Sản phẩm của công việc kiểm toán mang tính chất xã hội cao. Điều này đã được pháp luật Việt Nam thừa nhận. Quy chế về Kiểm toán độc lập trong nền kinh tế quốc dân ban hành theo Nghị định số 07/CP ngày 29-01-1994 của Thủ tướng Chính phủ quy định: “sau khi có xác nhận của kiểm toán viên chuyên nghiệp thì các tài liệu, số liệu kế toán và báo cáo quyết toán của các đơn vị kế toán là căn cứ cho việc điều hành, quản lý hoạt động ở các đơn vị, cho các cơ quan quản lý cấp trên và cơ quan tài chính Nhà nước duyệt quyết toán hàng năm của các đơn vị kế toán, cho các cơ quan thuế tính toán số thuế và các khoản phải nộp khác của đơn vị đối với ngân sách Nhà nước, cho các cổ đông, các nhà đầu tư, các bên tham gia liên doanh, các khách hàng và các tổ chức, cá nhân xử lý mối quan hệ về quyền lợi và nghĩa vụ của các bên liên quan trong quá trình hoạt động của đơn vị”. Như vậy, mặc dù công việc kiểm toán là cung cấp dịch vụ cho một khách hàng nhưng lại tác động đến lợi ích của rất nhiều đối tượng khác nhau trong nền kinh tế.
Được thành lập theo Quyết định số 164/QĐ-TCCB ngày 13-5-1991 của Bộ Tài chính, trải qua hơn 10 năm hoạt động, VACO với chủ trương là cung cấp các dịch vụ với chất lượng vượt trên sự mong đợi của khách hàng và nhân viên của Công ty đã đáp ứng tất cả các yêu cầu của khách hàng, chất lượng dịch vụ ngày càng được nâng cao và Công ty không ngừng lớn mạnh. Sự lớn mạnh này thể hiện ở chỗ: khách hàng của Công ty ngày càng nhiều, doanh thu và lợi nhuận ngày càng tăng, trở thành một trong những công ty kiểm toán lớn nhất Việt Nam.
81 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1568 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoàn thiện quy trình đánh giá trọng yếu và rủi ro trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán BCTC tại Công ty Kiểm toán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u đã trừ các khoản được giảm trừ.
Hàng tồn kho: hàng tồn kho bao gồm các vật tư, thiết bị phục vụ cho khâu sản xuất, phân phối điện, các công trình xây dựng cơ bản và chi phí sản xuất kinh doanh dở dang. Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang bao gồm các chi phí cho các hoạt động, dịch vụ cung cấp cho khách hàng nhưng đến thời điểm 31/12/2001 chưa hoàn thành. Hàng tồn kho được ghi nhận theo phương pháp kê khai thường xuyên.
Chuyển đổi ngoại tệ: trong năm các nghiệp vụ kinh tế phát sinh bằng ngoại tệ được chuyển đổi sang VNĐ theo tỷ giá bình quân liên ngân hàng tại ngày phát sinh nghiệp vụ. Chênh lệch tỷ giá phát sinh được hạch toán vào thu nhập hoặc chi phí hoạt động tài chính.
Cuối niên độ kế toán các tài sản dưới dạng tiền và công nợ bằng ngoại tệ được đánh giá lại theo tỷ giá bình quân liên ngân hàng tại ngày lập Bảng Cân đối kế toán. Lãi (lỗ) chênh lệch tỷ giá phát sinh trong trường hợp này được xử lý theo quy định của Thông tư 44 TC/TCDN ngày 8/7/1997 và Thông tư 101/2000/TT-BTC ngày 17/10/2000 của Bộ Tài chính.
Nguồn vốn–quỹ: nguồn vốn kinh doanh của Công ty bao gồm: nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước và nguồn vốn tự bổ sung từ lợi tức kinh doanh để lại. Các quỹ được phân phối và sử dụng tuân theo các quy định áp dụng đối với doanh nghiệp Nhà nước. Thông thường các quỹ được phân phối sau khi Báo cáo tài chính đã được duyệt. Cụ thể như sau:
-Quỹ phát triển kinh doanh: ít nhất là 50% lợi nhuận để lại. Quỹ này được sử dụng trong việc đầu tư xây dựng, mua sắm máy móc, thiết bị để tăng cường năng lực sản xuất kinh doanh.
-Quỹ dự phòng tài chính: được trích lập bằng 10% lợi nhuận để lại. Quỹ này được lập nhằm hỗ trợ một phần, bù đắp các thiệt hại cho sản xuất kinh doanh trong trường hợp thiên tai, chiến tranh xảy ra.
-Quỹ dự phòng trợ cấp mất việc làm: trích 5%, không quá 6 tháng lương thực tế, dùng để trợ cấp cho các nhân viên vì lý do khó khăn không bố trí được việc làm phải cho nghỉ việc.
-Quỹ phúc lợi, khen thưởng được trích lập không quá 3 tháng lương hai quỹ. Quỹ này được sử dụng để chi cho cán bộ công nhân viên nhân các ngày lễ tết, hoặc khuyến khích các đơn vị, cá nhân có thành tích trong công tác.
Thuế: thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp áp dụng cho các hoạt động sản xuất kinh doanh khác là 32% và 25%. Thuế GTGT đầu ra là 10% và 5%. Thuế GTGT đầu vào bao gồm thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ mua vào. Các khoản thuế và lệ phí khác phải nộp theo các quy định hiện hành.
Công ty ABC hiện đang áp dụng phần mềm kế toán do Trung tâm máy tính của Công ty X xây dựng. Phần mềm này được thiết kế và đưa vào sử dụng từ năm 1993 và không ngừng được sửa đổi, hoàn thiện cho phù hợp với môi trường pháp lý và đặc thù kinh doanh ngành điện. Do vậy, độ tin cậy của việc xử lý thông tin tài chính trong chu trình kế toán được đánh giá là cao.
Bộ máy kế toán: Phòng Kế toán của Công ty ABC gồm 8 nhân viên, trong đó có 4 nhân viên mới làm việc được 3 năm, chưa có nhiều kinh nghiệm. Hơn nữa, Kế toán trưởng lại là cán bộ Phòng Tổ chức chuyển sang. Do đó, kiểm toán viên phải quan tâm đến khả năng xảy ra sai sót vô ý do năng lực của nhân viên và vì vậy, mức rủi ro kiểm soát được đánh giá là cao.
(4)Các thủ tục phân tích sơ bộ.
Theo hướng dẫn của phần mềm AS/2: kiểm toán viên cần thực hiện các thủ tục phân tích sơ bộ trong lập kế hoạch kiểm toán để đạt được sự hiểu biết tổng quát về nội dung của Báo có tài chính và những thay đổi chủ yếu về hoạt động kinh doanh của cũng như hệ thống kế toán so với năm trước. Những thủ tục này sẽ giúp kiểm toán viên quen thuộc với khả năng sinh lời và khả năng thanh toán của khách hàng và giúp kiểm toán viên xác định PM. Các thủ tục được áp dụng bao gồm việc xem xét và đánh giá mối liên hệ tương tác giữa các thành tố của các thông tin tài chính và phi tài chính, việc so sánh những mối liên hệ này và số dư tài khoản với ước tính của chính kiểm toán viên, việc tìm hiểu nguyên nhân của những dao động bất thường (hoặc thiếu những dao động mà kiểm toán viên dự đoán) được xác định trong quá trình trên.
