trong những nguyên nhân khiến cho các NHTM VN nói chung và chi nhánh NHCT Ba Đình nói riêng không mấy mặn mà với việc ứng dụng kết quả XHTD nội bộ để phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro theo Điều 7 /QĐ493/NHNN.
b. Nguyên nhân khách quan
- Về độ chính xác của Báo cáo tài chính
Độ chính xác của Báo cáo tài chính được xem là vấn đề quan trọng nhất ảnh hưởng đến độ chính xác của kết quả XHTD doanh nghiệp. Nguyên nhân ảnh hưởng đến độ chính xác của báo cáo tài chính chủ yếu do:
+ Hầu hết báo cáo tài chính của doanh nghiệp Việt Nam chưa được kiểm toán do chi phí kiểm toán quá cao và một phần do thói quen từ trước tới nay của các doanh nghiệp. Không những vậy, hiện nay tại Việt Nam việc lập Báo cáo lưu chuyển tiền tệ chưa bắt buộc mà chỉ mang tính chất khuyến khích các doanh nghiệp lập và sử dụng, nhiều khi Báo cáo này được lập chỉ để giúp doanh nghiệp có được điểm cộng theo tiêu chí phi tài chính. Do đó, độ chính xác của các báo cáo tài chính không cao.
+ Khách hàng cố tình che dấu hoặc gian lận, sửa chữa thông tin: Để có được nguồn tài trợ cho hoạt động kinh doanh của mình, một số doanh nghiệp sẵn sàng sửa số liệu trên báo cáo tài chính gây khó khăn cho việc phát hiện, phân tích và xếp hạng của cán bộ tín dụng.
+ Bản thân báo cáo tài chính cũng có những lỗi lầm tiềm ẩn:
Bảng cân đối kế toán phản ánh các khoản mục tài sản và nguồn vốn tại một thời điểm. Do đó, cùng một chỉ số có thể cao ở thời điểm này nhưng lại thấp ở thời điểm khác, đặc biệt đối với các doanh nghiệp có tính thời vụ.
Các tỷ số tài chính chỉ phản ánh những sự kiện, các hoàn cảnh trong quá khứ.
Sự khác biệt giữa giá trị theo sổ sách kế toán và giá trị theo thị trường của các loại tài sản và nguồn vốn nhất là trong điều kiện có lạm phát cao có thể làm cho việc nhận định tình hình tài chính kém chính xác.
Các nguyên tắc kế toán khác nhau được sử dụng có thể làm cho việc xác định thu nhập của doanh nghiệp không đúng với bản chất thật của nó như: hạch toán hàng tồn kho theo phương pháp khác nhau ( Lifo, Fifo…), khấu hao theo phương pháp( Khấu hao nhanh, khấu hao đều…).. đều làm tác động đến giá vốn hàng bán và cuối cùng ảnh hưởng đến thu nhập của doanh nghiệp.
Việc thực thi chiến lược kinh doanh trong từng thời kỳ có thể làm tỷ suất tài chính không phản ánh đúng hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
- Cho đến nay, chưa có cơ quan nào có thông tin thông báo rộng rãi về các chỉ tiêu ngành, nhóm ngành. Điều này khiến cho việc xác định các bộ chỉ tiêu tài chính khó khăn hơn, chủ yếu dựa vào kinh nghiệm của người phân tích và tập hợp số liệu của các doanh nghiệp từng ngành mà ngân hàng đang quản lý.
Chương 3: Hoàn thiện hệ thống XHTD doanh nghiệp tại chi nhánh NHCT Ba Đình
3.1. Định hướng phát triển của Chi nhánh NHCT Ba Đình
3.1.1. Định hướng chung
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng về chiến lược phát triển kinh tế xã hội và phát triển Đất Nước đến năm 2010 và 2020, yêu cầu phát triển ngành ngân hàng Việt Nam theo chỉ thị 275/BSCĐ của Ban cán sự Đảng Ngân hàng nhà nước Việt Nam về đề án cơ cấu lại NHCT VN giai đoạn 2001-2010 đã được Chính phủ phê duyệt mục tiêu là: “Xây dựng NHCT VN thành tập đoàn tài chính – Ngân hàng với hai trụ cột chính là NHTM và ngân hàng đầu tư trên cơ sở áp dụng các thông lệ quốc tế tốt nhất, tiêu chuẩn hóa các dịch vụ, giá trị ngân hàng và giá trị nguồn nhân lực, hướng tới mục tiêu trở thành tập đoàn tài chính hàng đầu tại Việt Nam, ngang tầm với khu vực và vươn xa tầm thế giới”.
Để đạt được mục tiêu như định hướng đã đề ra, với những thời cơ thách thức nhu hiện nay, Ban lãnh đạo NHCT Việt Nam đã đưa ra những định hướng chiến lược cụ thể như sau:
Một là: Chiến lược tăng cường năng lực tài chính, phát triển mạng lưới, đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ và nâng cao hiệu quả kinh doanh, cụ thể là: Tập trung nguồn lực củng cố và mở rộng hệ thống mạng lưới kinh doanh tăng cường năng lực tài chính, nâng cao chất lượng hoạt động và hiệu quả kinh doanh. Duy trì vị thế thị phần phát triển, mở rộng hoạt động hiện tại trong lĩnh vực ngân hàng bán lẻ và đẩy mạnh ngân hàng bán buôn. Bảo đảm đạt các chỉ số đánh giá hiệu quả kinh doanh và an toàn hoạt động, phát triển bền vững của NHCT VN như: phấn đấu đến năm 2010, tỷ lệ nợ xấu dưới 3% tổng dư nợ cho vay, chỉ số tỷ lệ an toàn tối thiểu (COOK) đạt từ 8% trở lên, ROA đạt mức 1%, ROE đạt mức 13-15%.
