Năm 2007 tình hình tài chính của Công ty khả quan hơn nhiều do với năm 2006. Về cơ cấu nguồn vốn, nợ phải trả giảm đáng kể (5.24%), như vậy Công ty đã thanh toán được một lượng lớn nợ cho các bên liên quan. Qua các tỉ suất thanh toán cũng cho thấy khả năng thanh toán của Công ty tăng lên rất nhiều. Các khoản tiền mặt, tiền gửi ngân hàng cũng như khoản phải thu. tăng lên, khẳng định sự tăng trưởng của Công ty trong năm vừa qua. Tuy nhiên, khoản phải thu của Công ty đang còn nhiều dễ gây nên tình trạng ứ đọng vốn. Về tỉ suất vốn chủ sở hữu trong tổng nguồn vốn theo bảng phản ánh là giảm sút, thực tế cho thấy đây là do nguyên nhân chủ quan từ phía Công ty khi nhượng bán liên doanh Miwon và Kotobuki để tách ra hoạt động độc lập theo hình thức Công ty cổ phần. Những năm trước, các quĩ đầu tư phát triển, khen thưởng phúc lợi, quĩ dự phòng đều do trích từ lợi nhuận của liên doanh chuyển về. Vì vậy, sự sụt giảm như trên bảng cho thấy là chấp nhận được.
49 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 908 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoàn thiện kế toán tiêu thụ kẹo Chew và xác định kết quả tiêu thụ kẹo Chew tại Công ty cổ phần bánh kẹo Hải Hà, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ời tiêu dùng; mặt khác các loại nguyên vật liệu có tính chất lý hoá khác nhau, khó bảo quản và dễ hư hỏng nên vấn đề về bảo quản nguyên vật liệu và vấn đề chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm đặc biệt được quan tâm.
1.4.2. Đặc điểm về thị trường tiêu thụ
Chiến lược cạnh tranh của Công ty là chiến lược bao phủ thị trường trên phạm vi toàn quốc nên có mạng lưới tiêu thụ rất mạnh, Công ty có trên 200 đại lý chính và có mặt ở khắp các tỉnh thành, từ miền Bắc đến miền Nam, từ thành thị đến nông thôn, từ đồng bằng đến miền núi.
Thị trường miền Bắc: Đây là thị trường chính của Công ty. Hàng năm một lượng hàng lớn của Công ty được tiêu thụ và là thị trường mang lại doanh thu chính cho Công ty nhiều năm qua. Tuy nhiên thực tế thị trường này vẫn còn nhiều tiềm năng chưa được khai thác hết.
Thị trường miền Trung: Do điều kiện thu nhập của người dân thấp hơn so với những nơi khác nên người dân ở đây ít quan tâm đến mẫu mã sản phẩm, chỉ quan tâm đến giá cả có phù hợp hay không. Chính vì vậy thị trường này của Công ty vẫn còn nhỏ hẹp.
Thị trường miền Nam: Đây là một thị trường có tiềm năng phát triển mạnh. Nhu cầu về sản phẩm bánh kẹo cao hơn so với các thị trường khác. Tuy nhiên thực tế Công ty chưa khai thác hết điểm mạnh của thị trường này mặc dù đã có mở chi nhánh tại Thành phố Hồ Chí Minh, có thể do sự cạnh tranh gay gắt của thị trường này.
Thị trường nước ngoài: Đây là một thị trường mà Công ty đang từng bước đột phá, thâm nhập. Với chất lượng sản phẩm của mình Công ty đã nhận được nhiều hợp đồng từ nước ngoài để xuất khẩu các loại bánh kẹo. Những
năm qua, Công ty đã thâm nhập được vào thị trường nhiều nước châu Á như: Hàn Quốc, Indonexia, Singapor và nhiều nước khác.
Để đáp ứng một thị trường rộng lớn như vậy, Công ty sử dụng một hệ thống kênh phân phối đơn giản mà vẫn phải đảm bảo hiệu quả sao cho sản phẩm đến tay người tiêu dùng một cách nhanh chóng. Đó là kênh phân phối trực tiếp, kênh phân phối gián tiếp (Cấp 1), kênh phân phối gián tiếp (Cấp 2)
Sơ đồ 1.4. Kênh phân phối của doanh nghiệp
(1)
(2)
Người TD
Người bán lẻ
Công ty Hải Hà Hà
(3)
Người bán lẻ
Đại lý cấp 2
Đại lý cấp 1
(1) Kênh phân phối trực tiếp: Đây là loại hình kênh phân phối sản phẩm trực tiếp đến với tiêu dùng (chỉ chiếm 7% sản lượng hàng năm của Công ty).
(2) Kênh phân phối gián tiếp (cấp 1): Chỉ sử dụng thông qua một trung gian duy nhất là người bán lẻ (chỉ chiếm khoảng 5% sản lượng hàng năm).
(3) Kênh phân phối gián tiếp (cấp 2): Thông qua các trung gian là người bán buôn (các đại lý). Các đại lý đến đặt hàng của Công ty rồi bán lại cho các đại lý nhỏ hơn (đại lý cấp 2, cấp 3), sau đó người phân phối đến tay người tiêu dùng. Loại hình phân phối này chiếm phần lớn (~88% sản lượng tiêu thụ hàng năm).
1.5. Đặc điểm tổ chức công tác kế toán của Công ty cổ phần bánh kẹo Hải Hà
1.5.1. Đặc điểm về lao động kế toán
Đội ngũ nhân viên kế toán của Công ty là những người có trình độ tay nghề cao (tất cả đều tốt nghiệp đại học trở lên). Các nhân viên kế toán các phần hành chịu sự chỉ đạo, quản lý của kế toán trưởng, mỗi thành viên phụ trách một mảng công việc khác nhau, phối hợp với nhau trong công tác hạch toán kế toán đảm bảo luôn cung cấp thông tin kịp thời, chính xác cho công tác quản lý, hỗ trợ cho việc ghi chép sổ sách, ghi chép số liệu của các phòng ban được xuyên suốt và thống nhất...
1.5.2. Đặc điểm về tổ chức bộ máy kế toán
Bộ máy kế toán của Công ty được tổ chức theo mô hình kế toán tập trung, mọi công việc, phần hành kế toán đều được thực hiện ở phòng tài vụ mà nay là phòng kế toán tài chính. Chức năng của bộ máy kế toán là tham mưu giúp việc cho phó tổng giám đốc giám sát, quản lý, điều hành tài chính và cơ sở vật chất kỹ thuật của Công ty.; Hướng dẫn kiểm tra các phòng ban, các đơn vị trực thuộc thực hiện mọi quy định của nhà nước về hạch toán, kế toán ghi chép sổ sách thống kê ban đầu, đảm bảo thông tin bằng số liệu đầy đủ, trung thực, chính xác kịp thời; Thu nhận xử lý và cung cấp toàn bộ thông tin về tài sản, vật tư, tiền vốn và sự vận động của chúng cho giám đốc; Cung
+ Kế toán xây dựng cơ bản và TSCĐ: Có nhiệm vụ hạch toán theo dõi quá trình tăng giảm TSCĐ, tính và trích khấu hao trong kỳ. Ngoài ra còn hạch toán các loại chi phí sửa chữa lớn và sửa chữa thường xuyên của tài sản.
+ Kế toán giá thành và tiền lương; Có nhiệm vụ hạch toán chi tiết và tổng hợp cho các đối tượng chịu sự phân bổ. Tổng hợp chi phí theo từng đối tượng, tiến hành tính giá và nhập kho,mở sổ chi tiết và tổng hợp cho sản phẩm hoàn thành nhập kho, xác định giá bán và tổ chức ghi sổ chi tiết. Cùng với đó là hạch toán việc chi trả lương, khoản phải trả cho cán bộ công nhân viên trong Công ty như bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và các khoản khác theo qui định.
+ Thủ quĩ: Chịu trách nhiệm về tiền mặt, thanh toán bằng tiền mặt các khoản phải thu, phải chi trên cơ sở chứng từ do kế toán các phần hành đưa sang và có xác nhận của người lãnh đạo có thẩm quyền.
+ Kế toán các đơn vị thành viên: Tại các XN thành viên không tổ chức bộ máy kế toán đầy đủ như tại phòng tài chính kế toán của Công ty. Tổ chức kế toán ở đó chỉ gồm khoảng 2-3 người dưới sự điều hành của giám đốc xí nghiệp và sự chỉ đạo chuyên môn của kế toán trưởng của Công ty như việc thu thập chứng từ, thực hiện việc ghi chép ban đầu và có trách nhiệm ghi chép đầy đủ cung cấp số liệu chính xác về tình hình sản xuất của đơn vị mình.