Những mục tiêu quan trọng nhất của thủ tục này là:
-Tìm hiểu về hoạt động kinh doanh của khách hàng.
-Xác định những sai sót có thể trên BCTC.
-Giảm các khảo sát chi tiết số dư.
Để thực hiện bước này, kiểm toán viên phải hoàn thành Mẫu 1610, Thực hiện các thủ tục phân tích sơ bộ. Tuy nhiên, trong thực tế kiểm toán khách hàng ABC, kiểm toán viên chỉ tiến hành một số thủ tục đơn giản như:
-So sánh một số khoản mục có phát sinh và số dư lớn của năm nay với các năm trước như tổng doanh thu bán điện, chi phí bán hàng-chi phí dụng cụ, đồ dùng, chi phí quản lý-chi phí quản lý khác, công nợ của một số khách hàng lớn, …
-So sánh mức biến động tương đối giữa tổng sản lượng điện thương phẩm với hao hụt điện năng, với tiêu thụ dầu DO,…
Nhìn chung, việc thực hiện các thủ tục này chỉ được kiểm toán viên thực hiện ngầm để xác định mức độ kiểm tra chi tiết mà không thể hiện trên giấy tờ làm việc của kiểm toán viên.
(5)Đánh giá rủi ro tài khoản.
Từ các kết quả đã đạt được ở trên, kiểm toán viên phải đánh giá rủi ro đối với mỗi tài khoản cụ thể. Chuẩn mực kiểm toán SAS 47 quy định: “kiểm toán viên cần xem xét rủi ro kiểm toán ở mức mỗi số dư tài khoản hoặc loại nghiệp vụ bởi vì những công việc đó có ảnh hưởng trực tiếp trong việc quyết định phạm vi của các thủ tục kiểm toán cho mỗi số dư hoặc nghiệp vụ và CSDL có liên quan”.
Việc xác định rủi ro tài khoản là một phần nội tại của phương pháp kiểm toán và được tiến hành theo các bước:
b1)Xem xét các rủi ro đặc thù được xác định trong khi tiến hành các bước của giai đoạn lập kế hoạch.
*Ước lượng mức trọng yếu sơ bộ: kiểm toán viên phải xem xét việc đánh giá mức trọng yếu sơ bộ khi xác định các số dư tài khoản trọng yếu và xác định phương pháp kiểm toán đối với các rủi ro đã được phát hiện. Một nhân tố chỉ ra một mức rủi ro cao trong một số dư tài khoản thường không cần phải xem xét kỹ nếu sai sót đó không ảnh hưởng trọng yếu đến BCTC. Tuy nhiên, ngoài việc xem xét về mặt định lượng, sai sót có thể trọng yếu nếu xét về mặt định tính, chẳng hạn sự vi phạm tính chất pháp lý của hợp đồng kinh tế: hợp đồng kinh tế được ký kết giữa hai cá nhân của cùng Công ty.
*Đánh giá rủi ro kiểm toán: trong quá trình đánh giá rủi ro kiểm toán, kiểm toán viên phải chú ý đến các yếu tố làm tăng rủi ro kiểm toán có thể ảnh hưởng đến sai sót trên một (hoặc một số) số dư tài khoản, chẳng hạn nếu Ban quản trị chịu sức ép để báo cáo một số kết quả kinh doanh khác với thực tế thì rủi ro đặc thù có thể được xác định đối với số dư tài khoản có chứa các nghiệp vụ ghi sổ các ước tính kế toán và bút toán điều chỉnh cuối kỳ bởi vì những nghiệp vụ này có thể phản ánh sự thiên lệch của Ban quản trị. Mặt khác, nếu khách hàng rất dễ bị tác động bởi các điều kiện trong môi trường kinh doanh, kiểm toán viên có thể xác định các số dư tài khoản đặc thù và các sai sót tiềm tàng sẽ bị ảnh hưởng, chẳng hạn: nếu có những sự thay đổi công nghệ làm cho nhu cầu về sản phẩn của khách hàng giảm xuống, kiểm toán viên có thể xác định một rủi ro đặc thù liên quan đến hàng tồn kho. Rủi ro này có thể được xác định là sai sót về định giá nhưng cũng có thể được liên kết với sai sót tiềm tàng khác.
Với Công ty ABC, qua kiểm tra sơ bộ, kiểm toán viên đã tìm ra khá nhiều sai sót đối với khoản mục hàng tồn kho, TSCĐ và sửa chữa lớn TSCĐ. Do tính trọng yếu của các tài khoản đó (xét trên quy mô tuyệt đối), kiểm toán viên đã tập trung vào các thủ tục kiểm tra chi tiết các tài khoản này.
*Thực hiện các bước khác trong giai đoạn lập kế hoạch: kiểm toán viên có thể xác định rủi ro đặc thù khi tiến hành các thủ tục lập kế hoạch kiểm toán chẳng hạn như thu thập sự hiểu biết về ngành nghề kinh doanh, môi trường kiểm soát, quá trình kế toán và các thủ tục phân tích sơ bộ. Chẳng hạn, sự thay đổi phần mềm kế toán tài sản cố định liên quan đến việc tính toán khấu hao nhưng không được kiểm tra trước khi đưa vào sử dụng sẽ dẫn đến sự sửa đổi số liệu, việc bàn giao lưới điện trung áp nông thôn của Ban quản lý lưới điện nông thôn về cho Công ty nhưng chưa có sự hướng dẫn cụ thể của Công ty X hay sự không thống nhất trong việc hạch toán các nghiệp vụ liên quan đến máy biến áp và trạm biến áp,…
b2)Đánh giá rủi ro tài khoản: đối với mỗi số dư tài khoản trọng yếu, kiểm toán viên cần phải xem xét các nhân tố tồn tại mà có thể làm tăng rủi ro. Thông qua các thủ tục kiểm toán đã được tiến hành, kiểm toán viên có thể phát hiện các yếu tố làm tăng rủi ro và sử dụng những nhân tố này để xác định rủi ro số dư tài khoản. Các rủi ro đặc thù ở mức số dư tài khoản có thể được xác định thông qua việc xem xét xem mỗi số dư tài khoản này:
*Có bao gồm các bút toán không được hạch toán một cách hệ thống:
Các công trình nghiên cứu và kinh nghiệm đã chỉ ra rằng các nghiệp vụ được xử lý theo hệ thống bởi một phần mềm kế toán đáng tin cậy thường có ít rủi ro hơn các nghiệp vụ khác. Đối với sai sót tiềm tàng liên quan đến các nghiệp vụ được xử lý theo hệ thống, kiểm toán viên thường không xác định rủi ro đặc thù trừ khi có sai sót trong quá khứ hoặc kiểm toán viên có lý do khác để tin rằng phần mềm kế toán đang áp dụng là không đáng tin cậy.
Các nghiệp vụ không xảy ra trong chu kỳ kinh doanh bình thường của Công ty thường có ít nhưng số tiền tương đối lớn và thường có ảnh hưởng trọng yếu lên BCTC. Chúng thường có xu hướng dễ bị sai sót bởi vì chúng không được xử lý theo cách thông thường bởi một người không quen với bản chất của chúng. Chẳng hạn như các khoản dự phòng cho khoản vay nợ, dự phòng giảm giá hàng tồn kho của Công ty có giá trị khá lớn nhưng được quyết định do chủ quan, không phải bởi một phần mềm kế toán tin cậy nên kiểm toán viên phải kiểm tra chi tiết các nghiệp vụ này vì chúng có ảnh hưởng trọng yếu đến Báo cáo Kết quả kinh doanh.
Kiểm toán viên cũng xem xét các nghiệp vụ điều chỉnh quan trọng mặc dù chúng được đưa ra với mục đích sửa chữa sai sót và đã được thẩm tra qua hoạt động của KSNB Công ty X bởi vì chúng có thể:
-Phụ thuộc vào chính các sai sót.
-Được hạch toán để báo cáo sai kết quả hoạt động kinh doanh hay tình hình tài chính của doanh nghiệp.
-Được hạch toán để che giấu gian lận và sai sót.
Nếu các bút toán điều chỉnh được đưa ra nhằm mục đích sửa chữa sai sót, kiểm toán viên cần xem xét xem hệ thống kế toán có tin cậy hay không, chẳng hạn bút toán điều chỉnh kiểm kê hàng tồn kho có thể chỉ ra rủi ro liên quan đến ghi sổ hàng tồn kho của Công ty hay việc điều chỉnh khoản mục giá vốn công trình xây dựng cơ bản có thể là do sai sót trong việc ghi sổ các chi phí liên quan như tính lương nhân công thuê ngoài, tính giá nguyên vật liệu,…
*Có các nghiệp vụ bất thường hoặc quá phức tạp: có những nghiệp vụ có đặc điểm riêng biệt đại diện cho rủi ro đặc thù. Những nghiệp vụ này bao gồm:
-Các nghiệp vụ phức tạp mà kiểm toán viên tin rằng có khả năng sai sót cao, chẳng hạn các nghiệp vụ tự bảo hiểm liên quan đến các hợp đồng tương lai, hợp đồng quyền chọn có thể làm tăng rủi ro trong việc định giá các khoản nợ dài hạn.
-Các nghiệp vụ phụ thuộc vào mức độ liên quan của Ban quản trị hoặc có liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến lợi nhuận của Ban quản trị.
-Các nghiệp vụ bất thường đối với hoạt động kinh doanh của khách hàng, chẳng hạn các khoản doanh thu và chi phí phát sinh do cho quân đội thuê hai trạm biến áp, …
-Các nghiệp vụ bất thường về quy mô hay bản chất với các bên liên quan như việc mua lại các TSCĐ thanh lý của Điện lực Thừa Thiên-Huế,…
-Các nghiệp vụ có thể làm tăng khả năng về các khoản mục thanh toán bất hợp pháp.
*Có sai sót trong quá khứ: BCTC của khách hàng có thể chứa đựng những số dư tài khoản đã từng bị sai sót trong quá khứ. Mặc dù đây là một dấu hiệu quan trọng để dự đoán số dư tài khoản có khả năng sai sót nhưng kiểm toán viên không được giả định rằng nếu một tài khoản không có sai sót trong quá khứ bản thân nó không phải là một cơ sở tin cậy để kết luận không có rủi ro đặc thù nào liên quan đến số dư tài khoản đó.
*Chứa các ước tính kế toán và bút toán điều chỉnh cuối kỳ:
Thông thường, có rủi ro đặc thù liên quan đến các ước tính kế toán. Các bằng chứng sẵn có để minh chứng cho một ước tính kế toán thường không có tính khách quan mà phụ thuộc vào chủ quan. Do vậy, chúng có khả năng bị rủi ro trong việc ghi sổ. Chẳng hạn, các ước tính kế toán phức tạp đối với chi phí cho một hợp đồng xây dựng kéo dài mới hoàn thành có thể làm tăng rủi ro của việc định giá giá vốn hay TSCĐ, điều chỉnh chi phí một số công trình xoá bán tổng, …
Các bút toán điều chỉnh cuối kỳ đối với các khoản tích luỹ hoặc các nghiệp vụ xảy ra vào gần thời điểm kết thúc năm tài chính có thể dựa trên các ước tính. Thậm chí, nếu các nghiệp vụ không dựa trên các ước tính thì kiểm toán viên vẫn có thể xác định các rủi ro đặc thù bởi vì chúng ít xảy ra và thường rất nhạy cảm với sự sửa đổi thông tin của khách hàng.
Ngoài việc xác định các rủi ro đặc thù liên quan đến ước tính kế toán và các bút toán điều chỉnh cuối kỳ, kiểm toán viên cũng cần phải xem xét tính đầy đủ của các bút toán trên. Trong một số trường hợp, tuỳ thuộc vào bản chất của nghiệp vụ và phần mềm kế toán áp dụng, các nghiệp vụ tích luỹ và nghiệp vụ xảy ra vào gần thời điểm kết thúc năm tài chính có thể được xử lý theo hệ thống bởi một phần mềm kế toán đáng tin cậy. Chẳng hạn, nếu một phần mềm kế toán áp dụng cho bán hàng được thiết kế để bảo đảm rằng tất cả doanh thu và chi phí được ghi sổ vào ngày chuyển giao hàng và những điều kiện giao nhận hàng như chuyển giao quyền sở hữu hàng hoá cho khách hàng khi giao hàng,…kiểm toán viên có thể cho rằng hệ thống là đáng tin cậy và có lẽ không có rủi ro đặc thù liên quan tới tính đúng kỳ của nghiệp vụ bán hàng.
Thông thường, hàng năm, Công ty X đều có thực hiện hoạt động KSNB đối với các đơn vị trực thuộc. Cụ thể là có một nhóm cán bộ thực hiện công tác giám sát, kiểm tra bộ máy kế toán và Phòng Kinh doanh. Năm 2001, Công ty ABC đã được đoàn của Công ty X làm việc trong khoảng thời gian là 11 tháng đầu năm và quyết toán tài chính cuối năm. Như vậy, công việc của kiểm toán viên sẽ phải xem xét hiệu quả công việc của nhóm kiểm soát và thực hiện thêm các khảo sát về hệ thống KSNB của Công ty trong khoảng thời gian cuối năm và như thế, công việc của kiểm toán viên đã giảm bớt đáng kể.
