Ngoài Lời nói đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung của khoá luận được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Những quy định cơ bản về thương mại hàng hoá của WTO
Chương 2: So sánh pháp luật về thương mại hàng hoá của Việt Nam với các quy định về thương mại hàng hoá của WTO
121 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1132 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoàn thiện pháp luật về thương mại hàng hoá của Việt Nam trước yêu cầu gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ột luật chung thực hiện các cam kết quốc tế của Việt Nam đối với WTO như đã nêu trên.
- Thứ ba, khả năng tối thiểu - Quốc hội không chấp nhận hai khả năng nêu trên mà vẫn theo truyền thống làm luật “case by case”, tức là xem xét sửa đổi, bổ sung từng luật, pháp lệnh cụ thể để thực hiện các cam kết quốc tế. Trong trường hợp như vậy, khả năng tối ưu ở đây để xử lý, giải quyết sự khác biệt đã nêu của Luật Thương mại Việt Nam là đưa vào Luật Thương mại (sửa đổi, bổ sung) một chương mới, Chương Quan hệ thương mại quốc tế để điều chỉnh quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các nước và các tổ chức quốc tế như kinh nghiệm đã có trong quá trình xây dựng và thông qua Bộ luật dân sự năm 1995 và Luật Hôn nhân và gia định năm 2000.
Dưới đây sẽ là phần trình bày kiến nghị cụ thể việc xây dựng Chương Quan hệ thương mại quốc tế để điều chỉnh quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các nước, các tổ chức quốc tế trong Luật thương mại (sửa đổi, bổ sung).
3.2.1.2. Các kiến nghị cụ thể để hoàn thiện Luật Thương mại Việt Nam phục vụ việc gia nhập WTO và hội nhập kinh tế quốc tế
Như trên đã trình bày giải pháp đưa vào Luật thương mại (sửa đổi, bổ sung) một chương mới, Chương Quan hệ thương mại quốc tế là giải pháp tối ưu thuộc khả năng tối thiểu trong thực tiễn làm luật của Việt Nam. Tuy vậy, muốn giải pháp này được thực hiện thì vấn đề đặt ra là Nhà làm luật phải tuân theo chủ thuyết nào, áp dụng trực tiếp các điều ước quốc tế hay phải chuyển hoá, nội luật hoá (transformation) các quy định của điều ước quốc tế thành các quy định của pháp luật trong nước. Chúng ta nên chọn cách thứ hai, tức là phải chuyển hoá các quy định của điều ước quốc tế vào các văn bản pháp luật trong nước. Đây là thực tiễn pháp luật quốc tế đã được nhiều nước thừa nhận và áp dụng rộng rãi. Tuy vậy, mức độ chuyển hoá, nội luật hoá còn tuỳ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể, thực trạng pháp luật liên quan của Việt Nam.
Ngoài ra, cũng cần chú ý đến quan niệm về việc quy định nào cần đưa vào luật, quy định nào cần đưa vào văn bản dưới luật hiện hành ở nước ta. xác định mức độ và chọn quy phạm điều ước quốc tế để nội luật hoá, chuyển hóa vào pháp luật trong nước là vấn đề phức tạp, phụ thuộc không chỉ vào yếu tố bên trong chủ quan (chính Việt Nam) mà còn cả yếu tố bên ngoài khách quan (WTO và cộng đồng thương mại quốc tế). Xuất phát từ những nhìn nhận đó, luận văn xin được giới thiệu kiến nghị cụ thể của các chuyên gia về Chương Quan hệ thương mại quốc tế như sau Xem Báo cáo nghiên cứu Dự án VIE/01/004 “Những khác biệt giữa Luật Thương mại Việt Nam với Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ và các chế định của WTO”, sđd, tr. 45 - 47
:
- Thứ nhất, về tổng quát trong chương này cần thể hiện rõ các quan điểm lý luận của Việt Nam về quan hệ thương mại quốc tế; về quan hệ giữa tự do thương mại và bảo hộ sản xuất trong nước trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế; về các nguyên tắc cơ bản áp dụng các quy định của pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế, tập quán thương mại quốc tế và pháp luật nước ngoài; cũng như một số quy tắc chung trong điều chỉnh các quan hệ thương mại quốc tế chuyên biệt (thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ, thương mại liên quan đến quyền sơ hữu trí tuệ, đầu tư quốc tế và một số quan hệ chuyên biệt khác).
- Thứ hai, về cụ thể, chương này có thể bắt đầu từ một điều định nghĩa, khái niệm “Quan hệ thương mại quốc tế” nói trong Luật này:
+ Về mặt nội dung, định nghĩa này có thể thiết kế như định nghĩa “quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài” trong Điều 826 Bộ Luật dân sự hoặc định nghĩa “tranh chấp có yếu tố nước ngoài” trong Điều 2 điểm 4 Pháp lệnh Trọng tài thương mại. Phải cố gắng để làm rõ về mặt chủ thể ở đây là quan hệ giữa Việt Nam và các nước, các lãnh thổ (hoặc các nền kinh tế) độc lập và các tổ chức kinh tế quốc tế khu vực (như ASEAN) và toàn cầu (như WTO). Mục đối tượng điều chỉnh ở đây phải cố gắng để bao quát mọi quan hệ mang bản chất thương mại trong lĩnh vực thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ, thương mại liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ và đầu tư quốc tế.
+ Về mặt kỹ thuật lập pháp, có thể đưa điều định nghĩa này vào Điều 5 Luật thương mại “Giải thích từ ngữ”. Tuy vậy, nếu đưa điều này vào Điều 5 Luật thương mại thì mức độ quan trọng của vấn đề thương mại quốc tế trong điều kiện hội nhập có thể bị coi là giảm nhẹ, chưa xứng đáng với tầm vóc thời đại của nó. Cách thứ hai là quy định định nghĩa “Quan hệ thương mại quốc tế” trong một điều riêng. Cả hai giải pháp kỹ thuật này đều có thể được xem xét tuỳ thuộc sự lựa chọn của Nhà làm luật.
- Thứ ba, các điều tiếp theo phải là các điều quy định về các nguyên tắc áp dụng pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế, tập quán thương mại quốc tế và pháp luật nước ngoài để điều chỉnh các quan hệ thương mại quốc tế mà Việt Nam là một bên tham gia.
Về nguyên tắc áp dụng pháp luật Việt Nam, có thể cân nhắc để quy định theo hướng đã định ở Điều 3 Luật Thương mại Việt Nam năm 1997 hoặc Điều 827 khoản 2, 3, 4 và Điều 828 Bộ Luật dân sự hoặc Điều 4 Luật Thương mại năm 1997.
- Thứ tư, sau các điều về các nguyên tắc áp dụng pháp luật sẽ là các điều về các nguyên tắc và quy định nền tảng điều chỉnh các quan hệ thương mại hàng hoá quốc tế, quan hệ thương mại dịch vụ quốc tế, quan hệ thương mại quốc tế liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ và quan hệ thương mại quốc tế liên quan đến đầu tư.
Về các nguyên tắc cơ bản điều chỉnh quan hệ thương mại quốc tế, ngoài các nguyên tắc chung được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp tình hình mới và được quy định tại mục 2 Chương I - Luật thương mại (sửa đổi, bổ sung), Chương “Quan hệ thương mại quốc tế” này cần có các quy định thừa nhận các nguyên tắc của hệ thống thương mại toàn cầu, trong đó đặc biệt là các nguyên tắc không phân biệt đối xử; nguyên tắc thương mại ngày càng tự do hơn thông qua đàm phán; nguyên tắc tạo dựng một nền tảng ổn định cho thương mại trên cơ sở yêu cầu về phát triển bền vững, minh bạch và công khai chính sách, pháp luật thương mại quốc gia; nguyên tắc cạnh tranh lành mạnh trong thương mại quốc tế; nguyên tắc dành dành thuận lợi hơn cho Việt Nam và các nước đang phát triển trong quan hệ thương mại quốc tế. Việc ghi nhận các nguyên tắc này bên cạnh các nguyên tắc khác trong Luật thương mại (sửa đổi, bổ sung) sẽ có tác động tích cực đối với Việt Nam trên con đường hội nhập kinh tế quốc tế.