Có thể khái quát bộ máy kế toán của Công ty bằng sơ đồ sau:
Sơ đồ 2.1. Bộ máy kế toán của Công ty
Kế toán các XN thành viên
Phụ trợ
Thủ quĩ
Kế toán tiền mặt và thanh toán
KT tiền gửi ngân hàng
KT XDCB&
TSCĐ
KT tiêu thụ thành phẩm
Kế toán tổng hợp
KT giá thành và tiền lưong
KT
vật
liệu
& CCDC
Kế toán trưởng
1.5.3. Hình thức kế toán tại Công ty
Là một doanh nghiệp có qui mô lớn và yêu cầu quản lý cao nên Công ty áp dụng hình thức sổ kế toán “Nhật ký chứng từ”.
Sơ đồ 2.2. Hình thức tổ chức sổ Nhật ký chứng từ
Chứng từ gốc và
Các bảng phân bổ
Bảng tổng hợp
phát sinh tài khoản
Sổ kế toán
chi tiết
Nhật ký
chứng từ
Bảng kê
Sổ cái
Bảng tổng hợp
kế toán chi tiết
Báo cáo tài chính
Ghi chú: Ghi hàng ngày
Ghi cuối tháng
Đối chiếu, kiểm tra
Ghi định kỳ
1.5.4. Đặc điểm vận dụng chứng từ kế toán
Kế toán tiền mặt và thanh toán: Phiếu thu, phiếu chi, giấy đề nghị tạm ứng, giấy thanh toán tạm ứng, biên lai thu tiền, bảng kiểm kê quỹ,
Kế toán tiền gửi ngân hàng: Giấy báo Nợ, giấy báo Có, lệnh chi tiền, uỷ nhiệm chi, séc doanh nghiệp.
Kế toán tiêu thụ: Hoá đơn bán hàng, hoá đơn kiêm phiếu xuất kho, hoá đơn cước tiền gửi, bảng thanh toán hàng đại lý, ký gửi,
Kế toán TSCĐ: Biên bản giao nhận TSCĐ, thẻ TSCĐ, biên bản thanh lý TSCĐ, biên bản đánh giá lại TSCĐ, bảng tính khấu hao TSCĐ,
Kế toán tiền lương: Bảng chấm công, phiếu xác nhận sản phẩm hoàn thành, bảng thanh toán tiền lương, bảng thanh toán BHXH,
Kế toán vật liệu và công cụ dụng cụ: Biên bản kiểm nhận vật tư, thành phẩm, phiếu nhập - xuất kho, thẻ kho, phiếu xuất vật tư theo hạn mức.
Kế toán giá thành: Biểu tổng hợp chi phí theo yếu tố, bảng phân bổ lương và BHXH, bảng phân bổ vật liệu và CCDC, bảng phân bổ chi phí trả trước, bảng tính và phân bổ khấu hao.
1.5.5. Đặc điểm vận dụng Tài khoản kế toán
Công ty sử dụng Hệ thống tài khoản kế toán của Bộ tài chính. Cụ thể:
Kế toán tiền mặt và thanh toán, tiền gửi ngân hàng: TK 111, 112, 331, 131, 333, 136, 336, 141, 338, 311
Kế toán tiêu thụ và xác định kết quả tiêu thụ: TK 511, 512, 531, 532, 632, 911, 421
Kế toán TSCĐ: TK 211, 213, 214
Kế toán tiền lương, các khoản trích theo lương: TK 334, 338
Kế toán vật liệu và công cụ dụng cụ: TK 152, 153
Kế toán giá thành: TK 621, 622, 142, 335, 627, 154.
...
1.5.6. Đặc điểm vận dụng sổ sách kế toán
Các sổ sách sử dụng gồm:
+ Sổ tổng hợp: Nhật ký chứng từ, bảng kê, sổ cái.
+ Sổ chi tiết:
Sổ chi tiết số 1 dùng theo dõi tiền vay (TK 311, TK 315, TK 341, TK 342, số tổng cộng ghi vào NKCT số 4);
Sổ chi tiết số 2 dùng theo dõi thanh toán với người bán (Sổ này mở riêng cho từng người bán, cuối tháng ghi vào NKCT số 5);
Sổ chi tiết số 3 dùng theo dõi doanh thu, sổ chi tiết số 4 dùng theo dõi thanh toán với khách hàng,)
1.5.7. Đặc điểm vận dụng hệ thống báo cáo kế toán
Các loại báo cáo tài chính: Bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh, thuyết minh báo cáo tài chính.
Các loại báo cáo quản trị: Báo cáo kết quả kinh doanh, báo cáo nguồn vốn, báo cáo giá thành, báo cáo chi tiết chi phí bán hàng,
PHẦN 2
THỰC TRẠNG KẾ TOÁN TIÊU THỤ VÀ XÁC ĐỊNH
KẾT QUẢ TIÊU THỤ TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN BÁNH KẸO HẢI HÀ
Sản phẩm chính của Công ty cổ phần bánh kẹo Hải Hà là bánh và kẹo, rất đa dạng, gồm nhiều loại khác nhau. Trong khuôn khổ của Chuyên đề thực tập tốt nghiệp, em xin phép chỉ trình bày một cách khái quát nhất về thực trạng kế toán tiêu thụ và xác định kết quả tiêu thụ của một loại sản phẩm là Kẹo Chew.
2.1. Đặc điểm của kẹo Chew và thị trường tiêu thụ kẹo Chew
2.1.1. Đặc điểm của kẹo Chew
Công ty cổ phần bánh kẹo Hải Hà là doanh nghiệp có quy mô lớn, có truyền thống và uy tín trong lĩnh vực sản xuất bánh kẹo ở VN. Sản phẩm của công ty Hải Hà được người tiêu dùng bình chọn và đánh giá cao nhờ không ngừng nâng cao chất lượng, đa dạng hoá sản phẩm, cải tiến bao bì mẫu mã.
Để không ngừng nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, duy trì và phát triển trong điều kiện cạnh tranh gay gắt, công ty xác định cần phải đầu tư chiều sâu, đưa công nghệ tân tiến, thiết bị hiện đại vào sản xuất tạo ra sản phẩm mới, tăng sức cạnh tranh với các sản phẩm nhập ngoại.
Trước đây sản phẩm của công ty sản xuất ra để đáp ứng nhu cầu bình dân do điều kiện sống, mức thu nhập của người dân còn thấp. Đến nay, đời sống của nhân dân ngày càng được nâng cao, không chỉ ở các thành phố lớn mà ngay cả ở các tỉnh thành khác, thu nhập và mức sống đã khác rất nhiều. Đồng thời, hàng hoá tràn ngập và luôn có các sản phẩm bổ sung, thay thế; do đó, khách hàng ngày càng khắt khe hơn trong việc lựa chọn cho mình loại sản phẩm phục vụ cho tiêu dùng. Nhận thức được điều đó, Hải Hà một mặt không ngừng giữ vững uy tín và thị phần của mình, một mặt luôn tìm công nghệ tạo ra sản phẩm mới nhằm thay đổi khẩu vị cho sản phẩm bánh kẹo. Việc đầu tư dây chuyền sản xuất kẹo Chew là một trong những chiến lược đổi mới sản phẩm của Công ty. Lâu nay, kẹo Chew hoa quả chưa từng được sản xuất ở Việt Nam, trên thị trường chi mới có một số lượng nhỏ nhập khẩu với giá bán rất cao, mặc dù ở Châu Âu nó đã xuất hiện từ rất lâu và được ưa chuộng.
Việc đầu tư dây chuyền sản xuất kẹo Chew với một hệ thống chủng loại đa dạng phù hợp với chiến lược dài hạn của công ty, đó là chiến lược đa dạng hoá đồng tâm, tức là việc phát triển các sản phẩm mới dựa trên kinh nghiệm hoạt động lâu năm trong ngành sản xuất bánh kẹo, tiêu thụ dựa trên những thị trường hiện tại của doanh nghiệp.
Dây chuyền sản xuất kẹo Chew là dây chuyền công nghệ tiên tiến đạt tiêu chuẩn Châu Âu, bao gồm một số bộ phận chính như: Hệ thống nồi nấu, hệ thống làm nguội, máy quật kẹo, đùn kẹo, dây chuyền tạo hình, hầm lạnh, bảng điều khiển, hệ thống máy gói, thiết bị phù trợ, Với vốn đầu tư ban đầu khoảng 28 tỷ VNĐ, công suất của dây chuyền là 600kg/giờ.
So với công nghệ hiện tại của công ty Hải Hà và các công ty sản xuất bánh kẹo trong nước thì dây chuyền sản xuất kẹo Chew có một số đặc tính nổi bật như: Hệ thống nồi nấu tự động khép kín, khâu hoà đường, cân trộn nguyên liệu tự động, do đó tiết kiệm được vật tư và hao tổn trên đường ống; Hệ thống phối trộn Galetin, hương liệu, phẩm mầu, axit tự động, đảm bảo về chất lượng và giảm tổn thất về mùi hương; Hệ thống máy quật chuyên dụng để sản xuất kẹo Chew có hàm lượng Gelatin cao tới 2%; Sử dụng máy đùn để tạo hình dòng kẹo trước khi đưa vào máy vuốt nhằm chống biến dạng của viên kẹo, chống co ngót trong quá trình sản xuất và bảo quản sản phẩm, phù hợp với điều kiện thời tiết nóng ẩm tại Việt Nam; Dây chuyền sử dụng các nguyên vật liệu thực phẩm, không dùng hoá chất độc hại và hệ thống tự động làm giảm tiêu hao nguyên vật liệu khô (khoảng 1%), do đó không gây ô nhiễm môi trường; Đây là dây chuyền sản xuất đồng bộ, bán tự động, tiết kiệm lao động và đảm bảo tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm.
Sơ đồ 2.1.1. Quy trình công nghệ sản xuất kẹo Chew
Đường kính, Glucoza, chất béo, sữa,
Cân trộn tự động
Thùng chứa
Bơm
Nấu
Phối trộn gelatin, phụ liệu, hương liệu
Làm lạnh
Quật kẹo
Ủ ấm, tạo tinh
Ép đùn
Tunel lạnh
Bơm nhân (socola, mứt quả)
Cắt - gói
* Ưu thế nổi bật của kẹo Chew:
Đây là loại kẹo mềm bơm nhân lần đầu tiên xuất hiện ở Việt Nam, mặc dù ở các nước Châu Âu nó đã có từ lâu và rất được ưa chuộng. Việc kẹo Chew xuất hiện như một sự thay đổi khẩu vị cho ngành sản xuất kẹo ở Việt Nam. Kẹo Chew là loại kẹo chất lượng cao, có vị ngọt dịu, không ngấy, độ mềm dẻo cao, độ béo thấp (tỷ lệ chất béo từ 3,5 – 7%), cảm giác khi ăn như nhai kẹo cao su, trạng thái kẹo mềm mịn, độ nhũ hoá tốt do bơ sữa được phối trộn trong quá trình nấu. Đó là sự khác biệt của kẹo Chew với các loại kẹo khác hiện nay.
CHEW là từ viết tắt lấy từ tên Chewing Gum (kẹo cao su). Đây cũng là một ưu thế của sản phẩm, tên gọi ngắn gọn, ấn tượng mà lại dễ nhớ.
Ngoài ra, kẹo Chew có vị chua và hương thơm của các loại hoa quả, Chocolate, Sữa, Caramel, Cùng với dây chuyền sản xuất kẹo Chew, công ty đã lựa chọn và đưa ra các sản phẩm phù hợp với nhu cầu người tiêu dùng, chủng loại sản phẩm đa dạng, phong phú như: Chew Dâu, Chew Cam, Chew Nho, Chew Bắp, Chew Đậu Đỏ, bao gồm 2 dòng khác nhau: Chew không nhân (còn gọi là Chew gối) và Chew có nhân (còn gọi là Chew xoắn).
Qua các phân tích trên, ta thấy việc đưa sản phẩm kẹo Chew vào thị trường Việt Nam lúc này là rất thích hợp, phù hợp với tình hình sản xuất thực tế của công ty Hải Hà, phù hợp với nhu cầu bánh kẹo đang tăng cao và thị hiếu tiêu dùng mới của thị trường. Sản phẩm kẹo Chew xuất hiện đã tạo ra sự khác biệt rất rõ ràng so với các sản phẩm kẹo khác, đồng thời tạo ra một sắc thái mới cho ngành sản xuất kẹo ở Việt Nam.
2.1.2. Thị trường tiêu thụ kẹo Chew tại Công ty
Dự án sản xuất kẹo Chew đi vào hoạt động đã đóng góp đáng kể vào sự phát triển của công ty trong hơn hai năm qua, đảm bảo đạt và vượt mức kế hoạch, sản lượng sản xuất đảm bảo mức doanh thu/1 tấn sản phẩm như dự kiến.
Sản phẩm kẹo Chew tuy mới xuất hiện ở Việt Nam nhưng đã có sức hấp dẫn lớn đối với người tiêu dùng. Thông thường, chỉ đến các dịp Lễ, Tết thì lượng tiêu thụ kẹo mới đáng kể; nhưng riêng với kẹo Chew, do đặc điểm là dễ ăn, không ngấy, ngọt dịu nên sản lượng tiêu thụ giữa các thời kỳ chênh lệch không đáng kể. Nhất là trong dịp Tết Nguyên Đán, hầu hết các gia đình đều có dùng sản phẩm kẹo Chew của Hải Hà. Điều đó cho thấy, kẹo Chew đã có chỗ đứng trong ngành bánh kẹo của cả nước.
Theo thống kê hiện nay, có hơn 80 mặt hàng thực phẩm của Việt Nam đã được tập đoàn Albertsons đưa vào hệ thống siêu thị của Mỹ (Albertsons là hệ thống siêu thị lớn thứ hai ở Mỹ), trong đó có cả kẹo Chew của Hải Hà. Đây cũng là một thành công lớn của công ty Hải Hà, vì sản phẩm mới không những được ưa chuộng trong nước mà còn đạt tiêu chuẩn khắt khe của thị trường nước ngoài, nhất là thị trường khó tính như Mỹ.
Năm 2006 mức tiêu thụ bình quân đầu người tại Việt Nam là 2,5 kg/người/năm. Tổng sản lượng bánh kẹo tiêu thụ của cả nước là 10.000 tấn/năm. Trong đó sản xuất trong nước chiếm 70%, nhập khẩu 30%. Thị phần của Hải Hà chiếm khoảng 10% cả nước.
Đến năm 2007, mức tiêu thụ bình quân đầu người là 3,5 kg/người/năm. Tổng sản lượng của Công ty Hải Hà từ 11.500 tấn/năm, sau khi đầu tư thêm dây chuyền sản xuất kẹo Chew, sản lượng của Công ty tăng lên đến 14.879 tấn/năm, chiếm trên 13% thị phần cả nước. Khi Công ty đầu tư thêm dây chuyền sản xuất kẹo Chew gối, công suất hiện nay tăng lên gấp đôi, tức là khoảng 30.000 tấn/năm, điều này hứa hẹn một kết quả tốt hơn cho việc sản xuất kẹo Chew năm 2008.
Đây là một kết quả rất tốt mà dây chuyền sản xuất kẹo Chew mang lại cho Công ty.
Bảng 2.1.1. Một số kết quả kinh doanh năm 2007
Sản phẩm
Chỉ tiêu
ĐVT
Kẹo Chew
Kẹo cứng
Kẹo mềm
Bánh
Sản lượng sản xuất
Tấn
2254
2599
4335
3825
% Sản lượng sản xuất
%
13,21
15,23
25,42
22,42
Doanh thu
Tỷ
50,5
49,4
90,2
67,8
% Doanh thu
%
15,89
14,95
27,29
20,51
Lợi nhuận
Tỷ
2,4
0,4
1,1
0,6
% Lợi nhuận
%
46,15
7,7
21,15
11,54
Ta thấy sản lượng sản xuất kẹo Chew là ít nhất (chỉ chiếm 13,21%) so với các loại khác. Với sản lượng sản xuất là 2.254 tấn, doanh thu kẹo Chew năm 2007 đạt 50,5 tỷ, chiếm 15,89% tổng doanh thu của công ty. Trong khi đó, kẹo cứng có sản lượng sản xuất là 2.599 tấn, cao hơn sản phẩm kẹo Chew, nhưng lại có doanh thu thấp hơn (49,4 tỷ), chiếm 14,95% tổng doanh thu. Sản phẩm bánh ngọt có sản lượng sản xuất là 3.825 tấn, chiếm 22,4% tổng sản lượng, cao hơn sản lượng của kẹo Chew rất nhiều nhưng doanh thu chỉ đạt 67,8 tỷ, tương đương 20,51% tổng doanh thu. Và sản lượng sản xuất của kẹo mềm là cao nhất (4.335 tấn), doanh thu là 90,2 tỷ.
Xét về lợi nhuận: Sản phẩm kẹo Chew có sản lượng sản xuất nhỏ nhất nhưng lại có mức lợi nhuận cao nhất (chiếm 2,4 tỷ), tương đương với 46,15% tổng lợi nhuận. Trong khi đó, sản phẩm kẹo mềm (90,2 tỷ tương đương với 27,29% tổng doanh thu) hay bánh ngọt (67,8 tỷ tương đương với 20,51% tổng doanh thu), đều rất cao và cao hơn sản phẩm kẹo Chew nhưng mức lợi nhuận lại chỉ đạt 1,1 tỷ (tương đương với 21,15% tổng lợi nhuận), tức là chỉ bằng gần một nửa mức lợi nhuận của sản phẩm kẹo Chew.