Hai là: Chiến lược về chuẩn hóa mô hình tổ chức, quản trị điều hành và minh bạch hóa tài chính: Chuẩn hóa mô hình tổ chức, cơ chế quản trị, điều hành hệ thống phù hợp với xu hướng phát triển của thị trường và chuẩn mực quốc tế. Phát triển Vietinbank thành tập đoàn Tài chính – Ngân hàng mạnh, hoạt động theo mô hình công ty mẹ con, đa sở hữu, kinh doanh đa ngành nghề, trong đó cốt lõi là NHTM, ngân hàng đầu tư và các dịch vụ tài chính. Lựa chọn và áp dụng các thông lệ Quốc tế tốt nhất vào mô hình tổ chức, quản trị, điều hành, quản lý và kiểm soát rủi ro. Hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách về quản trị, điều hành kinh doanh, quản lý kiểm soát rủi ro, quy trình kỹ thuật nghiệp vụ, đánh giá hiệu quả kinh doanh theo thông lệ quản trị hiện đại trong lĩnh vực Tài chính -Ngân hàng trên thế giới.
Ba là: Chiến lược phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, cải thiện căn bản chất lượng nguồn nhân lực. Từ năm 2009-2015 sẽ tiếp tục cơ cấu lại nguồn nhân lực một cách mạnh mẽ, không tăng mà giảm số lượng, tăng chất lượng nguồn nhân lực, xây dựng đội ngũ cán bộ có trình độ năng lực chuyên môn cao, đào tạo nhiều hơn các kiến thức nghiệp vụ của ngân hàng Quốc tế. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế động lực tiền lương, tiền thưởng theo nguyên tắc gắn lợi ích với trách nhiệm, kết quả, năng suất, hiệu quả công việc của từng cán bộ Vietinbank.
Bốn là: Chiến lược đẩy mạnh phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin, cụ thể là tập trung đầu tư phát triển mạnh công nghệ thông tin ngân hàng, xây dựng công nghệ thông tin đồng bộ, hiện đại, an toàn và hiệu quả. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ mới, hiện đại trong lĩnh vực quản trị ngân hàng, kiểm soát rủi ro, phát triển sản phẩm dịch vụ mới. Coi công nghệ ngân hàng là yếu tố then chốt, là cơ sở nền tảng để phát triển, hội nhập tích cực với khu vực và quốc tế.
3.1.2. Định hướng cụ thể
3.1.2.1. Định hướng hoạt động tín dụng
Tiếp tục phục vụ tốt các khách hàng truyền thống, các Tổng công ty với các dự án lớn, các khách hàng hoạt động sản xuất kinh doanh hiệu quả, từng bước đa dạng hóa đối tượng khách hàng theo hướng an toàn, bền vững và có hiệu quả.
Phát triển tín dụng dịch vụ đối với khách hàng là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, đặc biệt là các doanh nghiệp trong các khu công nghiệp, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các doanh nghiệp mà sản phẩm được thị trường chấp nhận.
Giảm dư nợ theo lộ trình khả thi, an toàn đối với doanh nghiệp xây lắp tiểm ẩn rủi ro; tiếp tục duy trì tín dụng có đảm bảo đối với các doanh nghiệp xây lắp hoạt động có hiệu quả, có tình hình tài chính lành mạnh,có định hướng tốt đặc biệt là các Tổng công ty có định hướng rõ ràng khả thi, có hiệu quả trong việc tái cơ cấu lại sau những khó khăn của khối xây lắp.
Tiếp tục thực hiện các biện pháp nhằm tận thu nợ xấu, nợ ngoại bảng đối với các công ty có dư nợ xấu tại chi nhánh trong thời gian qua. Đồng thời, tiếp tục thực hiện phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro đối với các khách hàng. Rà soát, đánh giá tình hình giải ngân, thu nợ đảm bảo kiểm soát việc thực hiện giới hạn và cơ cấu tín dụng theo kế hoạch từng năm.
Một số chỉ tiêu chủ yếu của chi nhánh phấn đấu trong năm 2009 là: Tổng dư nợ cho vay nền kinh tế đạt 4.500 tỷ đồng, tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ là 2%, phấn đấu thu 100% số nợ ngoại bảng của năm 2008.
3.1.2.2. Định hướng xây dựng hệ thống XHTD nội bộ
Trong thời gian tới, thực hiện chỉ đạo của Ban lãnh đạo NHCT Việt Nam, phòng Chế độ tín dụng, đầu tư tại trụ sở chính đang nghiên cứu việc xây dựng hệ thống XHTD nội bộ (trong đó Hệ thống chấm điểm và xếp hạng khách hàng doanh nghiệp sẽ là một cấu phần) theo tiêu chuẩn Quốc tế (Basel II). Nếu được triển khai, hệ thống XHTD nội bộ nói chung và hệ thống xếp hạng doanh nghiệp nói riêng sẽ là bước tiến lớn so với hệ thống hiện nay. Tuy nhiên thời gian nghiên cứu và triển khai hệ thống XHTD nội bộ sẽ kéo dài tối thiểu 03 năm nên trong thời gian quá độ, việc hoàn chỉnh hệ thống chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng vẫn cần phải thực hiện để hỗ trợ quá trình ra quyết định và quản lý tín dụng tại Chi nhánh NHCT Ba Đình.