*Thiếu sự đối chiếu và soát xét thích hợp: thực tế cho thấy BCTC có thể bị sai sót trọng yếu nếu không có sự đối chiếu định kỳ giữa sổ tổng hợp và các chứng từ chứng minh. Quá trình này bao gồm việc đối chiếu định kỳ từng tài sản với sổ sách kế toán liên quan đến tài sản đó. Nội dung và phạm vi của công việc này cho phép kiểm toán viên quyết định xem chúng có ảnh hưởng lên các số dư tài khoản liên quan hay không.
Qua phỏng vấn, kiểm toán viên đã xác định được rằng việc đối chiếu và xác nhận công nợ nội bộ cũng như với một số khách hàng lớn của Công ty không được thực hiện vào thời điểm cuối năm, do vậy, kiểm toán viên cần phải áp dụng các thủ tục cần thiết như gửi thư xác nhận, đối chiếu sổ sách,… để kiểm tra mẫu các khoản công nợ phải thu, phải trả.
*Đại diện cho rủi ro đặc thù của ngành: nếu hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng rất dễ bị tác động bởi các điều kiện của môi trường bên ngoài thì kiểm toán viên phải xác định rủi ro của những tài khoản có thể bị ảnh hưởng. Chẳng hạn, do đặc thù của ngành điện là cung cấp sản phẩm, dịch vụ trước và thu tiền sau nên có thể xảy ra khả năng khách hàng ghi tăng số nợ khó đòi trong khi đã thu tiền để che giấu cho khoản gian lận.
*Đại diện cho rủi ro đặc thù do giá trị và tính thanh khoản: một số tài sản và khoản nợ có thể chứa đựng rủi ro do giá trị và tính thanh khoản của chúng, chẳng hạn, nếu một số tiền lớn bị biển thủ và hệ thống KSNB không phát hiện ra kịp thời thì kiểm toán viên có thể xác định đây là một rủi ro đặc thù.
*Gian lận, sai sót và các hoạt động bất hợp pháp: trong quá trình đánh giá rủi ro ở mức số dư tài khoản, kiểm toán viên phải xem xét và đánh giá rủi ro mà gian lận hay sai sót có thể tạo ra một sai sót trọng yếu trong số dư tài khoản. Kiểm toán viên phải dựa vào sự hiểu biết của mình, hiểu biết về môi trường kinh doanh của khách hàng và các thông tin thu thập được trong quá trình vạch kế hoạch để xem có điều kiện hay sự kiện nào có thể làm tăng rủi ro của gian lận và sai sót hay không, chẳng hạn:
-Nghi ngờ về tính liêm chính của Ban Giám đốc.
-Sức ép bên trong hay bên ngoài đơn vị phải báo cáo kết quả hoạt động khác thực tế.
-Các nghiệp vụ bất thường.
Kết thúc bước đánh giá này, kiểm toán viên phải xác định được rủi ro đặc thù đối với từng tài khoản riêng biệt và nó được thể hiện trên các Mẫu theo quy định trong chỉ mục kiểm toán 1830.
Trọng yếu và rủi ro là hai khái niệm tương đối trừu tượng, cho dù hướng dẫn thực hiện có cụ thể đến đâu thì việc vận dụng nó vẫn đòi hỏi sự linh hoạt và khả năng phán xét đúng đắn của kiểm toán viên. Ngay khi nếu chỉ xem xét ảnh hưởng của các yếu tố chất lượng đến việc đánh giá sơ bộ ban đầu về tính trọng yếu, ta đã thấy sự phức tạp và đa dạng của các chiều hướng ảnh hưởng. Những sai sót có thể là trọng yếu với người sử dụng này nhưng lại không trọng yếu với người sử dụng khác, những sai số có thể là nhỏ nhưng lại là trọng yếu nếu nó làm thay đổi bản chất của vấn đề,…Vì vậy, có thể thấy rằng, hiểu rõ bản chất khái niệm trọng yếu và rủi ro đã là một vấn đề phức tạp, hơn nữa lại là vận dụng trong thực tế cuộc kiểm toán.
Qua nghiên cứu và trình bày thực tế vận dụng đánh giá trọng yếu và rủi ro tại khách hàng là Công ty ABC cho thấy rõ tác dụng tầm quan trọng của công tác này trong quá trình kiểm toán. Thông qua việc đánh giá trọng yếu và rủi ro, kiểm toán viên lựa chọn những nội dụng kiểm toán chủ yếu, xác định khối lượng công việc và thủ tục thích hợp dựa trên kế hoạch thu thập bằng chứng kiểm toán. Hiệu quả quan trọng nhất mà kiểm toán viên đạt được là đánh giá trọng tâm các vấn đề mà khách hàng quan tâm và mong đợi ở chất lượng của dịch vụ Công ty cung cấp. Qua đó tôi có so sánh giữa lý luận và thực tế, từ đó rút ra một số nhận xét về sự khác biệt này.
Bảng dưới đây mô tả kết quả mà kiểm toán viên đã đạt được trong việc đánh giá rủi ro
các rủi ro và sai sót phổ biến trên Báo cáo tài chính của Tổng Công ty A
và các đơn vị thành viên
Cập nhật đến năm tài chính 2001
I. Các rủi ro và sai sót đặc thù của các đơn vị thành viên.
Các sai sót đã phát hiện
Các thủ tục kiểm toán thích hợp
Tiền và các khoản tương đương tiền
Khoản mục tiền trên BCTC không phản ánh đầy đủ tiền còn tại chi nhánh điện đã thu của khách hàng nhưng chưa nộp về đơn vị. Do đó TK phải thu khách hàng bị báo cáo tăng và tiền bị báo cáo giảm.
- Đối chiếu sổ sách và biên bản kiểm quỹ, sổ phụ ngân hàng của các chi nhánh điện với số liệu ghi nhận trên BCTC của đơn vị.
Một số đơn vị theo dõi các chi nhánh thông qua tài khoản phải thu khác 138: các khoản tiền, phải thu khách hàng, tạm ứng tại chi nhánh không được tổng hợp vào các chỉ tiêu tương ứng trên báo cáo của đơn vị. Do đó tài khoản 138 bị báo cáo sai.
Một số đơn vị để số dư tiền gửi và tiền mặt quá lớn tại các chi nhánh.
Xem xét các tài khoản kế toán và chứng từ kế toán liên quan.
Xem xét các chính sách/ quy định về thu nộp tiền điện của đơn vị, so sánh với sổ sách.
Hạch toán chi phí chờ phân bổ
Cách thức phân bổ chi phí công cụ dụng cụ ở một số đơn vị không nhất quán (có thể phân bổ hoặc hạch toán thẳng vào chi phí)
Doanh thu điện, phải thu khách hàng điện và phải thu khác
Doanh thu điện không được ghi nhận đầy đủ cho năm tài chính (nguyên tắc tròn năm): thiếu một số phiên, kỳ ghi tiền điện.