Như vậy, nếu so sánh hiệu quả của sản phẩm kẹo Chew so với các sản phẩm khác trong doanh nghiệp thì sản phẩm kẹo Chew có hiệu quả hơn hẳn, thể hiện ở lượng sản xuất nhỏ nhưng lợi nhuận mang lại rất cao. Một trong những nguyên nhân giải thích cho vấn đề này là ở chỗ, ngoài những ưu thế mà kẹo Chew mang lại cho người tiêu dùng thì các sản phẩm khác của công ty đã có mặt trên thị trường từ lâu, nhưng thị trường chủ yếu lại là những người tiêu dùng có mức thu nhập trung bình và thấp. Chính vì thế, giá bán không cao, trong khi lượng sản xuất ra là lớn. Bên cạnh đó, các sản phẩm này được sản xuất trên các thiết bị dây chuyền lạc hậu, mức độ hao phí nguyên vật liệu là lớn, mức độ tự động chưa cao, phải sử dụng nhiều nhân công, vì vậy, chi phí sản xuất lớn, chất lượng sản phẩm không đồng đều. Trong khi đó, sản phẩm kẹo Chew sản xuất trên dây chuyền công nghệ hiện đại, mức độ tự động cao, lãng phí ít nguyên vật liệu và nhân công trực tiếp sản xuất, giá bán đang áp dụng là cao (do sự khác biệt hoá sản phẩm).
Từ khi kẹo Chew được đưa vào thị trường đến nay, tuy đã sản xuất với công suất tối đa nhưng vẫn không đủ đáp ứng cho nhu cầu tiêu dùng của thị trường, đặc biệt là trong dịp lễ Tết, Trung thu, Ta có thể thấy sự tăng trưởng của kẹo Chew qua sơ đồ dưới đây.
Sản phẩm kẹo Chew là thị trường đầy tiềm năng, vị thế cạnh tranh mạnh, mức độ tăng trưởng cao. Khi mà trong nước hiện nay chỉ có Công ty bánh kẹo Hải Hà là đang sản xuất loại sản phẩm này, có thể nói kẹo Chew là sản phẩm đầy sức hấp dẫn và đang có lợi thế lớn trong ngành bánh kẹo. Đây là một bước đi đúng đắn trong kế hoạch đầu tư mở rộng sản phẩm của Công ty.
Với 2 dòng sản phẩm chính là kẹo Chew nhân (Chew xoắn) và Chew không nhân (Chew gối), kẹo Chew hiện nay tiêu thụ rất tốt và có thể nói, năm 2006 và 2007 vừa qua, kẹo Chew gần như là sản phẩm tiêu thụ chính của công ty. Tuy sản lượng sản xuất ra nhỏ hơn so với các sản phẩm khác nhưng đem về cho công ty tỷ lệ lợi nhuận cao nhất. Tuy không có nhiều khác biệt nhưng tỷ lệ tiêu thụ giữa 2 loại chênh lệch đáng kể, kẹo Chew gối chiếm 85% sản lượng, còn Chew nhân chỉ chiếm 15%. Đó cũng một phần là do kẹo Chew gối được đưa vào thị trường trước kẹo Chew nhân nên quen thuộc hơn, gây ấn tượng hơn.
Khi mới bắt đầu vào dự án, kẹo Chew đã được xác định để trở thành sản phẩm chủ lực của công ty. Khi thị trường kẹo bánh trong cả nước thì kẹo Chew được đưa vào thị trường, mang nhiều lợi thế và nét đặc trưng, do đó đã rất được ưa chuộng.
Do đó, việc tiêu thụ bánh kẹo của cả công ty có nhiều sự biến động, cả về số lượng sản xuất, số lượng tiêu thụ, doanh thu và lợi nhuận. Ta có thể thấy tỷ trọng tiêu thụ kẹo Chew trong tổng sản lượng tiêu thụ các mặt hàng khác như sau:
Bảng 2.1.2. Tỷ trọng tiêu thụ kẹo Chew so với các loại sản phẩm khác (Năm 2007)
Loại
Sản lượng tiêu thụ (tấn)
Tỷ lệ (%)
Kẹo Chew (gối + xoắn)
3600
24
Kẹo Xốp
2975,9
20
Kẹo Que
744
5
Kẹo Cứng
1500
10
Bánh quy
3124,7
21
Kem xốp
1893
12
Chíp
1041,6
8
Tổng
14879,3
100
Tuy mới ra thị trường hai năm nhưng kẹo Chew đã chiếm một tỷ trọng lớn trong tiêu thụ. Đó có thể là do công tác tiêu thụ tốt, do kẹo hợp với khẩu vị của đa số người tiêu dùng.
Bảng 2.1.3. Sản lượng sản xuất và tiêu thụ kẹo Chew – 2006
STT
Chỉ tiêu
SLSX (kg)
SLTT (kg)
1
Kẹo Chew gối Cam
125.463,450
125.324,430
2
Kẹo Chew gối Nho
616.908,600
614.686,065
3
Kẹo Chew gối Dâu
202.998,600
201.027,748
4
Kẹo Chew gối Sữa
95.010,300
94.218,010
5
Kẹo Chew gối Chuối
34.782,300
33.516,650
6
Kẹo Chew gối Bạc hà
20.380,500
19.180,680
7
Kẹo Chew gối Bắp
106.400,700
97.051,000
8
Kẹo Chew gối tổng hợp 350g
623,000
623,000
9
Kẹo Chew gối Taro
339.437,700
335.325,125
10
Kẹo Chew gối Calcibone hộp
2.141,100
2.141,100
11
Kẹo Chew xoắn nhân Cam
33.726,250
33.183,250
12
Kẹo Chew xoắn nhân Cam cân
3.360,000
3.360,000
13
Kẹo Chew xoắn nhân Dâu
64.844,000
64.789,125
14
Kẹo Chew xoắn nhân Dâu cân
6.632,000
6.550,800
15
Kẹo Chew xoắn nhân Chuối
19.357,500
19.298,385
16
Kẹo Chew xoắn nhân Chuối cân
6.296,000
6.240,000
17
Kẹo Chew xoắn nhân Nho
80.943,850
80.193,125
18
Kẹo Chew xoắn nhân Nho cân
19.984,000
19.976,000
19
Kẹo Chew xoắn nhân Chocolate
53.287,500
53.198,130
20
Kẹo Chew xoắn nhân Chocolate cân
8.608,000
8.608,000
21
Kẹo Chew xoắn nhân Tổng hợp 400g
192.720,000
190.813,197
22
Kẹo Chew gối Tổng hợp 375g
127.579,500
120.257,130
23
Kẹo Chew xoắn nhân Bắp
15.367,500
14.628,250
24
Kẹo Chew xoắn nhân Tổng hợp
603,000
603,000
25
Kẹo Chew xoắn nhân Taro
33.510,000
32.205,500
26
Kẹo Chew gối 300g
2.079,000
2.079,000
27
Kẹo Chew gối tổng hợp lọ
1.886,400
1.823,300
Tổng
2.254.124,750
2.174.000,000
Bảng 2.1.4. Sản lượng sản xuất và tiêu thụ kẹo Chew – 2007
STT
Chỉ tiêu
SLSX (kg)
SLTT (kg)
1
Kẹo Chew gối Cam
86.484,7
83.198,7
2
Kẹo Chew gối Nho
556.964,1
547.281,9
3
Kẹo Chew gối Nho lọ 300g
52.320
4.825
4
Kẹo Chew gối Dâu
127.017,2
123.098,8
5
Kẹo Chew gối Sữa
52.085
59.747,5
6
Kẹo Chew gối Chuối
6.696,3
6.695,3
7
Kẹo Chew gối bạc hà
6.637,3
7.179
8
Kẹo Chew gối Bắp
156.088,8
159.208
9
Kẹo Chew gối Taro
634.636,8
630.852,6
10
Kẹo Chew đậu gối
341.289,9
329.255,7
11
Kẹo Chew gối Tổng hợp 375g
101.383,5
304.025
12
Kẹo Chew gối Tổng hợp 350g
101.869,7
108.048
13
Kẹo Chew gối tổng hợp lọ 300g
976
850
14
Kẹo Chew xoắn nhân đậu
62.020,5
49.957,2
15
Kẹo Chew xoắn nhân Cam
38.452
65.992
16
Kẹo Chew xoắn nhân Dâu
76.253
5.948,1
17
Kẹo Chew xoắn nhân Chuối
4.937,5
105.120,7
18
Kẹo Chew xoắn nhân Nho
109.107
48.899
19
Kẹo Chew xoắn nhân Socola
52.974,5
418.567,6
20
Kẹo Chew xoắn nhân tổng hợp 400g
447.139
414.994,6
21
Kẹo Chew xoắn nhân Bắp
66.069
67.129
22
Kẹo Chew xoắn nhân Taro
196.470
201.644
23
Kẹo Chew nhân Tổng Hợp lọ 300g
24.293
25.622,6
Tổng
3.805.000
3.600.000
Trong việc phát triển thị trường, có một điểm mà tất cả các doanh nghiệp sản xuất các mặt hàng tiêu thụ trực tiếp đều quan tâm, lưu ý, đó là thói quen, tập quán tiêu dùng. Ở mỗi khu vực địa lý khác nhau, do điều kiện tự nhiên, lối sống văn hoá khác nhau nên đặc điểm tiêu dùng cũng khác nhau. Đối với sản phẩm kẹo, tại thị trường Việt Nam thì có thể phân chia thành 3 thị trường chính: thị trường miền Bắc, thị trường miền Nam và thị trường miền Trung. Không những thế, sự khác biệt về mức sống giữa các vùng thành thị và nông thôn cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt trong tiêu dùng.