Ngoài ra, NHCT sẽ tiếp tục kết hợp với Trung tâm thông tin tín dụng NHNN (CIC) xây dựng đề án khai thác các thông tin tín dụng thông qua Trụ sở chính. NHCT lắp đặt đường truyền có tốc độ cao và ổn định, kết nối trực tiếp với CIC, thông qua đường truyền này tất cả Chi nhánh NHCT có thể tra cứu thông tin qua mạng nội bộ.
Với những hạn chế và định hướng như trên, NHCT VN nói chung và Chi nhánh NHCT Ba Đình nói riêng cần có những giải pháp thích hợp để hoàn thiện XHTD doanh nghiệp trong thời gian tới.
3.2. Giải pháp hoàn thiện XHTD doanh nghiệp
3.2.1.Xây dựng hệ thống thông tin là cơ sở cho phân tích và XHTD doanh nghiệp
Mức độ chính xác của kết quả XHTD phụ thuộc vào phần lớn nguồn thông tin hiện có. Nguồn thông tin chủ yếu mà ngân hàng có chủ yếu từ: Báo cáo tài chính mà khách hàng cung cấp, Từ trung tâm thông tin tín dụng (CIC), từ Ngân hàng khác, từ báo chí…Tuy nhiên, quá trình thu thập và xử lý thông tin của ngân hàng vẫn còn nhiều hạn chế. Do đó, cần phải tìm cách khắc phục trong thời gian tới. Một trong những giải pháp có thể như sau:
- Đối với Nguồn thông tin từ Báo cáo tài chính do khách hàng cung cấp
Để đảm bảo độ chính xác của các con số hay thông tin trên báo cáo, Cán bộ tín dụng có thể yêu cầu báo cáo tài chính phải được kiểm toán. Trong đó, chỉ xác định thông tin được kiểm toán khi ý kiến kiểm toán là: ý kiến chấp nhận toàn phần hoặc ý kiến chấp nhận từng phần, ngoài ra phải đánh giá yếu tố tùy thuộc (hoặc ngoại trừ) mà kiểm toán viên đã nêu ra trong báo cáo kiểm toán là không ảnh hưởng lớn đến khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Trưòng hợp báo cáo tài chính được kiểm toán song ý kiến kiểm toán là : ý kiến từ chối; không thể đưa ra ý kiến; ý kiến không chấp nhận hoặc ý kiến trái ngược thì báo cáo tài chính đwocj xem là chưa kiểm toán. Từ thông tin được xác định ở trên, ta có thể áp dụng mức trọng số thích hợp đối với loại báo cáo được kiểm toán hay chưa được kiểm toán. Ngoài ra, Cán bộ tín dụng cũng cần kiểm tra độ chính xác của các khoản mục quan trọng như (các khoản phải thu, hàng tồn kho, tài sản cố đinh, công nợ phải trả…), rồi đánh giá tính chất của các khoản mục đó dựa trên kiến thức và kinh nghiệm thực tế.
Mặt khác, ngân hàng có thể thiết kế hệ thống câu hỏi cần trả lời để tìm hiểu các thông tin phi tài chính của chủ doanh nghiệp, từ đó cho điểm phi tài chính của khách hàng được chính xác hơn.
- Đối với nguồn thông tin từ NHNN
Chi nhánh cần xây dựng , cập nhật thông tin từ NHNN. Điều này giúp ngân hàng có được các thông tin cần thiết về các NHTM, tình hình khách hàng quan hệ tín dụng với các ngân hàng ra sao? từ đó giúp các NHTM tránh được tình trạng cho vay mà không hiểu rõ về khách hàng, hay tránh xảy ra hiện tượng một hồ sơ khoản vay của một khách hàng lại được vay tại nhiều NHTM.
Ngoài ra, việc cập nhật thông tin từ CIC là điều hết sức cần thiết đối với các Ngân hàng đặc biệt trong trường hợp khách hàng lớn, khó đánh giá xếp hạng, Ngân hàng cần tham khảo kết quả đánh giá xếp hạng của CIC để từ đó đưa ra quyết định hay chính sách khách hàng hợp lý đối với từng ngân hàng.
3.2.2. Hoàn thiện quy trình xếp hạng tín dụng doanh nghiệp
Quy trình XHTD doanh nghiệp tại Chi nhánh tỏ ra khá chi tiết và khoa học, tuy nhiên trong quá trình triển khai thực hiện vẫn còn nhiều hạn chế. Do đó, một số giải pháp nhằm hoàn thiện hơn quy trình xếp hạng như sau:
- Đối với việc xác định quy mô doanh nghiệp
Việc xác định quy mô doanh nghiệp là việc làm cần thiết để từ đó cùng với ngành nghề/ lĩnh vực hoạt động, CBTD lựa chọn bộ chỉ tiêu chấm điểm cho phù hợp. Hiện nay, Chi nhánh xác định quy mô doanh nghiệp dựa trên bốn tiêu chí chính: Nguồn vốn kinh doanh, doanh thu thuần, số lượng lao động, giá trị nộp ngân sách mà không nói đến quy mô về tổng tài sản. Do đó, việc xác định quy mô doanh nghiệp nên bổ sung thêm chỉ tiêu tổng tài sản (tổng nguồn vốn) để công việc xác định quy mô được cụ thể, chính xác hơn. Ngoài ra, mỗi loại hình doanh nghiệp khác nhau có thể có đặc thù về quy mô khác nhau như: Đặc thù về quy mô vốn điều lệ. đặc thù về nguồn vốn kinh doanh…Vì vậy, cần cụ thể hóa tiêu chí chấm điểm quy mô doanh nghiệp cho từng ngành nghề kinh doanh có tính đặc thù để đảm bảo tính hợp lý và chính xác trong chấm điểm và XHTD khách hàng.
