Trong thương mại quốc tế, xuất khẩu không chỉ để thu ngoại tệ về mà để đảm bảo cho nhu cầu nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ khác nhằm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng, tăng trưởng nền kinh tế và tiến tới xuất siêu, tích luỹ ngoại tệ.
Xuất khẩu và nhập khẩu trong thương mại quốc tế vừa là điều kiện vừa là tiền đề của nhau, xuất khẩu để nhập khẩu và nhập khẩu để phát triển sản xuất. Đặc biệt trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay, để phát triển nền kinh tế, tránh được nguy cơ tụt hậu với thế giới, đồng thời còn tìm cách đuổi kịp các nước khác, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, trong đó nhập khẩu máy móc, thiết bị, công nghệ hiện đại là một điều kiện tiên quyết. Muốn nhập khẩu, chúng ta phải có ngoại tệ. Có thể thấy rằng, xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ là nguồn thu quan trọng nhất vì: Nó chiếm tỷ trọng lớn, đồng thời là khả năng đảm bảo trả được các khoản đi vay, viện trợ. trong tương lai. Như vậy, cả về dài hạn và ngắn hạn, xuất khẩu là tiền đề quan trọng cho nhập khẩu.
Như vậy, vai trò của xuất khẩu là không thể phủ nhận đối với nước ta, kể từ khi chuyển đổi tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường với khẩu hiệu: “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước” thì nền kinh tế nước ta đã có sự chuyển biến rõ rệt và đã đạt được những kết quả kỳ diệu. Đến nay, chúng ta đã có quan hệ với hơn 200 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Hàng hoá Việt Nam đã được xuất khẩu đi nhiều nước, kim nghạch xuất khẩu có xu hướng ngày cang tăng qua các năm. Nếu năm 1990 giá trị xuất khẩu nước ta là 2,404 tỷ USD thì đến năm1995 là 5,4489 tỷ USD, năm 2000 là 14,9 tỷ USD và năm 2003 là 19,8 tỷ USD.
68 trang |
Chia sẻ: DUng Lona | Lượt xem: 1298 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoàn thiện hoạt động xuất khẩu theo hình thức gia công xuất khẩu tại Công ty cổ phần may Nam Hà, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
năng (có bản mẫu của một số mặt hàng gia công nộp kèm theo bài).
+ Chuẩn bị vật tư :
Trong trường hợp vật tư do Công ty chuẩn bị, phòng kế hoạch có nhiệm vụ chuẩn bị vật tư theo yêu cầu của khách hàng.
Nếu vật tư là do khách hàng chuẩn bị thì Công ty có trách nhiệm chuẩn bị phương tiện để tiếp nhận. Việc tiếp nhận nguyên vật liệu, phụ liệu là do nhân viên phòng kế hoạch đảm nhiệm. Để nhận được nguyên vật liệu thì Công ty phải làm các thủ tục hải quan cần thiết. Một thủ tục quan trọng là phải có tờ khai nhập khẩu, packing list, invoice (có bản mẫu được nộp kèm theo bài).
Tình hình nhập khẩu nguyên vật liệu của Công ty qua các năm được thể hiện qua bảng sau.
H1: Bảng tình hình nhập nguyên vật liệu của Công ty.
Danh mục
Đơn vị tính
Năm 2001
Năm 2002
Năm 2003
Số lượng
Giá trị (USD)
Số lượng
Giá trị (USD)
Số lượng
Giá trị (USD)
Vải, NL May
Yds
803740
1151970
1210106
1734388
819820
1419866
Phụ liệu
274130
421725
540477
Tổng
1426100
2156113
1960343
(Nguồn: phòng kế hoạch Công ty cổ phần may Nam Hà.)
Qua bảng trên ta thấy số lượng và gía trị nguyên vật liệu nhập của Công ty liên tục tăng theo các năm. Năm 2002 so với năm 2001, giá trị vải, nguyên liệu may tăng 50,6% và năm 2003 so với năm 2001 tăng 23,3%.
Phụ liệu gia công năm 2002 tăng so với năm 2001 là 53,8%, năm 2003 tăng so với năm 2001 là 97,2%.
Việc tăng nguyên liệu, phụ liệu gia công này là do lượng hàng gia công của các năm đều tăng. Tuy nhiên, nguyên liệu và phụ liệu gia công tăng không tương ứng là do đặc điểm hàng hoá gia công ở các năm.
+ Lập kế hoạch gia công:
Căn cứ vào khả năng sản xuất của Công ty, các quy định trong hợp đồng, tình hình nguyên vật liệu...các bộ điều độ tiến hành lập kế hoạch gia công bao gồm: kế hoạch cắt, kế hoạch sản xuất sau đó chuyển tới phân xưởng căt, phân xưởng may để tiến gia công.
Một kế hoạch cắt, sản xuất của mỗi mã hàng (có mỗi số mẫu kế hoạch cắt, sản xuất của một số mã hàng nộp theo bài) là khác nhau nhưng thường gồm những nội dung sau:
+ Số lượng mỗi tổ phải làm.
+ Màu sản phẩm.
+ Cỡ sản phẩm.
+ Số lượng mỗi loại.
Ngoài những nội dung trên còn phải ghi rõ ngày vào truyền, ngày trả hàng.
* Triển khai gia công:
Sau khi nhận được kế hoạch cắt, sản xuất, phân xưởng cắt và phân xưởng may sẽ tiến hành công việc của mình. Trong quá trình cắt, may có các công việc sau:
+ Theo dõi tiến độ sản xuất :
Công tác theo dõi sản xuất được Công ty giao cho cán bộ điều độ phòng kế hoạch - nghiệp vụ. Trong quá trình sản xuất, các cán bộ thường xuyên lấy số liệu vào chuyền và ra chuyền may. Công tác theo dõi tiến độ sản xuất được thực hiện bằng văn bản theo từng mã hàng. Trong trường hợp tiến độ sản xuất chậm, các cán bộ cần phải tìm hiểu nguyên nhân và báo cáo kịp thời tình hình sản xuất cho trưởng phòng kế hoạch nghiệp vụ để có hướng giải quyết.
+ Phối hợp với khách hàng: trong quá trình sản xuất, cán bộ điều độ có trách nhiệm phối hợp với khách hàng để giải quyết các vướng mắc không những trong quá trình sản xuất mà cả trong quá trình thực hiện hợp đồng.
+ Phối hợp trong nội bộ.
Với bộ phận phục vụ sản xuất : khâu vận chuyển nguyên phụ liệu, bán thành phẩm và cung ứng bao bì. Cán bộ điều độ cung cấp những thông tin về loại bao bì, in ấn cho bộ phận phục vụ sản xuất để cùng phối hợp thực hiện.
Với phòng kỹ thuật : về định mức, thông số kỹ thuật, mẫu mã.
Với bộ phận kho thành phẩm : chuyển các yêu cầu về đống gói và vệ sinh công nghiệp cùng chi tiết đóng gói thành phẩm.
* Kiểm tra và đóng gói sản phẩm.
Sau khi sản phẩm sản xuất xong thì Công ty phải kiểm tra xem sản phẩm làm ra có đúng yêu cầu không. Việc kiểm tra được giao cho phòng kỹ thuật của Công ty làm. Sau khi hàng hoá được kiểm tra, nếu đáp ứng yêu cầu Công ty sẽ tiến hành đóng gói sản phẩm. Việc đóng gói được giao cho bộ phận đóng gói của Công ty làm.
2.3.1.4 Giao hàng xuất khẩu.
Sau khi hàng hoá đã chuẩn bi xong cán bộ xuất nhập khẩu sẽ lam các thủ tục hải quan cần thiết để xuất khẩu như: xin giấy phép xuất khẩu, tờ khai xuất khẩu (có bản mẫu nộp theo bài) , nộp lệ phí xuất khẩu. Sau khi đã làm các thủ tục cần thiết và chuẩn bị đủ hàng hoá và phương tiện Công ty sẽ tiến hành giao hàng.
2.3.1.5 Thanh toán hợp đồng.
Thông thường sau khi Công ty giao hàng khoảng 10 - 15 ngày thì khách hàng sẽ thanh toán tiền gia công.
Phương thức thanh toán chủ yếu hiện nay Công ty sử dụng đó là thanh toán bằng L/C. Ngoài ra đối với một số khách hàng quen thuộc của Công ty thì Công ty có thể giao hàng trước, sau đó khách hàng sẽ trực tiếp đến thanh toán cho Công ty. Phương pháp này Công ty rất ít sử dụng và chỉ dùng với những khách hàng quen thuộc.
