Đề tài Hoàn thiện nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối của ngân hàng trung ương

Tại Việt Nam tình trạng Đô la hoá rất cao, nên khi lạm phát bùng nổ thì ngoại tệ "lên ngôi" ngay cả khi chính nó đang bị mất giá rất mạnh ở "quê hương" của nó và ở khắp các nền kinh tế công nghiệp phát triển, trong khi tại Việt Nam một số không ít cửa hàng, khách sạn cao cấp lại ngang nhiên niêm yết giá, thu tiền bán hàng bằng Đô la và từ chối thanh toán bằng nội tệ! Do đó, cần sử dụng cơ chế mua đứt bán đoạn thay cho cơ chế tín dụng ngoại tệ. Cùng với việc chuyển này, cần phải tạo cơ chế cho phát triển mạnh thị truờng ngoại hối kèm theo việc kiểm soát chặt các hoạt động Đô la hoá, trong đó bao gồm cả việc cho phát triển mạnh các giao dịch phái sinh ngoại hối để các bên tham gia thị trường tự bảo vệ truớc những biến động rủi ro về tỷ giá. Phải tuân theo nguyên tắc: "Trên lãnh thổ Việt Nam chỉ tiêu VND". Cần ban hành ngay văn bản qui phạm pháp luật về việc thanh tra, kiểm soát mọi hành vi vi phạm việc sử dụng đồng ngoại tệ trong thanh toán trao đổi hàng hoá, dịch vụ trên lãnh thổ Việt Nam. Về thái độ chính sách, phải coi tỷ giá là một phạm trù giá cả trên thị trường ngoại hối để làm phương tiện chuyển đổi quyền sở hữu tiền tệ theo qui luật của nó. Mọi nguồn dự trữ ngoại hối quốc gia phải được thống nhất quản lý, lưu giữ tại Ngân hàng Trung ương. Nếu có lộ trình đủ hợp lý triển khai các nội dung đề xuất nói trên, người viết bài tin tưởng rằng thị trường ngoại tệ Việt Nam sẽ dần đi vào ổn định và quan hệ tỷ giá sẽ vận động đúng theo quan hệ cung - cầu theo thị trường xuất nhập khẩu và cán cân thanh toán quốc tế thực của Việt Nam.

doc29 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1889 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoàn thiện nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối của ngân hàng trung ương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU Nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới, từ năm 2006 Việt Nam đã gia nhập WTO, rất nhiều cơ hội đến với chúng ta, đồng thời những thách thức cũng không thể tránh khỏi. Đối với một quốc gia, ngoại hối có vai trò rất quan trọng – đó là phương tiện để thanh toán mậu dịch quốc tế, trang trải nợ nần với các quốc gia khác. Điều này đặc biệt có ý nghĩa trong giai đoạn kinh tế các nước đang trong xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu. Mặt khác dự trữ ngoại hối còn là cơ sở để nhà nước can thiệp vào thị trường ngoại hối trong nước nhằm điều tiết thị trường, giá cả, là cơ sở để nhà nước trực tiếp kinh doanh ngoại hối tên thị trường quốc tế nhằm kiếm tìm lợi nhuận và bảo đảm trạng thái ngoại hối quốc gia.Cơ quan thay mặt nhà nước thực hiện những việc đó chính là NHTW. Xuất phát từ thực tiễn đó em đã chọn đề tài "Hoàn thiện nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối của ngân hàng trung ương". Với nội dung cốt lõi là nghiên cứu về chung về nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối của ngân hàng trung ương, từ những thực tiễn trong hoạt động của nghiệp vụ để có thể đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện hơn nữa nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối của ngân hàng trung ương. Tuy nhiên vì điều kiện kiến thức và sự nghiên cứu còn hạn chế nên bài nghiên cứu còn gặp nhiều thiếu sót. Em mong nhận được sự đóng góp ý kiến từ thầy cô và các bạn để đề tài được hoàn thiện hơn Và cuối cùng em xin chân thành cảm ơn cô Lê Phong Châu đã hướng dẫn em trực tiếp trong suốt quá trình viết đề tài này. Em xin chân thành cảm ơn! Hà nội, ngày 25 tháng 11 năm 2008 NỘI DUNG I./ Một số vấn đề lý thuyết cơ bản về ngoại hối 1./ Một số vấn đề cơ bản về ngoại hối và dự trữ ngoại hối a./ Khái niêm - Ngoại hối Trong hoạt động mậu dịch quốc tế các bên tham gia giao dịch phải thống nhất về phương tiện thanh toán, phương thức thanh toán… và người ta có thể dùng vàng tiêu chuẩn quốc tế, quyền rút vốn đặc biệt, ngoại tệ… để làm phương tiện thanh toán cho các hoạt động đó. Tất cả các phương tiện được sử dụng cho thanh toán quốc tế được gọi là ngoại hối - Dự trữ ngoại hối Dự trữ ngoại hối là toàn bộ các tài sản bằng ngoại tệ và các tài sản tài chính có tính linh hoạt cao của một quốc gia. b./ Đặc điểm -Ngoại hối Ngoại hối bao gồm: + Các loại tiền nước ngoài , các công cụ thanh toán vàng tiền nước ngoài như: séc, thẻ thanh toán, hối phiếu, chứng chỉ tiền gửi… + Các loại giấy tờ có giá bằng ngoại tệ như trái phiếu Chính phủ, trái phiếu công ty… + Quyền rút vốn đặc biệt, đồng tiền chung Châu Âu các đồng tiền chung khác dùng trong thanh toán quốc tế và khu vực + Các kim loại quý( vàng, bạc và các kim loại thuộc nhóm bạch kim), đá quý( kim cương, nhóm rubi và saphia) khi chuyển ra nước ngoài hoặc chuyển từ nước ngoài vào + Đồng tiền đang lưu hành của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong trường hợp chuyển vào và chuyển ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc được sử dụng làm công cụ thanh toán quốc tế -Dự trữ ngoại hối * Được hình thành từ các nguồn: + Ngoại hối hiện có thuộc sở hữu nhà nước do NHTW quản lý. + Ngoại hối mua từ ngân sách nhà nước, mua từ thị trường ngoại tệ và mua từ thị trường Vàng. + Ngoại hối mua từ các ngân hàng và các tổ chức tài chính quốc tế + Ngoại hối từ các nguồn khác *Dự trữ ngoại hối Nhà nước bao gồm: Ngoại tệ tiền mặt, số dư ngoại tệ trên tài khoản tiền gửi ở nước ngoài; các chứng khoán nợ do chính phủ,ngân hàng nước ngoài, tổ chức tiền tệ hoặc ngân hàng quốc tế phát hành, bảo lãnh; vàng; các lọai ngoại hối khác của nhà nước c./ Vai trò của dự trữ ngoại hối -Tài trợ cho các giao dịch ngoại hối Dự trữ ngoại hối có thể được duy trì nhằm mục tiêu sẵn sàng tài trợ cho các nhu cầu ngoại hối của các hoạt động trong nước mà có thể dự tính được từ trước. Đối với các nước phát triển việc dự trữ ngoại hối có thể là một điều không quan trọng, do các nước này có khả năng truy cập vốn quốc tế một cách nhanh chóng ( Nhờ vào một cơ chế hoạt động hoàn chỉnh, một thị trường chung rất phát triển).Tuy nhiên, điều này lại có tầm quan trọng đối với các nước đang phát triển, bởi việc huy động vốn quốc tế trong một thời gian ngắn vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn, những nước này thường gặp phải tính thời vụ đặc trưng trong thu nhập cũng như chi phí liên quan đến ngoại hối. Đối với những nước này, việc đi vay để tài trợ thâm hụt cán cân vãng lai có thể phải ‘ trả giá đắt’ hơn rất nhiều việc dựa vào quỹ dự trữ ngoại hối Việc duy trì dự trữ ngoại hối với động cơ tài trợ cho các giao dịch ngoại hối có tầm quan trọng đặc biệt đối với các nước có chính sách quản lý ngoại hối rộng và tập trung thông qua kênh duy nhất là NHTW - Can thiệp vào thị trường ngoại hối để điều tiết tỷ giá: Dự trữ ngoại hối nhằm mục đích can thiệp vào thị trường.NHTW thường phải dự đoán được các biến động của thị trường do các yếu tố trong và ngoài nước.Có những tác động nào tích cực, những tác động nào tiêu cực,những tác động trong dài hạn, những tác động chỉ xảy ra ngắn hạn, có những tác động chỉ xảy ra đối với doanh nghiệp nhỏ, những nhà đầu tư cá nhân, cũg có thể chỉ tác động đến những doanh nghiệp lớn, hay là những tập đoàn lớn, thậm chí tác động đến cả nền kinh tế.Dự tính trước được những tác động trên sẽ giúp cho NHTW can thiệp vào thị trường một cách hợp lý,và mục đích can thiệp vào thị trường được coi là mục tiêu quan trọng nhất của dự trữ ngoại hối, đặc biệt đối với các nền kinh tế có thị trường hàng hoá và thị trường vốn mở cửa hoạt động hiệu quả và duy trì chế độ tỷ giá cố định hoặc tỷ giá thả nổi có điều tiết. Mục đích dự trữ ngoại hối nhằm can thiệp vào thị trường chủ yếu là đảm bảo mục tiêu về quản lý tỷ giá về ngắn hạn. trung và dài hạn.VD:Khi tỷ giá trong nước có biến động tăng khi đó nhà nước sẽ tăng cung ngoại tệ giúp làm giảm tỷ giá xuống. Những biến động của tỷ gía sẽ làm ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động sản xuất, kinh doanh trong nước, do đó bình ổn tỷ giá theo hướng có lợi sẽ giúp sản xuất trong nước phát triển hơn -Tích trữ tài sản Mục đích tích trữ tài sản thường không được coi là tiêu thức có ảnh hưởng lớn đến mức dự trữ ngoại hối cần được duy trì tại một NHTW, mà tiêu thức này thường được NHTW xem xét để có các quyết định về dự trữ ngoại hối của mình. Tuy nhiên, yếu tố tích trữ tài sản lại có tầm quan trọng đặc biệt cho việc lựa chọn mức dự trữ trong một số trường hợp. Khi NHTW có trách nhiệm nào đó trong việc quản lý trạng thái rủi ro ngoại hối thực của khu vực kinh tế Nhà nước hay của toàn bộ quốc gia, NHTW thường phải tăng tổng dự trữ ngoại hối để đối phó với tình trạng gia tăng nợ của chính phủ hay các khoản nợ của chính phủ phải được đảm bảo bằng ngoại tệ.Đối với các nước đi vay nợ mục tiêu dự trữ tài sản là rất quan trọng, nếu NHTW nước đó đang tăng cường dự trữ ngoại hối, điều đó chứng tỏ nước đó đang chú trọng vào việc tăng uy tín quốc tế của quốc gia.Việc tăng uy tín quốc gia trên trường quốc tế tạo thuận lợi cho nước đó trong việc giao lưu buôn bán với các nước hơn, các nước sẽ nhìn thấy được sự đảm bảo khi đầu tư hay giao thương với nước đó,ngược lại khi uy tín trên trường quốc tế tăng lên, khi vay nợ tổng phụ phí rủi ro sẽ thấp và tổng chi vay nợ sẽ thấp hơn.Đây là điều đánh đổi đối với các nước đang phát triển, họ cần phải lựa chọn giữa lợi ích của việc đi vay vốn hay chấp nhận phải cạnh tranh trong một thị trường khó khăn hơn nhưng nhiều cơ hội hơn 2./ Thị trường ngoại hối. a./Sự ra đời và phát triển của thị trường ngoại hối Sự ra đời và phát triển của thị trường ngoại hối gắn liền với sự phát triển của hoạt động ngoại thương. Trong ngoại thương liên quan đến nhiểu loại tiền của quốc gia khác nhau.VD: trong quan hệ ngoại thương giữa Anh và Pháp liên quan đến it nhất hai đồng tiền là đồng bảng Anh(GBP) và đồng France Pháp(FRF). Mục tiêu của các thương gia người Anh là đồng bảng Anh trong khi mục tiêu của các thương gia Pháp là đồng France. Tương tự, một công ty xuất khẩu của Việt Nam , xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ sang Đức, thu về đồng Dollar Mỹ( USD). Do không thể dùng USD để mua sản phẩm tại thị trường Việt Nam.Ngược lại, vì không thể sử dụng VND để nhập khẩu xe máy từ Nhật Bản về nên khi công ty có nhu đổi từ VND sang USD để thanh toán.Do đó, thực tiễn đòi hỏi phải có một cơ chế nào đó nhằm giúp các thương nhân Anh đổi GBP lấy FRF và các thương nhân Pháp đổi FRF lấy GBP cũng như công ty xuất khẩu của Việt Nam đôi USD lấy VND và công ty nhập khẩu đổi VND lấy USD. Cơ chế đó gọi là thị trường ngoại hối( foreign exchange market). Như vậy thị trường ngoại hối là thị trường tại đó diễn ra các giao dịch mua, bán, trao đổi các phương tiện thanh toán quốc tế.Tuy nhiên trên thị trường này chủ yếu là các giao dịch, trao đổi ngoại tệ. Nên có thể hiểu thị trường ngoại hối là thị trường mua bán, trao đổi các loại ngoại tệ Như đã trình bày, thị trường ngoại hối bắt nguồn từ sự hình thành và phát triển của ngoại thương, nó là phương tiện hữu hiệu thúc đẩy ngoại thương phát triển. Do đó, cùng với sự phảt triển của ngoại thương, thị trường ngoại hối cũng ngày càng phát triển.Chúng ta đã thấy các trung tâm giao dịch ngoại hối tầm cỡ quốc tế như NewYork, London và Tokyo hoặc tầm cỡ khu vực như Frankfurt, Zurich ở Châu Âu hay Hongkong, Singapore ở Châu Á hoặc tầm cỡ quốc gia như Sydney ở Australia, Bankok ở Thái Lan, Shanghai ở Trung Quốc đều hình thành và phát triển gắn liền với sự hình thành và phát triển của các trung tâm thương mại sầm uất với đầy đủ các giao dịch buôn bán trong và ngoài nước. b./ Đặc điểm, vai trò của thị trường ngoại hối - Đặc điểm +Thị trường ngoại hối không tồn tại trong một không gian cụ thể nhất định mà hoạt động thông qua các phương tiện thông tin hiện đại.Thị trường ngoại hối là một thị trường rộng lớn, liên quan đến nhiều hoạt động,liên quan đến nhiều lĩnh vực, và nhiều tổ chức, cá nhân khác biệt ở nhiều vùng miền khác nhau.Do đó, thị trường này không thể tồn tại ở một không gian cụ thể nào, nó diễn ra ở khắp nơi, và để đảm bảo tính liên tục, tính lưu thông hoạt động chính của nó được thông qua các phương tiện thông tin hiện đại như mạng Internet, các hình thức thẻ rút tiền, gửi tiền với nhiều tính năng, các giấy tờ, hợp đồng giao dịch + Có tính quốc tế hoá cao.Đây là một hoạt động có sự tham gia của rất nhiều thị trường trên thế giới,là nơi diễn ra các giao dịch mua bán, trao đổi các phương tiện thanh toán quốc tế. Bởi vậy những chuẩn mực quốc tế rất được đề cao, nếu những giao dịch không đáp ứng những tiêu chuẩn chung của quốc tế sẽ bị loại bỏ. + Giao dịch mua bán các loại ngoại tệ tự do chuyển đổi.Khi chưa có thị trường ngoại hối, việc tìm kiếm để trao đổi các ngoại tệ trên thị trường là rất khó khăn.Thị trường ngoại hối ra đời, những ngoại tệ nằm trong quy định được phép giao dịch sẽ được mua đi bán lại trong thị trường, tạo tính lưu thông trên thị trường ngoại hối + Giao dịch với khối lượng lớn( khối lượng tối thiểu và doanh số). Giao dịch trên thị trường ngoại hối là những giao dịch lớn từ những nhà đẩu tư trong nước và nước ngoài, những giao dịch này diễn ra trợ giúp cho hoạt động giao thương quốc tế được thuận tiện hơn. Mỗi giao dịch quốc tế diển ra thường mang lại những khoản lợi nhuận rất lớn do đó khối lượng giao dịch trên thị trường ngoại hối thường rất lớn, - Vai trò Trong xu thế hội nhập nền kinh tế toàn cầu, thị trường ngoại hối đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế mỗi quốc gia + Trước hết thị trường ngoại hối tạo điều kiện để kết nối các nhu cầu giao dịch trong nền kinh tế, là cơ chế hữu hiệu đáp ứng cho nhu cầu mua, bán, trao đổi ngoại tệ nhằm phục vụ cho hoạt động xuất – nhập khẩu và các hoạt động dịch vụ liên quan khác.Trong nền kinh tế luôn có những người dư thừa ngoại hối đồng thời cũng có những người có nhu cầu sử dụng ngoại hối đó.Làm sao để những nhu cầu đó khớp được với nhau, khi những người đó hoàn toàn không quen biết, không có mối quan hệ gì? Thị trường ngoại hối đã giải quyết được những điều đó, nhờ thị trường ngoại hối đã tổng hợp được những nhu cầu của thị trường, và giúp cho nó được ăn khớp lại với nhau. Khi chưa có thị trường ngoại hối, các nhu cầu đó chưa tìm được đến nhau gây ra rất nhiều sự lãng phí, lượng ngoại hối dư thừa thì chỉ được cất giữ không sinh lời, còn những người cần ngoại hối thì không có đủ ngoại hối cần thiết để kinh doanh, khiến cho hoạt động của họ bị ngưng trệ. Và khi nhu cầu được đáp ứng, mọi hoạt động xuất- nhập khẩu, dịch vụ liên quan trở nên dễ dàng hơn, phát triển hơn + Thị trường ngoại hối là phương tiện giúp cho các nhà đầu tư chuyển đổi ngoại tệ nhằm kiếm tìm lợi nhuận thông qua các hình thức đầu tư vào tài sản hữu hình hay tài sản tài chính VD: Một nhà đầu tư thấy rằng lãi suất ở thị trường NewYork cao hơn lãi suất ở thị trường Tokyo, họ sẽ rút tiền ở thị trường Tokyo để đầu tư vào thị trường NewYork. Tuy nhiên việc giao dịch sẽ chỉ được thực hiện khi có thị trường ngoại hối + Làm cho các giao dịch trao đổi mua bán ngoại hối đi vào nền nếp, ổn định, góp phần ổn định thị trường tài chính. Trước khi có thị trường ngoại hối, các giao dịch sẽ gặp rất nhiều khó khăn,chưa có một chuẩn mực chung cho các giao dịch, chưa có ai quản lý việc trao đổi mua bán ngoại tệ, tuy nhiên các giao dịch đó không thể không có. Việc chưa có các chuẩn mực chung sẽ khiến cho những người có nhu cầu về ngoại tệ phải tự tìm ra cách để đáp ứng những nhu cầu của mình,việc tìm ra cách đó không thể đảm bảo được sẽ chấp hành theo đúng pháp luật, và họ cũng có thể không thể biết làm như vậy có đúng với quy định hay khồng.Như vậy, để có thể giao dịch được có thể sẽ buộc phải vi phạm các quy định của luật pháp. Lúc này nhà nước rất khó quản lý đối với những hoạt động này. Khi thị trường ngoại hối xuất hiện, các hoạt động sẽ được chuẩn hoá bằng các quy định,những nhà đầu tư, những doanh nghiệp, các tổ chức hay cá nhân sẽ có cơ sở để tham gia vào thị trường. Nhờ vào những quy định chung đó họ biết rằng những gì họ có thể làm và những gì họ không đựơc làm.Dưới sự quản lý của thị trường các hoạt động giao dịch ngoại hối được giám sát chặt chẽ hơn và thị trường sẽ đi vào ổn định khi các hoạt động thực hiện theo đúng những quy định đó. + Giúp NHTW nắm bắt được thông tin về thị trường để tham mưu cho chính phủ trong việc quản lý ngoại hối.NHTW tham gia vào thị trường ngoại hối với tư cách là người tổ chức, điều hành và kiểm soát mọi hoạt động của thị trường ngoại hối nhằm ổn định giá trị đồng nội tệ, trên cơ sở kiểm soát được tỷ giá hối đoái. Mọi hoạt động giao dịch ngoại hối đều phải thông qua NHTW, như vậy NHTW sẽ dễ dàng nắm bắt thông tin trên thị trường. Khi thị trường có bất kỳ dấu hiệu bất ổn nào NHTW cùng chính phủ sẽ có những điều chỉnh phù hợp để thị trường đi vào ổn định + Tạo điều kiện