Đề tài Hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính gía thành sản phẩm xây lắp

Sau một quá trình nghiên cứu, học hỏi về môn học kế toán và đặc biệt là khi chọn đề tài "Hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính gía thành sản phẩm xây lắp", em đã nắm được những vấn đề cơ bản nhất mà theo em nó là các nguyên tắc, nội dung, trình tự hạch toán và hệ thống tài khoản sử dụng trong hạch toán kế toán doanh nghiệp nói chung và ở doanh nghiệp xây lắp nói riêng. Qua tìm hiểu thực trạng công tác kế toán trong các doanh nghiệp xây lắp cũng như đặc điểm đặc thù hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp này- nó quy định những nét riêng có trong hạch toán kế toán nhất là kế toán chi phí sản xuất và tính gía thành sản phẩm xây lắp, đòi hỏi bất kỳ một nhân viên kế toán nào cũng phải nắm vững thì mới có thể làm tốt công việc kế toán của mình. Hơn nữa, vai trò, tầm quan trọng của các doanh nghiệp xây lắp trong nền kinh tế thị trường ngày một phát triển, và yêu cầu của tiến trình công nghiệp hóa hiên đại hóa đất nước đòi hỏi các doanh nghiệp xây lắp cần đẩy tự mình đẩy nhanh nhịp độ phát triển cả về quy mô và trình độ sản xuất. Và tất nhiên cùng với nó là vấn đề hoàn thiện công tác kế toán, trong đó trọng tâm là hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính gía thành sản phẩm xây lắp. Cuối cùng, đối với em kết quả lớn nhất sau khi hoàn thành chuyên đề này là những hiểu biết về hạch toán kế toán doanh nghiệp và theo đó là mong muốn được làm việc ở vị trí của một nhân viên kế toán trong một doanh nghiệp xây lắp mặc dù đó là một nghề tương đối khó.

doc26 trang | Chia sẻ: linhlinh11 | Lượt xem: 618 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính gía thành sản phẩm xây lắp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lương như: kinh phí công đoàn, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế theo số lương phải trả công nhân trực tiếp thi công, công nhân điều khiển máy thi công, nhân viên quản lý tổ độ thi công; chi phí công cụ dụng cụ, chi phí khấu hao tài sản cố định, chi phí dịch vụ mua ngoài phục cho thi công ( điện., nước, điện thoại)và các chi phí khác bằng tiền như: chi phí chuẩn bị mặt bằng thi công, chi phí tát nước vét bùn khi có mưa hoặc mạch ngầm, chi phí đền bù hoa màu, di chuyển mồ mả. - Theo mối quan hệ giữa chi phí sản xuất xây lắp với khối lượng xây lắp hoàn thành bàn giao cho bên A, có thể chia thành ba loại: + chi phí biến đổi. + chi phí cố định. + chi phí hỗn hợp. 2.2. Kế toán tập hợp chi phí sản xuất xây lắp: Theo hệ thông kế toán doanh nghiệp xây lắp ban hành theo quyết định 1864- 1998 QĐ/ BTC ngày 16/12/1998 của Bộ trưởng Bộ tài chính, thì trong các doanh nghiệp xây lắp chi phí áp dụng phương pháp kế toán hành tồn kho theo phương pháp kê khai thường xuyên và do kế toán chi phí sản xuất xây lắp cũng theo phương pháp kê khai thường xuyên. a.Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp trong doanh nghiệp xây lắp được phản ảnh trên tài khoản 621- " chi phí nguyên vật liệu trực tiếp". Khi xuất nguyên vật liệu sử dụng phục cho thi công: Nợ 621 Trị giá nguyên vật liệu xuất dùng. Có 152 Trường hợp doanh nghiệp xây lắp mua nguyên vật liệu chuyển thẳng đến công trình phục vụ thi công. + Đối với doanh nghiệp chịu thuế giá trị gia tăng (VAT) theo phương pháp khấu trừ: Nợ 621: Giá mua nguyên vật liệu chưa có thuế VAT Nợ 133: Thuế VAT được khấu trừ Có 333 111 Tổng số tiền theo gió thanh toán 112 141 +Đối với doanh nghiệp chịu VAT theo phương pháp trực tiếp: Nợ 621 Có 331 Trị giá nguyên liệu theo giá thanh toán. 111 112 141 * Trường hợp có nguyên vật liệu không dùng hết trả lại nhập kho: Nợ 152 Trị giá nguyên vật liệu nhập kho. Có 621 * Trường hợp cuối tháng có nguyên vật liệu chưa dùng hết ở công trường để lại dùng cho tháng sau, kế toán điều chỉnh trên sổ sách: + Cuối tháng kế toán ghi: Nợ 152 Trị giá nguyên vật liệu còn lại ở công Có 621 trình để cho tháng sau. + Hoặc kế toán ghi số âm: Nợ 621 Trị giá nguyên vật liệu còn lại ở công Có 152 trình dùng cho tháng sau. + Tháng sau kế toán ghi: Nợ 621 Trị giá nguyên vật liệu còn lại ở tháng trước Có 152 dùng cho tháng này. Cuối kỳ kết chuyển chi phí nguyên vật liệu trực tiếp sang tài khoản 154 để tính giá thành sảp phẩm xây lắp : Nợ 154 chi phí nguyên vật liệu trực tiếp. Có 621 b.Kế toán chi phí nhân công trực tiếp: Được phản ánh trên tài khoản 622 -" chi phí nhân công trực tiếp" Tính tiền lương phải trả cho công nhân trực tiếp thi công Nợ 622 Tiền lương Có 3341 Khi tính tiền phải trả cho công nhân thuê ngoài sử dụng phục vụ cho thi công: Nợ 622 Tiền thuê công nhân bên ngoài Có 3342 Cuối kỳ kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp sang tài khoản 154 để tính sản phẩm xây lắp : Nợ 154 chi phí nhân công trực tiếp Có 622 b.Kế toán chi phí sử dụng máy thi công: Chi phí sử dụng máy thi công được phản ánh trên tài khoản 623- "chi phí sử dụng máy thi công". Nội dung tài khoản 623 như sau: Nợ Có Tập hợp chi phí sử dụng Kết chuyển chi phí sử dụng máy máy thi công. thi công phân bổ cho các đối tượng liên quan. Chú ý: TK 623 chỉ sử dụng trong các doanh nghiệp xây lắp thực hiện xây dựng công trình theo phương thức thi công hỗn hợp ( vừa thi công bằng thủ công, vừa thi công bằng máy) thì các chi phí về sử dụng máythi công được ghi vào các tài khoản 621,622, 627 sau đó tổng hợp vào tài khoản 154 để tính giá thành ca máy phục vụ thi công. Khi phát sinh các khoản chi phí thuộc nội dung chi phí sử dụng máy thi công, kế toán ghi vào bên Nợ TK623, tuỳ theo từng khoản chi phí mà ghi Có tài khoản liên quan: + Xuất vật liệu phục vụ máy thi công: Nợ 623 Trị giá vật liệu sử dụng phục vụ máy thi công Có 152 + Mua vật liệu đưa thẳng đến phục vụ máy thi công: Nợ 623: Giá mua nguyên vật liệu chưa có thuế VAT Nợ 133: Thuế VAT được khấu trừ Có 331 141 Tổng số tiền theo giá thanh toán 111 112 + Tính tiền lương phải trả công nhân điều khiển máy thi công: Nợ 623 Tiền lương Có 3341 + Xuất công cụ dụng cụ sử dụng phục vụ máy thi công: Nợ 623 Có 153 Trị giá công cụ dụng cụ xuất dùng + Tính khấu hao máy móc thiết bị thi công: Nợ 623 Khấu hao máy móc thiết bị thi công Có 214 Nợ 009: Số khấu hao đã tính + Khi có các khoản chi phí dịch vụ mua ngoài, chi phí khác bằng tiền sử dụng phục vụ trực tiếp cho thi công: Nợ 623: chi phí theo giá chưa có thuế VAT Nợ 133: Thuế VAT được khấu trừ Có 331 111 Tổng số tiền theo giá thanh toán 112 141 Cuối kỳ tính phân bổ và kết chuyển chi phí sử dụng máy thi công