2.3.1.6 Kết quả đạt được trong những năm vừa qua.
Những năm qua, nhờ sự tích cực của lãnh đạo Công ty trong việc cải tiến sản phẩm, tìm kiếm bạn hàng và sự nỗ lực phấn đấu của công nhân viên trong Công ty. Do đó sản phẩm của doanh nghiệp bán ra trên thị trường ngày càng tăng, điều đó được thể hiện qua bảng dưới đây.
H2: Sản lượng gia công của Công ty ba năm gần đây
Chỉ tiêu
Năm2001
Năm2002
Năm2003
Năm2002/2001
Năm2003/2002
Chênh lêch
Tỷ lệ
Chênh lêch
Tỷ lệ
SLSP(chiếc)
248604
348167
490928
99563
40%
142761
41%
(Nguồn : Phòng KH-NV Công ty cổ phần may Nam Hà)
Qua số liệu trên ta thấy, số lượng sản phẩm bán ra của Công ty tăng mạnh trong những năm gần đây. Năm 2001, bán ra là 248604 sản phẩm thì đến năm 2002 là 348167, tăng 99563 sản phẩm, tương đương 40%. Năm 2003, sản lượng bán ra của Công ty tăng với tỉ lệ cao hơn năm 2002, số lượng bán ra là 490928, tăng 142761 sản phẩm.
Ngoài doanh số bán ra, các chỉ tiêu về doanh thu, lợi nhuận, lương bình quân trên đầu người cũng tăng mạnh trong ba năm qua. Kết quả đó được thể hiện qua bảng dưới đây.
H3: Một số chỉ tiêu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
chỉ tiêu
Năm 2001
Năm 2002
Năm 2003
Năm2002/2001
Năm2003/2002
Chên lêch
Tỷ lệ
Chên lêch
Tỷ lệ
Doanh thu
7710
11608
16115
3898
50,56
4507
38,83%
Chi phí
7475
11113
15788
3638
48,67%
4675
42,07%
LNtrướcthuế
235
495
327
264
112,34%
-168
-33,9%
Thunhập bq/ng
562
619
721
57
10,14%
102
16,48%
(Nguồn : Báo cáo của HĐQT về tình hình sx-kd các năm 2001-2003)
Qua bảng trên ta thấy doanh thu, thu nhập trên đầu của doanh nghiệp có sự tăng mạnh qua các năm.
Năm 2001, doanh thu là 7710 triệu thì tới năm 2002 là 11608 triệu, tăng 50,56% và năm 2003 tuy tỷ lệ tăng nhỏ hơn nhưng lượng tuyệt đối lại tăng lớn hơn.
Thu nhập của người lao động cũng tăng cao, năm 2001 là 562 nghìn đồng trên một người, năm 2002 là 619 nghìn đồng trên một người, tăng10,14% và tới năm 2003 tăng 16,48%.
Tuy nhiên các chỉ tiêu về chí phí, lợi nhuận trước thuế có sự thay đổi không có lợi. Năm 2003, lợi nhuận trước thuế của doanh nghiệp giảm so với năm 2002, sự gia tăng về chi phí lớn hơn sự gia tăng về doanh thu.
Qua các chỉ tiêu trên ta thấy, quy mô của doanh nghiệp ngày càng mở rộng, tuy nhiên sản xuất của doanh nghiệp chưa thực sự hiệu quả.
Theo hình thức gia công xuất khẩu thì tình hình gia công của Công ty qua các năm được thể hiện qua các số liệu sau.
H4: Tỷ trọng hàng hóa theo các phương thức gia công xuất khẩu
Danh mục
Năm 2001
Năm 2002
Năm 2003
Giá trị(Tr. đ)
Tỷ trọng(%)
Giá trị (Tr.đ)
Tỷ trọng(%)
Giá trị (Tr.đ)
Tỷ trọng (%)
Xuất T.T
4228
58,4%
6326
61,6%
9010
66,8%
Nhận uỷ thác
413
5,7%
0
0%
276
2%
Xuất uỷ thác
449
6,2
0
0%
889
6,6%
Gia công cho đơn vi khác
224
3,1%
1507
14,2%
558
4,1%
Đưa đi gia công
1926
26,6%
2565
24,2%
2746
20,4%
DT xuất khẩu
7240
100%
10586
100%
13479
100%
(Nguồn: phòng kế hoạch Công ty cổ phần may Nam Hà)
Qua số liệu trên ta thấy hình thức gia công xuất khẩu trực tiếp của Công ty chiếm một tỷ trọng cao và tăng qua các năm, năm 2001là 58,4%; năm 2002 là 61,6%, năm 2003 là 66,8%.
Ngoài ra hình thức đưa đi da công cũng chiếm một tỷ trọng cũng tương đối cao nhưng có xu hướng giảm. Năm 2001 là 26,6%, năm 2002 là 24,2%, năm 2003 là 20,4%.
Các hình thức xuất khẩu khác của Công ty chiếm một tỷ lệ nhỏ và có xu hướng giảm dần trong tổng doanh thu xuất khẩu của Công ty. Năm 2001 là 15%, năm 2002 là 14,2%, năm 2003 là 12,8%.
Theo mặt hàng gia công ta có kết quả ở bảng dưới đây.
2.3 Nhận xét đánh giá hoạt động xuất khẩu theo hình thức gia công xuất khẩu tại Công ty cổ phần may Nam Hà.
2.3.1 Điểm mạnh.
+ Công ty có kinh nghiệm trong sản xuất kinh doanh hàng may mặc: được thành lập từ năm 1969, qua hơn 30 năm trưởng thành và phát triển Công ty đã có nhiều kinh nghiệm trong sản xuất và kinh doanh hàng may mặc. Vì vậy, Công ty đã được nhiều bạn hàng trong và ngoài nước biết đến, sản phẩm của Công ty ngày càng được nâng cao. Đây được coi là thuận lợi của Công ty so với đối thủ khác.
+ Chi phí lao động rẻ: lao động hiện nay của Công ty chủ yếu là ở nông thôn do vậy chi phí về nhân công của Công ty so với các doanh nghiệp khác ở TPHM, Hà Nội, Hải Phòng... là rẻ hơn tương đối nhiều. Vì vậy, Công ty chi phí gia công sản phẩm của Công ty nhỏ hơn, do đó có điều kiện giảm giá gia công xuống thấp hơn các đối thủ.
+ Lãnh đạo, CN-VC và lao động trong Công ty, cần cù chịu khó, đoàn kết, thống nhất cao, quyết tâm xây dựng đơn vị ngày càng phát triển vững chắc, toàn diện.
+ Hoạt động sản xuất kinh doanh đạt được sự ổn định và phát triển liên tục trong các năm qua sau khi cổ phần hoá với mức tăng trưởng và doanh thu bình quân 30%/năm và doanh thu gia công tại đơn vị tăng bình quân 25%/năm.
+ Lực lượng lao động của Công ty liên tục tăng trong các năm qua, đáp ứng nhu cầu lao động cho sản xuất và thay thế những lao động nghỉ việc, chuyển công tác.
+ Đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình phát triển của doanh nghiệp. Quá trình đầu tư phát triển từng bước phát huy tác dụng tạo sự hấp dẫn khách hàng và củng cố niềm tin của CN-VC, lao động trong doanh nghiệp.
2.3.2 Điểm yếu.
+ Tiềm lực tài chính của Công ty còn hạn chế : lượng vốn hiện nay của Công ty là nhỏ vào khoảng 15 tỷ đồng.. Chính điều này đã hạn chế rất nhiều tới việc mở rộng quy mô sản xuất của Công ty, tới việc trang bị thêm, mua thiết bị mới.
+ Trình độ cán bộ công nhân viên chưa cao : hiện nay tổng số lao động của Công ty là 800 lao động. Trong đó, lao động có trình độ đại học là 13 chiếm 1,67%, lao động có trình độ cao đẳng - trung cấp là 58 người chiếm 7,44% còn lại là các lao động khác. Qua số lượng trên ta thấy lao động được đào tạo của Công ty có trình độ chưa cao, còn thiếu nhiều lao động có trình độ đại học. Đây là một hạn chế của Công ty so với các đối thủ khác.
+ Cơ sở vật chất kỹ thuật còn yếu kém : hiện nay nơi làm việc dành cho lao động quản lý, các nhà kho, phân xưởng, các trang thiết bị phục vụ cho sản xuất, cho công việc quản lý còn nhiều hạn chế. Đặc biết là trang thiết bị, các phương tiện dành cho công việc quản lý.
+ Trình độ quản lý thấp : đây là một yếu tố rất quan trọng ảnh hưởng tới kết quả sản xuất kinh doanh của Công ty. Nhận thức được điều này, trong những năm qua Công ty đã rất chủ trọng tới công tác quản lý. Tuy nhiên, trình độ quản lý của Công ty vẫn còn hạn chế.