Qua những phân tích và kết quả kinh doanh mà công ty có được trong nhiều năm, qua những báo cáo của nhân viên thị trường của công ty và những thu thập từ ý kiến khách hàng, từ các đại lý, có thể đưa ra một số đặc tính tiêu thụ của từng vùng như sau:
Bảng 2.1.5. Đặc tính tiêu dùng của từng vùng thị trường
Khu vực
Đặc tính tiêu dùng
1. Miền Bắc
Không ưa ngọt quá, thích mua theo gói, quan tâm đến hình thức bao bì, mẫu mã.
2. Miền Trung
ít quan tâm đến mẫu mã, bao bì. Thích mua lẻ theo chiếc hoặc theo cân, ưa thích ngọt đậm, có vị cay.
3. Miền Nam
Quan tâm tới số lượng kẹo trong một gói. Quan tâm đến bao bì. Thích vị ngọt và hương vị trái cây.
4. Thành phố, thị xã
Quan tâm tới nhãn hiệu sản phẩm, hình thức, mẫu mã. Không quan tâm nhiều đến giá cả.
Không ưa ngọt quá.
5. Nông thôn, miền núi
Thích mua với giá rẻ, ít quan tâm tới nhãn hiệu.
Từ những thị hiếu về tiêu dùng đó, công ty đã có những thay đổi về chính sách sản phẩm, về giá cả và hương vị phù hợp với từng vùng thị trường, tuy gặp nhiều khó khăn về phương tiện vận chuyển và chi phí. Với thị trường miền Trung và miền Nam, hiện nay công ty đang cố gắng để tạo ra các loại kẹo Chew mới có hương vị phù hợp.
Bảng 2.1.6. Sản lượng tiêu thụ kẹo Chew ở từng vùng thị trường
Đơn vị: Tấn
Năm
Vùng
2006
2007
Mức độ
phát triển (07/06)
Miền Bắc
1.400
2.100
1,5
Miền Trung
274
500
1,8
Miền Nam
500
1.000
2
Tổng
2.174
3.600
1,66
Năm 2006, tổng sản lượng tiêu thụ là 2.174 tấn, trong đó miền Bắc chiếm 1.400 tấn, miền Trung là 274 tấn, còn thị trường miền Nam rộng hơn, với 500 tấn.
Đến năm 2007, sản phẩm kẹo Chew được phổ biến rộng rãi và có mặt ở hầu hết các tỉnh thành trong cả nước, trên các vùng thị trường của Hải Hà. Kẹo Chew được bình chọn là hàng Việt Nam chất lượng cao, được bày bán ở tất cả các siêu thị trong địa bàn HN. Tổng sản lượng là 3.600 tấn (tăng so với 2006 là 1,66 lần), trong đó thị trường miền Bắc tăng 1,5 lần (2.100 tấn) còn thị trường miền Nam thì tăng gấp đôi (1.000 tấn).
Việc tỷ trọng tiêu thụ của kẹo Chew ở miền Bắc giảm dần là do sản lượng tiêu thụ tại thị trường miền Nam và miền Trung tăng lên. Điều đó cho thấy thị trường của kẹo Chew đã được mở rộng ở các vùng, miền khác nhau, khẳng định sự cố gắng tìm hiểu và phân đoạn thị trường của công ty trong việc quảng bá sản phẩm mới. Tuy nhiên, sự tăng lên ở hai vùng thị trường này là không đáng kể, đó là vì người tiêu dùng ở miền Trung và miền Nam có thị hiếu tiêu dùng khác người miền Bắc, thêm vào đó là khí hậu nóng bức hơn, khẩu vị cũng khác nên công ty chưa kịp thay đổi và chưa kịp tạo ra khẩu vị mới để phù hợp với các thị trường đó.
* Đánh giá khái quát hoạt động tiêu thụ kẹo Chew tại Công ty
Từ khi kẹo Chew được tiêu thụ trên thị trường đã bộc lộ cả những mặt tốt và chưa tốt mà công ty cần xem xét điều chỉnh. Để cho việc tiêu thụ được tốt hơn nữa, chúng ta cần phân tích một số nguyên nhân dẫn tới kết quả trong hai năm hoạt động vừa qua.
Mặt mạnh của kẹo Chew là: Kẹo Chew ra đời cung cấp cho thị trường bánh kẹo loại sản phẩm mới phù hợp với thị hiếu tiêu dùng mới, có sức hấp dẫn lớn đối với người mua; Bao bì và mẫu mã sản phẩm đẹp, đa dạng, màu sắc hài hoà, không gây cảm giác rối mắt cho người mua. Viên kẹo cũng không dùng nhiều phẩm màu và không có nhiều màu sắc loè loẹt, đem đến cảm giác an toàn cho người tiêu dùng; Sản phẩm sản xuất ra luôn được tiêu thụ hết, không có sản phẩm ứ đọng hay tồn kho; Cung cấp kẹo kịp thời, nhanh chóng phục vụ cho nhu cầu của khách hàng, cho các đại lý và người bán lẻ, đảm bảo tốc độ cung ứng; Tình hình tiêu thụ kẹo Chew rất ổn định, rất tốt và trên diện rộng, đặc biệt là ở thị trường miền Bắc (tuy ở thị trường miền Nam và miền Trung còn chưa phát triển).
2.2. Phương pháp xác định giá kẹo Chew và các phương thức tiêu thụ kẹo Chew tại Công ty cổ phần bánh kẹo Hải Hà
2.2.1. Phương pháp xác định giá kẹo Chew tại Công ty
Giá vốn của kẹo Chew được phản ánh vào TK 632, là toàn bộ giá thành công xưởng thực tế của sản phẩm xuất bán.
2.2.2. Các phương thức tiêu thụ kẹo Chew tại Công ty
Do Công ty sử dụng hệ thống kênh phân phối là kênh phân phối trực tiếp, kênh phân phối gián tiếp (Cấp 1), kênh phân phối gián tiếp (Cấp 2), nên theo phương thức tiêu thụ này, kết quả tiêu thụ của Công ty đạt được là rất khả quan.
Bảng 2.2.1. Kết quả sản lượng tiêu thụ theo phương thức bán
Đơn vị: Tấn
Phương thức bán
2006
2007
SL
%
SL
%
Tổng sản lượng
13.765,7
100
14.879,3
100
1. Phân phối trực tiếp
1.376,5
10
1.487,9
10
2. Phân phối qua người bán lẻ
825,9
6
744
5
3. Phân phối qua các đại lý
11.563,3
84
12.647,4
85
Như vậy, ta thấy tỷ trọng tiêu thụ của các hình thức phân phối có sự thay đổi, làm cho sản lượng cũng thay đổi qua các năm.
Kênh phân phối trực tiếp chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng sản lượng tiêu thụ, tức là người tiêu dùng đến cửa hàng giới thiệu sản phẩm của công ty tại số 25 Trương Định để trực tiếp mua hàng. Đến năm 2006 và năm 2007 thì khách hàng không còn đến mua ở cửa hàng của công ty nhiều như những năm trước, tuy nhiên sự phát triển của các hệ thống siêu thị lại làm cho sản lượng tiêu thụ theo phương thức này không hề thuyên giảm mà ổn định ở mức 10% sản lượng tiêu thụ.
Phương thức phân phối gián tiếp cấp 1 (tức là qua người bán lẻ) thì giảm hẳn tính đến nay. Đó là do tính không thuận lợi của phương thức phân phối này.
Thay vào đó là việc bán hàng qua các cấp đại lý của công ty, năm 2007 tăng lên đến 85% (tương ứng với 12.647,4 tấn).
2.3. Kế toán chi tiết tiêu thụ kẹo Chew tại Công ty
- Hạch toán doanh thu bán hàng:
Việc tổ chức chi tiết kế toán doanh thu tiêu thụ phải được tiến hành riêng thành doanh thu tiêu thụ ra bên ngoài và doanh thu tiêu thụ nội bộ và thành các khoản doanh thu tương ứng.
Đối với số doanh thu bán hàng ra ngoài được phản ánh tổng hợp trên TK 511 "Doanh thu bán hàng". Tài khoản này phản ánh giá trị của sản phẩm, hàng hoá, lao vụ dịch vụ mà doanh nghiệp đã bán đã cung cấp cho khách hàng (doanh thu đã thực hiện: hoặc thu tiền ngay, hoặc được người mua chấp nhận thanh toán), cũng như các khoản chiết khấu, giảm giá hàng bán, hàng bán bị trả lại và thuế tiêu thụ để xác định doanh thu thuần kết chuyển sang TK 911 "xác định kết quả" để tính lãi, lỗ về hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Việc ghi sổ được tiến hành trên sổ chi tiết bán hàng.