- Đối với việc xác định ngành nghề/lĩnh vực kinh doanh
Để kết quả XHTD được chính xác thì đòi hỏi công việc đầu tiên cần làm là phải xác định ngành nghề/lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp được chính xác. Việc phân loại ngành nghề càng chi tiết thì mang lại kết quả xếp hạng có độ chính xác càng cao. Mà hiện nay, NHCT VN nói chung và Chi nhánh NHCT Ba Đình nói riêng chỉ phân loại ngành nghề theo 4 lĩnh vực hoạt động chính, do đó để đảm bảo độ chính xác cho kêt quả chấm điểm và XHDN cần phân tách các ngành nghề thành nhiều nhóm ngành chi tiết và cụ thể hơn nữa, ví dụ có thể phân loại doanh nghiệp thành 8 nhóm ngành khác nhau như: Trồng trọt, chăn nuôi; Chế biến các sản phẩm nông, lâm, ngư nghiệp; Xây dựng và bất động sản; Thương mại, hàng hóa; Dịch vụ; Công nghiệp khai thác năng lượng; Công nghiệp chế tạo; Công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng.
Mặt khác, đối với những doanh nghiệp hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác nhau mà có hai hay vài ngành nghề đều mang lại tỷ lệ doanh thu lớn và đều nằm trong chiến lược phát triển đồng đều các ngành nghề đó của doanh nghiệp. Khi đó, ta có thể phân tách các ngành nghề đó, rồi thực hiện XHTD doanh nghiệp đó trên cơ sở: Chấm điểm tài chính giống nhau và chấm điểm phi tài chính khác nhau đối với từng ngành. Điểm tổng hợp của doanh nghiệp là tổng điểm tài chính và phi tài chính có tính trọng số theo doanh thu từng ngành.
- Đối với một số trường hợp đặc biệt
+ Đối với các doanh nghiệp mới thành lập hay mới chia tách, sát nhập
Hầu hết khách hàng muốn vay vốn của Chi nhánh đều được chấm điểm và xếp hạng theo quy trình chung mà NHCT VN ban hành. Tuy nhiên đối với những đơn vị mới thành lập, hay chia tách sát nhập là các đối tượng chưa có đầy đủ thông tin tài chính, vì vậy cần có quy định riêng đối với các đối tượng này, cụ thể là:
Đối với các doanh nghiệp mới thành lập: Do chưa có báo cáo tài chính đầy đủ, việc chấm điểm các chỉ tiêu tài chính nên được kết hợp với việc đánh giá phương án kinh doanh, tính toán các chỉ tài chính theo năm vừa hoạt động và các chỉ tiêu kế hoạch của phương án để có cái nhìn khái quát về doanh nghiệp. Còn đối với các chỉ tiêu phi tài chính thì chỉ nên chấm một số tiêu chí điển hình. Tuy nhiên, để xếp hạng đối với những đối tượng này, Cán bộ chấm điểm nên chú trọng đánh giá thang điểm phi tài chính hơn.
Đối với doanh nghiệp mới chia tách, sát nhập, hợp nhất: Nếu công việc này không làm ảnh hưởng lớn đến tình hình sản xuất, tài chính của khách hàng thì việc chấm điểm và xếp hạng như những khách hàng bình thường. Trường hợp có những thay đối lớn thì àp dụng chấm điểm và xếp hạng như doanh nghiệp vừa mới thành lập.
+ Đối với các doanh nghiệp mới có quan hệ vay vốn với NHCT: NHCV chấm điểm các tiêu chí phi tài chính như bình thường nhưng riêng với tiêu chí quan hệ tín dụng có thể chấm tối đa ở mức điểm nào đó (<10). Nếu khách hàng phát sinh nợ quá hạn, nợ cơ cấu hoặc trả thay…NHCV cũng có thể chấm điểm các tiêu chí này ở thang điểm thấp hơn. Tuy nhiên, trường hợp mà doanh nghiệp có cam kết ngoại bảng với NHCT, mới phát sinh quan hệ vay vốn lần đầu, NHCV có thể xem xét chấm điểm các tiêu chí quan hệ tín dụng và phi tín dụng tối đa ở mức điểm nào đó nhưng bốn tiêu chí: NHCT phải trả thay; Thời gian quan hệ tín dụng với NHCT; Mức độ sử dụng các dịch vụ; Tình hình quan hệ tín dụng với các TCTD khác được chấm điểm theo số liệu thực tế.
3.2.3. Hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu phân tích
Thứ nhất: Đối với các chỉ tiêu tài chính
Hệ thống chỉ tiêu tài chính được áp dụng tại Chi nhánh NHCT Ba Đình còn chưa đầy đủ , chưa phản ánh được cơ bản tình hình tài chính của doanh nghiệp. Ngoài ra, còn nhiều chỉ tiêu không rõ ràng. Do đó, cần bổ sung các chỉ tiêu quan trọng sau:
- Đối với nhóm chỉ tiêu thanh khoản: Cần bổ sung thêm chỉ tiêu khả năng thanh toán tức thời, khả năng thanh toán dài hạn.