Về các quy định nền tảng điều chỉnh các quan hệ thương mại quốc tế được xử lý cụ thể theo hai cách:
+ Cách thứ nhất: Quy định giao các vấn đề này cho Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đưa ra các quy định cụ thể. Đây là cách dễ làm nhất.
+ Cách thứ hai: Quy định các quy tắc chung nhưng khá rõ ràng để Chính phủ tiếp tục quy định cụ thể. Đây cũng là cách tương đối khả thi, nhưng có thể làm cho chương này nặng nề, không hoàn toàn phù hợp với thực tiễn làm luật (như Bộ Luật dân sự, Luật Hôn nhân và gia đình) của Quốc hội trong thời gian qua. Tuy nhiên, cách này vẫn được xem là phù hợp vơi điều kiện Việt Nam hiện nay.
- Thứ năm, sau khi đã có một chương mới về Quan hệ thương mại quốc tế trong Luật thương mại (sửa đổi, bổ sung), cần cân nhắc xử lý các chương khác cho phù hợp với hướng vận động mới của pháp luật thương mại các nước; nghiên cứu để xoá bỏ Chương V - Quản lý Nhà nước về thương mại trong Luật Thương mại Việt Nam năm 1997.
3.2.2. Hoàn thiện quy định về Đối xử Tối huệ quốc và Đối xử quốc gia
Việc ban hành Pháp lệnh về Đãi ngộ Tối huệ quốc (MFN) và Đãi ngộ Quốc gia (NT) của Việt Nam đã tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho các doanh nghiệp nước ngoài, đồng thời thích ứng với quy định không phân biệt đối xử của WTO. Về mặt hình thức, Pháp lệnh MFN và NT đã quy định thủ tục pháp lý cho việc thực hiện cam kết về MFN trong WTO. Tuy nhiên, về mặt nội dung cần đối chiếu, xem xét thêm các quy định cụ thể trong các văn bản pháp luật khác của Việt Nam vì đôi khi vẫn còn chưa hoàn toàn phù hợp.
Tuy đã có quy định về chế độ Đãi ngộ Tối huệ quốc trong Pháp lệnh về MFN và NT, song quy định này còn rất chung chung. Các quy định khác trong các văn bản liên quan đến xuất nhập khẩu hàng hoá nhìn chung không có sự phân biệt đối xử giữa hàng hoá của các nước nhập khẩu vào Việt Nam.
Như phân tích trong Chương II, trong một số văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam vẫn còn duy trì sự không bình đẳng giữa hàng nhập khẩu và hàng trong nước, vi phạm nguyên tắc Đối xử quốc gia (NT). Vì vậy, trong thời gian tới chúng ta nên sửa đổi các tồn tại đó trong các văn bản sau: Điều 8 Khoản 2 Mục (l) Luật Thuế giá trị gia tăng sửa đổi số 07/2003/QH11 ngày 17/6/2003, Điều 7 và Điều 16 Khoản 2 Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt sửa đổi số 08/2003/QH11 ngày 17/6/2003; Quyết định số 03/2000/QĐ-BTC của Bộ tài chính ngày 7/1/2000 quy định phụ thu 5% đối với bột PVC; Quyết định số 07/BVGCP của Ban vật giá chính phủ ngày 19/1/1999 quy định phụ thu 5% đối với chất hoá dẻo DOP; Quyết định số 42/2000/QĐ/BTC ngày 17 tháng 3 năm 2000 về việc quy định tỷ lệ thu chênh lệch giá đối với một số mặt hàng nhập khẩu; Quyết định số 42/2001/QĐ/BTC ngày 15 tháng 05 năm 2001 về việc qui định tỷ lệ thu chênh lệch giá đối với mặt hàng Clinker nhập khẩu,
Luật thuế giá trị gia tăng, Luật thuế tiêu đặc biệt phải điều chỉnh sao cho các mặt hàng nhập khẩu hay nội địa cũng đều chịu chung một mức thuế suất. Riêng với thuốc lá hiện đang cấm nhập khẩu, Việt Nam nên có lộ trình từng bước chuyển sang hạn ngạch rồi thuế hoá ở mức thuế cao. Hàng tiêu dùng đã qua sử dụng sẽ phải được áp dụng các biện pháp kỹ thuật thật chặt chẽ về mặt môi trường như hấp sấy, hun trùng, phân loại,... không chỉ để bảo vệ sức khoẻ con người mà còn nhằm làm cho giá bán của loại hàng này cao hơn, giảm sức cạnh tranh với hàng trong nước. Phụ tùng ô tô cũng vậy, sẽ phải trải qua các tiêu chuẩn kỹ thuật khắt khe về bảo vệ môi trường.
Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần sớm ban hành văn bản cụ thể hóa Pháp lệnh về Đãi ngộ Tối huệ quốc (MFN) và Đãi ngộ Quốc gia (NT).
3.2.3. Hoàn thiện các quy định về thuế quan
Việt Nam sẽ cam kết lấy thuế quan làm công cụ bảo hộ chính, đưa ra một lộ trình cắt giảm dần hàng rào thuế quan, tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại. Việc xây dựng lộ trình cắt giảm thuế quan sẽ dựa trên cơ sở:
Xác định rõ những mặt hàng cần bảo hộ để có những biện pháp, chính sách về thuế và phi thuế quan cho thích hợp, giúp cho các ngành sản xuất những mặt hàng đó có đủ thời gian chuẩn bị lực lượng để vươn lên cạnh tranh bình đẳng. Những mặt hàng còn lại chỉ dùng biện pháp thuế với thuế suất giảm dần.
Những mặt hàng cần được bảo hộ sẽ được phân định thành những danh mục khác nhau có mức thuế tương ứng, thời hạn cắt giảm thuế thích hợp với từng loại theo hướng những mặt hàng cần bảo hộ cao sẽ có mức thuế cao, thời gian bảo hộ dài và ngược lại.
Căn cứ vào việc phân loại hàng hoá nói trên, Việt Nam sẽ cam kết mức thuế trần để định giới hạn từ đó giảm dần, phù hợp với trình độ phát triển và nhu cầu của nền kinh tế.
Hệ thống thuế hiện tại sẽ được phân thành ba loại: Loại thuế phổ thông, Loại thuế Đãi ngộ Tối huệ quốc (MFN), Loại thuế ưu đãi riêng dành cho các khu vực kinh tế mà Việt Nam tham gia là thành viên, áp dụng trên cơ sở có đi có lại và là công cụ để đàm phán với các nước nhằm mở cửa thị trường.
Về cụ thể cần phải điều chỉnh thuế nhập khẩu, theo hướng giảm bớt mức thuế và giảm dần thuế suất. Hiện nay, thuế suất của Việt Nam còn dàn trải quá rộng. Về mặt kinh tế, thuế suất dàn trải là có hại, thậm chí có hại hơn thuế suất cao mà thống nhất, vì chúng có thể đưa các nguồn lực vào những hoạt động không hiệu quả. Về mức thuế chỉ nên áp dụng 5-6 mức: 0%, 5%, 10%, 20% và 30%. Thuế suất cao nhất đánh vào hàng nhập khẩu chỉ nên là 50%. Bộ Tài chính đã và đang điều chỉnh thuế nhập khẩu bằng cách một mặt giảm thuế suất đối với một số mặt hàng có thuế suất cao và quá cao (trên 50%), mặt khác nâng mức thuế suất các mặt hàng có thuế suất dưới 5%.
Theo luật thuế hiện hành thì các hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam sau đây được miễn thuế: 1) Hàng hoá của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhập vào Việt Nam để tạo tài sản cố định hoặc mở rộng quy mô dự án; 2) Hàng viện trợ không hoàn lại, tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập để dự hội trợ triển lãm, hàng trả nợ nước ngoài của chính phủ, hàng nhập khẩu chuyên dùng cho an ninh, quốc phòng, nghiên cứu khoa học, giáo dục và đào tạo, hàng xuất nhập của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, hàng gia công xuất khẩu, hàng là quà biếu.