để hội nhập với thị trường ngoại hối quốc tế. Khi trong nước có một thị trường ngoại hối ổn định,các giao dịch diễn ra thuận tiện hơn sẽ tạo điều kiện hơn cho các giao dịch ngoại hối trong nước mà còn tạo điều kiện cho các giao dich ngoại hối quốc tế.Các nhà đầu tư trong nước dễ dàng thâm nhập vào thị trường ngoài nước, đồng thời cũng sẽ thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào.Với một cơ chế hoạt động ngoại hối hoàn chỉnh,các nhà đầu tư không còn gặp nhiều khó khăn khi thâm nhập thị trường quốc tế, từ đó nền kinh tế cũng sẽ phát triển nhanh chóng hơn c./ Hoạt động kinh doanh ngoại hối của ngân hàng trung ương NHTW có thể tham gia trực tiếp vào thị trường ngoại hối trong nước hoặc quốc tế với tư cách là một thành viên tham gia thị trường và tuân thủ các luật chơi của thị trường nhằm đạt được mục đích quản lý ngoại hối.NHTW nhằm vào các mục tiêu khác nhau tuỳ vào đối tác và thị trường giao dịch ngoại hối được lựa chọn -Giao dịch ngoại hối trên thị trường trong nước NHTW tham gia trên thị trường ngoại hối trong nước nhằm mục đích điều chỉnh tỷ giá hoặc vì mục tiêu ngắn hạn của chính sách tiền tệ mà không vì mục tiêu kinh doanh.NHTW là người mua, bán cuối cùng và chủ yếu thực hiện giao dịch với các NHTM, đôi khi các giao dịch cũng được thực hiện giữa NHTW với các doanh nghiệp xuất khẩu lớn.Các giao dịch cuả NHTW trên thị trường ngoại hối có thể ảnh hưởng đến cung cầu ngoại hối và vì thế mà có khả năng điều chỉnh tỷ giá.Mặt khác, mỗi giao dịch loại này của NHTW cũng sẽ làm thay đổi lượng tiền cơ sở(MB) vì thế mà làm ảnh hưởng tới mục tiêu kiểm soát của NHTW thời điểm đó.Điều này đòi hỏi các hoạt động can thiệp trên thị trường trong nước phải được tiến hành một cách cẩn trọng trên cơ sở xem xét tới sự cân đối giữa mục tiêu điều chỉnh tỷ giá và mục tiêu điều tiết lượng tiền cơ sở.Đến lượt nó, sự cân đối này phụ thuộc vào sự cơ chế tỷ giá đang được duy trì. Trong điều kiện cơ chế tỷ giá thả nổi, sự biến động tỷ giá do thị trường quyết định. NHTW không có nghĩa vụ can thiệp tỷ giá. Các hoạt động giao dịch ngoại hối, vì thế nhằm mục đích điều chỉnh khối tiền MB. Trong cơ chế tỷ giá thả nổi có điều tiết, trái lại, NHTW có nghĩa vụ can thiệp thị trường ngoại hối nhằm mục tiêu điều chỉnh tỷ giá.Điều này có thể mâu thuẫn với mục tiêu kiểm soát khối tiền cơ sở và khối tiền cung ứng.Vì vậy trong cơ chế tỷ giá này, mỗi hành vi can thiệp của NHTW trên thị trường ngoại hối phải dựa trên những dự báo chính xác chiều hướng biến động tỷ giá và đảm bảo sự ổn định tối đa cho các điều kiện tiền tệ thông qua việc sử dụng phối hợp hệ thống công cụ của chính sách tiền tệ trong các hoạt động can thiệp triệt tiêu khi cần thiết. Giao dịch ngoại tệ của NHTW với các NHTM trên thị trường ngoại hối chủ yếu được thực hiện thông qua mạng Computer, điện thoại hoặc Telex - Giao dịch ngoại hối trên thị trường quốc tế Bên cạnh giao dịch ngoại hối trên thị trường trong nước, NHTW còn thực hiện các giao dịch ngoại hối trên thị trường quốc tế, nhằm bảo tồn và phát triển quỹ dự trữ ngoại hối quốc gia. Các giao dịch ngoại hối trên thị trường quốc tế đối với các quốc gia khác nhau có thể sẽ khác nhau về hình thức và quy mô. Thông thường, NHTW thường thực hiện một số giao dịch ngoại hối trên thị trưởng quốc tế như sau: * Gửi ngoại hối tại các NHTW và NHTM quốc tế: Với hình thức này, NHTW phải tính toán gửi ngoại hối ở nước nào, ngân hàng nào vừa đảm bảo rủi ro thấp nhất mà lãi thu được lại cao nhất. * Kinh doanh chứng khoán: NHTW chủ yếu thực hiện sẽ thực hiện việc nắm giữ các loại trái phiếu đẻ hoặc là thu lợi tức của trái phiếu, hoặc là để kinh doanh nhằm thu lợi tức thông qua việc chênh lệch giá mua và bán. Thông thường,NHTW nắm giữ các loại chứng khoán xếp hạng tốt. * Uỷ thác đầu tư: NHTW có thể thực hiện việc uỷ thác đẩu tư một lượng ngoại hối nào đó cho các nhà quản lý quỹ đầu tư quốc tế. Với hoạt động này, NHTW phải trả phí quản lý cho các quỹ đầu tư, ngược lại sẽ thu được lợi nhuận. * Thực hiện các giao dịch kinh doanh ngoại tệ: NHTW thực hiện các giao dịch ngoại tệ nhằm chuyển đổi cơ cấu ngoại tệ và thu lợi nhuận. Các giao dịch mà NHTW thương thực hiện là SPOT, Options, Futures, Repo, Security lending… II./ Thực trạng về hoạt động quản lý kinh doanh ngoại hối của ngân hàng trung ương trong thời gian qua 1./ Hoạt động kinh doanh ngoại hối của ngân hàng trung uơng Việt Nam. a./Kinh doanh trên thị trường trong nước Hiện nay, chúng ta đang theo đuổi chính sách tỷ giá thả nổi có điều tiết, dưới sự điều tiết của chính phủ, ngân hàng trung ương.Tham gia vào thị trường ngoại hối, NHTW đặt mục tiêu điều tiết thị trường, thực hiện một số chính sách tiền tệ nhằm ổn định tỷ giá.Vừa theo đuổi chính sách tiền tệ, vừa nhằm điều chỉnh tỷ giá, điều này là một khó khăn đối với NHTW Việt Nam, vì có thể 2 lợi ích này sẽ mâu thuẫn với nhau trong thời điểm mà Việt Nam đang cố gắng để nâng cao uy tín của mình trên trường quốc tế. NHTW Việt Nam thực hiện việc mua bán các loại ngoại tệ trên thị trường ngoại tệ trên thị trường liên ngân hàng nhằm mục đích chính là điều tiết vốn khả dụng của các nhân hàng thương mại, điểu tiết cung cầu ngoại tệ để ổn định tỷ giá. NHTW Việt Nam vừa là người tổ chức, điều hành thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, vừa là thành viên của thị trường. Trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, việc mua, bán ngoại tệ giữa các thành viên của thị trường được thực hiện bằng các hình thức nghiệp vụ giao dịch giao ngay ( SPOT) , giao dịch kỳ hạn ( FORWARD) , hoán đổi ngoại tệ (SWAP) và các loại hình giao dịch khác theo quy