Doanh thu chưa được ghi nhận kịp thời do việc thiếu đối chiếu, kiểm tra giữa Phòng Kinh doanh và Phòng Kế toán (hóa đơn tiền điện, số dư phải thu, các khoản phải thu khó đòi..). Chưa có phần mềm để quản lý doanh thu điện, và công nợ khách hàng cũng như chưa thiết lập được liên kết số liệu trên máy tính giữa kinh doanh và kế toán.
Phỏng vấn Phòng Kinh doanh và Phòng Kế toán.
Sử dụng các thủ tục phân tích cơ bản để đánh giá
Lập kế hoạch kiểm tra chu kỳ bán hàng và thu tiền.
Đánh giá tính hiệu lực và hiệu quả của các thủ tục kiểm soát đối với doanh thu và phải thu khách hàng.
Phỏng vấn Phòng Kinh doanh và Phòng Kế toán.
- Sử dụng các thủ tục phân tích cơ bản để đánh giá.
Một số đơn vị có các khoản phải thu tiền điện khó đòi hoặc không đòi được rất lớn, tồn đọng từ nhiều năm nhưng vẫn chưa được xử lý hoặc trích lập dự phòng theo qui định. Năm 1999, Tổng Công ty đã phê chuẩn xử lý một phần.
Việc qui định mức dư nợ tiền điện cho mỗi thu ngân viên chưa được Công ty phê chuẩn.
Các khoản phải thu khó đòi cả trong và ngoài ngành điện từ nhiều năm là rất lớn nhưng vẫn không thực hiện việc ghi giảm cho các khoản không có khả năng thu hồi hoặc lập dự phòng theo chế độ.
- Kiểm tra chi tiết tại cả đơn vị và sổ theo dõi chi tiết tại các chi nhánh (chi tiết sổ theo dõi công nợ).
Một số khoản phải thu (từ hoạt động khác) phản ánh cả hai bên của Bảng Cân đối kế toán do chậm trễ trong khâu hồ sơ chứng từ để thanh quyết toán/ do bàn giao giữa các đơn vị hoặc người phụ trách.
Một số các khoản phải thu khác liên quan đến của khoản thu chi/ cấp và thanh toán vốn xây dựng cơ bản (XDCB) không được đối chiếu và loại bỏ các công nợ trùng lặp.
Doanh thu và giá vốn các hoạt động xây lắp (sản xuất phụ) chưa được ghi nhận kịp thời.
Các khoản phải thu khác trên tài khoản 138 và 338 tồn đọng số dư nhiều năm nhưng không được xử lý
- Đối chiếu danh mục khoản phải thu khác với phải trả khác. Những nội dung giống nhau trên Bảng Cân đối kế toán cần được xem xét để bù trừ nếu có thể.
- Đối chiếu danh mục khoản phải thu khác với phải trả khác. Những nội dung giống nhau trên Bảng Cân đối kế toán cần được xem xét để bù trừ (offset) nếu có thể.
Hàng tồn kho
Một số đơn vị đã quyết toán công trình sửa chữa lớn (SCL) trong khi thực tế các công trình này vẫn còn đang dở dang.
Quan sát.
Tài liệu chứng minh.
Phương pháp tính giá không nhất quán giữa các đơn vị trong cùng một Công ty.
So sánh phương pháp được sử dụng giữa các đơn vị thành viên.
Có rất nhiều vật tư của Liên Xô viện trợ trước đây hoặc vật tư nhận bàn giao từ các BQL công trình không sử dụng được nhưng chưa đưa ra được các giải pháp để xử lý tránh ứ đọng vốn cũng như lập dự phòng theo quy định.
Phỏng vấn, quan sát
Kiểm tra chi tiết
Phương pháp tính giá không nhất giữa các loại hàng hóa, vật tư trong cùng một Công ty (Hiện TCT nhất trí áp dụng phương pháp bình quân cho các vật tư phục vụ kinh doanh bán điện thông thường, phương pháp trực tiếp cho vật tư sử dụng cho sửa chữa lớn và đầu tư xây dựng)
Kiểm tra chi tiết phương pháp tính giá hàng tồn kho.
Tình hình quản lý hàng tồn kho hiện tại khó đáp ứng được yêu cầu quản lý cũng như giữ hàng tồn kho ở mức hợp lý. Phòng Vật tư không theo dõi được vật tư sử dụng cho từng công trình nên cũng gây ra sự chậm trễ cho khâu thanh quyết toán công trình xây dựng cơ bản.
Xem xét (Review) lại phần mềm kế toán hàng tồn kho đang sử dụng
Đánh giá tính phù hợp của nớ với yêu cầu quản lý
Kiểm tra các nghiệp vụ xuyên suốt đối với chương trình.
Hàng tồn kho đã được nghiệm thu giữa nhà cung cấp và đơn vị hiện đang trên đường về tuy nhiên không được ghi nhận là hàng đang đi đường dẫn đến phản ánh sai lệch giá trị hàng tồn kho tại thời điểm cuối năm.
Hàng tồn kho hư hỏng, ứ đọng không được lập dự phòng
Các khoản vật tư thiết bị thuộc vốn vay của ADB và XDCB chuyển sang không được hạch toán kịp thời do thủ tục nhập chậm trễ.
Hàng đang đi đường phản ánh cả giá trị máy móc thiết bị (vốn phải được phản ánh vào chi phí XDCB dở dang)
Tài sản cố định
Thủ tục bàn giao TSCĐ giữa các đơn vị thành viên trong cùng Công ty còn chậm trễ dẫn đến có đơn vị ghi có đơn vị không ghi. Có trường hợp sử dụng tài sản rồi nhưng kế toán vẫn chưa ghi sổ tài sản cố định
Một số đơn vị chưa lập quyết định và biên bản bàn giao cho các bộ phận sử dụng trong nội bộ đơn vị.
Một số đơn vị không mở sổ sách theo dõi TSCĐ theo đối tượng sử dụng.
Các tài sản cố định do địa phương bàn giao cũng không được ghi nhận (mặc dù trị giá của các tài sản này rất lớn như: máy phát điện nhỏ, trạm biến áp và đường dây trung hạ thế nhưng vẫn tiến hành sửa chữa lớn các tài sản này.
- Đối chiếu số liệu khi tổng hợp số liệu toàn Công ty
Đối chiếu danh mục sửa chữa lớn với danh mục TSCĐ của đơn vị.
- Phỏng vấn khách hàng (Ban Giám đốc hoặc Kế toán trưởng/ Trưởng phòng kỹ thuật)
Năm 2000, TCT đã có chủ trương tiếp tục tiếp nhận lưới điện bàn giao từ nguồn ngân sách địa phương, dân tự xây dựng. KTV cần cập nhật thông tin đầy đủ về các hướng dẫn thực hiện của Bộ Tài chính và TCT về vấn đề này.
- Thu thập kế hoạch triển khai tại các Công ty. So sánh với thực tế triển khai tại các đơn vị.