Việc quy định miễn, giảm thuế là cần thiết nhưng như vậy là áp dụng cho quá nhiều đối tượng, cơ chế áp dụng chưa thống nhất và bình đẳng. Do vậy, nên quy định là: 1) Hàng gia công xuất khẩu, hàng tạm nhập tái xuất và nguyên vật liệu để làm hàng xuất khẩu phải nộp thuế nhập khẩu như bình thường, khi xuất khẩu sẽ được hoàn thuế; 2) Việc miễn thuế cho hàng gia công cần áp dụng cho mọi đối tượng hàng gia công; 3) Hàng hoá nhập khẩu theo các dự án đầu tư nước ngoài cho hưởng ưu đãi theo chế độ MFN. Các dạng miễn, giảm theo Luật Đầu tư nước ngoài trái với nguyên tắc phải được loại bỏ vì nó không phù hợp với thông lệ quốc tế.
3.2.4. Hoàn thiện những quy định về các biện pháp phi thuế quan
Theo quy định của WTO, các biện pháp phi thuế quan là không phù hợp, cần phải bãi bỏ. Tuy nhiên trong giai đoạn ngắn hạn và trung hạn, sản xuất trong nước được bảo hộ với sự kết hợp giữa thuế quan và hàng rào phi thuế quan, trong một số trường hợp hàng rào phi thuế là công cụ chính. Sau đó thuế quan sẽ là công cụ bảo hộ chủ yếu, các biện pháp hạn chế định lượng sẽ bị bãi bỏ. Việt Nam cần nghiên cứu định ra một số lộ trình giảm dần hàng rào phi thuế quan tạo thuận lợi theo đúng nguyên tắc và tập quán quốc tế, đồng thời tạo điều kiện cho nền kinh tế phục vụ công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Các nguyên tắc của Việt Nam với các biện pháp phi thuế quan là: (1) Giảm dần các biện pháp phi thuế quan và đảm bảo các quy chế thương mại phi thuế luôn luôn được công bố rõ ràng; (2) Xem xét lợi ích của các đối tác đồng thời của từng ngành sản xuất và từng sản phẩm cụ thể mà việc ưu tiên giảm các hàng rào phi thuế sẽ góp phần thúc đẩy thương mại và tăng trưởng kinh tế trong khu vực và bạn hàng; (3) Đảm bảo không áp dụng các biện pháp vô lý gây phương hại cho tiến trình giảm hàng rào phi thuế.
Trước mắt cần tập trung giải quyết các biện pháp phi thuế quan sau:
3.2.4.1. Về cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu
Hầu hết các mặt hàng cấm xuất khẩu như vũ khí, đạn dược, vật liệu nổ, trang thiết bị kỹ thuật quân sự, các loại ma tuý, hoá chất độc, đồ cổ, các loại văn hoá phẩm đồi trụy, phản động, pháo các loại, đồ chơi trẻ em có ảnh hưởng xấu đến giáo dục nhân cách, đến trật tự an toàn xã hội, ô tô có tay lái nghịch theo Quyết định số 46/2001/QĐ-TTg ngày 04/04/2001 về quản lý xuất nhập khẩu hàng hoá thời kỳ 2001-2005 đều có thể biện minh được theo các trường hợp ngoại lệ của WTO vì đều phản ánh mục tiêu đảm bảo an ninh và giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc. Do vậy, các quy định trên đã phù hợp với quy định của WTO và chưa cần sửa đổi trong thời kỳ 2001-2005.
Một số quy định cấm nhập khẩu của Việt Nam còn vi phạm nguyên tắc Đãi ngộ Quốc gia (NT) vì vẫn cho phép sản xuất và lưu hành trong nước. Các quy định đó cần được sửa đổi theo hướng: Đối với mặt hàng thuốc lá điếu, Việt Nam nên sử dụng hạn ngạch thuế quan (Tariff quotas) là mức hạn ngạch mà khối lượng nhập vào vượt qua mức đó sẽ phải chịu thuế cao hơn. Đối với các mặt hàng tiêu dùng đã qua sử dụng, phụ tùng các loại ôtô, xe máy đã qua sử dụng, Việt Nam nên sử dụng biện pháp cấp phép không tự động, đồng thời đặt ra những tiêu chuẩn kỹ thuật, môi trường và thủ tục thông quan phức tạp để hạn chế nhập khẩu tới mức gần như bằng không.
3.2.4.2. Về hạn ngạch
Hạn ngạch và giấy phép nhập khẩu đều là biện pháp của chính phủ làm lượng hàng hoá nhập khẩu giảm so với khi không áp dụng biện pháp này. ở giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Việt Nam nên áp dụng biện pháp hạn chế số lượng như sau:
Khi áp dụng hạn chế số lượng nhập khẩu với một số lượng hàng hoá liên quan đến nền công nghiệp hoá trẻ trong thời gian và điều kiện nhất định, Việt Nam nên công bố rõ ràng các mặt hàng đó cùng với lịch trình dỡ bỏ trên các phương tiện thông tin đại chúng. Các hàng hoá đó có thể là: xăng dầu, phân bón, xi-măng, giấy, đường, kính xây dựng. Nên kết hợp chế độ hạn ngạch với đấu thầu và có thể quy định hạn ngạch nhập khẩu kết hợp với thuế, tức hạn ngạch thuế quan. Việt Nam cũng cần phải tích cực đàm phán để hạn chế việc áp dụng hạn ngạch đối với hàng dệt may sang các thị trường đang hạn chế nhập khẩu mặt hàng nay từ Việt Nam.
3.2.4.3. Về cấp phép nhập khẩu
Các quy định về chế độ cấp phép nhập khẩu cần được rà soát và sửa đổi lại là: (1) Phụ lục của Nghị định số 57/1998/NĐ-CP ngày 31/7/1998 quy định chi tiết thi hành Luật Thương mại; (2) Phụ lục Nghị định 44/2001/NĐ-CP ngày 2/8/2001 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 57/1998/NĐ-CP ngày 31/7/1998 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Thương mại về hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, gia công và đại lý mua bán hàng hoá với nước ngoài; (3) Nghị định 24/2000/NĐ-CP ngày 31/7/2000 quy định chi tiết thi hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam; (4) Quyết định số 46/2001/QĐ-TTg ngày 4/4/2001 về quản lý xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá thời kỳ 2001-2005.
Các quy định này nên sửa đổi theo hướng Nhà nước chỉ nên quản lý nhập khẩu thông qua việc cấp giấy phép nhập khẩu đối với hàng hoá áp dụng chế độ hạn ngạch nhập khẩu và các mặt hàng nhập khẩu quan trọng, liên quan đến quốc kế dân sinh, đến sức khoẻ và môi trường, còn lại thông qua quy chế đăng ký kinh doanh và đăng ký hải quan để quản lý. Cụ thể là:
(i) Các hàng hoá nhập khẩu quan trọng liên quan đến quốc kế dân sinh như thiết bị, máy móc cho các nhà máy, hàng hoá tiêu dùng nhạy cảm với nền công nghiệp non trẻ và chính sách tiết kiệm như ôtô dưới 12 chỗ, xe hai bánh gắn máy, rượu mạnh, hàng liên quan đến động thực vật, sức khoẻ con người, an ninh quốc phòng... nên áp dụng chế độ giấy phép không tự động. Chế độ giấy phép này đòi hỏi thương nhân nhập khẩu phải xin phép Bộ Thương mại và Bộ ngành;
(ii) Các mặt hàng không bị cấm hoặc hạn chế hiện nay thì được quản lý bằng giấy phép tự động để phục vụ cho mục tiêu thống kê, giám sát; nghĩa là thương nhân được phép nhập khẩu hàng hoá theo ngành nghề trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh sau khi đã đăng ký ngành nghề kinh doanh tại Cục hải quan tỉnh, thành phố.
Đề nghị giảm thiểu Danh mục hàng hoá quản lý chuyên ngành. Loại cần quản lý chit tiêu thì chuyển hẳn sang Danh mục hạn ngạch. Loại cần quản lý tiêu chuẩn kỹ thuật thì công bố công khai tiêu chuẩn kỹ thuật để hải quan căn cứ vào đó thi hành, không cần phải xin giấy phép. Loại nào có thể quy định được độc quyền nhập khẩu thì chỉ định doanh nghiệp độc quyền và không cấp giấy phép. Giấy phép chuyên ngành chỉ nên duy trì đối với những mặt hàng không thể công bố tiêu chuẩn kỹ thuật rõ ràng hoặc cần quản lý mục đích sử dụng.