cho các công trình hạng mục công trình, tiêu thức phân bổ có thể là: + Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp + Chi phí nhân công tực tiếp. Công thức: Chi phí sử dụng máy thi công ồ chi phí sử dụng máy thi công tiêu thức = * phân bổ phân bổ cho các đối tượng ồ tiêu thức phân bổ của từng đối tượng Nợ 154 chi phí sử dụng máy thi công. Có 623 b.Kế toán chi phí sản xuất chung: Chi phí sản xuất chung được phản ánh trên tài khoản 627: Khi phát sinh các khoản chi phí sản xuất chung kế toán ghi vào bên Nợ TK627, tuỳ theo từng nội dung chi phí mà ghi có tài khoản liên quan. + Tính tiền lương phải trả nhân viên quản lý tổ đội thi công: Nợ 627 Tiền lương phải trả Có 3341 + Tính các khoản trích theo lương phải trả công nhân trực tiếp thi công, công nhân điều khiển máy thi công, nhân viên quản lý tổ đội thi công (KPCĐ, BHXH, BHYT). Nợ 627 Các khoản tính trích theo lương Có 3382 3383 3384 + Xuất vật liệu quản lý tổ đội thi công: Nợ 627 Trị giá vật liệu xuất dùng. Có 152 + Xuất vật liệu sử dụng phục vụ thi công: Nợ 627 Có 153 Trị giá công cụ dụng cụ tính vào chi phí 142 + Tính khấu hao tài sản cố định sử dụng phục vụ trực tiếp cho thi công: Nợ 627 Khấu hao tài sản cố định Có 214 Nợ 009 : Số khấu hao đã tính. + Các khoản chi phí dịch vụ mua ngoài và các chi phí khác bằng tiền phục vụ trực tiếp cho thi công (điện, nước, điện thoại, tiếp khách của tổ đội thi công). Nợ 627: chi phí theo giá chưa có thuế VAT Nợ 133: Thuế VAT được khấu trừ Có 331 111 Tổng số tiền theo giá thanh toán. 112 141 Cuối kỳ tính phân bổ và kết chuyển chi phí sản xuất chung cho các công trình, hạng mục công trình: Nợ 154 chi phí sản xuất chung Có 627 Tổng hợp chi phí sản xuất xây lắp và kết chuyển giá thành sản phẩm xây lắp. Việc tổng hợp chi phí sản xuất xây lắp và tính giá thành sản phẫml được thực hiện trên tài khoản 154, các doanh nghiệp xây lắp khi vận dụng tài khoản 154 phải mở chi tiết cho từng công trình, hạng mục công trình (từng đối tượng tập hợp chi phí). Cuối kỳ tập hợp chi phí sản xuất xây lắp phát sinh trong kỳ: Nợ 154 Có 621: chi phí nguyên vật liệu trực tiếp Có 622: chi phí nhân công trực tiếp Có 623: chi phí sử dụng máy thi công Có 627: chi phí sản xuất chung. Tính và kết chuyển giá thành thực tế của công trình, hạng mục công trình, giai đoạn công việc có điểm dừng kỹ thuật đã hoàn thành bàn giao cho bên A. Nợ 632 Gía thành sản phẩm xây lắp. Có 154 2.3. Phương pháp tính giá thành sản phẩm xây lắp: Do đặc điểm hoạt động sản xuất xây lắp, đặc điểm đối tượng tập hợp chi phí, đối tượng tính gía thành sản phẩm xây lắp được áp dụng phổ biến là phương pháp tính trực tiếp. Đối tượng tính gía thành sản phẩm xây lắp là các công trình hạng mục công trình, giai đoạn công việc có điểm dừng kỹ thuật đã hoàn thành bàn giao cho bên A. Giá thành chi phí khối chi phí khối lượng chi phí khối lượng sản phẩm = lượng xây lắp + xây lắp phát sinh - xây lắp dở dang xây lắp dở dang đầu kỳ. trong kỳ. cuối kỳ. Trong cơ chế thị trường, tính năng động tự chủ, sáng tạo của các doanh nghiệp được đề cao, hơn nữa trong xây dựng việc sản xuất cái gì, cho ai đã được các chủ đầu tư yêu cầu rất cụ thể, rất chi tiết trong hồ sơ thiết kế. Vấn đề còn lại là các doanh nghiệp xây dựng đóng vai các nhà thầu xây dựng, phải tự xác định cần làm thế nào để vừa đảm bảo chất lượng công trình vừa tiết kiệm được chi phí, rút ngắn thời hạn xây dựng sao cho giá bán (giá dự thầu) có thể cạnh tranh được. Cuộc cạnh tranh giữa các xí nghiệp xây dựng, những người bán trong xây dựng thông qua đấu thầu để kí hợp đồng xây dựng công trình. Vì vậy trong thị trường cạnh tranh, để giải quyết vấn đề sản xuất như thế nào thì việc xác định và kiểm soát được các chi phí đối với các doanh nghiệp xây dựng là một yêu cầucó tính chất sống còn. Do vậy ta cần phải quan tâm đến giá dự thầu công trình xây lắp để từ đó xác định được gía thành thực tế công trình và hạch toán kế toán được đảm bảo chính xác. Trong xây dựng, kế toán chi phí và kết quả của sản xuất kinh doanh,được hợp thành bởi ba bộ phận: Kế toán chi phí và kết quả sản xuất theo từng hợp đồng hay công trình xây dựng. Kế toán chi phí và kết quả sản xuất theo các bộ phận và của toàn doanh nghiệp. Hạch toán thống kê và phân tích. Hai phương pháp tính toán chi phí và kết quả được sử dụng chủ yếu trong kế toán quản trị kinh doanh của doanh nghiệp xây dựng là: Phương pháp tính toán cổ điển dựa trên chi phí trực tiếpvà các tỷ lệ phí ( gọi là phương pháp tính xuôi hay phương pháp phân phối hoàn toàn chi phí). Phương pháp tính toán hiện đại dựa trên hiệu số giữa doanh thu và biến phí (gọi là phương pháp tính ngược từ giá chấp nhận cuả thị trường; phương pháp xác địng số dư đảm phí; phương pháp xác định khả năng bù đắp định phí có thu lãi hay phương pháp phân phối một phần chi phí). Hai phương pháp này được vận dụng cho tất cả các bộ phận của kế toán quản trị kinh doanh của doanh nghiệp xây dựng, theo từng nội dung: cho một quá trình xây lắp riêng lẻ, cho một công trình xây dựng và một thời gian niên lịch. Tuy nhiên, nội dung của phương pháp được thể hiện rõ nhất là trong trường hợp kế toán quản trị cho từng hợp đồng hay công trình xây dựng, đặc biệt trong trường hợp kế toán xác định giá dự thầu của hợp đồng, đặc biệt là trong trường hợp kế toán xác định giá dự thầu của hợp đồng. Do vậy em xin đề cập đến phương pháp tính toán chi phí và kết quả trong kế toán quản trị doanh nghiệp xây dựng trường hợp kế toán xác định giá dự thầu cho từng hợp đồng xây dựng. Giá tranh thầu là giá do các doanh nghiệp xây dựng tham gia tranh thầu tự lập ra để tranh thầu dựa trên hồ sơ thiết kế, các yêu cầu của bên mời thầu, các quy định chung về định mức và đơn giá của nhà nước, các kinh nghiệm thực tế và ý đồ chiến lược tranh thầu. Giá tranh thầu có thể có các định mức khác nhau, trong đó doanh nghiệp xây dựng cần xác định được giá cận dưới và độ tin cậy của giá tranh thầu. Phương pháp cổ điển hay phương pháp phân phối hoàn toàn chi phí, còn gọi là phương phápdựa trên chi phí trực tiếp và các tỷ lệ phí được xác định một cách chủ quan chưa tính đến yếu tố giá cả thị trường. Nội dung của phương pháp được trình bầy khái quát như sau : + Xác định các chi phí trực tiếp tiêu tốn cho các đối tượng sản phẩm xây lắp cụ thể gọi là chi phí xây lắp trực tiếp. + Xác định chi phí chung tính theo tỷ lệ % so với chi phí xây lắp trực tiếp. +Xác định thu nhập chịu thuế tính trước theo tỷ lệ % so với giá thành dự toán xây lắp. + tính toán đơn gía đầy đủ cho mỗi loại