Ngoài ra Công ty còn sử dụng tài khoản 512, 515 để hạch toán doanh thu bán hàng nội bộ và doanh thu hoạt động tài chính.
- Hạch toán giá vốn hàng bán.
Căn cứ vào các chứng từ gốc và các bảng kê từ cửa hàng gửi lên, Phòng Kế toán Công ty sẽ tiến hành ghi chép vào các sổ kế toán có liên quan.
Giá vốn hàng bán được theo dõi trên tài khoản 632. Cuối kỳ kết chuyển sang tài khoản 911 để xác định kết quả kinh doanh.
Khi phát hành hoá đơn bán hàng nhân viên bán hàng cập nhật các thông số trên hoá đơn vào máy vi tính, đây là dữ liệu đầu vào phục vụ khai thác thông tin quản trị cả phân hệ kinh doanh và kế toán trong Công ty.
- Hạch toán chi phí bán hàng và quản lý doanh nghiệp
Tại Công ty tất cả các khoản chi phí liên quan đén công tác tiêu thụ hàng hoá và chi phí quản lý doanh nghiệp phát sinh đều được hạch toán vào tài khoản 641. Hàng ngày khi chi phí kinh doanh phát sinh căn cứ vào sổ chi tiết chi phí bán hàng chứng từ gốc liên quan kế toán ghi vào sổ chi tiết theo dõi chi phí bán hàng, kế toán theo dõi riêng các nghiệp vụ làm tăng chi phí trên sổ chi tiết chi phí bán hàng ghi nợ TK 641 và các nghiệp vụ làm giảm chi phí bán hàng ghi có TK641.
- Hạch toán xác định kết quả:
Công ty sử dụng TK 911 để hạch toán xác định kết quả tiêu thụ chính. Việc xác định kết quả này được tiến hành vào cuối tháng theo trình tự như sau:
Kết chuyển giá vốn hàng bán (số liệu lấy từ sổ cái TK 632 sang bên nợ TK 911).
Kết chuyển doanh thu thuần (số liệu trên sổ cái TK 511) sang bên có TK 911.
Kết chuyển doanh thu thuần nội bộ (số liệu sổ cái TK 512) sang bên có TK 911.
Kết chuyển doanh thu hoạt động tài chính.
Kết chuyển các loại chi phí.
Cuối cùng tính ra số lãi hoặc lỗ trong tháng bằng cách cân đổi tổng số phát sinh hai bên của TK 911 rồi tiến hành chuyển lỗ lãi sang TK 421.
Có thể khái quát trình tự luân chuyển chứng từ tiêu thụ bằng sơ đồ sau:
Sơ đồ 2.3.1. Trình tự luân chuyển chứng từ tiêu thụ
Nghiệp vụ
Bán hàng
Người mua hàng
Đề nghị mua
BQ, LT
Lập chứng từ bán hàng
Ký chứng từ bán hàng
Thủ trưởng
Cán bộ cung ứng
KT thanh toán
Lập phiếu thu
Ghi sổ
Kế toán
Xuất hàng
Thủ kho
Thu tiền
Thủ quĩ
Hoá đơn bán hàng được lập thành ba liên, khi phát hành hoá đơn nhân viên bán hàng lưu lại liên đen tại cuống và giao cho khách hàng hai liên còn lại (liên đỏ và liên xanh) khách hàng mang hai liên hoá đơn đó xuống kho nhận hàng (trong trường hợp khách hàng mua lượng lớn qua kho trung tâm), tại kho hàng thủ kho căn cứ vào hoá đơn bán hàng thực hiện giao hàng,thủ kho lập phiếu xuất kho ( phụ lục số) và tiếp tục xác nhận thêm các thông số kỹ thuật về lượng hàng đã giao vào hai liên hoá đơn khách mang tới, thủ kho ký xác nhận và giữ lại liên xanh, còn liên đỏ giao lại cho khách khi khách đã nhận đủ hàng, cuối ngày thủ kho sao kê hoá đơn lập bảng kê chi tiết, tổng hợp đóng kèm liên xanh chuyển nộp về phòng kinh doanh, nhân viên thống kê tại phòng kinh doanh sau khi đã đối chiếu lượng hàng xuất theo các bảng kê sẽ chuyển lên phòng kế toán để hạch toán, tại các cửa hàng việc phát hành hoá đơn cũng tương tự như vậy.
2.4. Kế toán xác định kết quả tiêu thụ kẹo Chew tại Công ty
2.4.1. Phương pháp xác định kết quả tiêu thụ kẹo Chew
Kết quả hoạt động kinh doanh là kết quả hoạt động tiêu thụ sản phẩm hàng hoá, lao vụ, dịch vụ và hoạt động tài chính được biểu hiện qua chỉ tiêu lợi nhuận thuần về hoạt động kinh doanh, kết quả đó được tính theo công thức sau:
Lợi nhuận của hoạt động kinh doanh
=
Lợi nhuận gộp về bán hàng và cung cấp dịch vụ
+
Doanh thu hoạt động tài chính
-
Chi phí hoạt động tài chính
-
Chi phí bán hàng
-
Chi phí quản lý doanh nghiệp
2.4.2. Kế toán chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp
Tại Công ty tất cả các khoản chi phí liên quan đến công tác tiêu thụ hàng hoá và chi phí quản lý doanh nghiệp phát sinh đều được hạch toán vào tài khoản 641. Hàng ngày khi chi phí kinh doanh phát sinh căn cứ vào sổ chi tiết chi phí bán hàng chứng từ gốc liên quan kế toán ghi vào sổ chi tiết theo dõi chi phí bán hàng, kế toán theo dõi riêng các nghiệp vụ làm tăng chi phí trên sổ chi tiết chi phí bán hàng ghi nợ TK 641 và các nghiệp vụ làm giảm chi phí bán hàng ghi có TK641.
2.4.3. Kế toán xác định kết quả kinh doanh kẹo Chew
Công ty sử dụng TK 911 để hạch toán xác định kết quả tiêu thụ chính. Việc xác định kết quả này được tiến hành vào cuối tháng theo trình tự như sau:
- Kết chuyển giá vốn hàng bán (số liệu lấy từ sổ cái TK 632 sang bên nợ TK 911).
- Kết chuyển doanh thu thuần (số liệu trên sổ cái TK 511) sang bên có TK 911.
- Kết chuyển doanh thu thuần nội bộ (số liệu sổ cái TK 512) sang bên có TK 911.
- Kết chuyển doanh thu hoạt động tài chính.
- Kết chuyển các loại chi phí.
Cuối cùng tính ra số lãi hoặc lỗ trong tháng bằng cách cân đổi tổng số phát sinh hai bên của TK 911 rồi tiến hành chuyển lỗ lãi sang TK 421.
Sơ đồ 2.4.1. Trình tự hạch toán tổng hợp tiêu thụ thành phẩm.
Chứng từ gốc
Bảng kê số 8,9,10
NKCT số 8
Báo cáo tài chính
Sổ cái TK 632,511,512, 911,641,642
SCT giá vốn, doanh thu
SCT 641,642
ứ
Phụ trợ
SCT thanh toán với người mua
Bảng tổng hợp chi tiết bán hàng
Bảng kê số11
Bảng tổng hợp phát sinh tài khoản
Ghi chú: Ghi hàng ngày
Ghi cuối tháng
Ghi định kỳ
Căn cứ vào các chứng từ gốc, kế toán lập bảng tổng hợp phát sinh tài khoản với các tài khoản riêng biệt. Định kỳ thường là 10 ngày, kế toán lấy số liệu từ bảng tổng hợp phát sinh tài khoản để lên bảng kê và sổ chi tiết các tài khoản liên quan. Cuối kỳ từ các SCT kế toán tập hợp vào NKCT số 8, cộng chuyển số liệu vào sổ Cái và báo cáo tài chính.
PHẦN 3
ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN CÔNG TÁC KẾ TOÁN TIÊU THỤ VÀ XÁC ĐỊNH KẾT QUẢ TIÊU THỤ KẸO CHEW TẠI CÔNG CY CỔ PHẦN BÁNH KẸO HẢI HÀ
3.1. Đánh giá chung về công tác kế toán tiêu thụ kẹo Chew và xác định kết quả tiêu thụ kẹo Chew tại Công ty
3.1.1. Đánh giá chung về công tác kế toán tiêu thụ kẹo Chew tại Công ty
Kế toán vận dụng hệ thống sổ chi tiết, tổng hợp đầy đủ, đáp ứng được yêu cầu ghi chép và phản ánh thông tin chính xác, kết hợp giữa hạch toán chi tiết và hạch toán tổng hợp trên cùng một hệ thống sổ. Ngoài ra còn có sự hỗ trợ của hệ thống kế toán máy làm công tác kế toán gọn nhẹ hơn.
3.1.2. Đánh giá chung về công tác kế toán xác định kết quả tiêu thụ kẹo Chew tại Công ty
Kế toán đã thực hiện đúng trình tự luân chuyển chứng từ, sổ sách giúp công tác hạch toán xác định kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty được nhanh gọn, chính xác, đạt hiệu quả.