Ngoài ra, cần sửa đổi các văn bản pháp luật kể trên theo hướng phân định rõ quản lý thương mại về một đầu mối và các chuyên ngành quản lý công bố rõ yêu cầu kỹ thuật áp dụng cả với hàng nội và hàng nhập khẩu cũng như xây dựng phương án thuế nhập khẩu thay thế các biện pháp hạn chế số lượng này.
Thủ tục cấp giấy phép cũng phải được công bố rõ ràng, công khai để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp và các cơ quan liên quan có thể xúc tiến thực hiện được nhanh chóng, giảm được các chi phí không hợp lý.
3.2.4.4. Về các biện pháp kiểm dịch động thực vật
Đây là những biện pháp bảo hộ được WTO chấp nhận song phải phù hợp với nguyên tắc không phân biệt đối xử. Vấn đề khó khăn của Việt Nam là còn có ít các phòng thí nghiệm được công nhận nên hàng hoá của Việt Nam dễ gặp phải hàng rào kỹ thuật của nước nhập khẩu. Việt Nam cần phải đào tạo độ ngũ cán bộ có chuyên môn kỹ thuật cao, trang thiết bị hiện đại... để có thêm nhiều cơ quan chứng nhận được công nhận.
Về khía cạnh pháp lý, nhìn chung các văn bản quy phạm pháp luật của chúng ta điều chỉnh vấn đề này còn thiếu và tản mạn. Hơn nữa, chúng ta chưa có các quy định khác về tính tương đương; đánh giá rủi ro và xác định mức độ bảo vệ động thực vật; thích ứng với các điều kiện khu vực như trong các Điều 4,5,6 Hiệp định SPS. Do đó, chúng ta cần ban hành Nghị định của chính phủ để quy định tổng thể các nội dung liên quan đến các biện pháp kiểm dịch động thực vật để bảo vệ sức khoẻ con người, động thực vật và môi trường.
Về quy định kiểm tra, thanh tra và thủ tục chấp thuận trong Điều 10 Hiệp định SPS của WTO, chúng ta cũng đã có quy định trong Pháp lệnh Vệ sinh an toàn thực phẩm, Pháp lệnh Chất lượng hàng hoá, Pháp lệnh Thú y và một số văn bản khác. Về cơ bản các văn bản trên thống nhất với quy định của WTO nhưng chưa đủ cụ thể như yêu cầu của WTO. Do đó, cần ban hành Nghị định của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Chất lượng hàng hoá, Nghị định thi hành Pháp lệnh Vệ sinh an toàn thực phẩm và ban hành mới Pháp lệnh Tiêu chuẩn hóa.
3.2.4.5. Về hàng rào kỹ thuật trong thương mại
Về phía hàng rào kỹ thuật của Việt Nam đối với hàng nhập khẩu, cần chứng minh sự cần thiết của các tiêu chuẩn kỹ thuật đó. Hệ thống kiểm dịch động, thực vật phải được phổ biến thông tin và đảm bảo áp dụng một cách mính bạch và nhanh chóng. Việt Nam còn phải cung cấp thông tin về hài hoà các tiêu chuẩn của mình với các tiêu chuẩn quốc tế tương ứng.
ở khía cạnh pháp lý, Nhìn chung, các quy định hiện hành của Nhà nước ta về tiêu chuẩn hàng hoá trong nước và nhập khẩu là đảm bảo chế độ đối xử quốc gia theo quy định của WTO. Tuy nhiên, cần phải sớm khắc phục một số quy định chưa phù hợp sau đây:
(i) Thủ tục đối với hàng hoá nhập khẩu có yêu cầu về kỹ thuật hiện nay là còn hơi chặt; cần phải sửa đổi cho thuận lợi hơn theo hướng áp dụng cơ chế tiền đăng - hậu kiểm;
(ii) Số mặt hàng nhập khẩu hiện nay chịu sự kiểm tra Nhà nước về chất lượng nhiều hơn rất nhiều so với hàng nội địa trước khi đưa vào lưu thông (có thể xem Danh mục hàng hóa xuất nhập khẩu phải kiểm tra Nhà nước về chất lượng năm 2000 theo Quyết định số 117/2000/QĐ-BKHCNMT ngày 26/01/2000).
Nội dung của Pháp lệnh Chất lượng hàng hoá mới ban hành đã đảm bảo sự đối xử bình đẳng giữa hàng nhập khẩu và hàng nội địa. Chính phủ cần sớm ban hành Nghị định hướng dẫn Pháp lệnh này, Bộ Khoa học Công nghệ cần sớm ban hành các Thông tư kèm theo với nội dung làm sao để đảm bảo chế độ đối xử quốc gia đối với hàng hoá nhập khẩu. Cụ thể là các chế độ kiểm tra (thủ tục, tiêu chí v.v) đều được áp dụng chung cho mọi hàng hoá, không phân biệt hàng nhập khẩu hay hàng nội địa.
Chúng ta cũng cần ban hành mới Pháp lệnh Tiêu chuẩn hoá và Nghị định hướng dẫn thi hành Pháp lệnh này quy định nguyên tắc và cơ chế đối xử quốc gia trong việc ban hành, áp dụng quy định kỹ thuật đối với hàng nhập khẩu để bảo đảm rằng việc soạn thảo, ban hành, duy trì các quy định kỹ thuật một mặt không tạo ra những trở ngại không cần thiết đối với thương mại quốc tế nhưng mặt khác vẫn tận dụng được những trường hợp ngoại lệ mà Hiệp định về Hàng rào kỹ thuật trong thương mại (TBT) của WTO cho phép để bảo vệ an ninh quốc gia, môi trường, sức khoẻ cộng đồng
3.2.5. Hoàn thiện những quy định về các lĩnh vực cụ thể khác
3.2.5.1. Về định giá hải quan
Về mặt hình thức và thủ tục thì Việt Nam mới chỉ áp dụng Nghị định 60/2002/NĐ-CP ngày 6/6/2002 về việc xác định trị giá tính thuế đối với hàng hoá nhập khẩu theo nguyên tắc của Hiệp định trị giá hải quan (CVA) của WTO đối với hàng hoá nhập khẩu theo hợp đồng thương mại thực hiện chương trình CEPT từ 1/7/2002 mặc dù có quy định của Điều 1.2 Nghị định 60/2002/NĐ-CP. Do đó, đề xuất sửa đổi Nghị định 60/2002/NĐ-CP bước 1 để huỷ bỏ quy định hạn chế việc thực hiện Nghị định chỉ đối với hàng hoá thuộc Chương trình CEPT và cho phép áp dụng Nghị định này đối với hàng hoá nhập khẩu có xuất xứ từ các nước có cam kết thực hiện.
Đồng thời, trong lần sửa đổi bước 1 này, bãi bỏ việc chỉ áp dụng Nghị định 60/2002/NĐ-CP đối với điều kiện là hàng nhập khẩu theo hợp đồng thương mại vì Hiệp định CVA của WTO không có quy định này và bản thân các quy định hợp đồng của Việt Nam cũng gây phức tạp và khó khăn cho việc áp dụng Nghị định. Hơn nữa, lần sửa đổi bước 1 cũng cần tính đến việc sửa đổi Điều 17 Nghị định 60/2002/NĐ-CP cho phù hợp với kết quả đàm phán gia nhập WTO (Hiệp định CVA không cho phép bảo lưu nếu không có sự đồng ý của WTO).
Tiến hành sửa đổi bước 2: áp dụng các quy định của Nghị định 60/2002/NĐ-CP chung cho hàng hoá nhập khẩu khi gia nhập WTO vì vào thời điểm đó thì Việt Nam sẽ phải áp dụng việc tính thuế đối với hàng hoá nhập khẩu theo nguyên tắc của Hiệp định Trị giá hải quan (CVA) đối với hầu hết các nước có quan hệ thương mại với chúng ta. Việc duy trì một cơ chế trị giá hải quan thống nhất cũng bảo đảm hiệu quả cho việc quản lý và thực thi.