+ Các chi phí sản xuất của Công ty như, nước, điện, vận chuyển, bảo hiểm... đều có xu hướng tăng điều này làm chi phí sản xuất của Công ty tăng , do đó ảnh hưởng tới kết quả sản xuất kinh doanh của Công ty.
2.3.3 Những tồn tại, thiếu sót.
+ Lao động của Công ty tuy cần cù, chịu khó nhưng khả năng sáng tạo, nhanh nhậy để thích ứng với những thay đổi lớn của thị trường, khách hàng và chính sách Nhà nước chưa cao. Năm 2003 khi có sự thay đổi của Nhà nước về tiền lương tối thiểu, Công ty đã lúng túng trong việc điều chỉnh đơn giá tiền lương sản phẩm tác động không tốt tới tư tưởng CN-VC, làm mất cân đối tài chính của doanh nghiệp. Khi có sự thay đổi cơ cầu tổ chức- lao động một số cán bộ lao động, ngại khó.
+ Tính chủ động, tích cực trong việc tổ chức, điều hành, thực hiện kế hoạch công tác, sản xuất chưa cao, các đơn hàng thường rất gấp, vội, kéo dài thời gian làm việc về cuối mã, sát ngày giao hàng dẫn tới kéo dài thời gian lao động, điện - hơi và chi phí làm thêm giờ, tác động không tốt tới cán bộ công nhân viên.
+ Tư tưởng cục bộ, cá nhân còn khá nặng nề trong một bộ phận cán bộ công nhân viên, nên sự phối hợp lao động giữa các bộ phận, giữa lao động trong từng bộ phận là chưa nhịp nhàng dẫn tới hiệu quả công tác, năng suất lao động chưa cao.
+ Hiện tượng lãng phí thời gian lao động, điện, nước, điện thoại và sử dụng cẩu thả máy móc - thiết bị vẫn còn tồn tại ở một số cán bộ - công nhân, lao động.
+ Quy chế sáng kiến, cải tiến kỹ thuật chậm triển khai nên tinh thần thi đua, sáng tạo trong quản lý điều hành, phục vụ sản xuất và sản xuất chưa sâu rộng, lôi cuốn đông đảo công nhân - lao động tham gia, tạo nên bước chuyển biến lớn về năng suất lao động.
+ Một số ít CN-VC, lao động ý thức kỷ luật chưa cao, chưa tự giác thực hiện nội quy, quy chế doanh nghiệp và nhiệm vụ được phân công.
2.3.4 Nguyên nhân.
2.3.4.1 Nguyên nhân chủ quan.
Công tác kế hoạch quản lý, điều động sản xuất, tiết kiệm chi phí chưa triệt để, giá thành gia công cao giảm lợi nhuận. Việc điều phối kế hoạch còn chưa nhịp nhàng dẫn đến các khâu trong dây chuyền chưa liên hoàn nhiều khi còn phải chờ đợi dẫn đến thời gian sản xuất dài và năng xuất lao động chưa cao.
Công tác đào tạo lao động của Công ty chưa thực sự được chú trọng cho nên tay nghề của công nhân khi vào làm việc là chưa cao. Ngoài ra trong Công ty hay có sự sáo chộn lao động cho nên kết quả lao động là chưa cao.
Công ty chưa quan tâm tới việc thu hút lao động có trình độ đặc biệt là lao động quản lý.
Chế độ khen thưởng, kỷ luật lao động của Công ty chưa được thực thi một cách nghiêm chỉnh dẫn tới việc chấp hành kỷ luật lao động của công nhân chưa tốt.
2.3.4.2 Nguyên nhân khách quan.
Các cở sở ngành may ngày càng tăng về số lượng, sự cạnh tranh trong nước và khu vực trong ngành may đang diễn ra gay gắt, tăng sức cạnh tranh cả về khách hàng và chât lượng sản phẩm dẫn tới đơn gia gia công thấp.
Yêu cầu của khách hàng đỏi hỏi ngày càng cao sự chinh xác về mặt kỹ thuật, thông số, màu sắc, số lượng, chứng từ chuyển hàng...việc cung cấp nguyên phụ liệu của khách hàng đôi khi không kịp thời, không đồng bộ, chất lượng không đảm bảo, mốt số mã hàng với số lượng sản phẩm ít, nhiều cỡ, nhiều màu, thời gian hàng gấp ảnh hưởng tới kế hoạch sản xuất và năng suất lao động của Công ty.
Nhà nước chưa có định hướng rõ ràng và cụ thể để động viên, khuyến khích phát triển hàng gia công may mặc. Các thủ tục vay vốn và các thủ tục xuất nhập khẩu còn rườm rà cũng cản trở hoạt động gia công xuất khẩu của Công ty.
Chươn iii : một số giải pháp hoàn thiện hoạt động xuất khẩu theo hình thức gia công xuất khẩu tại Công ty cổ phần may Nam Hà.
3.1 Phương hướng phát triển và những mục tiệu của ngành, doanh nghiệp về hoạt động xuất khẩu theo hình thức gia công.
3.1.1 Phương hướng phát triển của ngành.
* Dự kiến những xu hướng chính trên thị trường may mặc là:
+ Hàng may mặc theo phong cách phương Tây tăng lên.
+ Kiểu may công sở sẽ được phổ biến.
+ Thẩm mỹ về hàng may mặc của lứa tuổi trung niên và cao niên sẽ được cải thiện.
+ Hàng may mặc cho trẻ em thay đổi khái niệm tiêu dùng và thiết kế.
+ Vải sợi, phụ liệu, thiết kế kiểu dáng và kỹ thuật sẽ có những bước đột phá.
+ Đồ thể thao vẫn được ưa thích.
+ Hàng may đo sẽ thông dụng.
* Phướng hướng phát triển của ngành dệt may.
Từ nay đến năm 2010, công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước được đẩy mạnh với những thuận lợi cơ bản về nhiều mặt. Đó là kinh tế cả nước có tốc độ tăng trưởng khá và ổn định, lạm phát được kiềm chế, nguồn vốn đầu tư (bao gồm cả tích luỹ từ GDP và vốn vay nước ngoài) ngày càng tăng... tuy nhiên vẫn còn nhiều khó khăn, đặc biệt là trình độ công nghệ của các ngành kinh tế, kể cả trình độ quản lý, trình độ tay nghề của lực lượng lao động, khả năng tài chính eo hẹp, cuộc đấu tranh giành thị trường của các doanh nghiệp Việt Nam diễn ra gay gắt, đặc biệt là thị trường các nước phát triển như EU, Nhật, Mỹ ...
Nhận thức được vị trí hàng đầu của mình trong quá trình phát triển đất nước, ngành công nghiệp dệt may đã định hướng phát triển đến năm 2010 và đã triển khai thực hiện theo những quan điểm sau :
Tham gia một cách tích cực với vai trò là động lực và nòng cốt của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Phát triển sản xuất với nhịp độ cao, bảo đảm đáp ứng những nhu cầu của thị trường, những yêu cầu của xã hội.
Chuyển mạnh từ nền công nghiệp gia công sang nền công nghiệp sản xuất, nâng dần tỷ trọng xuất khẩu FOB trong tổng kim ngạch xuất khẩu sản phẩm dệt may, phấn đấu đến năm 2010 đạt 80%.
Phát triển ngành công nghiệp may toàn diện, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá ngành dệt may, đặt biệt có hướng đầu tư hợp lý, cân đối giữa ngành dệt và may theo hướng đi thẳng vào hiện đại, hạn chế nhập khẩu những thiết bị đã qua sử dụng nhưng công nghệ còn tiên tiến, chấp dứt nhập khẩu những thiết bị còn mới nhưng lạc hậu.
Đẩy mạnh xuất khẩu trên cả ba mặt, tăng nhanh kim ngạch, đa dạng hoá mặt hàng và mở rộng thị trường. Tăng nhanh xuất khẩu những sản phẩm đã qua chế biến, hạn chế tiến tới không xuất khẩu sản phẩm thô, kể cả sản phẩm có nguyên liệu sẵn, dữ trữ lớn.