3.2. Một số ý kiến nhằm hoàn thiện công tác kế toán tiêu thụ kẹo Chew và xác định kết quả tiêu thụ kẹo Chew tại Công ty
* Về giá:
Hiện nay, kẹo Chew của Hải Hà tuy về chất lượng đã đảm bảo yêu cầu của thị trường nhưng giá cả theo đánh giá là còn khá cao mặc dù so với các loại kẹo mềm nhập ngoại thì giá cả thấp hơn rất nhiều. Để cạnh tranh về giá thì phải tính tới các điểm như: Sự tương quan so sánh giữa giá thành và chất lượng hàng hoá của đối thủ cạnh tranh, mối quan hệ về giá và chất lượng hàng hoá của đối thủ cạnh tranh, phản ứng của đối thủ cạnh tranh về chính sách giá của công ty, vị trí thị trường mà công ty đang tồn tại,
Giá thành sản phẩm được tính theo công thức sau:
Zsp = CPnvl + CPnctt + KHtscđ + CPkhác
Trong đó:
Zsp : Giá thành sản phẩm
CPnvl : Chi phí nguyên vật liệu
CPnctt : Chi phí nhân công trực tiếp
KHtscđ : Khấu hao tài sản cố định
CP khác : Các chi phí khác (điện, nước,)
Thứ nhất: Do công nghệ sản xuất kẹo Chew là dây chuyền tự động, số công nhân trực tiếp sản xuất là không đáng kể so với các dây chuyền khác; thứ hai, kẹo Chew lại đang có ưu thế mạnh, là loại kẹo mềm bơm nhân đầu tiên có mặt ở Việt Nam, không có các sản phẩm cùng loại cạnh tranh; do đó để giảm giá thành kẹo Chew thì việc quan trọng là xem xét và giảm giá nguyên vật liệu đầu vào và tiết kiệm các chi phí khác như điện, nước, đảm bảo mức chi phí/1 tấn sản phẩm kẹo Chew như dự kiến.
Do giá nguyên vật liệu đầu vào còn nhập khẩu nhiều nên giá cao, do đảm bảo thời gian hoàn vốn của công ty và do ưu thế hiện tại của sản phẩm đang có trên thị trường. Tuy nhiên, để nâng cao hơn nữa khả năng tiêu thụ và khẳng định thị trường kẹo Chew thì công ty nên có chính sách về giá thích hợp hơn. Một trong những giải pháp quan trọng cần thực hiện là tiết kiệm chi phí nguyên vật liệu.
Trong thời gian tiếp theo, lượng sản xuất và tiêu thụ sản phẩm kẹo Chew sẽ tăng lên. Vì vậy, việc tăng lượng nguyên vật liệu tiêu dùng sẽ giúp cho công ty có thể khắc phục phần nào sự biến động về giá. Vì thực tế, một số nguyên vật liệu phụ, hương liệu để sản xuất kẹo Chew đều phải nhập từ nước ngoài với giá rất cao, chi phí vận chuyển lớn. Mặt khác, nguyên vật liệu dùng dể sản xuất kẹo Chew đều có thời gian bảo quản ngắn, số lần vận chuyển nguyên vật liệu từ nước ngoài về sẽ rất nhiều, làm tăng chi phí giá nguyên vật liệu.
Nhu cầu nguyên vật liệu tăng, có nghĩa là chúng ta sẽ phải tăng lượng mua và lượng dự trữ, từ đó sẽ giảm số lần vận chuyển nguyên vật liệu từ nước ngoài, tiết kiệm được chi phí. Hiện nay, nhà kho của công ty mới chỉ sử dụng hết 3/4 diện tích, có đủ điều kiện để phục vụ cho việc tăng số lượng nguyên vật liệu dự trữ như Shorterning, Mantoza, Hyfoama, Gumarabic, trong đó Gumarabic có thể để được rất lâu. Mặt khác, mua hàng với số lượng lớn có thể tăng được mức chiết khấu cho công ty.
Thực hiện đúng định mức số lượng nguyên vật liệu sử dụng, có các biện pháp khuyến khích vật chất đối với công nhân viên quản lý kho tàng. Đối với công nhân trực tiếp sản xuất, nếu trong quá trình sản xuất tìm ra biện pháp tiết kiệm nguyên vật liệu thì sẽ được khuyến khích 20- 50% giá trị số nguyên vật liệu tiết kiệm được. đối với nhân viên quản lý kho tàng, nếu gây hư hỏng, thất thoát sẽ bị phạt 20 – 40% giá trị thất thoát, hư hỏng tuỳ thuộc loại nguyên vật liệu.
Công ty có thể kết hợp với công ty sữa Vinamilk cùng nghiên cứu và phát triển sản xuất nguồn sữa bột và váng sữa, hạn chế nhập khẩu từ nước ngoài.
Thực hiện tiết kiệm các loại năng lượng như: điện, nước,
* Về phân phối:
Hải Hà áp dụng 3 kênh phân phối chính là : Phân phối trực tiếp (tại cửa hàng giới thiệu sản phẩm và các siêu thị), phân phối gián tiếp cấp 1 (thông qua người bán lẻ), phân phối gián tiếp cấp 2 (thông qua các đại lý của công ty). Trong đó phần lớn sản phẩm tiêu thụ thông qua bán buôn (đại lý), chiếm khoảng 85% tổng sản lượng tiêu thụ.
Số lượng đại lý của Hải Hà hiện nay là:
+ Miền Bắc : 148
+ Miền Nam : 30
+ Miền Trung : 55
Ta thấy có sự phân bố không đều giữa các vùng, sự chênh lệch này có thể làm ảnh hưởng đến việc tiêu thụ của công ty.
Do đó, công ty nên xem xét sự phân bố các đại lý giữa các vùng cho hợp lý hơn, tức là đẩy mạnh tiêu thụ ở TP.HCM và miền Trung.
Đồng thời, nên khoán cho các đại lý, nếu đại lý nào bán được từ 100 triệu đồng kẹo Chew /1 tháng thì được hưởng 2% trên tổng số 100 triệu đồng đó.
Mở rộng hệ thống bán lẻ cao cấp bằng việc đặt hàng, trưng bày các mẫu kẹo Chew tại các hệ thống siêu thị (đặc biệt là siêu thị ở thị trường HN), đồng thời tiếp tục tham gia các kỳ hội chợ Xuân, hội chợ Hàng Việt Nam chất lượng cao tổ chức hàng năm.
Mở thêm cửa hàng giới thiệu sản phẩm tại các vùng thị trường nơi đông dân cư và mức sống phát triển như tại các thành phố của các tỉnh thành khác nhau. Vì theo quan niệm của người tiêu dùng thì cửa hàng bán lẻ trực tiếp của công ty bao giờ cũng đem đến độ tin cậy cao cho sản phẩm.
Luôn theo sát các đại lý ở từng vùng thị trường, đặc biệt ở các tỉnh thành có khoảng cách lớn về địa lý, thông tin không cập nhật kịp thời dễ gây ra việc bị hàng giả lấn át, bị mất thị trường do các sản phẩm bánh kẹo khác.
* Về đội ngũ bán hàng:
Phát triển hệ thống cửa hàng giới thiệu sản phẩm đồng nghĩa với việc phát triển đội ngũ nhân viên bán hàng. Công ty cần tiến hành tuyển dụng kỹ để có được đội ngũ nhân viên bán hàng có trình độ, có chuyên môn.
Nâng cao trình độ bán hàng cho đội ngũ bán hàng trực tiếp của công ty. Khắc phục tình trạng trưng bày sản phẩm tại các cửa hàng quá đơn giản và sơ sài, bày trí các cửa hàng giới thiệu sản phẩm cho bắt mắt hơn, ấn tượng hơn và chuyên nghiệp hơn. Khuyến khích các đại lý có biển quảng cáo, trưng bày băngzon,
Tăng cường khuyến khích lợi ích kinh tế, có chế độ lương thưởng phù hợp với mỗi hợp đồng tiêu thụ mà nhân viên công ty có được. Công ty cũng nên mở rộng tiêu thụ bằng cách tận dụng mối quan hệ của các nhân viên bán hàng và nhân viên phòng kinh doanh vì kẹo Chew là sản phẩm mới, việc Marketing truyền miệng cũng là một phương pháp quảng cáo có hiệu quả.
* Về quảng cáo, hỗ trợ:
Chính sách Marketing của công ty dựa trên hình thức quảng cáo còn rất ít, chủ yếu là chiến lược đẩy, đó là công ty cung cấp sản phẩm cho các đại lý, sau đó các đại lý có nhiệm vụ giới thiệu, tiêu thụ sản phẩm. Điều này chỉ phù hợp khi sản lượng sản xuất còn rất ít, khi mà sản lượng tăng lên, quy mô tăng lên thì đòi hỏi công ty phải có chiến lược quảng cáo mới.