Về nội dung Nghị định 60/2002/NĐ-CP, Điều 7.4 cần được sửa đổi cho phù hợp với Điều 5.2 Hiệp định CVA của WTO ở 2 điểm: (i) cần sửa đổi để quy định việc áp dụng trị giá đối với hàng nhập khẩu sau khi đã qua gia công hay chế biến chỉ nếu đáp ứng 2 điều kiện là khi không có hàng hoá nhập khẩu đang được tính trị giá hay hàng nhập khẩu giống hệt hoặc tương tự được bán tại Việt Nam, và khi người nhập khẩu yêu cầu; (ii) sửa đổi để có thể áp dụng chú thích cho Điều 5.2 Hiệp định CVA, cần xem xét theo từng trường hợp cụ thể thay vì đưa thành nguyên tắc chung không áp dụng đối với hàng hoá gia công, chế biến mà bị mất đi thuộc tính.
Sửa đổi Điều 23, 25 Luật Hải quan và Điều 12 Nghị định 60/2002/NĐ-CP cho phù hợp với Điều 13 Hiệp định CVA để khẳng định quyền của người khai hải quan khi có bảo lãnh hay đặt cọc đủ để nộp tiền thuế và các khoản phải trả khác được lấy hàng hoá ra khỏi hải quan (thông quan) nếu có sự trì hoãn trong việc ra quyết định cuối cùng về trị giá hải quan.
Trong thực tiễn thương mại quốc tế, các nước thường áp dụng việc tính thuế theo giá, theo số lượng hoặc kết hợp cả hai. Biểu thuế nhập khẩu của ta chỉ áp dụng phương pháp tính thuế theo giá. Việt Nam cũng nên áp dụng thêm cách tính thuế theo lượng nhập khẩu hoặc hỗn hợp cả hai đối với mặt hàng nhập khẩu thích hợp nhằm ổn định thu cho ngân sách mà vẫn thoả mãn quy định của WTO.
Trước mắt, Việt Nam cần giảm bớt số mặt hàng chịu giá tính thuế tối thiểu và tiến tới loại bỏ hẳn việc quản lý này, tăng cường tính minh bạch của thủ tục hải quan bằng cách thông báo các quy định có liên quan tới hải quan một cách rõ ràng, công khai. Nếu có thể, để chế độ thuế quan rõ ràng và thích ứng với thương mại quốc tế, Việt Nam nên tham gia Công ước HS.
3.2.5.2. Về giám định trước khi gửi hàng
Nhìn chung, hoạt động giám định hàng hoá được quy định trong Luật Hải quan năm 2001, Chương III về kiểm tra hải quan, Điều 25 Khoản 4, Điều 27 Khoản 4 và Nghị định số 101/2001/NĐ-CP ngày 31/12/2001 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hải quan về thủ tục hải quan, chế độ kiểm tra, giám sát hải quan đã phù hợp và tương đồng với các quy định tương ứng của WTO. Tuy nhiên, còn có một số quy định còn chưa đầy đủ và cụ thể, như về thủ tục rà soát độc lập quy định trong Luật Hải quan chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu như quy định trong Điều 4 Hiệp định PSI. Do đó, Việt Nam cần ban hành văn bản để cụ thể hoá các quy định chưa đáp ứng kể trên.
Việt Nam nên được tư vấn để dự thảo các quy định về giám định trước khi gửi hàng phù hợp với các yêu cầu của WTO và cần ban hành một chế độ pháp lý về quy tắc xuất xứ đa biên chứ không phải chỉ trong khuôn khổ AFTA như hiện nay.
3.2.5.3. Về quy tắc xuất xứ
Các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành liên quan đến việc kiểm tra xuất xứ của hàng hoá nhập khẩu mới chỉ dừng ở Thông tư liên tịch số 09/2000/TTLT-BTM-TCHQ ngày 17/4/2000 của Bộ Thương mại và Tổng cục Hải quan hướng dẫn về việc xác định và kiểm tra xuất xứ hàng hoá; Quyết định số 416/TM-ĐB ngày 13/5/1996 và Quyết định số 492/2000/QĐ-BTM ngày 20/3/2000 của Bộ trưởng Bộ Thương mại sửa đổi Quyết định số 416/TM-ĐB về Quy chế cấp giấy chứng nhận xuất xứ hàng hoá ASEAN của Việt Nam - Mẫu D để hưởng các ưu đãi theo Hiệp định về Chương trình Ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT).
Như vậy, lĩnh vực kiểm tra xuất xứ của hàng hoá nhập khẩu ở nước ta chưa được điều chỉnh đầy đủ bởi các văn bản quy phạm pháp luật hoặc mới ở văn bản pháp quy cấp thấp. Do còn thiếu các quy định về quy tắc xuất xứ như của WTO, Việt Nam cần xây dựng Nghị định quy định về việc xác định xuất xứ của hàng hoá nhập khẩu trên cơ sở không phân biệt đối xử trên tinh thần và nội dung phù hợp với Hiệp định ROA của WTO.
3.2.5.4. Về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại
TRIMs không phù hợp với WTO đã được Việt Nam xoá bỏ, là yêu cầu tự đảm bảo cân đối ngoại tệ, ưu tiên chuyển nhượng vốn cho bên Việt Nam, miễn giảm thuế khi chuyển nhượng vốn cho bên Việt Nam. Tuy nhiên, Luật Đầu tư nước ngoài hiện hành vẫn còn quy định ưu tiên sử dụng đầu vào của Việt Nam. Hiện tại WTO muốn Việt Nam phải thông báo rõ ràng công khai TRIMs chưa phù hợp và đưa ra cam kết loại bỏ dần.
Căn cứ vào những phân tích ở Chương II về biện pháp vi phạm nguyên tắc đối xử quốc gia thứ nhất là yêu cầu doanh nghiệp phải mua hoặc sử dụng hàng hoá có xuất xứ trong nước hoặc từ nguồn cung cấp trong nước (TRIM bị cấm), ở phần này, khoá luận kiến nghị:
(1) Sửa đổi Thông tư liên tịch số 176/1998/TTLT-BTC-BCN-TCHQ ngày 25/12/1998 của Bộ Tài chính, Bộ Công nghiệp, Tổng cục hải quan và các văn bản có liên quan theo hướng xoá bỏ quy định về ưu đãi thuế nhập khẩu theo tỷ lệ nội địa hoá để thực hiện chính sách miễn giảm chung theo biểu thuế hiện hành.
(2) Không áp dụng điều kiện bắt buộc thực hiện chương trình nội địa hoá trong thực tiễn thẩm định, cấp giấy phép đầu tư. Hơn nữa, cần điều chỉnh Danh mục lĩnh vực đầu tư có điều kiện ban hành kèm theo Nghị định 24/2000/NĐ-CP theo hướng xoá bỏ yêu cầu phát triển nguồn nguyên liệu trong nước đối với dự án chế biến đường mía, dầu thực vật, sữa, gỗ.
Về bốn biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMs) bị cấm còn lại, các quy định pháp luật của Việt Nam đã đáp ứng việc xoá bỏ theo cam kết với WTO.
3.2.5.5. Về trợ cấp và các biện pháp đối kháng
Các quy định hiện hành của Việt Nam về trợ cấp và các biện pháp đối kháng đã được so sánh, đối chiếu với các quy định của WTO trong Chương II. Căn cứ vào những phân tích, đối chiếu đó, khoá luận xin đưa ra các kiến nghị chung cho từng yêu cầu của WTO như sau:
Trong Thông báo về trợ cấp của Việt Nam trình lên Ban công tác của WTO trong Phiên họp thứ 7 sắp tới (dự định vào tháng 12/2003), đề nghị minh bạch hoá toàn bộ các trợ cấp mà Việt Nam đang áp dụng: các trợ cấp bị cấm, các trợ cấp có thể đối kháng cũng như các trợ cấp không thể đối kháng. Tuy nhiên, chúng ta cần tham khảo ý kiến của các thành viên WTO trong việc xác định các biện pháp trợ cấp bị cấm, trợ cấp có thể đối kháng và không thể đối kháng để từ đó xây dựng Chương trình hành động và đề xuất phương án sửa đổi các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến trợ cấp bị cấm trong: Luật Doanh nghiệp Nhà nước, Luật Doanh nghiệp, Luật Khuyến khích đầu tư trong nước, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Luật Hợp tác xã và các văn bản dưới luật khác Đã nêu trong Chương II
.
Về trợ cấp có thể đối kháng, chúng ta cần ban hành Pháp lệnh Thuế chống trợ cấp trong đó quy định về tổn hại nghiêm trọng do tác động nghịch gây ra Điều 5 Hiệp định SCM của WTO
và mức tổn hại nghiêm trọng Điều 6 Hiệp định SCM của WTO
. Để từ đó có căn cứ để áp dụng thuế chống trợ cấp đối với hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam. Đây là quyền lợi của Việt Nam khi gia nhập WTO.