Theo quan điểm trên, bộ công nghiệp đã xây dựng kế hoạch phát triển ngành dệt may đến năm 2010. Dự báo về xuất khẩu hàng may mặc sang thị trường trong những năm tới như sau :
Đẩy mạnh công tác thiết kế mẫu thời trang, kiểu dáng sản phẩm may. Tập trung đầu tư hệ thống quản lý cải tiến sản xuất, quản lý chất lượng, áp dụng các biện pháp tiết kiệm nhằm tăng nhanh năng xuất lao động, giảm giá thành sản xuất, nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm may Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Đẩy mạnh đầu tư phát triển những ngành trồng bông, dâu tằm, các loại cây có xơ, tơ nhân tạo, các loại nguyên liệu, phụ liệu, hoá chất, thuốc nhuộm cung cấp cho ngành dệt may tiến tới tự túc nguyên liệu, phụ liệu nhằm thay thế nhập khẩu.
Khuyến khích mọi hình thức đầu tư, kể cả đầu tư nước ngoài, để phát triển cơ khí dệt may, tiến tới cung cấp phụ tùng, lắp ráp và chế tạo thiết bị dệt may trong nước.
* Các chỉ tiêu chủ yếu.
Kim ngạch xuất khẩu : đến năm 2005 đạt 4000 – 5000 triệu đôla Mỹ. Đến năm 2010 đạt 8000 – 9000 triệu đôla Mỹ
Tỷ lệ sử dụng nguyên phụ liệu nội địa trên sản phẩm dệt may xuất khẩu đến năm 2005 chiếm trên 50%. Đến năm 2010 trên 75%.
Tổng vốn đầu tư phát triển : tổng vốn đầu tư phát triển ngành dệt may Việt Nam giai đoạn 2001 – 2005 là 35000 tỷ đồng.
3.1.2 Phương hướng phát triển của doanh nghiệp.
3.1.2.1 Phương hướng phát triền hoạt động gia công xuất khẩu trong những năm tới của Công ty cổ phần may Nam Hà.
Căn cứ tình hình hiện nay, những kết quả đạt được trong những năm qua và yêu cầu của khách hàng, Công ty cổ phần may Nam Hà đã đề ra kế hoạch về hoạt động gia công xuất khẩu, mang tính quyết định tới sự phát triển của Công ty trong tương lai.
Trọng những năm tới hoạt động chủ yếu của doanh nghiệp vẫn là hoạt động gia công xuất khẩu và chủ yếu vẫn là hoạt động gia công đơn thuần, trong đó, mặt hàng chủ yếu vẫn là áo jacket. Công ty cũng đồng thời phấn đấu nâng cao hơn nữa tỷ lệ hình thức gia công mua đứt bán đoạn (FOB) trong tổng giá trị gia công xuất khẩu.
Trong những năm tới Công ty phấn đấu tốc độ tăng doanh thu từ hoạt động gia công tăng trung bình từ 25% - 30% /năm.
Về thị trường gia công: củng cố thị trường truyền thống của doanh nghiệp hơn nữa, bên cạnh đó phải tích cực tìm kiến cơ hội làm ăn với thị trường Mỹ, Đông Âu, Châu Phi...
Về mặt hàng gia công : bên cạnh việc tập trung phát triển những mặt hàng chủ lực, Công ty cũng chủ trương cho ra đời những sản phẩm mới để đáp đứng tốt hơn nữa nhu cầu của khách hàng.
3.1.2.2 Mục tiêu phát triển năm 2004 của Công ty cổ phần may Nam Hà.
Căn cứ vào những thuân lợi và khó khăn trong những năm đã qua.
Căn cứ vào khả năng, năng lực của Công ty và nhu cầu về hàng hoá gia công của một số đơn vị trong và ngoài tỉnh.
Căn cứ vào số lượng hàng hoá, đơn giá hàng hoá gia công đã ký và sẽ ký hợp đồng với khách hàng trong và ngoài nước.
Công ty cổ phần may Nam Hà đã đề ra mục tiêu phát triển như sau
H1: Bảng về số lượng và giá trị sản phẩm.
Stt
Danh mục
Sốlượng SP(chiếc/bộ)
Trị giá
01
Tổng doanh thu
720000
20000
Năng lực thực hiện tại Công ty
570000
15000
Trong đó:Hàng XK dệt thoi
350000
13000
Hàng xuất khẩu dệt
200000
1000
Hàng nội địa
20000
1000
02
150000
5000
( Nguồn : Phòng KH- NV Công ty cổ phần may Nam Hà)
3.2 Một số giải pháp hoàn thiện hoạt động xuất khẩu theo phương thức gia công.
3.2.1 Nâng cao chất lượng sản phẩm.
Là biện pháp có tổ chức then chốt và vững chắc nhất để tăng khả năng cạnh tranh hàng may mặc xuất khẩu của Công ty. Chất lượng sản phẩm từ trước đến nay luôn là đòi hỏi đầu tiên, quan trọng nhất đối với bất kỳ hàng hoá nào được lưu thông trên thị trường. Đồng thời chất lượng là mục tiêu có ý nghĩa chiến lược và là phương tiện cơ bản để nâng cao khả năng cạnh tranh của mọi doanh nghiệp trên thị trường.
Đối với các doanh nghiệp xuất khẩu may mặc, điều đó càng có ý nghĩa quan trọng bởi sự thắng bại trong cuộc cạnh tranh trên thị trường phụ thuộc chủ yếu vào chất lượng sản phẩm, sự đa dạng, cập nhật về kiểu dáng, mẫu mã, sự phong phú về mầu sắc, sự hợp lý của giá cả và điều kiện mua bán giao nhận Trong đó cạnh tranh về chất lượng, đặc biệt là chất lượng thẩm mỹ, kiểu mốt là sự cạnh tranh quan trọng nhất trên thị trường hàng may mặc. Đặc điểm hàng may mặc là mang tính thời vụ và tính thời trang do đó đòi hỏi mẫu mã phong phú và đa dạng, luôn thay đổi. Tiêu chuẩn chất lượng của các thị trường giàu tiềm năng như EU, Nhật Bản, Hoa Kỳ đòi hỏi rất cao, ví dụ như: Nhật Bản yêu cầu cao về chất lượng, nguyên liệu, sản xuất đảm bảo được trách nhiệm đối với sản phẩm sản xuất và bảo vệ người tiêu dùng. Thị trường EU thì yêu cầu hàng may mặc cũng rất cao, nhu cầu bảo vệ thân thể chỉ 10 – 15% giá trị sản phẩm, còn 85- 90% là hàm lượng chất xám sản xuất ra sản phẩm. Do đó, để tạo uy tín và chỗ đứng chắc trên thị trường, đủ sức thắng được cuộc cạnh tranh khốc liệt hiện nay đòi hỏi Ban lãnh đạo Công ty phải đặt vấn đề chất lượng sản phẩm như giải pháp quan trọng nhất và thực hiện đồng bộ các biện pháp thiết thực sau:
Thực hiện hoạt động tạo nguồn và mua nguyên phụ liệu đầu vào cho sản xuất sản phẩm một cách cẩn thận, nghiêm túc và có hiệu quả. Bởi chất lượng sản phẩm đầu ra phụ thuộc rất nhiều vào tình trạng nguyên phụ liệu đầu vào. Hoàn thiện công tác bảo quản tốt nguyên phụ liệu, tránh hư hỏng mất phẩm chất, đặc biệt là nguyên liệu sợi vải bông.
Tuân thủ nghiêm ngặt với bên gia công về nguyên phụ liệu, công nghệ và quy trình sản xuất theo đúng mẫu và tài liệu kỹ thuật do bên đặt gia công cung cấp, như yêu cầu về mã hàng, quy cách kỹ thuật, nhãn mác bao bì
Thực hiện tốt công tác tiêu chuẩn hoá và kiểm tra chất lượng sản phẩm trong những khâu của công đoạn sản xuất, là biện pháp quan trọng để quản lý và nâng cao chất lượng sản phẩm. Đây cũng là cơ sở để Công ty phấn đấu nâng cao trình độ sản xuất, dễ dàng tìm các sai sót và đưa ra những biện pháp khắc phục kịp thời.
Tập trung đào tạo, bồi dưỡng trình độ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ công nhân viên làm công tác kiểm tra chất lượng sản phẩm. Bên cạnh đó cần tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho hệ thống kiểm tra, giám định về chất lượng, hệ thống đo lường thử nghiệm, hệ thống thông tin về tiêu chuẩn chất lượng và các trang thiết bị chuyên dùng khác.
Trong uỷ thác xuất khẩu, Công ty cần lựa chọn những lô hàng có chất lượng đảm bảo, tránh mất uy tín khi thực hiện uỷ thác các lô hàng phẩm chất kém. Để cho sản phẩm may mặc cạnh tranh và chiếm lĩnh trên thị trường quốc tế (đặc biệt xuất khẩu theo phương thức FOB) thì việc phổ cập các chứng chỉ ISO phải trở thành giấy thông hành không thể thiếu đối với các doanh nghiệp may, hơn nữa chứng chỉ ISO là “chứng minh thư chất lượng” đáng tin cậy để thâm nhập vào các thị trường khó tính như EU, Nhật Bản, Hoa Kỳ Vì thế Công ty cần tham gia vào các chương trình thực hiện các quy định và biện pháp nâng cao quản lý chất lượng, tuân thủ các quy định của tổ chức tiêu chuẩn chất lượng thế giới.