công việc hay nhóm công việc xây dựng công trình. Căn cứ khối lượng công việc đã được bên chủ đầu tư tính toán trước và bên doanh nghiệp dự thầu xác định lại theo hồ sơ thiết kế, doanh nghiệp xây dựng tham dự đấu thầu có thể tự xác định đơn giãd cho mình để tính giá tranh thầu, trên cơ sở tham khảo đơn giá dự toán chi tiết mà các chủ đầu tư đã sử dụng để tính giá xét thầu. Phương pháp hiện đại hay phương pháp phân phốimột phần chi phí được xác định bằng hiệu số giữa doanh thu và biến phí. Chỉ tiêu này thể hiện phần đóng góp của từng hợp đồng xây dựng hoặc từng bộ phận của doanh nghiệp xây dựng là bao nhiêu để trang trải định phí và đóng góp và lợi nhuận chung của toàn doanh nghiệp. Nếu gọi giá dự thầu là Gtxl thì theo cách tính Gxl ta có: Gxlt= Zt+ VATt Gxlt= Zt*(1+TGtgt) Trong đó: Zt là giá dự thầu chưa có thuế GTGTđầu ra, VATt là thuế GTGT đầu ra. TGtgt là mức thuế suất (%) thuế GTGT quy định. Theo phương pháp phân phối một phần chi phí, giá dự thầu chưa thuế của doanh nghiệp xây dựng theo ý đồ chiến lược tranh thầu được xác định theo công thức: Zt=B+ Pt Trong đó: B là biến phí, B được xác định theo hồ sơ mời thầu. Chỉ tiêu này được xác định tương đối khách quan, ít phụ thuộc vào trình độ quản lý và khó tác động quản lý được tính theo công thức sau: B = Tb+ Cb Với Tb, Cb là phần biến phí trong chi phí trực tiếp và chi phí chung. Pt là khả năng bù đắp định phí ( số dư đảm phí, mức lãi thô hay lãi trên biến phí) dự kiến khi tranh thầu. Nó được xác định trên cơ sở dự kiến cụ thể để tiền hành xây dựng công trình sau khi thắng thầu và phải dưạ vào tình hình cạnh tranh trong đấu thầu để quyết định. Pt =Đ + L Trong đó: Đ là định phí L là lời nhuận nhận được theo dự kiến tranh thầu. Chỉ tiêu Đ có thể được tính theo công thức sau: Đ = Td + Cđ + TL Td, Cđ là phần định phí trong chi phí trực tiếp và chi phí chung và TL là thu nhập chịu thuế tính trước bằng % so với giá thành dự toán xây lắp (giá thành dự toán xây lắp = chi phí trực tiếp + chi phí chung). Chỉ tiêu dự kiến khi tranh thầu Pt có thể có các trường hợp sau: Pt= Đ trường hợp này doanh nghiệp xây dựng sẽ hoà vốn ở hợp đồng dang xét. Pt >Đ trường hợp này doanh nghiệp xây lắp sẽ có lãi ở hợp đồng đang xét. Pt <Đ trường hợp này doanh nghiệp xây lắp sẽ bị lỗ ở hợp đồng đang xét. doanh nghiệp xây dựng sẽ xác định được giá dự thầu cho cồng trình dự thầu đang xét: Gxlt= Zt*(1+TGtgt). Để đảm bảo thắng thầu và đạt được mục tiêu đề ra khi dự thầu, doanh nghiệp xây dựng cần phải xác định được giá cận dưới và độ tin cậy của giá dự thầu. Giá dự thầu cận dưới Gxlt= B*(1+TGtgt) khi Pt= 0 trường hợp này doanh nghiệp xây lắp bị lỗ vì không đủ tiền để trang trải định phí của doanh nghiệp. Thậm chí doanh nghiệp có thể lấy giá dự thầu cận dưới Gxlt= B. Trường hợp này doanh nghiệp xây dựng phải bù đắp cả định phí của doanh nghiệp và thuế GTGT đầu ra tính cho hợp đồng dự thầu bằng tiền thu từ các hợp đồng khác. Trong trường hợp bình thường thì từ lợi nhuận dự kiến của phương án trranh thầu L, có thể xác định được mức lợi nhuận tính cho một đồng vốn Lv của phương án đang xét theo công thức: Lv= L/V Trong đó V là số vốn trung bình bỏ ra cho thi công được xác định trên cơ sở thiết kế tổ chức thi công. Nếu Lv nhỏ hơn một định phí cho phép, nghĩa là phươg án tranh thầu không hiệu quả, cần phải xem lại mức giá dự thầu. Ưu điểm của phương pháp hiện đại so với phương pháp cổ điển là có thể thay đổi một cách linh hoạt phù hợp với tình hình thị trường. Một số lưu ý khi áp dụng phương pháp hiện đại: + Trong trường hợp này phải tính cho mọi bộ phận của doanh nghiệp. Các bộ phận hay các công trường được tổ hợp thành từng nhóm sản phẩm theo loại hình xây dựng như xây dựng nhà ở, xây dựng cầu đường bộ, xây dựng bệnh viện, xây dựng nhà xưởng... Việc tổ hợp này tạo điều kiện để định giá tranh thầu phù hợp với tình thế đấu thầu cụ thể thông qua chỉ tiêu Pt. + Tại các bộ phận và các công trường chỉ tính toán biến phí B căn cứ vào các hợp đồng ( có thể có bộ phận lkhông có hợp đồng), phần còn lại Pt phải xá c định theo dự kiến thực tế cho tất cả các hợp đồng và công trường. Tuyệt đối không tính toán Pt theo các tỷ lệ phí quy định. + Để có cơ sở xác định các định phí Đ, nhất là định phí công trườg Cđ1 và Cđ2 cần phải có nhiều thông tin quá khứ của các thời kỳ trước để tham khảo. Việc tính toán chỉ tiêu bù đắp định phí theo các cấp của doanh nghiệp xây dựng có đặc điểm cần quan tâm là nếu một công trường ( hay đội) xây dựng nào đó không ký được hợp đồng xây dựng, thì khi đó nó không có khả năng bù đắp định phí P, nhưng có một số khoản định phí ( định phí bắt buộc) vẫn có nguồn trang trải. Như vậy, công trường hay đội đang xét đã làm ảnh hưởng tới khả năng bù đắp định phí chung của từng lọai hình xây dựng cũng như cho toàn doanh nghiệp xây dựng, nghĩa các khoản định phí bắt buộc của công trường hay đội đang xét sẽ được trang trải bằng khả năng bù đắp định phí P của toàn loai hình xây dựng trong toàn doanh nghiệp. Vậy có thể khẳng định rằng kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây dựng thực sự cần thiết phải được thực hiện một cách chính xác trung thực để từ đó cung cấp các thông tin quá khứ hết sức quan trọng cho việc định giá thành dự thầu công trình và đạt được mụ tiêu chúng thầu cùng vơi một khả năng thu được lợi nhuận từ đó.Thắng thầu là bước khởi đầu có tính chất quyết định đến toàn bộ quá trình thi công sau này của mọi doanh nghiệp xây dựng, kế toán chi phí sản xuất phải là bộ phận đóng vai trò dẫn giá dự thầu đạt được hiệu quả tối ưu nhất. Với cách tính chi phí sản xuất và gía thành sản phẩm xây lắp đã trình bầy một cách tổng quát trên đây giúp chúng ta nắm bắt được một số kiến thức về lý thuyết kế toán chi phí sản xuất và tính gía thành sản phẩm xây lắp. Song trên thực tế, công tác kế toán, đặc biệt là kế toán chi phí sản xuất và tính gía thành sản phẩm đang diễn ra tại các doanh nghiệp xây lắp ở Việt nam hiện nay ra sao? Nó đang còn những khó khăn vướng mắc nào cần phải khắc phục, hoàn thiện. Để kế toán thực sự đóng vài trò là một công cụ hữu hiệu nhất, phát huy hết tác dụng vốn có của nó giúp cho các nhà quản trị trong lĩnh vực xây lắp luôn luôn nắm bắt và kiểm soát được tình hình hoạt động của doanh nghiệp mình, từ đó ra các quyết định chính xác, kịp thời nhất trong quá trình dự thầu công trình cũng như trong quá trình thi công công trình với chi phí tiết kiệm nhất, chất klượng công trình tốt nhất, đảm bảo đúng thời điểm bàn giao công trình... tạo ra sức mạnh