- Đối với chỉ tiêu hoạt động: Cần bổ sung thêm vòng quay vốn lưu động
- Đối với nhóm chỉ tiêu cân nợ: Cần phải bóc tách hệ số nợ sâu hơn, cụ thể là: cần phải phân biệt nợ ngắn hạn và nợ dài hạn theo từng nhóm ngành như: Tỷ trọng nợ dài hạn cao hơn nợ ngắn hạn là điều hợp lý đối với ngành xây dựng nhưng sẽ là không hợp lý đối với ngành thương mại- dịch vụ ...Việc phân loại như vậy mới xác định được mức độ hợp lý và an toàn của các hệ số nợ.
Ngoài ra, chỉ tiêu “nợ quá hạn” cần phải quy định thống nhất trong toàn hệ thống ngân hàng, nên áp dụng theo hướng phù hợp với xu hướng chung trên thế giới hiện nay bằng cách xác định nợ quá hạn theo điều 7/QĐ493. Tuy nhiên để làm được điều đó, đòi hỏi Chi nhánh NHCT Ba Đình phải xây dựng cho mình một hệ thỗng XHTD nội bộ từ đó ứng dụng kết quả xếp hạng vào phân loại nợ theo mức độ rủi ro của xếp hạng.
- Đối với nhóm chỉ tiêu thu nhập: Việc tính toán các chỉ tiêu dựa trên Tổng thu nhập trước thuế là không chính xác vì Lợi nhuận sau thuế mới thực chất phản ánh chính xác kết quả kinh doanh cuối cùng của doanh nghiệp. Do đó, cần phải thay thế bằng các chỉ tiêu tính trên lợi nhuận sau thuế để xác định chính xác hơn kết quả kinh doanh của doanh nghiệp, cụ thể như: Lợi nhuận sau thuế/Doanh thu thuần (ROS); Lợi nhuận sau thuế/Tổng tài sản (ROA); Lợi nhuận sau thuế/Vốn chủ sở hữu (ROE).
Mặt khác, trong điều kiện khủng hoảng hiện nay, tình hình sản xuất kinh doanh giảm sút hay thua lỗ là điều khó tránh khỏi. Trong khi đó, nhiều thang điểm giá trị chuẩn để so sánh, chấm điểm còn quá cao so với thực tế của các doanh nghiệp mới thành lập, hay mới chia tách, sát nhập. Vì vậy, việc xếp hạng các đối tượng này không nên quá chú trọng vào các chỉ tiêu tài chính mà nên đánh giá có chiều sâu về các chỉ tiêu phi tài chính, đặc biệt là khả năng kinh nghiệm của Ban lãnh đạo doanh nghiệp.
Thứ hai: Đối với các chỉ tiêu phi tài chính
Đây là những chỉ tiêu mang tính định tính rất cao nên độ chính xác của kết quả chấm điểm chủ yếu phụ thuộc vào nhận định, đánh giá chủ quan của Cán bộ chấm điểm. Do đó, cần hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu phi tài chính này theo hướng tập trung vào chiều sâu của mỗi tiêu chí hơn.
- Hoàn thiện các chỉ tiêu lưu chuyển tiền tệ
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là báo cáo được xem là quan trọng nhất trong các báo cáo tài chính, nó mang lại nguồn thông tin quan trọng phục vụ đắc lực cho việc đánh giá và nhận định của Cán bộ chấm điểm trong công tác xếp hạng khách hàng. Tuy nhiên, hiện nay Chi nhánh mới áp dụng 5 chỉ tiêu theo tiêu chí lưu chuyển tiền tệ mà trong số đó nên bỏ hai chỉ tiêu không mang tính chất phi tài chính, do đó để tận dụng được nguồn thông tin do Báo cáo lưu chuyển tiền tệ mang lại nên bổ sung thêm ba chỉ tiêu sau:
+ Chỉ tiêu: Lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động kinh doanh/ Tổng lưu chuyển thuần
Chỉ tiêu này cho biết khả năng tạo tiền từ hoạt động kinh doanh của chính doanh nghiệp. Đây là nguồn tiền được dùng để trang trải chủ yếu cho hoạt động đầu tư dài hạn và trả nợ vay của doanh nghiệp.
+ Chỉ tiêu: Lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động đầu tư/Tổng lưu chuyển tiền thuần
Đây là chỉ tiêu cho thấy khả năng tạo tiền từ từ các khoản đầu tư của doanh nghiệp (Đầu tư chứng khoán, đầu tư bất động sản, cho thuê dài hạn tài sản cố định…). Khi hệ số này cao tức dòng tiền vào từ hoạt động đầu tư chiểm tỷ trọng cao. Nếu chưa có kế hoạch tái đầu tư, doanh nghiệp sẽ dùng nguồn tiền này để ưu tiên thanh toán các khoản nợ đến hạn, nợ dài hạn …Sau đó, doanh nghiệp sẽ điều tiết vốn cho hoạt động kinh doanh chính để giảm các khoản vay ngắn hạn. Nhìn chung chỉ tiêu này, đánh giá khả năng trả nợ của doanh nghiệp khá tốt.
+ Chỉ tiêu: Dòng tiền ra để trả cổ tức/ Dòng tiền ròng từ hoạt động kinh doanh
Chỉ tiêu này nên được tính đối với các công ty cổ phần. Nó cho biết việc sử dụng dòng tiền thu được từ hoạt động kinh doanh để trả cổ tức cho các cổ đông của doanh nghiệp. Điều này đáng quan tâm trong trường hợp một số công ty có chính sách duy trì đều đặn mức trả cổ tức mặc dù phải đi vay trong điều kiện dòng tiền tạo ra từ hoạt động kinh doanh không đủ. Do đó, hệ số này luôn phải cân nhắc trong việc tính toán nhu cầu vốn thực sự của doanh nghiệp trong từng giai đoạn chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp.