Đối với khâu sản xuất: Tận dụng tối đa năng lực sẵn có, tiếp tục đầu tư đổi mới và nâng cấp máy móc thiết bị, công nghệ hiện đại đồng bộ đúng hướng có trọng điểm. Tập trung vào các dây chuyền chuyên dụng có khả năng sản xuất sản phẩm chất lượng cao, nhằm tạo nên sự thay đổi cơ bản về chất trong năng lực sản xuất của Công ty. Công ty cần bổ sung thêm máy móc thiết bị hiện đại cho tất cả các bộ phận may của xí nghiệp, từ khâu pha, cắt, may, ráp quần áo đế khâu cắt chỉ đóng gói. Việc đầu tư đổi mới trang thiết bị, Công ty có thể thực hiện theo nhiều cách như: Liên doanh liên kết; tự doanh nghiệp bỏ vốn đầu tư; hàng năm Công ty trích lợi nhuận phân bố vào các quỹ để mở rộng sản xuất. Tuy nhiên vệc phân bố này phải phù hợp với yêu cầu sản phẩm của thị trường để tránh đầu tư ồ ạt, gây lãng phí.
Nghiên cứu phát triển mặt hàng mới đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng may mặc thực chất là việc nghiên cứu sáng tạo các loại mẫu mốt thời trang phù hợp với nhu cầu thị hiếu của thị trường, từ đó có thể đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng so với đối thủ. Xu hướng thời trang luôn luôn biến đổi nên các doanh nghiệp phải chủ động trong khâu thiết kế mẫu mốt, cần có mối liên kết hiệu quả với các viện thiết kế mẫu, các trung tâm thời trang trong nước, đầu tư kinh phí cho phòng Marketing hoặc phòng thiết kế để tham dự các buổi trình diễn thời trang, giới thiệu mẫu mốt trong nước và nước ngoài. Trên thực tế, công tác thiết kế mẫu mốt thời trang chưa được các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và Công ty cổ phần may Nam Hà nói riêng quan tâm thoả đáng bởi hầu hết hoạt động sản xuất kinh doanh chủ yếu của Công ty với nguyên phụ liệu được cung cấp và mẫu mã sẵn có. Công ty chưa có bộ phận tạo mẫu riêng, công tác thiết kế mẫu chỉ mới dừng lại ở một số mặt hàng đơn giản, hoặc dựa trên những mẫu hàng gia công để tạo ra những sản phẩm mới. Do đó những sản phẩm bán FOB của Công ty chủ yếu lấy mẫu mã từ những sản phẩm mà Công ty sản xuất gia công, chưa có thương hiệu riêng cho mình. Đây không phải là cách làm hay bởi sau này, khi Việt Nam trực tiếp tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế luật bản quyền và bằng phát minh sáng chế của sản phẩm sẽ được thực thi chặt chẽ hơn, chúng ta sẽ không thể dựa mãi vào mẫu mã hàng nước ngoài. Để nghiên cứu mẫu mốt thực sự là một vũ khí cạnh tranh sắc bén trong chiến lược sản phẩm, Công ty cần quan tâm đến các vấn đề sau:
Công ty cần tổ chức một bộ phận nghiên cứu mẫu mốt và thiết kế thời trang nhằm thực hiện hoạt động nghiên cứu thiết kế và tạo mẫu thực hiện có hiệu quả, trang bị máy móc hiện đại, đồng bộ cho bộ phận nghiên cứu sáng tạo mẫu mốt. Đặc biệt cần áp dụng những phương pháp tiên tiến vào hoạt động thiết kế, thực hiện việc thiết kế và tạo mẫu trên máy vi tính nhằm nâng cao hiệu quả công tác thiết kế.
Tăng cường chăm lo bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học có trình độ chuyên môn, chuyên là công tác nghiên cứu sáng tạo nghiên cứu mẫu mốt như đội ngũ kỹ sư thiết kế may mặc, hoạ sĩ đồ hoạ và các chuyên gia phục vụ. Công ty cần thông qua các cuộc thi sáng tạo mẫu mốt để tìm kiếm những nhà tạo mẫu trẻ có nhiều triển vọng. Cử cán bộ đi đào tạo nước ngoài về mẫu thời trang, hợp tác liên doanh với nước ngoài để tạo ra nhiều ý tưởng trong thiết kế, nâng cao trình độ tiếp cận khuynh hướng thời trang mới.
Tích cực tham gia vào các hội chợ triển lãm thời trang hàng may mặc, nghiên cứu học hỏi các hãng thời trang hàng đầu thế giới thông qua các buổi biểu diẫn thời trang quốc tế do Bộ Thương Mại tổ chức.
Công ty có thể dựa vào quá trình gia công xuất khẩu cho nước ngoài để có thể tìm hiểu làm quen với thị trường thế giới về mẫu thời trang, trên cơ sở đó có thể sản xuất thử để chào hàng.
Công ty cần đẩy mạnh hoạt động quảng cáo khuyếch trương, tạo cho người tiêu dùng có cảm giác cần phải được thoả mãn bằng các sản phẩm thời trang của Công ty thông qua việc tham gia tổ chức các buổi biểu diễn thời trang với một số người mẫu nổi tiếng. Công ty cũng có thể cung cấp trang phục biểu diễn miễn phí trong những bộ phim và chương trình ca nhạc cho một số diễn viên hoặc ca sĩ được giới trẻ mến mộ. Bởi đây là nhóm khách hàng quan tâm nhiều nhất đến mẫu mốt, họ thường có xu hướng bị chi phối trong cách cảm nhận về thời trang theo “hiệu ứng đám đông”.
Ngày nay nhu cầu về hàng may mặc luôn biến động và nó chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố. Vì vậy, điều quan trọng để thực hiện có hiệu quả việc nghiên cứu thiết kế mẫu mốt đòi hỏi phải nắm bắt các yếu tố ảnh hưởng về nhu cầu sản phẩm may mặc. Như vậy mới có thể cho ra những sản phẩm phù hợp với yêu cầu của thị trường. Việc thiết kế thời trang cần dựa trên các nguyên tắc sau:
Trào lưu mẫu thời trang thế giới.
Phong tục, văn hoá dân tộc.
Điều kiện kinh tế khí hậu mỗi nước.
Chất liệu vải, nguyên liệu may.
Gam màu, kiểu dáng, kích cỡ phù hợp với người dân của mỗi nước.
Từ đó thực hiện các biện pháp:
Tìm kiếm và khai thác ý tưởng mơí về sản phẩm.
Nghiên cứu ý tưởng: đánh giá để chọn ý tưởng.
Phân tích hiệu quả kinh tế: sản lượng hoà vốn.
Kinh nghiệm cho thấy sự thành công của các Công ty lớn trong nước và nước ngoài trong chiến lược cạnh tranh có một nguyên nhân hết sức cơ bản là coi trọng công tác chất lượng và nghiên cứu phát triển mẫu mốt. Công ty muốn nâng cao khả năng cạnh tranh đẩy mạnh xuất khẩu may mặc và chiếm lĩnh mở rộng thị trường, chác chắn không thể đứng ngoài quy luật đó.
3.2.2 Nâng cao hiệu quả trong việc lựa chọn đối tác để thiết lập quan hệ gia công.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, vai trò của các đối tác thật sự quan trọng, nó quyết định sự thành bại của bất cứ một Công ty nào. Hoạt động hợp tác kinh doanh có được duy trì hay không phụ thuộc vào sự lựa chọn đối tác. Mỗi một lĩnh vực hoạt động khác nhau thì sự tác động của yếu tố này là khác nhau nhưng nhìn chung đều ảnh hưởng tới hiệu qủa kinh doanh.
Trong hoạt động gia công hàng xuất khẩu thì vai trò của công tác lựa chọn đúng đối tác là hết sức quan trọng. Do đặc điểm của hoạt động này, sự phụ thuộc của mỗi bên vào nhau là rất lớn, nên cả hai phía đều tìm hiểu kỹ về nhau.