trong cạnh tranh mà cơ chế thị trường tạo ra buộc các doanh nghiệp phải tính đến mới có thể tồn tại được. Xuất phát từ những băn khoăn trên mà ngoài những kiến thức lý thuyết, chúng ta cần phải đi vào thực tế mới có thể có cái nhìn khái quát hơn về vấn đề này. II. Thực trạng kế toán chi phí sản xuất và tính gía thành sản phẩm xây lắp và một số ý kiến đề xuất. 1.Thực trạng kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp: Trước khi đi vào cụ thể của vấn đề này chúng ta hãy xem xét nét tình hình chung có tính nổi bật nhất đang diễn ra của lĩnh vực xây lắp hay đầu tư xây dựng ở nước ta hiện nay: Nhìn lại những năm gần đây ai cũng có thể thấy rõ xu hướng phát triển đi lên của nền kinh tế đất nứơc nói chung và ngành xây lắp nói riêng, nó đã và đang tạo ra nhiều công trình kiến trúc mang tầm vóc trọng điểm của đất nước, các cơ sở hạ tầng làm nền tảng cho các ngành sản xuất vật chất và dịch vụ khác phát triển... Đầu tư xây dựng có vị trí hết sức quan trọng, nó tạo cơ sở vật chất, tăng tài sản cố định và năng lực sản xuất, góp phần làm biến đổi theo chiều hướng tích cực cơ cấu nền kinh tế quốc dân, thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Và từ nhiều năm nay Đảng và nhà nước không ngừng đổi mới cơ chế quản lý đầu tư và xây dựng nhằm tăng cường các mặt quản lý và nâng cao hiệu quả vốn đầu tư xây dựng cơ bản của nước ta. Chính phủ đã có nhiều văn bản: Nghị định số 177/CP ngày 20/10/1994 và gần đây là Nghị đinh số 42/CP ngày 16/7/1996, nhưng chỉ mới đề cập đến quản lý vốn đầu tư. Trong xây lắp việc quản lý hạch toán chưa được chặt chẽ dẫn đến tình trạng lãng phí, tham ô khá phổ biến, chấp hành nghĩa vụ nộp ngân sách chậm thất thoát nặng nề. Có thể dẫn ra đây một số bất cập mà các doanh nghiệp xây dựng đang thực hiện trong quá trình quản lý, thi công, giám sát, thực hiện nghĩa vụ đối với Ngân sách nhà nước... như sau: + Căn cứ vào NĐ 96/CP ngày 27/12/1995 của chính phủ, doanh thu tính thuế được xác định theo gía trị hạng mục công trình hay phần việc đã hoàn thành vẫn không căn cứ vào thời điểm xác định công trình, hạng mục công trình, công việc đã hoàn thành ( chủ đầu tư đã chấp nhận thanh toán) mà thường doanh nghiệp hạch toán vào cuối quý, sáu tháng, thậm chí cuối năm. Mặt khác doanh nghiệp không hạch toán từng phần việc đã hoàn thành mà đợi đến khi kết thúc toàn bộ mới quyết toán một lần (công trình mà doanh nghiệp xây dựng để bán, người mua đã trả tiền, thời gian xây dựng dài, giá trị công trình hàng nhiều tỷ đồng)... Nếu doanh nghiệp hạch toán đúng thời điểm thì NSNN sẽ thu được kịp thời, tài vụ doanh nghiệp có điều kiện để đẩy mạnh việc thu nợ và do đó hạn chế việc phải vay ngân hàng. + Doanh nghiệp không hạch toán đầy đủ mà khoán trắng cho mỗi công trình, doanh nghiệp chỉ thu lại một tỷ lệ nhất định để làm nghĩa vụ đối với NSNN và trang trải chi phí cho quản lý doanh nghiệp, trong đó có một số công trình chứng từ không đầy đủ. Với hình thức trên doanh nghiệp ký hợp đồng với chủ đầu tư rồi giao cho chủ nhiệm công trìnhthực thi rồi nộp một tỷ lệ % lên doanh nghiệp, hình thức này phổ biến ở nhiều doanh nghiệp, chỉ đóng dấu để có tư cách pháp nhân vào hợp đồng và thu một khoản theo tỷ lệ % như lệ phí. Hình thức này thực chất là bán độ công trình, buông lỏng quản lý, không kiểm toán giám sát kiểm tra được cả về giá trị và cả về chất lượng công trình, do vậy nhiều đơn vị thi công lập quyết toán bằng cách phô tô lại dự toán. + Một trong những nguyên nhân chủ yếu tạo nên nợ phải thu nội bộ khó, hoặc không có khả năng đòi được là do các doanh nghiệp áp dụng cơ chế khoán còn có nhiều bất cập. Đó là khi áp dụng cơ chế khoán, giám đốc điều hành sản xuất kinh doanh chưa có biện pháp quản lý thích ứng, công tác hạch toán kế toán chưa có phương pháp hạch toán phù hợp để đáp ứng yêu cầu cung cấp thông tin cho công tác quản lý sản xuất kinh doanh. Lý do công tác hạch toán chưa đáp ứng là chế độ kế toán áp dụng cho loại hình xây lắp ban hành chậm (Quyết định số 1846/1998/QĐ/BTC ngày 16/12/1998) nội dung hạch toán nội bộ áp dụng tài khoản 136 và 336 phức tạp, trình độ kế toán viên còn thấp nên vận dụng sai rất nhiều. + Hiện nay các doanh nghiệp xây lắp áp dụng cơ chế khoán chưa chú ý đến biện pháp quản lý thích ứng, thiếu những quy định bằng văn bản nên chi phí lớn hơn mức khoán không được quyết toán, các khoản ứng không thanh toán được kế toán hạch toán vào nợ phải thu nội bộ, doanh nghiệp thiếu căn cứ để quy trách nhiệm cho đội nhận khoán, nợ quá nhiều năm không thu được phải hạch toán sang nợ khó đòi. + Đối với các công trình phải đấu thầu, các đơn vị thi công thường cố tình bóc tiên lượng dự toán thấp hơn so với thiết kế ( cố tình bỏ sót một số công việc vật tư thiết bị...) để thắng thầu. Sau đó phải quyết toán bổ sung và gía bổ sung cộng với giá thắng thầu lớn hơn giá trần vẫn thanh toán, và NSNN lại phải bù lỗ. + Tình trạng sử dụng vật tư không có chứng chỉ xác nhận quy cách chất lượng, không đầy đủ hoá đơn chứng từ do Bộ tài chính phát hành là rất phổ biến ở các địa phương. Nhất là đối với đơn vị thi công là công ty TNHH, công ty tư nhân thậm chí không có sổ sách kế toán, không tập hợp chứng từ gốc hoặc có chứng từ thì không hợp pháp, hợp lý, hợp lệ. + Lợi nhuận của các doanh nghiệp xây dựng hiện nay rất thấp nhìn chung chỉ đạt 1% đến 2% giá trị xây lắp, vốn kinh doanh thiếu phải vay vốn tín dụng, vốn thanh toán công trình lại chậm, thường vào cuối năm. Do đó lãi vay chiếm tỷ lệ lớn trong chi phí của công trình. Để giúp các doanh nghiệp xây lắp vận dụng hệ thống tài khoản kế toán dễ dàng và đáp ứng yêu cầu cung cấp thông tin cũng như giải quyết một số tồn tại như đã nêu trên, tôi xin đưa ra một số ý kiến hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính gía thành sản phẩm xây lắp về kế toán quản trị chi phí sản xuất, về nội dung trình tự hạch toán ở đơn vị xây lắp có áp dụng cơ chế khoán. 