3.2.4. Hoàn thiện công tác tổ chức triển khai XHTD doanh nghiệp
- Định kỳ XHTD doanh nghiệp
Hiện nay, sau khi thực hiện xếp hạng tín dụng xong, Chi nhánh NHCT Ba Đình tiến hành đánh giá định kỳ lại khách hàng hàng năm, điều này giúp ngân hàng có cái nhìn khách quan hơn về tình hình kinh doanh của doanh nghiệp trong cả năm hoạt động để từ đó, xếp hạng lại doanh nghiệp vào mức phù hợp. Tuy nhiên, việc định kỳ đánh giá lại như vậy là hơi dài và không nên quy định chung đối với tất cả các khách hàng. Do đó, để nâng cao chất lượng đánh giá hơn nữa, ngân hàng cần rút ngắn thòi gian đánh giá định kỳ theo quý hoặc theo nửa năm hoạt động của doanh nghiệp.
Ngoài ra, việc định kỳ đánh giá lại khách hàng nên tùy thuộc vào từng đối tượng khách hàng, căn cứ vào chỉ các chỉ tiêu như: quy mô dư nợ, kết quả phân loại nợ…Cụ thể là:
Đối với các doanh nghiệp có quy mô dư nợ lớn, khi xảy ra rủi ro ảnh hưởng lớn đến tỷ lệ nợ xấu của Ngân hàng, do đó đối với khách hàng có dư nợ tại Chi nhánh từ 5 tỷ đồng trở lên thì thực hiện đánh giá định kỳ 3 tháng/lần, những trường hợp còn lại nên đánh giá định kỳ 6 tháng/lần để đảm bảo cập nhật thông tin nhanh chóng về khách hàng và độ chính xác trước, trong và sau khi cho vay.
- Thành lập bộ phận chuyên trách về công tác chấm điểm và XHTD doanh nghiệp
Hiện nay ở Chi nhánh NHCT Ba Đình, Cán bộ tín dụng là người thực hiện tất cả các khâu trong quá trình cho vay (bao gồm cả chấm điểm và XHTD). Số lượng công việc nhiều, kiến thức hạn chế nên kết quả xếp hạng chưa cao. Do đó, đòi hỏi Chi nhánh cần phải sớm xây dựng một bộ phận có trình độ chuyên môn cao về chấm điểm và xếp hạng tín dụng doanh nghiệp. Điều này, sẽ giúp cho ngân hàng thực hiện công tác này chuyên nghiệp hơn, hạn chế rủi ro phát sinh trong quá trình đánh giá.
- Đào tạo và nâng cao đội ngũ cán bộ phân tích và XHTD doanh nghiệp
Con người luôn được xem là nhân tố quan trọng nhất trong tất cả mọi công việc. Một ngân hàng dù có áp dụng phương pháp và quy trình hoàn hảo, khoa học nhưng nếu đội ngũ cán bộ triển khai không hiệu quả thì công tác XHTD đó bị xem là chưa thành công. Do đó, việc nâng cao trình độ kinh nghiệm cho đội ngũ cán bộ xếp hạng được coi là vấn đề hết sức cần thiết, nó quyết định phần lớn đến mức độ chính xác của các kết quả phân tích và xếp hạng doanh nghiệp. Vì vậy, đòi hỏi cán bộ chấm điểm và xếp hạng không chỉ có kiến thức sâu về nghiệp vụ mà còn phải là người giàu kinh nghiệm thực tế, hiểu biết sâu về ngành nghề/lĩnh vực khách hàng của mình. Nói chung là cần có sự phân tích, tổng hợp về nhiều mặt, nhiều khía cạnh của vấn đề.
Để nâng cao trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ, ngân hàng cần tổ chức các khóa học đào tạo trong nội bộ ngân hàng, cử một số cán bộ ưu tú tham gia các khoá học nước ngoài để học hỏi kinh nghiệm các nước bạn nhằm đào tạo được đội ngũ giỏi chuyên môn nghiệp vụ, giàu kinh nghiệm thực tế.
Bên cạnh đó, ngân hàng cần có chính sách đãi ngộ nhân viên hợp lý. Đồng thời cần đưa ra mức thưởng phạt nghiêm minh đối với những cán bộ đạt thành tích cao hay đối với nhứng đối tượng cố tình làm sai quy định, tạo môi trường thi đua trong nội bộ ngân hàng, tránh tình trạng rủi ro đạo đức có thể xảy ra, ảnh hưởng đến kết quả xếp hạng tín dụng doanh nghiệp.
- Ứng dụng công nghệ ngân hàng để phân loại tín dụng
Việc triển khai XHTD doanh nghiệp mà Cán bộ xếp hạng áp dụng hiện nay chủ yếu theo phương pháp thủ công, mất khá nhiều thời gian mà hiệu quả chưa cao. Do đó, theo xu hướng trên thế giới, cần vận dụng công nghệ tự động hóa việc phân loại tín dụng trong thời gian tới: Công nghệ quản trị cần được quan tâm và áp dụng nhiều công cụ để thực hiện xếp hạng. Theo đó, khi khách hàng cần sử dụng dịch vụ chỉ cần cung cấp thông tin theo mẫu đã định sẵn cho nhân viên tín dụng. Căn cứ vào những thông tin này, chương trình phần mềm sẽ tự động phân loại khách hàng vào nhóm tín dụng phù hợp nhất. Sau đó kết quả xếp hạng sẽ được trả lại cho khách hàng, đi kèm với kết quả này là thông báo của ngân hàng về chấp nhận hay từ chối yêu cầu của khách hàng, chính sách khách hàng…Công tác xếp hạng tín dụng dựa trên ứng dụng công nghệ như vậy sẽ giảm rủi ro phát sinh từ sai sót và thiên vị cá nhân được loại bỏ tối đa trong hệ thống xếp hạng tự động, việc phân loại giúp ngân hàng rút ngắn thời gian, độ tin cậy tăng cao.