Về trợ cấp không thể đối kháng, chúng ta cần sử dụng quy định này của WTO để tiến hành trợ cấp xuất khẩu cho hàng hoá Việt Nam trong phạm vi mà trợ cấp được coi là không thể đối kháng. Chẳng hạn, cần duy trì trợ cấp trong Chương trình xoá đói giảm nghèo, trợ cấp áp dụng tại các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.
3.2.5.6. Về quy định chống bán phá giá
Nhìn chung, Dự thảo Pháp lệnh về thuế Chống bán phá giá của Việt Nam đã đưa ra những quy định về chống bán phá giá trên cơ sở tinh thần và nội dung của Hiệp định về chống bán phá giá của WTO. Tuy nhiên, một số quy định của chúng ta còn sơ sài, chưa chi tiết. Do đó, chúng ta cần sớm thông qua và ban hành Pháp lệnh về thuế Chống bán phá giá cùng với Nghị định hướng dẫn thi hành Pháp lệnh này trong đó quy định cụ thể hơn nữa các điều khoản trong Pháp lệnh.
3.2.5.7. Về các biện pháp tự vệ trong thương mại
Quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam về tự vệ trong thương mại được điều chỉnh bởi Pháp lệnh về tự vệ trong nhập khẩu hàng hoá nước ngoài vào Việt Nam năm 2002. Pháp lệnh này được xây dựng và ban hành dựa trên cơ sở nội dung các điều trong Hiệp định về các biện pháp tự vệ của WTO (Hiệp định AS), do đó Pháp lệnh tự vệ của chúng ta đã hoàn toàn tương đồng với quy định của WTO. Tuy nhiên, một số điều và điều khoản như Điều 3 điểm 2 Pháp lệnh quy định biện pháp hạn ngạch, Điều 20 về biện pháp tự vệ tạm thời chưa thật cụ thể, Điều 22 khoản 2 chưa quy định trường hợp được gia hạn áp dụng biện pháp tự vệ. Do đó, các nội dung này cần được quy định rõ hơn trong văn bản hướng dẫn thi hành Pháp lệnh tự vệ năm 2002.
3.2.6. Hoàn thiện những quy định về một số lĩnh vực riêng biệt
3.2.6.1. Lĩnh vực dệt may
Trong trường hợp Việt Nam trở thành thành viên của WTO và Hiệp định dệt may đối với Việt Nam kéo dài hơn thời hạn năm 2005 thì cần nghiên cứu việc ban hành các văn bản quản lý việc nhập khẩu hàng dệt may vào Việt Nam.
Về cơ sở hợp nhất thương mại hàng dệt may vào các quy tắc của GATT, thực tế cho thấy rằng ở các nước phát triển như Hoa Kỳ, Liên minh Châu Âu (EU), Canada đã có thể đáp ứng được mức tỷ lệ phần trăm đòi hỏi của sự hợp nhất (16% ở giai đoạn đầu và 17% ở giai đoạn 2) bằng cách hợp nhất những sản phẩm bao gồm trong một tỷ trọng rất nhỏ hạn chế bằng hạn ngạch. Do vậy, ảnh hưởng lớn đầu tiên của Chương trình hợp nhất sẽ chỉ thấy rõ ở giai đoạn 3 (1/1/2002) còn toàn bộ những hạn chế còn lại chỉ phải xoá bỏ vào 1/1/2005 khi Hiệp định dệt may hết hiệu lực.
Để chuẩn bị đối phó với sự cạnh tranh khốc liệt trên thị trường quốc tế sau thời kỳ Hiệp định dệt may chấm dứt hiệu lực, ngành dệt may nước ta cần phải hiện đại hoá phương pháp sản xuất, tiến hành nghiên cứu thị trường để xác định những sản phẩm có thể cạnh tranh có hiệu quả trên thị trường quốc tế dựa vào chất lượng và giá cả. Đồng thời cũng không nên quá lệ thuộc vào thị trường các nước phát triển mà cần xem xét tiềm năng to lớn của thị trường các nước đang phát triển để có chương trình, chiến lược xuất khẩu hàng dệt may vào những thị trường này.
3.2.6.2. Lĩnh vực nông nghiệp
Có thể dự báo chắc chắn là Việt Nam dù sớm hay muộn cũng phải cam kết cắt giảm toàn bộ thuế quan đối với các sản phẩm nông nghiệp. Vì vậy, trước hết Việt Nam cần xác định các ngành hàng nhạy cảm cần có sự bảo hộ chặt chẽ của thuế quan. Một trong những ngành được coi là nhạy cảm nhất là ngành mía đường và ngành chế biến thịt. Cần sớm có một kế hoạch rà soát toàn bộ các mức thuế bảo hộ có hiệu quả đối với các ngành hàng.
Đồng thời cần rà soát về mặt kỹ thuật những điểm tích cực và hạn chế của từng loại thuế như tính theo giá trị, thuế quy định cụ thể, các mức thuế cụ thể lựa chọn, các loại thuế tính hỗn hợp. Hiện nay, nhiều nước thành viên WTO đang áp dụng các mức thuế cụ thể và thuế hỗn hợp để bảo hộ cho ngành mía đường trong nước.
Một vấn đề khác liên quan đến thuế quan là thuế hoá các biện pháp phi thuế quan. Có lẽ đường là sản phẩm duy nhất của ngành nông nghiệp có thể thực hiện thuế hoá các biện pháp phi thuế, khả năng thuế hoá đối với mặt hàng thuốc lá hầu như không có.
Về hỗ trợ trong nước, mục tiêu của các cam kết về hỗ trợ thuộc dạng "hộp vàng" theo kế hoạch là nhằm hạn chế và giảm bớt mức hỗ trợ trong giai đoạn cơ sở từ 1996-1998. Do không có phản hồi gì về những cam kết dự kiến này trong quá trình gia nhập, Việt Nam nên tập trung nguồn lực tài chính hạn hẹp cho các hỗ trợ trong nước thuộc dạng "hộp xanh" là hỗ trợ mà các thành viên WTO không có nghĩa vụ phải hạn chế.
Mức độ trợ cấp xuất khẩu cũng sẽ bị giới hạn ở mức gốc của năm 1998 và liên tục giảm trong quá trình đàm phán với các thành viên WTO. Giải pháp của Việt Nam về vấn đề này là áp dụng các hình thưc trợ cấp xuất khẩu cho phép đối với các nước đang phát triển nhằm giảm bớt chi phí marketing các sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu và cước phí vận tải quốc tế.
Trong quá trình gia nhập WTO, một yêu cầu hết sức cấp bách đối với Việt Nam là xây dựng một hệ thống quản lý với chức năng thực hiện những cam kết và nhân nhượng của Việt Nam về nông nghiệp.
Về khía cạnh pháp lý, pháp luật Việt Nam hiện có khá nhiều văn bản pháp luật quy định những ưu đãi dành cho lĩnh vực nông nghiệp (như được liệt kê ở trên). Nhìn chung, các chính sách hỗ trợ của Nhà nước ta hiện nay là phù hợp và tương đồng với Hiệp định nông nghiệp của WTO. Các chính sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp đều được thực hiện thống nhất trong cả nước, có tiêu chí rõ ràng, minh bạch và thuộc đối tượng được miễn trừ các cam kết cắt giảm quy định tại Phụ lục 2 của Hiệp định nông nghiệp. Tuy nhiên, các hỗ trợ đối với sản phẩm nông nghiệp và sản xuất nông nghiệp hiện nay chủ yếu được thực hiện theo các Quyết định riêng lẻ của Thủ tướng Chính phủ trong thời hạn nhất định mà chưa có tính ổn định, lâu dài. Chúng ta cần tiến hành xây dựng văn bản (có thể là Nghị định của Chính phủ) quy định thống nhất về các chính sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp.
Việt Nam đã thiết lập những quy tắc thống nhất để điều chỉnh tín dụng xuất khẩu, bảo lãnh tín dụng xuất khẩu hoặc các chương trình bảo hiểm. Tuy nhiên, các văn bản điều chỉnh các lĩnh vực này chủ yếu được ban hành dưới hình thức văn bản của Thủ tướng Chính phủ nên giá trị pháp lý chưa cao, chưa có tính ổn định, một số văn bản quy định trợ cấp xuất khẩu là không phù hợp Hiệp định nông nghiệp của WTO.