Sửa chữa lớn TSCĐ và chi phí sửa chữa lớn
Các đơn vị có tiếp nhận một số lưới điện cũ nát của địa phương theo kế hoạch cải tạo lưới điện nông thôn hoặc xóa bán tổng của ngành điện, sau đó phá đi để xây mới hoặc mở rộng nhưng đều hạch toán vào sửa chữa lớn TSCĐ thay vì hạch toán tăng TSCĐ.
Nhiều công trình thực tế đang dở dang nhưng đã quyết toán xong (để đảm bảo kế hoạch với Công ty, hoặc giữ chỉ tiêu cấp vốn cho năm sau)
Chọn mẫu một số công trình cải tạo lưới điện trên biểu 10A, 10B, 10C sau đó đối chiếu các công trình này với sổ đăng ký TSCĐ/ sổ chi tiết TSCĐ (Chỉ có thể sửa chữa những tài sản đã có quyết định tăng tài sản).
Kiểm tra thực tế
Chi phí sửa chữa lớn thực hiện trong năm cao hơn so với kế hoạch được Tổng Công ty phê duyệt
Một số công trình sửa chữa lớn chuyển từ năm trước sang nhưng không đăng ký lại kế hoạch
- Kiểm tra kế hoạch sửa chữa lớn đối chiếu với báo cáo thực hiện đầu tư.
Một số sửa chữa mang tính chất nâng cấp hoặc phá đi làm lại phải ghi tăng TSCĐ lại được ghi vào chi phí sửa chữa lớn trong kỳ.
Soát xét các báo cáo về SCL
Kiểm tra chi tiết hồ sơ XDCB.
Giá trị vật tư, thiết bị đưa vào chi phí XDCB theo giá dự toán mà không ghi theo giá thực tế
Quản lý công nợ
Lương và thanh toán lương
Tiền lương của công trình sửa chữa thường xuyên theo quy định phải lấy từ lương SX điện nhưng lại tính vào chi phí sản xuất phân phối điện như lương thí nghiệm công tơ, sửa chữa vận hành lưới (có thể hạch toán vào giá trị công trình rồi vào chi phí, có thể hạch toán trả trực tiếp vào chi phí...).
- Kiểm tra chi tiết các chi phí sản xuất phân phối điện (mục sửa chữa thường xuyên và chi bằng tiền)
Tiền lương của lao động thuê ngoài trả cho các hoạt động như sửa chữa lớn TSCĐ, các hoạt động vận hành lưới điện...(về nguyên tắc phải được lấy từ nguồn tiền lương tương ứng để trả) được ghi trực tiếp vào chi phí sản xuất phân phối điện dẫn đến chi phí lương bị tăng gấp đôi.
- Kiểm tra chi tiết các chi phí sản xuất phân phối điện (mục sửa chữa thường xuyên và chi bằng tiền...)
Trích lương quá so với lương được duyệt của TCT. Lương của SCL, các hoạt động khác bị ghi quá
So sánh với Quy định của Bộ Xây dựng.
So sánh với các quy định của TCT về tiền lương trong hoạt động SCL, hoạt động khác.
Các khoản vay ngân hàng hoặc vay khác
Vay của các cá nhân trong và ngoài đơn vị với lãi suất vượt quá lãi suất trần của ngân hàng nhà nước dẫn đến chi phí hợp lý, hợp lệ bị sai lệch.
Chưa phân loại lại vay dài hạn đến hạn trả
Không có thông tin về chi phí lãi vay dài hạn, không tính toán và hạch toán lãi vay phải trả.
Khảo sát chi tiết (Substantive test).
Thu thập đầy đủ các khế ước/ hợp đồng vay dài hạn.
So sánh với các số liệu tài chính liên quan đến khoản vay. Phân loại các khoản vay đến hạn. Phỏng vấn khách hàng về kế hoạch trả nợ hoặc gia hạn nếu có.
Chi phí sửa chữa thường xuyên
Các chi phí sửa chữa thường xuyên chưa được phản ánh đúng tính chất: chi sửa chữa lớn, chi từ nguồn đầu tư phát triển....
Trích trước chi phí
Nhiều khoản chi phí như điện, nước, điện thoại ... thuộc về năm 2000 nhưng chưa được các đơn vị trích trước vào chi phí trong năm.
Chi phí tiêu thụ điện
Qui định về quản lý và phân bổ giá trị công tơ (công cụ lao động) là chưa phù hợp. Không theo dõi được như quy định
Chi phí SCL (xem phần sai sót chung)
- Xem chính sách phân bổ công tơ
- So sánh với qui định của TCT
Xử lý các vị phạm sử dụng điện
Nhiều biên bản về câu điện bất hợp pháp, vi phạm sử dụng điện và bồi hoàn điện kế cháy tồn lâu chưa được xử lý.
Hạch toán công nợ giữa các đơn vị trực thuộc công ty
Các khoản phải thu phải trả nội bộ giữa các đơn vị với Ban quản lý lưới điện nông thôn không được theo dõi chi tiết dẫn đến không thể khấu trừ công nợ nội bộ trong cùng Công ty dẫn đến công nợ phải thu, phải trả bị trình bày vượt thực tế vào cuối năm
Quản lý hồ sơ khách hàng
Một số đơn vị chưa cập nhật kịp thời các thông tin về khách hàng cho phù hợp với thực tế.
Doanh thu và chi phí ngoài điện
Các khoản doanh thu khác như nhà khách, xí nghiệp phụ trú có thể bị bỏ sót hoặc ghi thiếu.
- Kiểm tra chi tiết
Nhiều công trình đã hoàn thành nhưng vẫn chưa được ghi nhận doanh thu và kết chuyển chi phí do chưa quyết toán được
Kiểm tra chi tiết TK 154 và TK liên quan khác.
Nhiều khoản doanh thu chi phí sản xuất phụ chưa được hạch toán kịp thời, để tồn đọng trong nhiều năm dẫn đến nhiều khoản công nợ có liên quan mà không được đối chiếu, xác minh chính xác.
Phát hành hoá đơn GTGT
Một số đơn vị đã phát hành hoá đơn GTGT ngay khi nhận tiền ứng trước của khách hàng.
Hợp đồng kinh tế của hoạt động sản xuất ngoài điện
Một số hợp đồng kinh tế chưa đảm bảo tính chất pháp lý, cụ thể là đại diện ký kết hợp đồng hai bên thực chất chỉ làm một pháp nhân (hai cá nhân thuộc cùng đơn vị)
II. Các rủi ro và sai sót phổ biến chung tại nhà máy và khối các đơn vị độc lập khác của TCT
Các sai sót đã phát hiện
Các thủ tục kiểm toán thích hợp
Tiền và các khoản tương đương tiền
Các chứng từ thu chi được hạch toán chia cắt niên độ không hợp lý dẫn đến chứng từ của năm này hạch toán vào năm khác và ngược lại.