Nếu trong quá trình tiến hành hoạt động gia công một bên do lý do nào đó huỷ hợp đồng gia công thì sẽ gây tổn thất cho bên kia, đặc biệt là bên nhận gia công vì một số lượng lớn lực lượng lao động phụ thuộc vào hoạt động gia công này. Họ sẽ không có việc làm, như vậy có thể gây tới cả mặt xã hội. Để khắc phục được đòi hỏi phải có thời gian và phải tìm kiếm, đàm phán, ký kết hợp đồng gia công khác, để thực hiện đó sẽ tốn rất nhiều thời gian.
Ngược lại, nếu bên nhận gia công huỷ bỏ hợp đồng thì cũng gây tổn thất cho bên đặt gia công. bên đặt gia công sẽ bị tổn thất một lượng vốn đầu tư và mua sắm nguyên vật liệu và tiền ứng trước cho hoạt động gia công, nếu có thu được phần nào do bên nhận gia công bồi thường thì cũng phải sau thời gian dài kiện tụng và giải quyết tranh chấp. Đồng thời một tổn thất nhỏ cho bên đặt gia công là không có hàng đẻ tung ra thị trường như kế hoạch đã định, bỏ lỡ một thời cơ kinh doanh chiếm lĩnh thị trường, do đó có thê bị đối thủ cạnh tranh đánh bại. Cũng như bên nhận gia công, bên đặt gia công cũng phải mất thời gian nhỏ để có thể thiết lập lại hoạt động lại hoạt động sản xuất gia công với đối tác.Do đó, cần khẳng định lại vai trò của lựa chọn đúng đối tác trong kinh doanh nói trung và trong hoạt động gia công nói riêng là hết sức quan trọng.
Xuất phát từ vai trò của công tác tìm hiều và lựa chọn đối tác trong hoạt động gia công, đồng thời xuất phát từ đặc điểm của hoạt động gia công cần đẩy mạnh một số hoạt động để nâng cao hiệu quả.
Đối với thị trường có hanh nghạch: Công ty phụ thuộc vào bộ thương mại trong việc ký kết hợp đồng may gia công nhưng Công ty nên thường xuyên thu thập, cập nhật những thông tin mới nhất về tình hình sản xuất kinh doanh cũng như năng lực tài chính của Công ty, của đối tác. Từ đó đề ra các biện pháp dự phòng hợp lý sao cho không xảy ra sự cố nào trong quá trình hợp tác gia công.
Đối với thị trường phi hạn ngạch : việc lựa chọn đối tác đặc biệt quan trọng đối với Công ty. Để có thể lựa chọn đúng đối tác Công ty cần hiểu rõ về phía đối tác. Để thực hiện như vậy, Công ty cần đẩy mạnh hơn nữa hoạt động thu thập thông tin và làm cho công tác này có hiệu quả hơn. Cụ thể như việc thu thập thông tin phải được tiến hành một cách đa dạng thông qua thông tin đại chúng và các tạp chí chuyên ngành...
3.3.3 Tăng cường đầu tư đổi mới công nghệ.
Việc trang bị máy móc công nghệ hiện đại có vai trò rất lớn nhằm nâng cao năng suất lao động, nâng cao tính linh hoạt của sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm và tạo sự đồng bộ giảm chi phí điều hành quản lý xí nghiệp.
Một số giải pháp được nhiều nước trong khu vực như Thái Lan, Malaixia, áp dụng thành công và được gọi là quá trình làm chủ công nghệ đã được chuyển giao và tạo năng lực nội sinh trên cơ sở công nghệ đã được chuyển giao đó. Nội dung của quá trình này bao gồm:
Duy trì được sản phẩm vận hành và bảo trì tốt thiết bị, công nghệ tự thiết kế chế tạo những phụ tùng hư hỏng.
Phát huy hết khả năng sản xuất mặt hàng của thiết bị công nghệ.
Tự thiết kế, chế tạo được những thiết bị phát triển sản xuất, cải tiến nâng cao tính năng thiết bị phù hợp với điều kiện Công ty nâng cao năng suất lao động, chất lượng mặt hàng thử nghiệm thiết kế mặt hàng mới, tạo ra các bí quyết, công nghệ sản xuất mặt hàng mới.
Việc đổi mới công nghệ sẽ cho phép Công ty mở rộng lĩnh vực gia công xuất khẩu sang một số mặt hàng mới. Những mặt hàng yêu cầu quá trình công nghệ phức tạp, tay nghề công nhân cao nhưng bù lại những mặt hàng này ít bị quản lý bằng hạn ngạch và có giá gia công cao hơn, kim ngạch xuất khẩu và lợi nhuận thu được cao hơn những mặt hàng hiện tại.
Việc đầu tư đổi mới may mặc thiết bị đòi hỏi một số vốn tương đối cao. Bên cạnh giải pháp vay vốn ngân hàng, vay của các tổ chức tài chính Công ty phải tự trang bị vốn đầu tư và thiết bị máy móc bằng cách lập một quỹ riêng. Quỹ này được trích từ lợi nhuận hàng năm của Công ty theo tỷ lệ nhất định và từ nguồn vốn khấu hao TSCĐ. Ngoài ra Công ty có thể dành một phần vốn lưu động bằng cách giảm bớt dự trữ các nguyên liệu trong sản xuất một cách hợp lý. Việc đầu tư máy móc thiết bị cũng phải cân nhắc theo yêu cầu thị trường. Ngoài việc Công ty tự bỏ vốn đầu tư, Công ty có thể liên doanh liên kết với các đối tác.
3.2.3 Đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường.
Thị trường là yếu tố then chốt có ý nghĩa quyết định đến sự tồn tại và phát triển của từng doanh nghiệp. Thị trường chính là nơi đánh giá cuối cùng sản phẩm của nhà sản xuất, là nơi thể hiện kết quả sản xuất kinh doanh của họ. Nếu sản phẩm của doanh nghiệp không được thị trường chấp nhận thì doanh nghiệp không thể tồn tại được. Vì vậy, trong bất kỳ quá trình sản xuất kinh doanh sản phẩm nào thì việc cần thiết là phải tiến hành công tác nghiên cứu thị trường.
Nghiên cứu thị trường cho phép Công ty nắm bắt được nhu cầu đặt gia công, đặc điểm của từng loại thị trường, sự thay đổi về thị hiếu, dự đoán được các xu hướng thời trang, giá cả gia công, dung lượng của thị trường. Công ty có thể tìm kiếm thông tin từ các nguồn: qua Bộ Thương Mại, các đoàn ngoại giao, sứ quán Việt Nam ở nước ngoài, hợp tác với các đơn vị, doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam Công ty cũng có thể thu thập thông tin từ các cuộc triển lãm, hội chợ quốc tế, biểu diễn thời trang. Hoặc rút ngắn thời gian tìm hiểu thị trường bằng cách liên kết với các Công ty sản xuất, thương mại, tài chính tại các nước đó. Mỗi dân tộc có có nền văn hoá riêng với thị hiếu về kiểu dáng, màu sắc, kích thước khác nhau. Nhu cầu may mặc còn thay đổi theo mùa vụ, khí hậu nên đòi hỏi phải nghiên cứu kỹ lưỡng các đặc tính của sản phẩm sẽ sản xuất ra.
Thị trường luôn là yếu tố quan trọng hàng đầu trong việc đẩy mạnh sản xuất xuất khẩu mặt hàng may mặc của Công ty. Trước hết Công ty cần xác định được thị trường định hướng, tức là thị trường mà Công ty định kinh doanh hoặc sẽ mở rộng trong tương lai. Đó trước tiên phải là thị trường mà Công ty có khả năng thâm nhập và đem lại hiệu quả cao. Qua việc nghiên cứu các luồng thông tin và qua kết quả hoạt động Công ty trong những năm qua, thị trường định hướng của Công ty trong thời gian tới sẽ là thị trường EU. Eu là thị trường có dân số đông, hơn thế nữa kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may của EU là rất lớn, khoảng 84 tỷ USD (ngoài EU 48 tỷ USD) :Tạp chí Thương mại quốc tế số T4/2001
. Mặt hàng may mặc của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường này được hưởng chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) dành cho các nước đang phát triển. Tuy nhiên Công ty cũng phải lưu ý đến sự cạnh tranh khốc liệt của các doanh nghiệp Việt Nam khác và đặc biệt là các doanh nghiệp của Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc Các doanh nghiệp của các nước bạn có những ưu thế hơn về giá nhân công (Trung Quốc), trình độ công nghệ kỹ thuật, tay nghề công nhân, sự linh hoạt của họ đối với sự thay đổi của thị trường Bên cạnh đó, thị trường EU là một thị trường khó tính, đòi hỏi cao về chất lượng, mẫu mã sản phẩm, hình thức Công ty phải cố gứng đáp ứng được nhiều yêu cầu trên thì mới có thể thâm nhập sâu vào thị trường này.