Chúng ta cần rà soát lại các quy định về chính sách khuyến khích phát triển xuất khẩu cũng như các quy định về tín dụng xuất khẩu mà Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã ban hành để bảo đảm thống nhất, phù hợp và tương đồng với quy tắc chung của quốc tế cũng như các cam kết của Việt Nam khi tham gia Hiệp định nông nghiệp của WTO.
Kết luận
Nghiên cứu đề tài "Hoàn thiện pháp luật về thương mại hàng hoá của Việt Nam trước yêu cầu gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO)”, bằng phương pháp nghiên cứu khoa học, khoá luận đã đạt được những kết quả sau:
1. Trước tiên, khoá luận giới thiệu khái quát về Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), làm rõ hoàn cảnh lịch sử, sự cần thiết khách quan và ý nghĩa của việc ra đời WTO. Khoá luận cũng cung cấp những thông tin cơ bản và đầy đủ nhất về mục đích hoạt động, các nguyên tắc cơ bản và hệ thống các Hiệp định của WTO.
2. Sau đó, khoá luận phân tích những quy định về thương mại hàng hoá của WTO, bao gồm: các nguyên tắc Đối xử Tối huệ quốc và Đối xử quốc gia, những quy định về thuế quan, về các biện pháp phi thuế quan, về các lĩnh vực cụ thể và riêng biệt trong GATT 1994 và các hiệp định WTO có liên quan.
3. Trên cơ sở phân tích trên, khoá luận so sánh, đối chiếu để tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt giữa các quy định về thương mại hàng hoá của Việt Nam với những quy định tương ứng của WTO.
4. Tiếp đó, khoá luận trình bày và phân tích những quan điểm, nguyên tắc và tiêu chí hoàn thiện pháp luật về thương mại hàng hoá của Việt Nam đáp ứng yêu cầu gia nhập WTO trong tương lai gần (mục tiêu dự kiến năm 2005).
5. Quán triệt chủ trương hội nhập do Đảng và Nhà nước đề ra, khoá luận đã đề xuất kiến nghị về một số giải pháp điều chỉnh và hoàn thiện các quy định pháp luật về thương mại hàng hoá của Việt Nam để phù hợp hơn nữa với các quy định tương ứng của WTO.
Việc tham gia đàm phán của WTO và thực hiện các bước đi đồng bộ trong việc điều chỉnh hệ thống chính sách, pháp luật trong nước cho phù hợp với các quy định của WTO nằm trong chủ trương, đường lối hội nhập, mở cửa nền kinh tế phục vụ cho mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước của Việt Nam. Việt Nam đã thể hiện quyết tâm của mình trong việc mong muốn sớm gia nhập WTO bằng việc thực hiện từng bước các cam kết, thay đổi chính sách và hệ thống pháp luật theo hướng tích cực trong các lĩnh vực chủ chốt, đặc biệt là lĩnh vực thương mại hàng hoá.
Tính đến thời điểm này, đã có rất nhiều văn bản pháp luật được rà soát, đối chiếu, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới theo tinh thần và nội dung các quy định của WTO. Do đó, với nỗ lực không ngừng trong thời gian qua, hy vọng rằng Việt Nam sẽ được công nhận là thành viên chính thức của WTO theo đúng dự kiến và chủ trương là vào năm 2005 sắp tới.
Tài liệu tham khảo
I. Sách và tài liệu nghiên cứu
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX. NXB Chính trị quốc gia, 2001.
Nghị quyết số 07-NQ/TW của Bộ Chính trị về hội nhập kinh tế quốc tế, 11/2001.
Kết quả vòng đàm phán Uruguay về hệ thống thương mại đa biên. Bộ thương mại, Vụ chính sách thương mại đa biên. NXB Thống kê, 2000.
Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Bộ ngoại giao, Vụ hợp tác kinh tế đa phương, NXB Chính trị Quốc gia, 2000.
Các quy định quốc tế về thương mại hàng hoá trong WTO (GATT 1994 và các Hiệp định kèm theo). Bộ phận hội nhập Bộ Ngoại giao 10/1998.
Hướng dẫn doanh nghiệp về Hệ thống thương mại thế giới. Trung tâm thương mại quốc tế – Ban thư ký khối thịnh vượng chung. NXB Chính trị quốc gia, 2001.
Từ “Hiệp định chung về thuế quan và mậu dịch GATT” chuyển sang “Tổ chức thương mại thế giới WTO”. Tổ chức xúc tiến thương mại Nhật Bản (JETRO). Hà Nội, ngày 25/02/1997.
Chuyên đề về ASEAN, APEC, WTO – Một số vấn đề pháp lý về tổ chức và hợp tác. Viện nghiên cứu khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp 1998.
Tìm hiểu Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ & Quy chế thương mại đa phương. Phạm Minh NXB Thống kê 2001.
Chiến lược phát triển hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010 (Dự thảo 15), Bộ Tư pháp. Hà Nội, tháng 10/2002.
Các phụ lục gửi kèm Công văn số 709/BTP/PLQT-WTO ngày 26/9/2003 của Bộ Tư pháp báo cáo Thủ tướng về kết quả bước đầu rà soát, đối chiếu các Hiệp định của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) với các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam sau khi thực hiện Quyết định số 37/2002/QĐ-TTg ngày 17/3/2002 của Thủ tướng Chính phủ giao “Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành rà soát, đối chiếu các Hiệp định của WTO với các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam”:
- Phụ lục I: Danh mục tổng hợp Công văn về rà soát, đối chiếu của các Bộ, ngành;
- Phụ lục II: Danh mục tổng hợp Các văn bản đã rà soát, đối chiếu nhận thấy có liên quan đến nội dung các Hiệp định của WTO; Các văn bản đề nghị sửa đổi, bổ sung, huỷ bỏ hoặc ban hành mới và Chương trình hành động lập pháp;
- Phụ lục III: Tổng hợp kết quả rà soát, đối chiếu các quy định của WTO với pháp luật Việt Nam hiện hành.
Việt Nam và các tổ chức kinh tế quốc tế. Uỷ ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế. NXB Chính trị quốc gia 2000.
Tài liệu nghiên cứu: Hiệp định về Các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại và Hiệp định về các biện pháp tự vệ, thuế chống phá giá và thuế đối kháng. Bộ ngoại giao, 2000.
Tài liệu Chương trình toạ đàm: Bình luận kết quả rà soát bước đầu sự phù hợp giữa pháp luật Việt Nam và các quy định của WTO do Vụ pháp luật quốc tế và quan hệ quốc tế Bộ Tư pháp tổ chức tại Hà nội từ 3/3/2003 – 9/9/2003.
Những vấn đề lý luận và thực tiễn phát triển pháp luật về thương mại và hàng hải quốc gia và quốc tế trong điều kiện Việt Nam hội nhập khu vực và thế giớ. Ban chủ nhiệm đề tài: PGS.TS. Nguyễn Thị Mơ, PGS.TS. Hoàng Ngọc Thiết, TS. Mai Hồng Quỳ, LS. Võ Nhật Thăng.
Các tổ chức quốc tế và Việt Nam - Bộ ngoại giao - Vụ các tổ chức quốc tế.
Giáo trình Tư pháp quốc tế - TS. GVC. Nguyễn Bá Diến (chủ biên) - ĐHQG Hà Nội, Khoa Luật - NXB ĐHQG Hà Nội, 2001.
Hội thảo khoa học quốc tế: “Tổ chức Thương mại Thế giới và cải cách pháp luật ở Việt Nam” do Viện Nghiên cứu Nhà nước và pháp luật cùng Bộ Thương mại phối hợp với Trung tâm Trao đổi pháp luật Châu á của Trường Đại học Nagoya Nhật Bản tổ chức ngày 27-28/6/2003 tại Hà Nội.
Luật thương mại quốc tế - Phạm Minh - NXB Thống kê 2000.
Tài liệu hội thảo quốc tế “Việt Nam hướng tới gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO): Chiến lược đàm phán và tiến trình thực hiện” do Bộ Thương mại, Bộ Tài chính và Bộ Ngoại giao tổ chức tại Hà Nội ngày 5-6/8/2003, được tài trợ bởi New York Life International và Hội đồng Thương mại Việt - Mỹ.