Mở chiến dịch quảng cáo là rất cần thiết, nhất là đối với một sản phẩm mới như kẹo Chew thì quảng cáo lại cần nhiều hơn nữa. Công ty cần có kế hoạch chi tiết cho việc, quảng cáo trên phương tiện nào, quảng cáo với hình thức như thế nào, Hiện tại thì việc quảng cáo của Hải Hà còn quá hạn chế, sản phẩm kẹo Chew tiêu thụ được chủ yếu là nhờ vào uy tín đã có từ lâu năm của công ty.
Công ty cũng nên đầu tư ngân sách nhiều hơn cho chiến lược quảng cáo của mình. Quảng cáo trên đài truyền hình với thời lượng lớn hơn, khoảng cách giữa số lần quảng cáo không nên quá xa, vì như thế gây ra cảm giác nhạt, dời dạc và không có quy mô, chất lượng. Đồng thời, cũng nên quảng cáo trên thương mại điện tử, nâng cấp Website của doanh nghiệp, như thế sản phẩm của công ty sẽ được quảng bá nhanh chóng và trên phạm vi rộng hơn.
Hiện nay có rất nhiều phương tiện quảng cáo, có thể là truyền thanh, truyền hình, qua mạng Internet, qua Website của công ty, qua việc tài trợ cho một tổ chức, một chương trình văn hoá xã hội,... Các doanh nghiệp ngày nay cũng có rất nhiều chương trình giao lưu, hợp tác tạo điều kiện cho các thành viên có thể giới thiệu sản phẩm của mình. Đặc biệt như trên VTV3 hiện nay có chương trình “HÃY CHỌN GIÁ ĐÚNG” đang được khán giả cả nước quan tâm, là chương trình quảng bá thương hiệu rất có hiệu quả.
Công ty cũng nên chú trọng quảng cáo hơn vào các pano, aphich quảng cáo tại các địa điểm trên các trục giao thông chính, nơi có nhiều người qua lại hay trên các phương tiện vận chuyển, Phải giúp cho người tiêu dùng phân biệt rõ thương hiệu HAIHA và HAIHA – KOTOBUKI.
Đặc biệt chú trọng về vấn đề quảng cáo cho thị trường miền Trung và miền Nam, tức là áp dụng chiến lược mở rộng thị trường, vì miền Trung và miền Nam còn nhiều vùng chưa được khai thác triệt để. Người dân ở đây chưa chắc đã biết hết đến sản phẩm kẹo Chew, bên cạnh đó phải tập trung tạo ra những hương vị mới cho phù hợp với thị hiếu tiêu dùng ở những vùng này. Chương trình quảng cáo phải nêu bật được các đặc tính của kẹo Chew mà gần gũi với lối sống của họ, nêu được những đặc trưng riêng thể hiện sự khác biệt so với các loại kẹo khác.
* Một số kiến nghị
Trong điều kiện nền kinh tế ngày càng phát triển, nhu cầu của người tiêu dùng ngày càng cao, ngành bánh kẹo là ngành thực phẩm đang có nhiều tiềm năng, sự phát triển trong tương lai là rất lớn. Chính vì thế, đòi hỏi Nhà Nước Nhà nước cần quan tâm hơn nữa về mặt hàng này, đồng thời có những chính sách hợp lý giúp đỡ cho ngành bánh kẹo, từ việc quy định về an toàn thực phẩm đến các vấn đề về lãi suất, lãi vay ngân hàng, thuế xuất nhập khẩu, tạo điều kiện thuận lợi để ngành phát triển cùng với sự phát triển của các nước trong khu vực và trên thế giới.
Cần xây dựng và phát triển các xí nghiệp chế biến nguyên liệu phục vụ cho ngành sản xuất bánh kẹo, tránh tình trạng những nguyên liệu cơ bản thì có trong nước, còn các nguyên liệu phụ và hương liệu thì lại phải nhập từ nước ngoài với giá cao, điều này không những gây khó khăn cho công ty mà còn gây lãng phí cho nền kinh tế quốc dân. Nếu thực hiện được điều này thì khả năng phát triển của công ty Hải Hà và sản phẩm mới nhiều tiềm năng như kẹo Chew là rất lớn, có khả năng cạnh tranh mạnh mẽ với bánh kẹo nhập ngoại, tiết kiệm chi phí, nâng cao doanh thu và lợi nhuận, đóng góp một phần lớn vào thu nhập của nền kinh tế quốc nội.
Chính phủ cần có các biện pháp hỗ trợ thuế đối với các mặt hàng thực phẩm khi tham gia vào thị trường xuất khẩu, nhất là những doanh nghiệp đang gặp khó khăn trong việc tìm kiếm thị trường tiêu thụ như Hải Hà. Thực hiện ưu đãi thuế xuất nhập khẩu nguyên vật liệu để phục vụ cho việc sản xuất của ngành nói chung cũng như của Hải Hà nói riêng. Thêm vào đó, chính sách thuế cần được cải tiến theo hướng ổn định và công bằng. Việc cải cách thuế phải tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các vấn đề cắt giảm các mặt hàng thuế quan theo lộ trình đã định và giảm thiểu sự trùng lặp, cũng như thu thuế đối với các đơn vị kinh doanh.
Trợ giúp thông tin và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong ngành nghiên cứu thị trường nước ngoài.
Một vấn đề cấp thiết nữa là Nhà Nước phải có các biện pháp mạnh để chống nạn hàng giả, hàng nhái, vì đây là ngành bánh kẹo (loại hàng hoá có ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ người tiêu dùng), đặc biệt lại là sản phẩm mới. Đồng thời phải quản lý tốt thị trường ngành, ngăn chặn triệt để việc trốn lậu thuế của các cơ sở sản xuất bánh kẹo tư nhân. Hiện nay, hàng giả và nhái kẹo Chew tràn lan ngoài thị trường gây khó khăn cho công ty, cả về uy tín và về kết quả tiêu thụ; nhất là những vùng thị trường ở các tỉnh xa, rất khó kiểm soát thường xuyên. Do đó Nhà Nước cần có các biện pháp để nhanh chóng đẩy xa nạn hàng giả, hàng nhái, đảm bảo đem đến cho người tiêu dùng loại kẹo Chew có chất lượng tốt./.
KẾT LUẬN
Nền kinh tế thị trường đã và đang đặt ra trước mắt các doanh nghiệp rất nhiều thử thách nhưng đồng thời cũng mở ra nhiều cơ hội để các doanh nghiệp tự khẳng định mình. Công ty bánh kẹo Hải Hà cũng là một thành viên của nền kinh tế thị trường nên cũng phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt mà môi trường kinh doanh tạo ra. Một sản phẩm mới ra đời có đáp ứng được thị hiếu tiêu dùng hay không, có được thị trường chấp nhận hay không; vấn đề tiêu thụ sản phẩm, đặc biệt là sản phẩm mới đưa ra thị trường có đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp hay không, là điều mà các doanh nghiệp nói chung và Hải Hà nói riêng luôn phải quan tâm. Kẹo Chew là sản phẩm tuy mới ra đời nhưng nó rất đặc biệt và có những đặc trưng riêng, đem đến cho thị trường kẹo của Việt Nam một sắc thái mới, tuy mới ra thị trường nhưng được người tiêu dùng rất ưa chuộng.
Trong quá trình thực tập tại công ty Hải Hà, em đã tìm hiểu về vấn đề tiêu thụ kẹo Chew trên thị trường. Qua việc áp dụng các kiến thức đã học ở trường để đánh giá, phân tích một số kết quả và những nguyên nhân, em xin mạnh dạn đưa ra một số đóng góp, giải pháp để khắc phục những hạn chế còn tồn tại trong việc tiêu thụ kẹo Chew của công ty với mong muốn thị trường kẹo Chew phát triển và mở rộng hơn nữa, không chỉ thị trường trong nước mà còn cả thị trường khu vực và quốc tế. Dĩ nhiên bài viết của em không tránh khỏi những thiếu xót, nhưng em hy vọng những đề xuất của mình được đóng góp một phần nhỏ vào sự phát triển của công ty sau này.
Em xin chân thành cảm ơn tập thể cán bộ phòng tài vụ Công ty bánh kẹo Hải Hà và cô giáo – PGS.TS. Nguyễn Minh Phương đã giúp đỡ em rất nhiều trong quá trình tìm hiểu thực tế để hoàn thành chuyên đề của mình.
Sinh viên
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình QTKDTH – Nhà xuất bản Lao Động, Xã hội năm 2004.
Giáo trình Quản trị chiến lược – Nhà xuất bản Lao Động, Xã hội năm 2004.
Giáo trình Marketing
Báo cáo tài chính năm 2004 của công ty bánh kẹo Hải Hà.
Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2004 của công ty bánh kẹo Hải Hà.
Báo cáo kết quả tiêu thụ kẹo Chew từ năm 2002 của công ty bánh kẹo Hải Hà.
Số liệu của phòng dự án sản xuất kẹo Chew của công ty Hải Hà.
Website:
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 6394.doc