Ngoài ra, NHCT VN đang mua phần mềm phân tích thông tin doanh nghiệp và tiến hành xếp hạng dựa trên những chỉ tiêu, cách làm của tổ chức xếp hạng Standard & Poor và Moody’s. Do đó, thời gian tới NHCT VN nói chung và Chi nhánh NHCT Ba Đình nói riêng cần tập trung nghiên cứu để hoàn thiện chương trình này một cách nhanh nhất, để sớm đưa vào vận dụng thông suốt trong toàn hệ thống NHCT từ Trụ sở đến các Chi nhánh.
3.2.5. Ứng dụng kết quả Xếp hạng doanh nghiệp để phân loại nợ
Hiện nay hầu hết các NHTM (Trừ Ngân hàng đầu tư) đã xây dựng cho mình quy trình xếp hạng riêng, tuy nhiên việc ứng dụng kết quả xếp hạng này mới chỉ dừng lại ở việc quyết định cấp tín dụng và áp dụng chính sách khách hàng. Do đó, theo Điều 7/QĐ493-NHNN, trong thời gian tới các ngân hàng nên sử dụng kết quả chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng doanh nghiệp để phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro. Theo đó các khoản nợ của khách hàng đã được xếp hạng sẽ được phân loại vào các nhóm nợ tương ứng, cụ thể như sau:
Bảng 12: Bảng phân loại nợ theo kết quả XHTD
Kết quả XHTD
Phân loại nhóm nợ
Đánh giá của Ngân hàng
AA+
Nợ nhóm I
Nợ có khả năng thu hồi đầy đủ cả nợ gốc và lãi
đúng hạn
AA
AA-
BB+
Nợ nhóm II
Nợ có khả năng thu hồi đầy đủ cả nợ gốc và lãi đúng hạn nhưng có dấu hiệu khách hàng suy giảm khả năng trả nợ
BB
BB-
Nợ nhóm III
Nợ có khả năng tổn thất một phần nợ gốc va lãi
CC+
CC
CC-
Nợ nhóm IV
Nợ có khả năng tổn thất cao
C
Nợ nhóm V
Nợ không còn khả năng thu hồi, mất vốn
Nguồn: Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ - Ngân hàng đầu tư và phát triển VN
Trên cơ sở phân loại nợ như trên, ngân hàng thực hiện trích lập dự phòng rủi ro tùy theo các nhóm nợ và mức độ rủi ro của từng nhóm. Chỉ có như vậy, hệ thống XHTD nội bộ mới có thể phát huy hết tác dụng trong việc xác định chính xác tỷ lệ nợ xấu tại mỗi thời điểm, trợ giúp cho Chi nhánh NHCT Ba Đình trong việc kiếm soát toàn bộ tín dụng cũng như đánh giá khách hàng vay một cách tổng quát.
3.3. Kiến nghị
3.3.1. Kiến nghị với NHCT VN
- NHCT VN nên thiết lập cho mình một hệ thống thông tin tín dụng nội bộ. Đây sẽ là nơi cất trữ những kho dữ liệu riêng, đặc biệt là những khách hàng đã có quan hệ tín dụng hoặc những khách hàng bị từ chối quan hệ tín dụng với các Chi nhánh thuộc hệ thống NHCT. Khi đó, đối với khách hàng có quan hệ tín dụng tốt, cần tạo thêm nguồn thông tin để xây dựng và thực hiện chính sách khách hàng chiến lược, áp dụng các mức phí ưu đãi để thu hút nguồn vốn. Mặt khác, đối với khách hàng được đánh giá là trung bình và yếu kém cần xây dựng hệ thống thông tin dữ liệu cảnh báo trong hệ thống khi các khách hàng này tiếp cận nguồn vốn vay ngân hàng. Việc xây dựng hệ thống thông tin nội bộ, sẽ giúp cho nguồn thông tin lưu hành thông suốt trong toàn hệ thống từ Trụ sở chính đến các Chi nhánh, các điểm giao dịch và giữa các Chi nhánh với nhau. Điều đó, phục vụ đắc lực cho việc phân tích, xử lý thông tin và xếp hạng doanh nghiệp tại các Chi nhánh trong hệ thống.
- Đối với bộ phận xây dựng quy trình và hệ thống các chỉ tiêu xếp hạng doanh nghiệp
Đề nghị NHCT VN hoàn thiện quy trình và hệ thống chỉ tiêu xếp hạng đầy đủ, hợp lý hơn theo xu hướng quốc tế trong thời gian tới. Trong đó, việc xây dựng hệ thống chỉ tiêu phải được cân nhắc mức chỉ phí phải bỏ ra và tính khả thi của việc vận dụng chúng vào trong thực tế xếp hạng tín dụng đối với khách hàng là doanh nghiệp.