Hiệp định thương mại giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với các nước - NXB Chính trị quốc gia, 2002.
Tổ chức Thương mại Thế giới - Cơ hội và thách thức với các doanh nghiệp - Bộ thương mại, 2000.
Giáo trình Luật thương mại Việt Nam - Trường Đại học Luật Hà Nội - NXB Công an nhân dân, 2001.
Báo cáo nghiên cứu Dự án VIE/01/004 “Những khác biệt giữa Luật Thương mại Việt Nam với Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ và các chế định của WTO” - Trưởng nhóm TS. Hoàng Phước Hiệp - Quyền Vụ trưởng Vụ Pháp luật quốc tế và Hợp tác quốc tế - Bộ Tư pháp trong Hội thảo UNDP/BTM về sửa đổi Luật Thương mại, Hà Nội, 3/11/2003.
Đánh giá sơ bộ về Luật Thương mại của Việt Nam - Thomas W.Huang Cộng sự Văn phòng Luật Burns & Levínon, Boston, MA, Hoa Kỳ - Hội thảo UNDP/BTM về sửa đổi Luật Thương mại, Hà Nội, 3/11/2003.
Liên minh châu Âu (EU) và sự gia nhập Tổ chức thương mại thế giới của Việt Nam, UNCTAD, Vụ Chính sách thương mại đa biên, Bộ Thương mại.
Báo cáo nghiên cứu Tổng quan về ngành nông nghiệp Việt Nam, Tác động của Hiệp định WTO về nông nghiệp, Bộ Thương mại, Dự án VIE 95/024/A/01/1999, Chương trình phát triển Liên hợp quốc, 1999.
Các vấn đề liên quan tới những biện pháp phi thuế quan trong chiến lược hội nhập kinh tế quốc tế, Bộ Thương mại, 1999.
Kỷ yếu hội nghị khoa học Nâng cao chất lượng đào tạo Đáp ứng yêu cầu Việt Nam hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới, Trường Đại học Ngoại thương, 2000.
Phác thảo phương hướng phát triển ngành thương mại trong thập kỷ tới (2001-2010), Tài liệu phục vụ Hội nghị thương mại toàn quốc tổ chức vào ngày 18-19/5/2000, Bộ Thương mại.
Báo cáo tổng thuật Toạ đàm về pháp luật của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) và các buổi làm việc giữa chuyên gia pháp luật quốc tế với nhóm công tác ASEAN-WTO của Bộ Tư pháp, Dự án VIE/98/001 tại Hà Nội ngày 2-7/5/1999.
Tổ chức thương mại thế giới WTO, Đào Huy Giám, Bộ Thương mại, 1999.
Chính sách ngoại thương: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, PGS.TS. Bùi Xuân Lưu, Tài liệu tham khảo nội bộ, Trường Đại học Ngoại thương, 1999.
Những nguyên tắc và quan điểm pháp luật để Việt Nam hội nhập với nền kinh tế thế giới trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và chính sách mở cửa kinh tế. Hoàng Phước Hiệp, Hội thảo về WTO và các nước đang phát triển, Bộ Ngoại giao và Tổ chức Oxfam tổ chức tại Hà Nội ngày 5/3/1999.
Mấy vấn đề tham gia WTO, Nguyễn Quang Thái, Hội thảo về WTO và các nước đang phát triển, Bộ Ngoại giao và Tổ chức Oxfam tổ chức tại Hà Nội ngày 5/3/1999.
Những vấn đề của các nước đang phát triển trên lĩnh vực thương mại và dịch vụ trong quá trình tham gia WTO - Trường hợp của Việt Nam, Lê Đăng Doanh, Hội thảo về WTO và các nước đang phát triển, Bộ Ngoại giao và Tổ chức Oxfam tổ chức tại Hà Nội ngày 5/3/1999.
Từ điển chính sách thương mại quốc tế, Walter Goode, Trung tâm nghiên cứu kinh tế quốc tế Đại học Adelaide, Australia, Bộ Thương mại xuất bản, Nhà xuất bản Thống kê, 1997.
Một số phân tích ban đầu về những cơ hội và thách thức của Việt Nam khi gia nhập WTO. Uỷ ban Quốc gia về Hợp tác kinh tế quốc tế, Hà Nội, tháng 11/2002
Hướng về tương lai. Báo cáo đánh giá chung về tình hình Việt Nam của Liên hợp quốc, Hà Nội, tháng 12/1999
II. Các văn bản pháp luật
Cơ sở dữ liệu luật Việt Nam. CD.ROM Phiên bản 3.0 - Bản quyền thuộc Trung tâm Thông tin, Thư viện và Nghiên cứu khoa học - Văn phòng Quốc hội, bao gồm tất cả các văn bản pháp luật của Việt Nam được ban hành từ năm 1945 - 2002.
Luật Thương mại Việt Nam. NXB Chính trị quốc gia 1997
Quyết định số 35/2003/QĐ-TTg ngày 6/3/2003 của Thủ tướng Chính phủ Về việc phân công cơ quan chủ trì, cơ quan phối hợp soạn thảo các dự án luật, pháp lệnh của Chính phủ nhiệm kỳ Quốc hội Khoá XI (2002-2007) và năm 2003.
Pháp lệnh trọng tài thương mại số 08/2003/PL-UBTVQH11 ngày 25/02/2003. Công báo ngày 20 tháng 4 năm 2003.
Luật Thuế giá trị gia tăng sửa đổi số 07/2003/QH11 ngày 17/6/2003, www.mof.gov.vn
Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt sửa đổi số 08/2003/QH11 ngày 17/6/2003, www.mof.gov.vn
Nghị định 60/2002/NĐ-CP xác định trị giá tính thuế đối với hàng hoá nhập khẩu.
Dự thảo Pháp lệnh về thuế chống bán phá giá đối với hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam (dự thảo lần 4), www.vnexpress.net
III. tài liệu tạp chí
WTO và cải cách pháp luật ở Việt Nam. Từ Ninh, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 7 (136) tháng 7/2003.
Điều chỉnh hệ thống luật pháp cho phù hợp với các nguyên tắc của WTO. Nguyễn Thị Hằng, Báo Thanh niên, ngày 28/3/2001.
Hàng rào phi thuế quan ở Việt Nam và những yêu cầu của Hiệp định thương mại Việt - Mỹ và của WTO. Th.S Bùi Thị Bích Liên (Giảng viên Khoa Pháp luật kinh tế - ĐH Luật Hà Nội), Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 12 tháng 12/2002
Tổ chức thương mại thế giới WTO – Con đường đi tới của Việt Nam. Th.S Bùi Thị Lý. Những vấn đề kinh tế ngoại thương số 1 năm 1999
Đánh giá một thập niên hội nhập kinh tế thế giới của Việt Nam thông qua thương mại quốc tế. Th.S Nguyễn Hữu Lộc. Tạp chí Kinh tế phát triển, số 123 tháng 1/2001
Hội thảo quốc tế “Về pháp luật trong bối cảnh toàn cầu hoá”. Th.S Lê Văn Hợp, Tạp chí Luật học số 3/2003.
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chuyển hoá điều ước quốc tế vào pháp luật quốc gia. Ngô Đức Mạnh, TS. Luật học Văn phòng Quốc hội, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 4(180) tháng 4/2003.
Cơ sở lý luận của hoạt động chuyển hoá điều ước quốc tế. Lê Mai Anh, TS. Luật học, Trưởng Bộ môn Luật quốc tế ĐH Luật Hà Nội, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 3 (179) tháng 3/2003.
Việt Nam trên đường hội nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). T.S Nguyễn Phú Tụ. Tạp chí Kinh tế Phát triển, số 123, tháng 01/2001
IV. tài liệu Tiếng Anh
Final Act embodying the Results of the Uruguay Round of Multilateral Trade Negotiatons. The Uruguay Round - Trade Negotiations Committee
The General Agreement on Tariffs and Trade (GATT 1947)
Topic Three: GATT 1994 & WTO. Dale Carnegie Training
“The Uruguay Round and the Developing Economies” – Will Martin and L. Alan Winter. WB Discussion Papers.
Mục lục