2.Một số ý kiến đề xuất: 2.1.Hoàn thiện kế toán quản trị chi phí sản xuất trong doanh nghiệp xây lắp. Như chúng ta biết hệ thống kế toán doanh nghiệp chia làm hai bộ phận, đó là: Kế toán tài chính và kế toán quản trị. ở nước ta kế toán quản trị còn mới mẻ, nhận thức và tổ chức trong các doanh nghiệp còn nhiều bất cập, nhưng với bất kỳ doanh nghiệp nào hoạt động trong nền kinh tế thị trường hiện nay đều rất cần những thông tin chính xác từ bộ phận kế toán để ra các quyết định quản trị một cách linh hoạt trong kinh doanh đặc biệt là các quyết định về tài chính của doanh nghiệp. Để đáp ứng những đòi hỏi trên thì không thể không kể đến vai trò của kế toán quản trị, bởi kế toán quản trị là khoa học thu nhận xử lý và cung cấp thông tin về hoạt động của doanh nghiệp phục vụ yêu cầu quản trị nội bộ doanh nghiệp. Thông tin do kế toán quản trị cung cấp là những thông tin chi tiết không chỉ là thông tin quá khứ, thông tin hiện thực, mà còn bao gồm cả thông tin về tương lai. Do đó kế toán quản trị có vai trò quan trọng đối với công tác quản trị nội bộ doanh nghiệp và được thể hiện qua tất cả các khâu, từ lập kế hoạch dự án đến thực hiện kiểm tra, giúp các nhà quản trị ra quyết định quản lý. Trong các doanh nghiệp sản xuất nói chung, doanh nghiệp xây lắp nói riêng, chi phí sản xuất là một nội dung quan trọng trong toàn bộ công tác kế toán của doanh nghiệp. Tổ chức kế toán quản trị chi phí sản xuất và tính gía thành sản phẩm phải tuỳ thuộc vào đặc điểm tổ chức sản xuất, quy trình công nghệ, trình độ và yêu cầu quản lý của doanh nghiệp. Chính vì vậy kế toán chi phí sản xuất và tính gía thành sản phẩm xây lắp trong các doanh nghiệp xây lắp cũng đang gặp phải những khó khăn chung của toàn ngành kế toán về chế độ kế toán cũng như hệ thống tài khoản, phương thức hạch toán và tổ chức quản lý, đang cần được quan tâm của các cấp các ngành có liên quan nhất là Bộ tài chính trong việc xây dựng một chế độ kế toán hay các chuẩn mực kế toán và các vấn đề khác của kế toán doanh nghiệp nói chung, kế toán doanh nghiệp xây lắp nói riêng nhanh chóng đi vào cuộc sống và phù hợp với thực tiễn hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp hiện nay. Để hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính gía thành sản phẩm xây lắp dưới đây em xin đưa ra một số đề xuất, đây cũng là các quan điểm xây dựng đổi mới và hoàn thiện kế toán mà các chuyên gia, các nhà khoa học nghiên cứu trong ngành kế toán đã và đang nói tới. Để tập hợp chi phí sản xuất, các doanh nghiệp phải căn cứ vào đặc điểm sản xuất, yêu cầu quản trị lựa chọn một trong hai hệ thống kế toán chi phí sản xuất theo công việc và kế toán chi phí sản xuất theo quá trình sản xuất. Các doanh nghiệp xây lắp với đặc điểm tổ chức sản xuất theo các hợp đồng nhận thầu, sản phẩm xây lắp mang tính đơn chiếc, chu kỳ sản xuất dài do đó áp dụng hệ thống kế toán chi phí sản xuất theo công việc là phù hợp nhất, nó đảm bảo cung cấp thông tin hữu ích đáp ứng yêu cầu công tác quản trị. Với quan điểm tổ chức kế toán quản trị kết hợp với kế toán tài chính trên cùng một hệ thống, thực hiện kế toán theo công việc trong các doanh nghiệp xây lắp, kế toán chi phí sản xuất xây lắp sử dụng các tài khoản: 621, 622, 623, 627, 154. Các tài khoản được mở trực tiếp cho từng công trình, hạng mục công trình. Trường hợp các đội sản xuất xây lắp đồng thời thực hiện nhiều công trình, hạng mục công trình thì các tài khoản trước hết được mở đến từng tổ đội sản xuất và chi tiết cho từng công trình, cụ thể: TK 621, 622 được mở: TK 6211, 6221 : Tổ đội xây lắp 1 TK 62111, 62211: Tổ đội xây lắp 1- CTA. TK 62112, 62212: Tổ đội xây lắp 1- CTB Xác định và quy nạp các yếu tố chi phí sản xuất vào các đối tượng tập hợp chi phí. Trong nền kinh tế thị trường kế toán chi phí sản xuất không chỉ cung cấp số liệu phục vụ việc tính gía thành sản phẩm mà còn cung cấp thông tin cho việc kiểm tra, kiểm soát chi phí trong quá trình sản xuất giúp các nhà quản trị có các quyết định đúng đắn, tiết kiệm và nâng cao hiệu quả của chi phí. Các nước có nền kinh tế thị trường phát triển có ba phương pháp kế toán chi phí sản xuất : kế toán chi phí sản xuất thực tế; kế toán chi phí sản xuất thông dụng; kế toán chi phí sản xuất định mức. Các doanh nghiệp được phép lựa chọn một trong ba phương pháp, trong đó: + Kế toán chi phí sản xuất thực tế: Toàn bộ các yếu tố đầu vào của chi phí sản xuất phải tínhvà tập hợp ngay khi phát sinh. Do đó, chỉ cuối kỳ mới tính được gía thành thực tế sản phẩm, vì chi phí sản xuất chung bao gồm nhiều yếu tố việc xác định phải dựa vào các chứng từ ở bên ngoài (hoá đơn, biên lai) mà cuối kỳ các nhà cung cấp mới tính và thông báo cho doanh nghiệp. Vì vậy, kế toán chi phí thực tế không cung cấp kịp thời về gía thành sản phẩm phục vụ cho quản trị doanh nghiệp. + Kế toán chi phí sản xuất thông dụng: Các yếu tố chi phí trực tiếp bao gồm: chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sử dụng máy thi công được tính và tập hợp ngay khi phát sinh theo chi phí thực tế, còn chi phí sản xuất chung được ước tính phân bổ để tính gía thành kịp thời phục vụ quản lý. Cuối kỳ xây dựng chi phí sản xuất chung điều chỉnh theo thực tế. Trường hợp mức chênh lệch nhỏ, cuối kỳ kết chuyển tài khoản chênh lệch cho số sản phẩm hoàn thành đã bàn giao: Chênh lệch CPSXC thực tế Tiêu thức Chênh lệch CPSXC với CPSXC ước tính phân bổ thực tế với CPSXC ước tính = * của từng phân bổ cho đối tượng Tổng tiêu thức phân bổ đối tượng Trường hợp chênh lệch lớn, cuối kỳ tính toán, phân bổ cho các đối tượng là sản phẩm xây lắp dở dang, sản phẩm hoàn thành bàn giao. + Kế toán chi phí định mức: Thực hiện kế toán chi phí sản xuất định mức trên cơ sở các định mức chi phí, toàn bộ các yếu tố chi phí đầu vào khi phát sinh được tính toán tập hợp cho các đối tượng theo chi phí định mức. Đồng thời kế toán tách riêng chênh lệch chi phí sản xuất thực tế so với chi phí định mức do biến động về lượng, biến động về giá của từng khoản mục chi phí. Điều đó giúp nhà quản lý phát hiện chênh lệch do thay đổi định mức, do vượt định mức, từ đó kiểm tra kiểm soát chi phí. Mặt khác đảm bảo cung cấp thông tin nhanh chóng về gía thành sản phẩm sát với thực tế. Khoản chênh lệch giữa chi phí định mức với chi phí thực tế cuối kỳ được xử lý để xác định gía thành thực tế của sản phẩm hoàn thành. Nếu chênh lệch chi phí thực tế với chi phí định mức nhỏ thì kết chuyển vào giá vốn của sản phẩm hoàn thành đã bàn giao. Nếu chênh lệch lớn thì phân bổ cho sản phẩm hoàn thành đã bàn giao và sản phẩm dở dang cuối kỳ. Các doanh nghiệp xây lắp với đặc điểm sản xuất kinh doanh, đặc điểm sản phẩm xây lắp để đáp ứng yêu cầu quản trị doanh nghiệp, theo chúng tôi nên áp dụng kế toán chi phí định mức, do biến động về giá, biến động về lượng của các khoản mục chi phí trong hệ thống kế tóan doanh nghiệp xây lắp cần mở thêm các tài khoản: Tài khoản biến động chi phí nguyên vật liệu trực tiếp; Tài khoản biến động chi phí nhân công trực tiếp ; Tài khoản biến động chi phí sử dụng máy thi công; Tài khoản biến động chi phí sản xuất chung. Tổ chức hệ thống sổ kế toán chi tiết