định. b./kinh doanh trên thị trường quốc tế Vịêt Nam đang trong thời kỳ hội nhập kinh tế thế giới, hoạt động kinh doanh ngoại hối trên thị trường quốc tế là một điều tất yếu. Cũng như các NHTW trên thế giới, NHTW Việt Nam cũng tham gia hoạt động trên thị trường thế giới nhằm bảo tồn và phát triển quỹ dự trữ ngoại hối quốc gia.NHTW Việt Nam cũng tham gia các nghiệp vụ trên thị trường ngoại hối quốc tế -Gửi ngoại tệ tại các NHTW và các ngân hàng thương mại quốc tế:Tại các ngân hàng thương mại quốc tế hay các tổ chức tài chính quốc tế NHTW tham gia dưới dạng gửi tiền là chính. Tiền gửi tại các tổ chức này của NHTW Việt Nam nằm dưới 2 dạng: *Tiền gửi không kỳ hạn: mục đích là phục vụ cho thanh toán và điều chuyển vốn. Loại này có tính thanh khoản cao nhất nhưng lãi suất được hưởng rất thấp hoăc không có lãi suất. *Tiền gưi có kỳ hạn: Thường là kỳ hạn 365 ngày. Đối với loại tiền gửi này lãi suất được hưởng dựa trên các mức LIBOR , SIBOR và tuỳ vào từng ngân hàng thương mại đối tác.Nhìn chung lãi suất thường cao hơn lãi suất trái phiếu cùng kỳ hạn nhưng tính lỏng lại kém hơn vì không được rút vốn trước thời hạn hoặc phải chịu một khoản phạt đáng kể hoặc không được hưởng lãi. -Kinh doanh trái phiếu: ngoài ra NHTW Việt Nam có thể tham gia vào thị trường quốc tế bằng việc mua một số giấy tờ có giá giống như trái phiếu kho bạc của chính phủ, bởi chúng có tính an toàn cao,thanh khoản cao và xếp hạng tốt.Ví dụ như : Trái phiếu chính phủ Mỹ, Trái phiếu Châu Âu, Trái phiếu Chính phủ Nhật, Trái phiếu các tổ chức tài chính Ngân hàng được xếp hạng tốt (AAA) đồng thời nếu mua sẽ chủ yếu mua công cụ nợ chứ không mua công cụ vốn. Các loại trái phiếu được mua bán có thể là ngắn hạn, trung hạn hoặc dài hạn bằng các hình thức: * Mua bán trực tiếp * Đặt qua đêm * Tham gia đấu thầu - Giao dich SPOT: Mục đích của giao dịch này là chuyển đổi cơ cấu ngoại tệ và tìm kiếm lợi nhuận. NHTW Việt Nam tiến hành giao dịch SPOT với các loại Hard Currencies : USD , EUR , JPY… -Ủy thác đầu tư: thực hiện hoạt động này bằng cách giao tiền cho các nhà quản lý quỹ quốc tế kèm theo hướng dẫn đẩu tư cụ thể và mức lợi nhuận yêu cầu trên khoản vốn bỏ ra ( Benchmark ). Với nghiệp vụ này NHTW phải trả phí cho các nhà quản lý quỹ Nói chung NHTW Việt Nam đang từng bước đa dạng hoá các hoạt động kinh doanh ngoại hối theo hướng hội nhập với thị trường khu vực và quốc tế. Tuy nhiên còn rất nhiều nghiệp vụ NHTW Việt Nam chưa thực hiện được như Options, Futures, Repo, Security, lending… NHTW tham gia vào thị trường ngoại hối với mục đích điều tiết nền kinh tế là chính, không vì mục đích lợi nhuận, do đó, mọi hoạt động của nó đều phải đảm bảo sự an toàn cao, ít rủi ro. 2./ Các biện pháp chung quản lý kinh doanh ngoại hối của ngân hàng trung uơng Việt Nam. a./Quản lý nhà nước về ngoại hối Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện chính sách quản lý ngoại hối nhằm tạo điều kiện thuận lợi và bảo đảm lợi ích hợp pháp cho tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động ngoại hối, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế; thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia, nâng cao tính chuyển đổi của đồng Việt Nam; thực hiện mục tiêu trên lãnh thổ Việt Nam chỉ sử dụng đồng Việt Nam; thực hiện các cam kết của Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế, tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước về ngoại hối và hoàn thiện hệ thống quản lý ngoại hối của Việt Nam NHTW Việt Nam thay mặt nhà nước để quản lý nhà nước về ngoại hối và vàng. Do đó, chính NHTW là người tổ chức và cũng là thành viên tham gia thị trường và đóng vai trò là người mua, người bán trên thị trường ngoại hối. Tuy nhiên, mục tiêu của NHTW khi tham gia thị trường này không phải là tìm kiếm lợi nhuận mà mục đích chính là nhằm kiểm soát thị trường, đồng thời cung ứng vốn ngắn hạn cho các ngân hàng thương mại nhằm thực hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia Theo Pháp lệnh ngoại hối quy định: -Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về hoạt động ngoại hối. - Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về hoạt động ngoại hối, xây dựng và ban hành chính sách quản lý ngoại hối, hướng dẫn và thanh tra, kiểm tra việc chấp hành chế độ chứng từ và thông tin báo cáo. - Bộ, cơ quan ngang bộ, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có trách nhiệm quản lý nhà nước về hoạt động ngoại hối trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Về phương diện quản lý nhà nước về ngoại hối, NHTW có nghĩa vụ và quyền hạn sau: -Xây dựng các dự án luật, pháp lệnh và các dự án khác về quản lý ngoại hối; ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý ngoại hối theo thẩm quyền. - Cấp, thu hối giấy phép hoạt động ngoại hối - Tổ chức, điều hành thị trường ngoại tệ liên ngân hàng và thị trường ngoại hối trong nước - Kiểm tra, thanh tra việc thực hiện các quy định của Pháp lệnh quản lý ngoại hối; kiểm soát việc xuất, nhập ngoại hối - Kiểm tra hoạt động ngoại hối của các tổ chức tín dụng - NHTW lập thanh toán thu chi ngoại tệ trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ và kế hoạch thu chi của ngành Khi xét thấy cần thiết, để bảo đảm an ninh tài chính, tiền tệ quốc gia, Chính phủ được áp dụng các biện pháp sau đây: - Hạn chế việc mua, mang, chuyển, thanh toán đối với các giao dịch trên tài khoản vãng lai, tài khoản vốn; - Áp dụng các quy định về nghĩa vụ bán ngoại tệ của người cư trú là tổ chức; - Áp dụng các biện pháp kinh tế, tài chính, tiền tệ; - Các biện pháp khác. b./Quản lý nhà nước về dự trữ ngoại hối NHTW Việt Nam