- Kiểm tra tính đúng kỳ (Cut off)
Phiếu thu chi tiến mặt không có đủ chữ ký của Giám đốc, người nhận, thủ quỹ.., thiếu các chứng từ gốc liên quan.
- Kiểm tra chọn mẫu chi tiết theo qui định của DTT về chọn mẫu
Phải thu khách hàng và phải thu khác
Không mở sổ chi tiết theo dõi các khoản phải thu theo đối tượng khách nợ, các khoản tạm ứng theo từng cá nhân tạm ứng
Phỏng vấn
Kiểm tra chi tiết
Đối với các đơn vị có sử dụng chương trình máy tính theo dõi công nợ thì mã khách hàng không được theo dõi chặt chẽ một khách hàng lại được theo dõi 2, 3 mã dẫn đến việc phản ánh sai tình hình công nợ của đơn vị.
- Kiểm tra chi tiết các khoản phải thu khách hàng
Ghi chép vào tài khoản tạm ứng các khoản không đúng tính chất tạm ứng (tạm ứng cho đơn vị/ cá nhân khác ngoài đơn vị.
Soát xét bảng tổng hợp theo dõi tạm ứng để chắc chắn là tạm ứng cho CBCNV.
Gửi xác nhận các khoản tạm ứng (lấy chữ ký).
Khoản tạm ứng để tồn đọng lâu ngày không thanh toán, thủ tục tạm ứng và thanh toán tạm ứng không chặt chẽ.
- Kiểm tra chi tiết
Các khoản công nợ khó đòi hoặc không có khả năng thu hồi không được lập dự phòng hoặc ghi giảm khi hội đủ điều kiện theo quy định tại Thông tư 33/BTC.
Soát xét báo cáo tuổi nợ (nếu có)
Kiểm tra chi tiết
Các khoản phải thu có cả số dư Nợ và số dư Có thường được bù trừ khi lập BCTC => sai với quy định của chế độ kế toán.
- Đối chiếu từ sổ chi tiết đến sổ tổng hợp, sổ cái và Báo cáo tài chính.
Các khoản công nợ nội bộ giữa TCT với Công ty hoặc giữa Công ty với các đơn vị thành viên hoặc giữa khối kinh doanh và khối XDCB không được đối chiếu định kỳ và chặt chẽ nên nhiều khoản công nợ không xác định được nguyên nhân chênh lệch.
So sánh
Đối chiếu chi tiết
Việc đối chiếu và xác nhận công nợ cuối năm đối với các khách hàng lớn không được thực hiện như một thủ tục bắt buộc.
- Hỏi và kiểm tra chi tiết (chọn mẫu)
Hàng tồn kho
Phòng Kế toán không theo dõi hàng tồn kho theo hiện vật mà chủ yếu dựa vào thẻ kho của thủ kho. Bên cạnh đó sự phối hợp quản lý giữa Phòng Kế toán và Phòng Vật tư cũng kém, Phòng Vật tư chỉ theo dõi được vật tư cho một số mặt hàng thiết yếu và không đối chiếu số liệu được với kế toán.
- Kiểm tra các nghiệp vụ xuyên suốt từ mua đến nhập kho và xuất kho
Một số đơn vị đã sử dụng phần mềm quản lý hàng tồn kho, nhưng phần mềm này có nhiều lỗi chương trình mà kế toán không phát hiện ra hoặc có phát hiện ra nhưng chưa khắc phục được (đơn giá tính toán sai, có số dư về giá trị nhưng không có hiện vật hoặc có hiện vật mà số dư về giá trị lại là số âm, ...).
- Soát xét lại việc tính toán của chương trình phần mềm để phát hiện ra lỗi nếu có
Một số đơn vị có nhiều chủng loại vật tư, các nghiệp vụ nhập, xuất vật tư nhiều nhưng không có phần mềm máy tính theo dõi hàng tồn kho gây khó khăn cho việc hạch toán và quản lý hàng tồn kho.
- Phỏng vấn
Phiếu NXK không được đánh số thứ tự khó khăn cho kế toán cho việc theo dõi hàng tồn kho, ảnh hưởng đến tính đúng đắn và đầy đủ của khoản mục hàng tồn kho. Việc nhập xuất kho không kịp thời, không ghi sổ các bút toán nhập nhưng ghi xuất kho dẫn đến có trường hợp có số dư âm.
- Kiểm tra chi tiết
- Kiểm tra tính đúng kỳ (Cutoff test)
Phương pháp tính giá không nhất quán. Việc thay đổi phương pháp chủ yếu do kế toán tự thay đổi mà không có bất cứ phê chuẩn nào cho sự thay đổi này.
Đối chiếu sổ cái với sổ chi tiết hàng tồn kho, kiểm tra ghi nhận hàng mua, tính toán giá vốn khi xuất dùng ..
Đối chiếu so sánh phương pháp tính giá xuất kho ở các tháng khác nhau.
Chưa phân loại hàng kém mất phẩm chất hoặc có cũng không tiến hành lập dự phòng theo chế độ quy định, hoặc thanh lý để thu hồi vốn và giải phóng kho.
Không dự phòng cho hàng nhập của Liên Xô trước đây, hàng viện trợ không sử dụng được.
- Kiểm tra chi tiết
Việc bảo quản hàng tồn kho không cẩn thận có thể gây hư hỏng nhất là đối với những hàng chậm luân chuyển, bàn giao từ các đơn vị khác...
- Quan sát và phỏng vấn
Công tác kiểm kê còn mang nặng tính hình thức. Hàng tồn kho của năm này được hạch toán sang năm khác và ngược lại.
- Quan sát cuộc kiểm kê và xem xét các giấy tờ kiểm kê của đơn vị
Tài sản cố định và khấu hao TSCĐ
Mua sắm TSCĐ không nằm trong kế hoạch, thủ tục mua sắm thực hiện không chặt chẽ (thủ tục về đấu thầu cạnh tranh, thu thập các báo giá cạnh tranh..)
- Kiểm tra chi tiết
Không mở sổ đăng ký TSCĐ để theo dõi TSCĐ hoặc có mở thì lưu trên máy tính mà không in ra.
TSCĐ được ghi tăng theo quyết toán XDCB, hoặc theo giá tạm tính thường được ghi gộp chung vào một tài sản, một TS có nhiều tên gọi dẫn đến khó khăn cho việc quản lý TSCĐ (theo dõi, sửa chữa, thay thế...). Hiện TCT đã có quy định/ hướng dẫn đánh mã số TSCĐ nhưng hầu như chưa triển khai tại các đơn vị thành viên.
TSCĐ được chia nhỏ ra để phản ánh vào sửa chữa lớn hoặc chi phí hoạt động trong năm
Kiểm tra sự hiện hữu của TSCĐ trước khi sửa chữa, kiểm tra chi tiết chi phí....
Tỷ lệ khấu hao không phù hợp với quy định của ngành điện (TT 2017 ĐVN/TC-KT ngày 14/12/96) hoặc thông tư 166/1999/QĐ/BTC.