Ngoài thị trường chính là EU, ta còn thấy rằng thị trường Hoa Kỳ và Bắc Mỹ có nhiều triển vọng trong tương lai. Hiện tại, kim ngạch xuất khẩu vào thị trường này của Công ty còn khá khiêm tốn, lại chủ yếu thông qua trung gian nhưng ta vẫn khẳng định rằng đây là một thị trường đầy tiềm năng. Sở dĩ ta khẳng định như vậy vì những nguyên nhân sau: Thị trường Mỹ và Canada hàng năm nhập khẩu một khối lượng lớn hàng dệt may (khoảng 57 tỷ USD) :Tạp chí Thương mại quốc tế số T4/2001
. Thứ hai là Hiệp định thương mại Việt Mỹ đã được ký kết từ T 7/ 2000 và có hiệu lực từ T 12/ 2001, mở ra cơ hội làm ăn lớn đối với các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước.
3.2.4 Nâng cao trình độ cán bộ, công nhân viên.
Hiện nay, tay nghề công nhân trong Công ty còn thấp dẫn tới năng suất lao động của Công ty không cao, chi phí sản xuất lớn.
Chính điều này làm cho kết quả lao động của Công ty trong những năm qua chưa được cao. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả lao động của Công ty thì nâng cao trình độ cán bộ công nhân viên trong Công ty là việc cần phải làm ngay.
Nôi dung biện pháp:
Đào tạo mới, hoặc tiếp nhận cán bộ có chuyên môn làm kế hoạch, kinh doanh, quản lý.
Đào tạo lại một số cán bộ có chuyên môn, trình độ làm kế hoạch, kinh doanh.
+ Xác định chuyên môn cần đào tạo.
+ Lựa chọn các hình thức đào tạo.
+ Xây dựng chi phí cho việc bồi dưỡng, đào tạo lại.
Cụ thể:
Công ty cử cán bộ đi học nâng cao ở các trường lớp chuyên nghiệp (hình thức này nên áp dụng với cán bộ trẻ, có nhu cầu học tập, nâng cao trình độ).
Hàng năm, tổ chức bồi dưỡng, tập huấn định kỳ cho số cán bộ công nhân viên trong Công ty. Nếu cần, Công ty có thể yêu cầu họ đi học thêm để nâng cao kiến thức nghệp vụ.
Xác định chi phí cho việc bồi dưỡng, đào tạo: Các khoản đóng góp, học phí, chi phí mua sắm tài liệu, tiền lương, phụ cấp cho cán bộ đi bồi dưỡng đào tạo. Chi phí này được lấy từ quỹ phát triển sản xuất của Công ty.
Điều kiện thực hiện giải giáp.
Đầu tư phát triển ngành dệt, có sự phát triển cân đối giữa ngành dệt và may.
Hiện nay, ngành dệt trong nước vẫn chưa đáp ứng nhu cầu về nguyên phụ liệu cho ngành may. Các doanh nghiệp hầu như phải nhập khẩu phần lớn nguyên liệu may từ nước ngoài, đặc biệt đối với doanh nghiệp may gia công thì gần như 100% các loại vải là do nhập khẩu từ nước ngoài các loại vải. Chính vì vậy, Nhà nước cần có chiến lược phát triển, đảm bảo nhu cầu cân đối giữa ngành dệt và ngành may. Để làm được điều này, Nhà nước cần đầu tư ngành dệt theo chiều sâu, hình thành một số cụm sản xuất dệt, in nhuộm với công nghệ hiện đại nhằm đáp ứng cho ngành may xuất khẩu. Điều đó vừa tạo cho sự phát triển của ngành may lẫn ngành dệt của Việt Nam. Để làm được điều này Nhà nước cần phải :
Có quy hoạch phát triển ngày dệt theo theo chiều sâu nhằm đảm bảo sự cân đối giữa hai ngành dệt và may.
Có chính sách khuyến khích về tín dụng và thuế đối với các doanh nghiệp ngành dệt.
Có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp may sử dụng nguồn nguyên liệu trong nước.
Cải cách các thủ tục hành chính.
Hiện nay, các thủ tục hành chính trong nước còn phức tạp. Điều đó đôi khi còn cản trở hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Một yếu tố khác cản trở lớn đối với các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu là việc thông qua Hải quan. Những thủ tục phức tạp của Hải quan đôi khi làm giảm tiến độ giao hàng.
Đơn giản hoá các thủ tục hành chính và chống tham nhũng trong các cơ quan Nhà nước như thuế, Hải quan, ngân hàng...đổi mới quy chế và các thức làm việc, giảm bớt các bước trong xét duyệt đầu tư, vay vốn đầu tư nhằm nâng cao hiệu qủa quán lý đối với các ngành, các cấp.
Nhà nước cần có chính sách ưu đãi nhằm thúc đẩy các hoạt động gia công.
Nước ta đi nên từ một nền kinh tế còn nhiều khó khăn, các doanh nghiệp thường đi sau trong quá trình hội nhập. Vì vậy, Nhà nước cần phải có chính sách nhằm thúc đẩy các doanh nghiệp sản xuất. Cụ thể là :
+ Về lãi vay ngân hàng :
Hiện nay, trong ngành may mặc của nước ta còn nhiều máy mọc lạc hậu, một số máy móc vẫn còn mới nhưng trình độ không cao, do vậy, chất lượng sản phẩm không cao. Để đầu tư cho sản xuất thì nguồn vốn của bản thân doanh nghiệp nhiều khi chưa đáp ứng được nên Nhà nước cần phải có chính sách hỗ trợ về mặt tín dụng như đơn giản các thủ tục cho vay vốn, giảm lãi vay...
+ Về quản lý và phân bổ hạn ngạch :
Trong những năm qua, Nhà nước đã có thay đổi rất nhiều trong vấn đề quản lý và phân bổ hạn ngạch. Mặc dù với cách phân bổ hiện nay của Bộ thương mại đã có nhiều tiến bộ nhưng vấn đề phân bổ hạn ngạch vẫn còn nhiều bất cập cần giải quyết. Thực tế hiện nay, số lượng sản phẩm sản xuất để xuất khẩu bao giờ cũng lớn hơn trong hạn ngạch. Do vậy, Công ty liên tục bị thiếu hạn ngạch và luôn phải xin hạn ngạch bổ sung hoặc tìm các doanh nghiệp khác để xuất khẩu uỷ thác. Điều này làm chi phi sản xuất gia công tăng, đồng thời tạo ra nhiều tiêu cực trong vấn đề xin hạn ngạch.
Tăng cường cung cấp thông tin khoa học công nghệ về ngành dệt may.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp thường thiếu các thông tin công nghệ và thị trường công nghệ, điều này ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu qủa sản xuất kinh doanh. Vì vậy, Nhà nước phải có các dự án nhằm cung cấp thông tin cho doanh nghiệp.
Nhà nước nên tổ chức hệ thống thông tin về khoa học công nghệ dệt may, ngoài thông tin công nghệ và thị trường công nghệ, hệ thống còn cung cấp các thông tin khác về thị trường hàng may mặc. Thông tin bao gồm thông tin nóng và thông tin tĩnh. Thông tin tĩnh có gía trị cố định trong thời gian dài hàng năm thậm chí vài năm, còn thông tin nóng có gía trị trong thời gian ngắn vài tháng, thậm chí từng ngày, từng giờ.
Thành lập trung tâm xúc tiến thương mại :
Thị trường trên thế giới luôn luôn biến động và tương đối phức tạp. Hiện nay, các thông tin về thị trường vẫn còn thiếu và độ chính sác còn chưa cao. Vì vậy, Nhà nước nên sớm thành lập trung tâm xúc tiến thương mại để trợ giúp các nhà sản xuất trong hoạt động kinh doanh. Chức năng của trung tâm này là cung cấp thông tin và tổ chức xúc tiến các hoạt động thương mại, tiến hành nghiên cứu thị trường nước ngoài. Trung tâm này sẽ thiết lập một ngân hàng dữ liệu và các thị trường nước ngoài.
Trong thời gian trước mắt, khi mà chưa thành lập được trung tâm xúc tiến thương mại, Bộ thương mại cần phải thành lập các văn phong đại diễn ở nước ngoài để nghiên cứu theo dõi tình hình thị trường ở nứơc ngoài và thường xuyên đứng ra tổ chức và bảo vệ các đoàn đi khảo sát thị trường nước ngoài.