là cơ quan quản lý dự trữ ngoại hối nhà nước nhằm thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, bảo đảm khả năng thanh toán quốc tế, bảo toàn dự trữ ngoại hối nhà nước. Dự trữ ngoại hối được thành hai quỹ: quỹ dự trữ ngoại hối và quỹ bình ổn tỷ giá và giá Vàng - Quỹ dự trữ ngoại hối được sử dụng để đảm bảo khả năng thanh toán quốc tế, điều hoà nguồn ngoại hối với quỹ bình ổn tỷ giá và vàng cần thiết, thực hiện các nghiệp vụ để đáp ứng các nhu cầu ngoại hối đột xuất cấp bách của nhà nước theo quy định của Thủ tướng chính phủ. - Quỹ bình ổn tỷ giá và giá Vàng được sử dụng để can thiệp vào thị trường ngoại tệ và thị trường Vàng. Vàng trong nước nhằm ổn định tỷ giá và giá Vàng theo mục tiêu của chính sách tiền tệ, điều hoà nguồn ngoại hối với quỹ dự trữ ngoại hối khi cần thiết và thực hiện các nghiệp vụ đầu tư ngắn hạn. 3./ Thực trạng về kinh doanh ngoại hối của ngân hàng trung ương Việt Nam qua từng giai đoan a./ Trước năm 1991 Đối với Việt Nam, trong một thời gian dài vận hành nền kinh tế theo mô hình kế hoạch hoá tập trung. Nhà nước độc quyền ngoại thương, nên mọi nguồn thu ngoại tệ đều thuộc sở hữu Nhà nước và tập trung vào NHTW… Theo nghị định 161 – HĐBT ngày 18 tháng 10 năm 1999 có quy định chung “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện thống nhất quản lý Nhà nước về ngoại hối và kinh doanh ngoại hối. Mọi việc kinh doanh ngoại hối đều thực hiện theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Cấm lưu thông ngoại tệ trong nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ngoài hệ thống của Ngân hàng ngoại thương và các cửa hàng bán hàng thu ngoại tệ” Với điều kiện như vậy, thị trường ngoại hối đúng nghĩa chưa được hình thành mà chỉ tồn tại dưới hình thức sơ khai. Mặc dù vậy, thời kỳ này thị trường ngoại hối cũng được chia thành hai loại: Thị trường có tổ chức và thị trường tự do - Thị trường có tổ chức Là thị trường được thành lập chủ yếu là mua ngoại tệ để thực hiện mục tiêu tập trung mọi nguồn ngoại tệ vào ngân hàng, phục vụ cho nhu cầu dự trữ và phát triển nền kinh tế. Thành viên tham gia chủ yếu là các ngân hàng , xí nghiệp, công ty quốc doanh và các cá nhân có ngoại tệ. - Thị trường tự do Trong giai đoạn này, thị trường tự do không được pháp luật thừa nhận. Tại thông tư số 33/ NH – TT ngày 15 tháng 3 năm 1999 hướng dẫn thi hành điều lệ quản lý ngoại hối đã nói rõ : “ việc lưu thông ngoại tệ trong nước chỉ được thực hiện thông qua Ngân hàng và các tổ chức kinh doanh dịch vụ được phép thu đổi ngoại tệ. Nghiêm cấm việc mua, bán, trao đổi ngoại tệ trên thị trường tự do “. Mặc dù vậy, thị trường tự do vẫn mặc nhiên tồn tại và phát triển, đặc biệt là tại các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Sài Gòn.. Theo quy định trong nghị định 161 trên việc chuyển ngoại tệ vào nước Việt Nam được khuyến khích và không hạn chế. Điều này đã khuyến khích rất nhiều sự phát triển cuả thị trường ngoại hối trong giai đoạn này. Vào giai đoạn này, NHTW Việt Nam áp dụng chế độ tỷ giá thả nổi, điều này đã tạo nên những thành công vượt bậc, tuy nhiên vẫn có những điều khiến cho những nhà quản lý Việt Nam phải suy nghĩ khi mà tỷ giá được quyết định theo thị trường với hoàn cảnh của Việt Nam đã tạo nên những hạn chế như: nền kinh tế hay xảy ra những cơn sốc định kỳ cuối quý hoặc cuối năm; lạm phát thường tăng vọt bất thình lình; hiện tượng đôla hóa trong hệ thống lưu thông thanh toán ngày càng tăng nhanh; sự mất cân đối giữa các vùng, các lĩnh vực; sự quản lý lỏng lẻo, nguồn thu ngoại tệ không được quản lý chặt chẽ mà còn bị buông lỏng làm cho dự trữ ngoại tệ tăng chậm trong 3 năm 1989, 1990 và 1991. Đầu năm 1991 là thời điểm căng thẳng nhất về sự đột biến giá USD và giá Vàng.Và một vấn đề nổi cộm khác là vấn đề nợ nước ngoài và công tác quản lý nợ , một cái giá phải trả cho việc thả nổi tỷ giá là gánh nặng nợ nước ngoài khi tính sang đồng Việt Nam trong ngân sách nhà nước đã tăng mạnh. b./ Từ năm 1991-2000 Năm 1991 được coi là năm đánh dấu sự ra đời của thị trường ngoại hối chính thức ở Việt Nam. Bởi lẽ ngày 16 tháng 8 năm 1991, NHTW ra quyết định số 207/NHQĐ, thành lập trung tâm giao dịch ngoại tệ hoạt động với tư cách là một thị trường chính thức. Theo Quyết định này, hai trung tâm giao dịch ngoại tệ tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh đã được ra đời. *Mục đích hoạt động: - Thiết lập thị trường ngoại tệ chính thức giao dịch giữa Ngân hàng và các đơn vị kinh tế. - Đánh giá và đo lường cung cầu ngoại tệ trên thị trường. - Quyết định tỷ giá chính thức hợp lý giữa USD và VND - Chuẩn bị những điều kiện căn bản ban đầu cho việc hình thành thị trường ngoại hối hoàn chỉnh ở Việt Nam. - Thông qua Trung tâm giao dịch ngoại tệ, NHNN từng bước bổ sung Quỹ dự trữ ngoại tệ tập trung của Nhà nước để can thiệp vào thị trường ngoại hối trong cả nước Sự ra đời và hoạt động của Trung tâm giao dịch ngoại tệ được coi như là một thị trường ngoại hối chính thức ở Việt Nam. Tham gia thị trường là các Ngân hàng thương mại, Ngân hàng đầu tư và phát triển được phép kinh doanh ngoại tệ, các đơn vị được phép kinh doanh XNK trực tiếp với nước ngoài, các tổ chức, đơn vị được phép kinh doanh dịch vụ thu ngoại tệ (kể cả Tổng công ty kinh doanh vàng bạc đá quý ở một số thành phố lớn được phép xuất nhập khẩu vàng bạc đá quý), và NHNN tham gia với tư cách là người tổ chức và kiểm soát thị trường. Số lượng thành viên tham gia hai trung tâm giao dịch ngoại tệ đã tăng dần kể từ ngày thành lập. Nếu năm 1991, tại Tp. HCM có 12 thành viên thì năm 1993 có 128 thành viên. Tại Hà Nội, từ 28 thành viên vào năm 1991 đã tăng lên 