3.3.2. Kiến nghị với ngân hàng Nhà nước và Chính phủ
- Theo Quyết định 1253, Ngân hàng nhà nước Việt Nam đã cho phép Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) chính thức thực hiện nghiệp vụ phân tích và XHTD doanh nghiệp nhằm mục đích tăng cường công tác quản lý rủi ro trong hệ thống Ngân hàng và đánh giá năng lực của các doanh nghiệp. Đây là địa chỉ, đầu mối đầu tiên của Việt Nam thực hiện nghiệp vụ phân tích, XHTD doanh nghiệp. Tuy nhiên, các thông tin mà CIC cung cấp chủ yếu mới chỉ là tình hình quan hệ tín dụng (danh sách tổ chức tín dụng quan hệ, diễn biến dư nợ trong kỳ, tình hình vay nợ và nợ không đủ tiêu chuẩn của doanh nghiệp) và tên người đại diện chứ chưa cụ thể hóa và chưa đánh giá các chỉ tiêu tài chính và phi tài chính khác. Do đó, đề nghị CIC thu thập chi tiết hơn và đầy đủ hơn nữa về các thông tin tài chính (báo cáo tài chính năm…), Các thông tin phi tài chính (Các vấn đề về ngành nghề, thị phần doanh nghiệp, đối thủ cạnh tranh…). Bên cạnh đó, thời gian qua CIC cũng đã hoàn thành được một số sản phẩm về XHTD các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường, XHTD các doanh nghiệp hoạt động trong ngành dệt may. Đây là nguồn thông tin rất quan trọng, giúp ngân hàng có thể đối chiếu so sánh. Trong thời gian tới, đề nghị CIC sớm nghiên cứu và đưa ra thêm nhiều sản phẩm đa dạng hơn theo các ngành nghề/lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp.
Để làm được điều đó, NHNN cần làm đầu mối để CIC phối hợp với các NHTM trong việc chia sẻ dữ liệu, cập nhật thông tin định tính về khách hàng một cách nhanh chóng và có hiệu quả hơn.
- Hiện nay, chưa có cơ quan nào đảm nhận nhiệm vụ nghiên cứu và công bố các chỉ số trung bình ngành. Do đó, đề nghị trong thời gian tới Tổng cục thống kê cần sớm xây dựng, ban hành và công bố hệ số trung bình từng ngành, từng nhóm ngành để phục vụ cho quá trình phân tích và xếp hạng doanh nghiệp của các ngân hàng.
- Báo cáo tài chính là nguồn tài liệu hết sức quan trọng để đánh giá tình trạng sức khỏe của doanh nghiệp. Do đó, đề nghị NHNN cần đưa ra các mức chuẩn thống nhất về phương pháp lập, cũng như cách thức hạch toán các khoản mục quan trọng…Ngoài ra, việc lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ nên là quy định bắt buộc đối với các doanh nghiệp trong thời gian tới.
- Từ kinh nghiệm của các quốc gia phát triển trên thế giới và từ thực tế nền kinh tế nước ta hiện nay khi mà thị trường tài chính, thị trường chứng khoán mới hình thành và còn sơ khai, đề nghị Chính phủ sớm ban hành Nghị định cho phép thành lập công ty chuyên nghiệp XHTD doanh nghiệp, đặt dưới sự quản lý của NHNN và khi thị trường chứng khoán phát triển sẽ chuyển giao vai trò này cho Ủy ban chứng khoán nhà nước. Mô hình hoạt động này là công ty cổ phần, trong đó có vốn góp của các NHTM, các Ủy ban chứng khoán nhà nước, của các Tổ chức xếp hạng trên thế giới. Việc lựa chọn mô hình này sẽ tận dụng tốt các lợi thế như có cơ hội tiếp cận, học hỏi kinh nghiệm, đảm bảo tính chuyên nghiệp khi đánh giá. Thông tin về XHTD doanh nghiệp là tài liệu quan trọng để các NHTM tham khảo.
KẾT LUẬN
Cuộc khủng hoảng kinh tế hiện nay đã và đang đặt ra cho nền kinh tế thế giới nói chung và nền kinh tế Việt Nam những khó khăn và thách thức không nhỏ. Mặt khác nó cũng buộc chúng ta phải nhìn nhận và đánh giá nghiêm túc hơn hoạt động của thị trường mà nhất là hệ thống thị trường tài chính với lực lượng nòng cốt là các tổ chức tài chính và ngân hàng thương mại. Hơn bao giờ hết, vấn đề quản trị rủi ro ngân hàng mà trọng tâm là Xếp hạng tín dụng doanh nghiệp là nhiệm vụ cấp thiết hàng đầu đối với các ngân hàng thương mại để bước đầu hạn chế được những rủi ro tiềm ẩn đồng thời tìm ra hướng đi riêng cho mình trong tương lai.
Đề tài nghiên cứu xin được đề cập đến một số khía cạnh cơ bản nhất của công tác hoàn thiện công tác XHTD Doanh nghiệp để làm cơ sở lý luận cho việc giải quyết những yếu kém và hạn chế của hệ thống XHTD doanh nghiệp tại NHCT VN nói chung và Chi nhánh NHCT Ba Đình nói riêng. Trên cơ sở tìm hiểu về thực tiễn vấn đề này tại Việt Nam và Quốc tế, em xin được đề xuất một vài giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện hơn công tác XHTD doanh nghiệp tại Chi nhánh, từ đó góp phần giảm thiểu rủi ro và nầng cao chất lượng cho vay của Chi nhánh hơn nữa trong thời gian tới.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 22471.doc