Kinh nghiêm một số nước cho thấy, ngoài việc xây dựng và thực hiện những chiến lược phát triển hợp lý ngành dệt may, các nước đó đã thực những biện pháp chiếm lĩnh thị trường hiệu quả. Đó có thể coi là kinh nghiệm quý báu đối với Việt Nam trong chiến lược phát triển ngành dệt may trong các năm tới.
Tăng cường các biện pháp xúc tiến và hỗ trợ kinh doanh.
Nhà nước cần quan tâm hơn nữa trong vấn đề cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp thông qua các dịch vụ cung cấp thông tin. Tư vấn cho các doanh nghiệp về thị trường, giá cả, đối thủ cạnh tranh, xu thế biến động thị trường và xúc tiến thương mại.
Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tham gia vào hội chợ, triển lãm quốc tế. Bởi đây cũng là những cơ hội tốt để doanh nghiệp giới thỉệu hàng hoá của mình, thúc đẩy hợp tác mở rộng thị trường xuất khẩu.
Kết luận
Hoạt động gia công xuất khẩu đã và đang trở thành một ngành sản xuất chiến lược ở nước ta. Tuy nhiên lợi ích chưa nhiều, đòi hỏi phải có sự đầu tư hơn nữa. Đó là việc đầu tư vào nghiên cứu thị trường, đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao trình độ lao động để năng cao hiệu quả gia công.
Thông qua việc nghiên cứu đề tài này, chúng ta nhận thấy hoạt động gia công xuất khẩu hàng dệt may của Công ty đã có từ lâu với những kết quả đáng kể, doanh thu gia công liên tục tăng cao trong các năm, đã có thị trường và bạn hàng gia công tương đối ổn định. Bên mặt những mặt tích cực còn có những mặt hạn chế, Công ty chưa quan tâm tới việc nghiên cứu thị trường, năng xuất, chất lượng sản phẩm chưa cao, tay nghề cán bộ công nhân viên còn hạn chế....Tuy nhiên, để hoàn thiện hoạt động gia công thì cán bộ công nhân viên trong Công ty phải nỗ lực và cố gắng hơn nữa trong công tác của mình.
Bước vào thế kỷ mới, việt nam sẽ tham gia WTO, tăng trưởng trong nước đỏi hỏi duy trì 6 – 8%/năm, kim ngạch xuất khẩu tăng 10 – 12%/năm trong giai đoạn 2001 – 2005. Trước những khó khăn và thử thách trong giai đoạn mới, Công ty cổ phần may Nam Hà với khả năng của mình sẽ cố gắng phát triển hoạt động gia công xuất khẩu hàng may mặc của mình hơn nữa, góp phần phát triển ngành dệt may, nâng cao uy tín và vị thế của hàng may mặc việt nam trên thị trường thế giới.
Trong thời gian thực tập tại Công ty cổ phần may Nam Hà. Được sự giúp đỡ của các anh trị trong phòng kế hoạch, đặc biệt là sự hướng dẫn của TS Nguyễn Thị Xuân Hương em đã cố gắng nghiên cứu hoạt động gia công xuất khẩu của Công ty và đưa ra một số giải pháp để hoàn thiện hoạt động xuất khẩu theo phương thức xuất khẩu.
Do trình độ còn hạn chế và thời gian nghiên cứu có hạn chắc chắn chuyên đề này còn có nhiều thiếu sót. Em rất mong được sự giúy đỡ của các thầy các cô và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn
Tài liệu tham khảo
GS.TS Trần Chí Thành: “Giáo trình quản trị kinh doanh thương mại quốc tế”
PGS.TS Nguyễn Duy Bột: “Giáo trình thương mại quốc tế”
TS Nguyễn Xuân Quang(Chủ biên): “Giáo trình Marketing thương mại”
Vũ Hữu Tửu: “Kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương”
Các loại báo và tạp chí
Tạp chí thương mại
Tạp chí ngoại thương
Tạp chí thương nghiệp Việt Nam
Thời báo kinh tế Việt Nam
Tạp chí kinh tế và dự báo
Tạp chí kinh tế và phát triển
Hệ thống quản lý chất lượng ISO : 2000 của Công ty cổ phần may Nam Hà
Báo cáo kết quả kinh doanh của Công ty cổ phần may Nam Hà
Báo cáo xuất nhập khẩu của Công ty cổ phần may Nam Hà
Báo cáo của hội đồng quản trị Công ty cổ phần may Nam Hà
Kế hoạch sản xuất của Công ty cổ phẩn may Nam Hà
Mục lục
Lời nói đầu 1
Chương I: Lý luận cơ bản về hoạt động xuất khẩu hàng dệt
may theo hình thức gia công xuất khẩu ở các doanh nghiệp
dệt may 3
1.1. Xuất khẩu và vai trò của hoạt động xuất khẩu hàng dệt may đối với nền
kinh tế Việt Nam 3
1.1.1. Khái niệm về xuất khẩu 3
1.1.2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu hàng dệt may đối với sự phát triển
của nền kinh tế Việt Nam 3
1.2. Các hình thức xuất khẩu chủ yếu và vai trò của hoạt động xuất khẩu
theo hình thức gia công xuất khẩu ở các doanh nghiệp dệt may Việt Nam
hiện nay 7
1.2.1. Các hình thức xuất khẩu chủ yếu 7
1.2.2. Vai trò của gia công xuất khẩu ở đối với một quốc gia 10
1.3. Nội dung hoạt động xuất khẩu theo hình thức gia công xuất khẩu 12
1.3.1. Nghiên cứu thị trường gia công 12
1.3.2. Tổ chức giao dịch đàm phán và ký kết hợp đồng 13
1.3.3. Tổ chức thực hiện hợp đồng 15
1.3.4. Đánh giá hiệu quả thực hiện hợp đồng xuất khẩu theo hình thức
gia công xuất khẩu 16
1.4. Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu theo hình thức gia công
xuất khẩu 17
1.4.1. Các yếu tố bên ngoài doanh nghiệp 17
1.4.2. Tiềm lực của doanh nghiệp 19
Chương II: Thực trạng hoạt động gia công xuất khẩu tại
công ty cổ phần may Nam Hà 22
2.1. Lịch sử hình thành và phát triển của Công ty cổ phần may Nam Hà 22
2.1.1. Giới thiệu chung về Công ty cổ phần May Nam Hà 22
2.1.2. Lịch sử hình thành và phát triển Công ty Cổ phần may Nam Hà 22
2.2. Bộ máy tổ chức 23
2.3. Quy mô của doanh nghiệp 30
2.3.1. Lao động 30
2.3.2. Vốn kinh doanh của công ty 32
2.3.3. Thị phần thị trường của doanh nghiệp 34
2.4. Thực trạng hoạt động xuất khẩu theo hình thức gia công xuất khẩu tại
Công ty cổ phần may Nam Hà 35
2.5. Nhận xét đánh giá hoạt động xuất khẩu theo hình thức gia công xuất
khẩu tại Công ty cổ phần nam Nam Hà 44
2.5.1. Điểm mạnh 44
2.5.2. Điểm yếu 44
2.5.3. Những tồn tại, thiếu sót 45
2.5.4. Nguyên nhân 46
Chương III: Một số giải pháp hoàn thiện hoạt động xuất
khẩu theo hình thức gia công xuất khẩu tại Công ty cổ
phần may Nam Hà 48
3.1. Phương hướng phát triển và những mục tiêu của ngành, doanh nghiệp
về hoạt động xuất khẩu theo hình thức gia công 48
3.1.1. Phương hướng phát triển của ngành 48
3.1.2. Phương hướng phát triển của doanh nghiệp 50
3.2. Một số giải pháp hoàn thiện hoạt động xuất khẩu theo phương thức gia
công 51
3.2.1. Nâng cao chất lượng sản phẩm 51
3.2.2. Nâng cao hiệu quả trong việc lựachọn đối tác để thiết lập quan
hệ gia công 55
3.2.3. Tăng cường đầu tư đổi mới công nghệ 57
3.2.4. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường 58
3.2.5. Nâng cao trình độ cán bộ, công nhân viên 59
3.3. Điều kiện thực hiện giải pháp 60
3.3.1. Đầu tư phát triển ngành dệt, có sự phát triển cân đối giữa ngành dệt
và may 60
3.3.2. Cải cách các thủ tục hành chính 61
3.3.3. Nhà nước cần có chính sách ưu đãi nhằm thúc đẩy các hoạt động
gia công 61
3.3.4. Tăng cường cung cấp thông tin khoa học công nghệ về ngành dệt
may 62
3.3.5. Thành lập trung tâm xúc tiến thương mại 62
3.3.6. Tăng cường các biện pháp xúc tiến và hỗ trợ kinh doanh 63
Kết luận 64
Tài liệu tham khảo 65
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 2333.doc