117 thành viên vào năm 1993. Thị trường này tồn tại đến năm 1994 thì được thay thế bằng thị trường ngoại tệ liên ngân hàng bởi quyết định số 203/NHQĐ của thống đốc NHNN. thông qua Thị trường ngoại tệ Liên Ngân hàng, NHNN có thể can thiệp một cách hữu hiệu vào thị trường nhằm thực thi chính sách tiền tệ quốc gia. Sau nhiều năm hoạt động, Thị trường ngoại tệ Liên Ngân hàng đã có những đóng góp đáng kể nhằm đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế đất nước. Hoạt động của thị trường sôi động hơn, đa dạng hơn các loại ngoại tệ. Thị trường ngoại tệ Liên Ngân hàng do NHNN tổ chức, giám sát và điều hành nhằm hình thành một thị trường mua bán ngoại tệ có tổ chức giữa các tổ chức tín dụng là thành viên của thị trường. NHNN tham gia thị trường với tư cách là người mua bán cuối cùng, thực hiện can thiệp khi cần thiết vì mục tiêu chính sách tiền tệ quốc gia. Tham gia Thị trường ngoại tệ Liên Ngân hàng là các Hội sở chính của các tổ chức tín dụng, đó là các Ngân hàng thương mại, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển, Ngân hàng TMCP, chi nhánh Ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, Ngân hàng liên doanh giữa Việt Nam với nước ngoài hoạt động tại Việt Nam (gọi tắt là các tổ chức tín dụng thành viên) và NHNN TW. Thị trường ngoại tệ Liên Ngân hàng có quy mô lớn hơn và mang tính thị trường khách quan, linh hoạt hơn, tỷ giá hối đoái và cơ chế điều hành của NHNN cũng ngày càng sát với thực tế hơn. Đồng thời qua Thị trường ngoại tệ Liên Ngân hàng, NHNN có thể nắm bắt được tình hình cung cầu ngoại tệ của nền kinh tế và điều tiết kịp thời tỷ giá hối đoái trong từng thời kỳ. Cũng qua hoạt động của Thị trường ngoại tệ Liên Ngân hàng, NHNN đã nắm bắt được tín hiệu thị trường của tỷ giá hối đoái, sử dụng tỷ giá bình quân trên Thị trường ngoại tệ Liên Ngân hàng hàng ngày và biên độ quy định tỷ giá cho các Ngân hàng thương mại làm công cụ hỗ trợ can thiệp điều hòa và hướng tỷ giá thị trường theo hướng mục tiêu của chính sách tỷ giá và chính sách tiền tệ. Thực tế, tỷ giá chính thức đã được điều chỉnh ngày một linh hoạt, theo sát thực tế và biên độ giao dịch cho các Ngân hàng thương mại đã thay đổi liên tục. 1992 1993 1994 1995 1996 1998 Tỷ giá hối đoái danh nghĩa 11.179 10.640 10.955 10.970 11.100 11.175 CPI VN  100 105,2 120,3 135,6 141,7 146,8 CPI Hoa Kỳ  100 103,0 105,6 108,6 111,8 114,3 Tỷ giá hối đoái tính theo PPP (VND)  11.179 11.388 12.702 13.992 14.132 14.320 % Chênh lệch giữa TGHĐ ngang giá sức mua và tỷ giá hối đoái danh nghĩa  0.00 7,03 15,94 27.55 27,31 28,14 c./Từ năm 2000 đến nay Do thị trường ngày càng phát triển, các hoạt động trở nên phức tạp hơn, chính vì vậy mà Quy chế hoạt động của Thị trường ngoại tệ Liên Ngân hàng theo Quyết định 203/NHQĐ ngày 20/9/1994 không còn phù hợp nữa. Quyết định này đã được thay thế bằng Quyết định số 101/1999/QĐ-NHNN13 ngày 26/3/1999 của Thống đốc NHNN Trong thời gian qua lượng dự trữ ngoại hối đã tăng mạnh, đủ để NHTW chủ động trước những biến động về cung cầu.Trong thời gian này chính sách tỷ giá được thực hiện trên cơ sở rổ tiền tệ, gồm đồng tiền quốc gia có quan hệ thương mại, vay nợ, đẩu tư với Việt Nam.” Chính sách này đã xoá bỏ sự phụ thuộc của tỷ giá Việt Nam vào một đồng tiền, xoá bỏ cách neo tỷ giá vào đồng đô la Mỹ”. Ngân hàng Nhà nước nhấn mạnh trong rằng “đã và đang tích cực thực hiện các giải pháp để hạn chế hiện tượng đô la hoá, nâng cao giá trị của đồng tiền Việt Nam, tiến tới thực hiện mục tiêu trên lãnh thổ Việt Nam chỉ sử dụng đồng Việt Nam”. Từ ngày 26.02.1999, tỷ giá hối đoái chính thức công bố hằng ngày được xác định trên cơ sở bình quân mua bán thực tế trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng của ngày giao dịch gần nhất trước đó. Đây là một sự thay đổi về cơ chế quản lý, điều hành tỷ giá cho phù hợp với quy luật thị trường vì tỷ giá chính thức xem như có “căn cứ” là mức tỷ giá bình quân của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Đồng thời, cũng từ ngày 26.02.1999, biên độ giao dịch cũng được rút xuống là ±0,1%.  Theo quan điểm của NHNN, đây là một bước ngoặc lịch sử trong chính sách điều hành tỷ giá – chuyển từ một chế độ tỷ giá hối đoái cố định cứng nhắc với những công cụ điều hành chủ yếu là hành chính sang một chế độ tỷ giá mới linh hoạt hơn và mang tính thị trường cao hơn. Chế độ tỷ giá mới này được nhiều nhà kinh tế gọi là chế độ tỷ giá trung bình thị trường. Bởi vì theo ý tưởng, tỷ giá sẽ do cung cầu về ngoại tệ trên thị trường quyết định và NHNN chỉ can thiệp trong những trường hợp cần thiết. Cùng với việc chuyển đổi sang cơ chế điều hành tỷ giá mới, các biện pháp hành chính như tỷ lệ kết hối bắt buộc trong năm 1999 cũng đã được NHNN giảm từ 80% các nguồn thu vãng lai của doanh nghiệp xuống còn 50% nhằm tăng cường tính chủ động hơn trong việc sử dụng ngoại tệ của các doanh nghiệp, từng bước tiến tới tự do hóa các giao dịch ngoại tệ.  