theo yêu cầu kế toán quản trị chi phí sản xuất đến từng tổ đội sản xuất, từng công trình, hạng mục công trình, sổ kế toán chi tiết gồm: Sổ chi tiết chi phí nguyên vật liệu trực tiếp; Sổ chi tiết chi phí nhân công; Sổ chi tiết chi phí sử dụng máy thi công; Sổ chi tiết chi phí sản xuất chung. Trên đây là một số ý kiến về kế toán quản trị chi phí sản xuất trong doanh nghiệp xây lắp nhằm hoàn thiện hệ thống kế toán doanh nghiệp nói chung, kế toán quản trị trong các doanh nghiệp xây lắp nói riêng. Hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính gía thành sản phẩm ở các doanh nghiệp xây lắp thực hiện khoán. Phương thức khoán sản phẩm xây lắp cho các đơn vị cơ sở, cho các tổ đội thi công là phương thức quản lý hợp với cơ chế thị trường. Nó gắn lợi ích vật chất của người lao động, tổ đội với khối lượng, chất lượng sản phẩm cũng như tiến độ thi công công trình. Đồng thời mở rộng quyền tự chủ về hạch toán kinh doanh, lựa chọn phương thức tổ chức lao động, tổ chức thi công, phát huy khả năng tiềm tàng của từng tổ đội. Tuy nhiên việc áp dụng khoán trong các doanh nghiệp xây lắp hiện nay về phương thức khoán, quy chế khoán và tổ chức kế toán chi phí sản xuất còn nhiều vấn đề cần phải nghiên cứu cải tiến: a.Những căn cứ thực hiện nội dung hạch toán: Vị trí của đơn vị giao khoán A và đơn vị nhận khoán B chi phối đến nội dung hạch toán Mô hình tổ chức doanh nghiệp xây lắp phổ biến hiện nay: Công ty xây lắp XN thành viên XN thành viên hoặc có chức năng đội hạch toán hạch toán độc lập phụ thuộc công ty. Đội Đội Đội XD XD XD + Đơn vị giao khoán A là xí nghiệp hạch toán độc lập hoặc công ty. Đơn vị hạch toán B thường là các đội xây dựng hoặc xí nghiệp hạch toán phụ thuộc. + Các đơn vị thành viên hạch toán độc lập là đơn vị hoạt động dựa vào tư cách pháp nhân của công ty. Công tác điều hành quản lý sản xuất kinh doanh tuân thủ sự uỷ quyền và phân cấp của giám đốc công ty. Công tác hạch toán kế toán theo mô hình tổ chức kế toán công ty và chịu sự điều hành của kế toán trưởng công ty.Các đơn vị thành viên hạch toán độc lập chịu trách nhiệm hạch toán đầy đủ các chỉ tiêu để lập báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh và lập bảng cân đối kế toán. + Các đơn vị thành viên hạch toán phụ thuộc và các đội sản xuất thực hiện những nội dung hạch toán chi phí sản xuất, chỉ được mở tài khoản chuyên chi ( trên thực tế các năm trước, có một số doanh nghiệp cho phép đội nhận khoán mở tài khoản, được thu tiền của khách hàng, tự hạch toán kết quả dẫn đến tình trạng thất thoát vốn của doanh nghiệp, hiệu quả kinh doanh thua lỗ kéo dài, cho đến năm 1999 tình trạng này vẫn chưa được chấm dứt). Một số căn cứ để thực hiện nội dung hạch toán. Những căn cứ không thể thiếu được trong công tác hạch toán là hợp đồng giao khoán và những văn bản pháp lý của giám đốc doanh nghiệp: + Hợp đồng giao khoán: Ngoài những tác dụng của chứng từ kế toán, các điều khoản ghi trong hợp đồng là căn cứ quan trọng để xử lý các vi phạm trong quá trình thực hiện hợp đồng, là cơ sở để thanh quyết toán giữa hai bên giao, nhận khoán và quy trách nhiệm vật chất khi hoàn thành hợp đồng. Điều đó đòi hỏi khi ký kết hợp đồng phải đảm bảo các nội dung các điều khoản rõ ràng, chặt chẽ, chi tiết. + Văn bản quản lý của giám đốc doanh nghiệp: Quá trình thực hiện hợp đồng giao khoán thực chất là quá trình sản xuất sản phẩm xây lắp theo hợp đồng đã ký kết với khách hàng. Những vấn đề phát sinh có liên quan đến chất lượng sản phẩm, chi phí thực tế tạo nên gía thành thực tế của sản phẩm... đòi hỏi giám đốc điều hành phải có những quy định cụ thể bằng văn bản để giúp cho công tác điều hành quản lý sản xuất và tạo căn cứ cho công tác hạch toán. b. Nội dung hạch toán Nội dung hạch toán ở đơn vị giao khoán A và đơn vị nhận khoán B phải đáp ứng các yêu cầu của chế độ hạch toán hiện hành: đảm bảo rõ ràng chi tiết, số liệu khớp đúng giữa đơn vị khoán và giao khoán. Đảm bảo cung cấp thông tin kịp thời cho công tác điều hành quản lý sản xuất và công tác hạch toán trong doanh nghiệp. Để đáp ứng yêu cầu trên đơn vị giao khoán và đơn vị nhận khoán nên áp dụng hệ thống tài khoản kế toán theo nội dung hạch toán như sau: Các nội dung hạch toán nội bộ được phản ánh trên tài khoản phải thu, phải trả nội bộ theo quan hệ một chiều (dễ kiểm tra, dễ đối chiếu, thuận lợi cho công tác kế toán trên máy vi tính). TK 136: phải thu nội bộ chỉ phản ánh các nghiệp vụ quan hệ với cấp dưới (đơn vị nhận khoán). TK 336: Phải trả nội bộ chỉ phản ánh các nghiệp vụ quan hệ với cấp trên. TK cấp hai thống nhất ký hiệu để hạch toán chi tiết theo các nội dung hạch toán. VD: TK1361 quan hệ cấp tiền, vật tư; TK 1362 phân bổ chi phí; ... TK cấp 3 để hạch toán theo từng đơn vị nhận khoán ( 136 x 1: đội 1; 136 x 2: đội 2). Định kỳ đối chiếu số liệu, số dư tài khoản 136 đơn vị giao khoán phải khớp đúng với số dư TK 336 đơn vị nhận khoán. Phương thức khoán: việc khoán sản phẩm xây lắp cho xí nghiệp xây lắp thành viên, các tổ đội thi công được thực hiện theo hai phương thức: + Phương thức khoán gọn công trình, hạng mục công trình: đây là phương thức đang được áp dụng phổ biến ở các doanh nghiệp. Theo phương thức này đơn vị giao khoán toàn bộ công trình cho đơn vị nhận khoán. Đơn vị nhận khoán tự tổ chức tự cung ứng vật tư, tổ chức lao động để tiến hành thi công. Khi công trình hoàn thành bàn giao quyết toán sẽ được thanh toán toàn bộ giá trị công trình theo gía nhận khoán và nộp cho đơn vị giao khoán một số khoản theo quy định. Đơn vị giao khoán chỉ là người có tư cách pháp nhân đứng ra ký kết các hợp đồng xây dựng và chịu trách nhiệm pháp lý với chất lượng công trình và thời gian thi công. Về tài khoản kế toán sử dụng: phương thức khoán gọn chỉ áp dụng trong điều kiện các đơn vị nhận khoán có tổ chức kế toán riêng, do đó có thể phản ánh các mối quan hệ giữa các đơn vị nhận khoán với các đơn vị giao khoán về vật tư tiền vốn, thanh toán các khoản phải thu phải nộp... kế toán sử dụng TK 136 "phải thu nội bộ"; TK 336 "phải trả nội bộ" ( có quan điểm sử dụng TK 141 "thanh toán tạm ứng"). Ngoài ra trên cơ sở xác định chi phí giao khoán và chi phí ở đơn vị nhận khoán kế toán ở từng đơn vị xác định tài khoản sử dụng để tập hợp chi phí. Về chứng từ kế toán: ngoài các chứng từ về chi phí phát sinh được xác định theo chế độ kế toán đã quy định cần phải lập "Hợp đồng giao khoán", khi công trình hoàn thành bàn giao phải lập " Bản thanh lý hợp đồng". Tuy nhiên hiện nay việc khoán gọn còn có hiện tượng khoán