Các biện pháp quản lý ngoại hối trong năm 1999 đã góp phần ổn định tỷ giá trên thị trường chính thức và thị trường tự do, tạo điều kiện cho thị trường ngoại tệ liên ngân hàng hoạt động sôi nổi. nền kinh tế Việt Nam trong 10 năm qua phát triển khá ổn định, nên cơ bản tỷ giá VND/USD "được neo" tự nhiên và ổn định vào đồng USD là đồng tiền chiếm 90% doanh số thanh toán xuất - nhập khẩu. Riêng năm 2007 do có làn sóng ngoại tệ tràn vào tăng đột biến nên cho dù đã được Ngân hàng Nhà nước can thiệp rất mạnh song tỷ giá vẫn giảm trong suốt cả năm 2007 (tỷ giá chỉ tăng dưới 1% so với lạm phát 2007 là 12,63%), sau đó gần 3 tháng đầu năm 2008 tiếp tục giảm, giá trị đồng USD đã có lúc chạm tới con số 15.300đ/USD trên thị trường tự do Nhưng từ tuần cuối tháng 3 đến hết tháng 4/2008, đồng USD đã lại tăng giá đột ngột trở lại, sau đó ổn định tạm thời xung quanh 16.200 đồng/USD rồi từ cuối tháng 5 đến đầu tháng 7/2008 lại tăng mạnh, đặc biệt trong tuần giữa tháng 6/2008 có ngày tăng rất mạnh lên trên 19.500 đồng/USD, nhưng 10 ngày tháng 7/2008 trở lại đây, tỷ giá lại dần trở về trạng thái bình thường xung quanh 16.800 đồng/USD. Đây là những dấu hiệu bất ổn. III./ Một số giải pháp hoàn thiên nghiệp vụ quản lý ngoại hối của ngân hàng trung ương 1./ Mục tiêu quản lý ngoại hối trong thời gian tới: Vẫn tiếp tục mục tiêu giảm dần tỷ lệ đôla hoá (hiện lên tới 24%), Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (SBV) đã lên kế hoạch để đồng Việt Nam (VND) tham gia quan hệ vay trả nợ nước ngoài và đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam. Theo đó, nhà đầu tư nước ngoài sẽ sử dụng VND khi góp vốn đầu tư trực tiếp tại Việt Nam. Đồng thời, Chính phủ cũng sẽ mở rộng quy định xuất khẩu thu VND theo tỷ lệ tăng dần hàng năm. Hiện tại, gần như 100% hàng xuất khẩu của Việt Nam được thanh toán bằng ngoại tệ, nhưng dự kiến, năm nay, tỷ lệ VND thanh toán cho hàng xuất khẩu sẽ nâng lên 10% và tới năm 2010 sẽ là 30%. Những biện pháp này được xem như "dầu bôi trơn" để các doanh nghiệp, nhà đầu tư nước ngoài làm quen với VND, tạo cơ hội để VND có chỗ đứng trên thị trường tiền tệ quốc tế Tình hình tỷ giá vẫn đang là vấn đề đáng được quan tâm trong thời gian tới.Điều chỉnh tỷ giá vẫn là nhiệm vụ hàng đầu của NHTW, dựa vào việc quản lý ngoại hối, NHTW sẽ điều chỉnh tỷ giá phù hợp với những biến động của thị trường, phục vụ cho hoạt động xuất ,nhập khẩu, giao thông kinh tế với các nước trong khu vực và trên thế giới. Phát triển các dịch vụ tài chính hiện đại, với các công cụ tài chính hiện đại, việc quản lý của NHTW về ngoại hối sẽ dễ dàng hơn,đồng thời phát triển các dịch vụ tài chính hiện đại sẽ giúp cho thị trường ngoại hối phát triển một cách hoàn chỉnh hơn… 2./ Biện pháp quản lý nhà nước về ngoại hối Về quan điểm chính sách, cần đối xử với Đôla như đối xử với một loại hàng hoá nhập khẩu hơn là đối xử như với một liên minh tiền tệ lẫn lộn các chức năng với nội tệ trên thị trường tài chính trong nước. Không nên "cố" neo tỷ giá vào đồng USD, cần phải để thị trường ngoại hối phán quyết sức mua đã "tụt dốc" rất lớn của đồng USD so với hầu hết các đồng tiền quốc gia khác trên thị trường quốc tế. Trong khi giá cả đồng USD trên thị trường tiền tệ quốc tế và lãi suất trong chính nước Mỹ giảm thì tại Việt Nam lãi suất huy động và cho vay đồng USD lại có xu hướng gia tăng. Điều đó chứng tỏ cơ chế quản lý ngoại hối là có vấn đề mà chỉ có Việt Nam mới gặp phải. Lý do là nhiều nước trên thế giới không cho phép có hoạt động tín dụng ngoại tệ, đặc biệt là loại tín dụng ngoại tệ ngắn hạn. Nhiều nước cũng có luật cấm nghiêm ngặt việc thanh toán hàng hoá, dịch vụ trong nội địa bằng ngoại tệ. Hiện nay, ở nhiều ngân hàng thương mại nước ta đã có dấu hiệu nghịch lý về đồng USD, biểu hiện qua hiện tượng: "thiếu tiền, thừa vốn". Do lãi suất huy động ngoại tệ tăng, cùng với tỷ giá có xu hướng tăng và đứng ở mức cao nên lượng "tiền gửi ngoại tệ" tăng, trong lúc tiền mặt ngoại tệ để "mua đứt bán đoạn" lại hiếm. Tại Việt Nam tình trạng Đô la hoá rất cao, nên khi lạm phát bùng nổ thì ngoại tệ "lên ngôi" ngay cả khi chính nó đang bị mất giá rất mạnh ở "quê hương" của nó và ở khắp các nền kinh tế công nghiệp phát triển, trong khi tại Việt Nam một số không ít cửa hàng, khách sạn cao cấp lại ngang nhiên niêm yết giá, thu tiền bán hàng bằng Đô la và từ chối thanh toán bằng nội tệ! Do đó, cần sử dụng cơ chế mua đứt bán đoạn thay cho cơ chế tín dụng ngoại tệ... Cùng với việc chuyển này, cần phải tạo cơ chế cho phát triển mạnh thị truờng ngoại hối kèm theo việc kiểm soát chặt các hoạt động Đô la hoá, trong đó bao gồm cả việc cho phát triển mạnh các giao dịch phái sinh ngoại hối để các bên tham gia thị trường tự bảo vệ truớc những biến động rủi ro về tỷ giá. Phải tuân theo nguyên tắc: "Trên lãnh thổ Việt Nam chỉ tiêu VND". Cần ban hành ngay văn bản qui phạm pháp luật về việc thanh tra, kiểm soát mọi hành vi vi phạm việc sử dụng đồng ngoại tệ trong thanh toán trao đổi hàng hoá, dịch vụ trên lãnh thổ Việt Nam. Về thái độ chính sách, phải coi tỷ giá là một phạm trù giá cả trên thị trường ngoại hối để làm phương tiện chuyển đổi quyền sở hữu tiền tệ theo qui luật của nó. Mọi nguồn dự trữ ngoại hối quốc gia phải được thống nhất quản lý, lưu giữ tại Ngân hàng Trung ương. Nếu có lộ trình đủ hợp lý triển khai các nội dung đề xuất nói trên, người viết bài tin tưởng rằng thị trường ngoại tệ Việt Nam sẽ dần đi vào ổn định và quan hệ tỷ giá sẽ vận động đúng theo quan hệ cung - cầu theo thị trường xuất nhập khẩu và cán cân thanh toán quốc tế thực của Việt Nam. KẾT LUẬN Một lần nữa ta có thể khẳng định rằng hoàn thiện nghiệp vụ quản lý ngoại hối của ngân hàng trung ương đóng vai trò hết sức quan trọng trong giai đoạn hiện nay.Mở rộng giao lưu với nước ngoài là điều kiện tiên quyết để phát triển đất nước, bởi vậy chúng ta cần hoàn thiện hơn nữa nghiệp vụ quản lý ngoại hối của ngân hàng trung ương.Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn Ths. Lê Phong Châu đã giúp em hoàn thành tốt đề tài này. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình Ngân hàng Trung ương 2. Giáo trình Lý thuyết tài chính tiền tệ 3. Một số trang web liên quan - www.sbv.gov.vn - www.bantintaichinh.vtv.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc22390.doc
Tài liệu liên quan