trắng, đơn vị giao khoán chỉ quan tâm đến các khoản phải thu ở đơn vị nhận khoán, chưa giám sát chặt chẽ chi phí dẫn đến việc xác định gía thành thực tế không chính xác, mà các đơn vị nhận khoán thường tính theo giá nhận khoán không xác định được khoản lãi do hạ gía thành. Vì vậy theo chúng tôi, việc khoán gọn không có nghĩa là khoán trắng " thu tô" mà đơn vị giao khoán phải giám sát chặt chẽ tính hợp pháp của các khoản chi phí và tình hình hạch toán của đơn vị nhận khoán và chỉ áp dụng trong điều kiện: Đơn vị nhận khoán có đủ điều kiện đảm bảo thi công đúng tiến độ, đảm bảo chất lượng công trình. Đơn vị nhận khoán đã được phân cấp quản lý tài chính,tự tổ chức cung ứng vật tư, kỹ thuật. Đơn vị nhận khoán có tổ chức kế toán riêng và có khả năng hạch toán được toàn bộ các hoạt động kinh tế phát sinh tại đơn vị. + Phương thức khoán gọn khoản mục chi phí : Theo phương thức này đơn vị giao khoán chỉ khoán các khoản mục chi phí nhất định (thường là tiền công) còn các khoản khác do đơn vị tự chi phí và hạch toán và chịu trách nhiệm giám sát kỹ thuật, chất lượng công trình. Phương thức này chỉ áp dụng cho các tổ đội thi công không có đủ điều kiện tự cung ứng vật tư, giám sát kỹ thuật và chưa thực hiện hạch toán kinh tế. Quy chế khoán: doanh nghiệp xây lắp cần phải xây dựng quy chế khoán thống nhất và công khai toàn doanh nghiệp về giá giao khoán, cơ chế phân phối lợi nhuận và xác định rõ trách nhiệm, quyền lợi của từng bên. Kế toán chi phí sản xuất và tính gía thành sản phẩm: Trong các doanh nghiệp xây lắp áp dụng phương thức khoán gọn công trình, hạng mục công trình kế toán chi phí sản xuất và tính gía thành sản phẩm được tiến hành như sau: Đối với đơn vị giao khoán: chi phí phát sinh ( đối với công trình khoán gọn) chỉ gồm chi phí quản lý, chi phí giao dịch... để đảm bảo sự tồn tại của doanh nghiệp, do đó không cần sử dụng TK 621, 622, 627 mà kế toán có thể sử dụng TK 642 để tập hợp các khoản chi phí phát sinh tại đơn vị nhưng không thuộc nội dung chi phí quản lý. Phương pháp kế toán: Khi ứng vật tư, tiền cho các đơn vị nhận khoán, kế toán ghi: Nợ 136 Có 111, 112, 152. Khi phát sinh các khoản chi phí thuộc nội dung chi phí quản lý, kế toán ghi: Nợ 642 Có TK liên quan. Khi phát sinh các khoản chi phí tại doanh nghiệp không thuộc nội dung chi phí quản lý, kế toán ghi: Nợ 632 Có TK liên quan. Khi công trình hoàn thành bàn giao cho bên A, kế toán ghi: Nợ 131: Giá thanh toán Có 511: Phần thu nhập của DN( tỷ lệ để lại DN). Có 336: Gía giao khoán cho đơn vị nhận khoán. Khi thanh toán với đơn vị nhận khoán, kế toán ghi: Nợ 336: Giá giao khoán Có 136: Số đã ứng trước Có 111, 112: Số còn lại. Cuối kỳ kết chuyển doanh thu xác định kết quả: Nợ 511 Có 911 Kết chuyển chi phí để xác định kết quả: Nợ 911 Có 632 Có 642 Xác định số lãi phải thu của đơn vị nhận khoán: Nợ 136/ Có 421 - Xác định thuế GTGT đơn vị nhận khoán phải nộp: Nợ 136/ Có 33311 Đối với đơn vị nhận khoán: Kế toán có trách nhiệm tập hợp chi phí sản xuất và tính gía thành sản phẩm nhận khoán, hạch toán lãi, lỗ, kế toán sử dụng các TK 621 "chi phí nguyên vật liệu trực tiếp " ; TK 622 "Chi phí nhân công trực tiếp "; TK 627 " chi phí sản xuất chung"; TK 154 " chi phí sản xuất kinh doanh dở dang"; TK 632 " Giá vốn hàng bán"; TK 511" Doanh thu bán hàng". Và để phản ánh quan hệ với đơn vị giao khoán kế toán sử dụng TK 136" Phải thu nội bộ"; TK 336" Phải trả nội bộ". Phương pháp kế toán: Khi nhận tiền, vật tư do đơn vị giao khoán ứng, kế toán ghi: Nợ 111,112,152 Có 336 Khi xuất kho đưa vào sản xuất thi công, kế toán ghi: Nợ 621 Có 152 Khi tính lương phải trả cho công nhân trực tiếp sản xuất, ghi: Nợ 622 Có 334 Nếu đơn vị thuê lao động bên ngoài, kế toán ghi: Nợ 622 Có 111 Khi phát sinh chi phí thuộc nội dung chi phí sản xuất chung, chi phí máy thi công, kế toán ghi: Nợ 627 Có TK liên quan Cuối kỳ kết chuyển nguyên vật liệu trực tiếp, kế toán ghi: Nợ 154 Có 621 Kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp, kế toán ghi: Nợ 154 Có 622 - Kết chuyển chi phí sản xuất chung, kế toán ghi: Nợ 154 Có 627 Công trình bàn giao thanh toán với đơn vị giao khoán theo giá nhận khoán, kế toán ghi: Nợ 136: Giá nhận khoán có thuế GTGT Có 511: Giá nhận khoán không có thuế GTGT Có 333: Thuế GTGT. Giá thành thực tế công trình hoàn thành bàn giao, kế toán ghi: Nợ 632 Có 154 Kết chuyển doanh thu thuần khối lượng công trình nhận khoán: Nợ 511 Có 911 Kết chuyển giá thành thực tế xác định kết quả, kế toán ghi: Nợ 911 Có 632 Kết chuyển chênh lệch giá trị nhận khoán > giá thành thực tế: Nợ 911 Có 421 Xác định thuế GTGT phải nộp thông qua đơn vị giao khoán, kế toán ghi: Nợ 421 Có 336 Thanh toán quyết toán với đơn vị giao khoán khi thanh lý hợp đồng: Nợ 336 : Số phải trả, phải nộp Nợ 111,112 Có 136: - Về sổ kế toán : ngoài các sổ tổng hợp, sổ chi tiết phản ánh chi phí theo quy định doanh nghiệp mở sổ chi tiết TK 136, TK 336 và sổ theo dõi khối lượng xây lắp khoán gọn theo từng đơn vị nhận khoán, từng công trình, hạng mục công trình. Sơ đồ A: Nội dung, trình tự hạch toán trên tài khoản kế toán ở đơn vị giao khoán: TK111,112,,152 TK136 TK154 TK632 TK911 (1) Cấp ứng thanh toán (6) K/c chi phí thực (8c)tính (9) Kết chuyển (8b) tiền vật tư cho đơn vị tế hợp lý đã quyết chuyển giá giá vốn hàng bán Kết nhận khoán toán cho đơn vị vốn hàng bán TK142 nhận khoán ( 2) Phân bổ chi phí chuyển doanh thu thuần phải trả (nếu có) TK 511 TK 627,623 (8a) Kết chuyển doanh (3) P/b chi phí chung thu tiêu thụ. chi phí sử dụng MTC TK 133 TK131 TK111,112 TK 338 Thuế GTGT (10) Thu tiền (4)BHXH,BHYT,KPCĐ phải nộp TK 133 TK ... Khấu trừ thuế (5) Các nghiệp vụ thu hộ chi hộ (nếu có) Ghi chú: Thực tế cuối kỳ khoá sổ kế toán ở nhiều đơn vị giao khoán TK 136 có số dư nợ phản ánh số tạm cấp cho đơn vị nhận khoán lớn hơn giá trị sản phẩm đã được quyết toán chi phí. Cá biệt có đơn vị có số dư bên Có: phản ánh giá trị sản phẩm hoàn thành được quyết toán chi phí lớn hơn số đã ứng (có nghĩa là đơn vị giao khoán nợ đơn vị nhận khoán- những đơn vị có biện pháp quản lý tốt). Số dư Nợ TK154 ở đơn vị giao khoán phản ánh giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ bao gồm: Giá trị của khối lượng hoàn thành được quyết toán chưa phải là sản phẩm hoàn thành và giá trị sản phẩm xây lắp đã hoàn thành nhưng chủ đầu tư chưa có chỉ tiêu kế hoạch cấp vốn trong kỳ (đầu tư vốn ngân sách). Sơ đồ B: Nội dung và trình tự hạch toán ở đơn vị nhận khoán TK136 TK111, 152 TK621 TK154 (1) Nhận tiền vật (5a) chi phí nguyên vật (5b)Kết chuyển chi phí tư trên cấp liệu trực tiếp vật liệu trực tiếp TK 622 (3a) chi phí nhân công (3b) K/c chi phí trực tiếp nhân công trực tiếp (4) BHXH, BHYT, KPCĐ, phải nộp về cấp trên TK627 (2a) Cấp trên phân bổ chi phí sử dụng (2b) K/c chi phí sử máy thi công và các chi phí khác dụng MTC và chi phí chung (6) Kết chuyển chi phí được cấp trên quyết toán Ghi chú: + Nghiệp vụ 6, theo định kỳ và khi sản phẩm xây dựng hoàn thành đơn vị giao khoán quyết toán chi phí thực tế cho đơn vị nhận khoán: nếu theo định kỳ (quý) khối lượng sản phẩm chưa hoàn thành phải có xác nhận của giám sát kỹ thuật đơn vị giao khoán và bảng kê xác nhận gía trị khối lượng sản phẩm dở dang theo giá dự toán chi tiết. Nếu sản phẩm xây dựng hoàn thành thì phải có biên bản nghiệm thu khối lượng và phiếu giá công trình có đủ chữ ký của cán bộ có thẩm quyền ở đơn vị chủ đầu tư và đơn vị nhận thầu xây lắp. Trên cơ sở khối lượng và giá trị sản phẩm xây lắp do đơn vị nhận khoán thực hiện, đơn vị giao khoán quyết toán chi phí thực tế để làm cơ sở tính gía thành sản phẩm xây lắp hoàn thành, xác định giá trị sản phẩm dở, xác định giá trị của sản phẩm xây lắp được tính doanh thu tiêu thụ trong kỳ ( nghiệp vụ 6 là số liệu tương ứng hai sơ đồ Avà B). + Kế toán đơn vị giao khoán thường xuyên kiểm tra, đối chiếu số liệu với đơn vị nhận khoán. Số dư chi tiết TK136 đơn vị giao khoán phải khớp đúng với số dư chi tiết TK 336 đơn vị nhận khoán. Thông qua kiểm tra đối chiếu số liệu để phát hiện ngăn chặn kịp thời hiện tượng sử dụng vốn không đúng mục đích, chi tiêu lãng phí ở đơn vị nhận khoán. + Trường hợp có nghiệp vụ thu hộ chi hộ ( Sơ đồ A là nghiệp vụ 5, sơ đồ B hạch toán trên TK 336 tương tự sơ đồ A). Nếu đơn vị nhận khoán nộp thuế GTGT hộ đơn vị giao khoán thì khi nộp ghi: Nợ TK 336/ Có TK 111. Sau đó chuyển chứng từ đã nộp thuế về đơn vị giao khoán để thanh toán. Khi thanh toán thuế đã nộp, ghi như được cấp tiền. Đơn vị giao khoán nhận được chứng từđã nộp thuế ( Sơ đồ A ghi: Nợ TK3331/ Có TK 136, chi tiết chi hộ thuế GTGT). Khi trả tiền cho đơn vị nhận khoán về khoản chi hộ thuế, ghi như cấp tạm ứng: Nợ 136,112/ Có 111,112. Trên đây là một số kiến nghị về việc hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính gía thành sản phẩm xây lắp đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây dựng ở nước ta hiện nay. Hoàn thiện tốt vấn đề trên không những góp phần nâng cao hiệu quả quản lý của doanh nghiệp trong xuất thời gian thi công công trình về mặt chất lượng, tiến độ thi công hay cái quan trọng cuối cùng là gía thành sản phẩm xây lắp. Song kế toán chỉ có thể tập hợp và phản ánh chính xác giá và lượng của các đối tượng chi phí nhất là giávật tư , vật liệu phục vụ cho xây dựng công trình để từ đó có được gía thành sản phẩm xây lắp hợp lý nhất, thì một trong những biện pháp cần thiết tiến hành song song với nội dung nói trên để góp phần hạ giá thành công trình là: + Tăng cường quản lý chất lượng các đồ án khảo sát và thiết kế; + Tăng cường thực hiện công tác đấu thầu và có biện pháp hữu hiệu đối với công tác chỉ định thầu; +Tăng cường quản lý và giám sát của chủ đầu tư; +Tăng cường công tác quản lý giá và đơn giá: Vì giá và đơn giá là yếu tố quan trọng cấu thành giá trị công trình. Và hiện nay đã ban hành giá vật tư, vật liệu đến chân hiện trường xây lắp theo từng tháng trong năm. Nhưng mới chỉ đề cập tới một số chủng loại thông dung, còn một số chủng loại vật tư vật liệu cao cấp, vật liệu mới chưa đề cập tới. Do đó vấn đề đặt ra là phải làm thế nào quản lý tốt giá cả vật tư vật liệu khi đưa vào công trình. Trước hết, tăng cường bổ sung giá các chủng loại vật tư, vật liệu chưa có trong thông báo gía, tăng cường thâm nhập vào thị trường, bám sát sự biến động về giá, từ đó điều chỉnh cho kịp thời. Kiểm tra chặt chẽ nguồn gốc và thời điểm mua bán vật tư, trên cơ sở đó xác định giá khi đưa vào quyết toán. Kết luận Sau một quá trình nghiên cứu, học hỏi về môn học kế toán và đặc biệt là khi chọn đề tài "Hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính gía thành sản phẩm xây lắp", em đã nắm được những vấn đề cơ bản nhất mà theo em nó là các nguyên tắc, nội dung, trình tự hạch toán và hệ thống tài khoản sử dụng trong hạch toán kế toán doanh nghiệp nói chung và ở doanh nghiệp xây lắp nói riêng. Qua tìm hiểu thực trạng công tác kế toán trong các doanh nghiệp xây lắp cũng như đặc điểm đặc thù hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp này- nó quy định những nét riêng có trong hạch toán kế toán nhất là kế toán chi phí sản xuất và tính gía thành sản phẩm xây lắp, đòi hỏi bất kỳ một nhân viên kế toán nào cũng phải nắm vững thì mới có thể làm tốt công việc kế toán của mình. Hơn nữa, vai trò, tầm quan trọng của các doanh nghiệp xây lắp trong nền kinh tế thị trường ngày một phát triển, và yêu cầu của tiến trình công nghiệp hóa hiên đại hóa đất nước đòi hỏi các doanh nghiệp xây lắp cần đẩy tự mình đẩy nhanh nhịp độ phát triển cả về quy mô và trình độ sản xuất. Và tất nhiên cùng với nó là vấn đề hoàn thiện công tác kế toán, trong đó trọng tâm là hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính gía thành sản phẩm xây lắp. Cuối cùng, đối với em kết quả lớn nhất sau khi hoàn thành chuyên đề này là những hiểu biết về hạch toán kế toán doanh nghiệp và theo đó là mong muốn được làm việc ở vị trí của một nhân viên kế toán trong một doanh nghiệp xây lắp mặc dù đó là một nghề tương đối khó. mục lục Trang Lời nói đầu 1 Nội dung : I. Lý luận chung về kế toán chi phí sản xuất và tính gía thành sản phẩm ở doanh nghiệp xây lắp. 2 1. Đặc điểm sản xuất xây lắp có ảnh hưởng tới công tác kế toán 2 2. Kế toán chi phí sản xuất và tính gía thành sản phẩm xây lắp 2 II. Thực trạng kế toán chi phí sản xuất và tính gía thành sản phẩm xây lắp và một số ý kiến đề xuất. 11 1. Thực trạng kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp. 11 2. Một số ý kiến đề xuất. 13 Kết luận 24 Mục lục 25 tài liệu tham khảo 26 . Tài liệu tham khảo Hệ thống kế toán doanh nghiệp - Hà nội 1995 Chịu trách nhiệm xuất bản: Trần Thị Quỳnh Châu NXB Tài chính. Kế toán doanh nghiệp trong kinh tế thị trường Chủ biên: PTS. Nguyễn Văn Công. Hà nội - 1998, NXB Tài chính. Tạp chí Kế toán: Số 06/ Năm1997 Số 11/ Năm 1998 Số 12/ Năm 1998 Số 14/ Năm 1998 Số 21/ Năm 1999 Số 18/ Năm 1999 Số 22/ Năm 2000 Số 26/ Năm 2000 Tạp chí Kiểm toán: Số 4/ Năm1999 Tạp chí Xây dựng: Số 6/ Năm 1998.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKT1301.doc
Tài liệu liên quan