Một số đơn vị không tiến hành đăng ký thời gian khấu hao với TCT dẫn đến mức khấu hao của cùng tài sản không thống nhất trong TCT.
- Kiểm tra chi tiết
Thủ tục bàn giao TSCĐ giữa các đơn vị trong cùng Công ty hoặc TCT còn chậm trễ dẫn đến có đơn vị ghi có đơn vị không ghi, hoặc cả hai đơn vị cùng ghi nên khoản mục TSCĐ bị ghi chép sai.
- Đối chiếu xác nhận, kiểm tra chi tiết các TSCĐ bàn giao giữa các đơn vị
Sửa chữa lớn TSCĐ và chi phí sửa chữa lớn
Một số công trình SCL không nằm trong kế hoạch năm của TCT. Theo quy định của TCT các khoản này sẽ không được hạch toán vào chi phí trong kỳ của đơn vị.
- Đối chiếu giữa kế hoạch SCL đã được phê duyệt với báo cáo của đơn vị (xem biểu 10A, 10B, 10C).
Trích trước chi phí chung của công trình SCL vào giá thành điện, sau đó chi các khoản sai tính chất chi phí chung vào các khoản chi phí chung này (như chi bảo hộ lao động, chi thưởng lễ tết....)
- Kiểm tra chi tiết các khoản chi phí chung cho từng công trình được tập hợp trên TK 241 trong năm.
Các khoản vật tư thu hồi của công trình SCL không được đánh giá và xác định khi quyết toán công trình làm ảnh hưởng đến chi phí SCL, ghi nhận vật tư không kịp thời có lượng mà không có giá..
- Kiểm tra chi tiết báo cáo quyết toán của từng công trình
XDCB và thanh toán công trình XDCB
Thanh toán cho các công trình XDCB chậm (do nhiều lý do khác nhau) làm giảm hiệu quả sử dụng vốn lưu động
- So sánh với quy định của TCT về quyết toán công trình XDCB.
Công tác đối chiếu công nợ giữa các thành viên của công ty.
Chưa thực hiện đối chiếu công nợ giữa các đơn vị thành viên trong nội bộ Công ty.
Các khoản phải trả
Không mở sổ chi tiết theo dõi các khoản phải trả theo đối tượng nợ.
- Kiểm tra chi tiết
Một số khoản chi phí phải trả không có thật.
- Kiểm tra chi tiết
Bù trừ các khoản phải trả có số dư Nợ và Có không cùng đối tượng.
- Kiểm tra chi tiết
Doanh thu và chi phí khác
Không ghi nhận đúng kỳ doanh thu và chi phí ảnh hưởng đến tính đầy đủ của khoản mục doanh thu và chi phí (doanh thu của cửa hàng trực thuộc, phân xưởng của nhà máy...). Bỏ sót doanh thu và chi phí.
Phân tích soát xét
Phỏng vấn
Quan sát
Tính toán
Tập hợp chi phí cho các công trình xây lắp không kịp thời. Công trình đã thực hiện xong, quyết toán và thanh lý hợp đồng vẫn chưa ghi nhận doanh thu do chưa tập hợp đủ chi phí.
- Kết hợp giữa phân tích soát xét và kiểm tra chi tiết.
Một số khoản doanh thu không phát hành hóa đơn mà chỉ ghi phiếu thu cho khách hàng.
Kiểm tra chi tiết
Một số khoản chi phí khác được trích trước không có cơ sở hợp lý hoặc không đầy đủ chứng từ hợp lý, hợp lệ...
Kiểm tra chi tiết
Doanh thu được phản ánh trên TK Phải trả nội bộ
Kiểm tra chi tiết
Kê khai và tính thuế thu nhập cá nhân
Việc tổng hợp quyết toán thuế thu nhập cá nhân chưa được thực hiện một cách đầy đủ, một số đơn vị chưa tiến hành khấu trừ thuế thu nhập cá nhân trước khi thanh toán cho CBCNV.
Tổ chức công tác kế toán
Sổ sách kế tóan không được in đầy đủ và lưu trữ theo đúng quy định
Công tác kiểm tra kế toán chưa được thực hiện chặt chẽ trước khi lập BCTC, vẫn có những chênh lệch giữa sổ chi tiết với sổ cái và BCTC.
Phân công công tác kế toán còn chưa phù hợp với công việc kế toán hoặc kinh nghiệm, trình độ của nhân viên
Chương III: nhận xét và những kiến nghị đề xuất nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ kiểm toán với khách hàng ABC
I – nhận xét về việc đánh giá trọng yếu và rủi ro trong công tác kiểm toán BCTC tại công ty ABC
Sản phẩm của công việc kiểm toán mang tính chất xã hội cao. Điều này đã được pháp luật Việt Nam thừa nhận. Quy chế về Kiểm toán độc lập trong nền kinh tế quốc dân ban hành theo Nghị định số 07/CP ngày 29-01-1994 của Thủ tướng Chính phủ quy định: “sau khi có xác nhận của kiểm toán viên chuyên nghiệp thì các tài liệu, số liệu kế toán và báo cáo quyết toán của các đơn vị kế toán là căn cứ cho việc điều hành, quản lý hoạt động ở các đơn vị, cho các cơ quan quản lý cấp trên và cơ quan tài chính Nhà nước duyệt quyết toán hàng năm của các đơn vị kế toán, cho các cơ quan thuế tính toán số thuế và các khoản phải nộp khác của đơn vị đối với ngân sách Nhà nước, cho các cổ đông, các nhà đầu tư, các bên tham gia liên doanh, các khách hàng và các tổ chức, cá nhân xử lý mối quan hệ về quyền lợi và nghĩa vụ của các bên liên quan trong quá trình hoạt động của đơn vị”. Như vậy, mặc dù công việc kiểm toán là cung cấp dịch vụ cho một khách hàng nhưng lại tác động đến lợi ích của rất nhiều đối tượng khác nhau trong nền kinh tế.
Được thành lập theo Quyết định số 164/QĐ-TCCB ngày 13-5-1991 của Bộ Tài chính, trải qua hơn 10 năm hoạt động, VACO với chủ trương là cung cấp các dịch vụ với chất lượng vượt trên sự mong đợi của khách hàng và nhân viên của Công ty đã đáp ứng tất cả các yêu cầu của khách hàng, chất lượng dịch vụ ngày càng được nâng cao và Công ty không ngừng lớn mạnh. Sự lớn mạnh này thể hiện ở chỗ: khách hàng của Công ty ngày càng nhiều, doanh thu và lợi nhuận ngày càng tăng, trở thành một trong những công ty kiểm toán lớn nhất Việt Nam.
Đạt được những thành tựu trên là do VACO đã không ngừng cố gắng vượt qua những khó khăn thường xuyên phải đối mặt. Tuy nhiên, yếu tố quan trọng nhất đó là Công ty đã xây dựng cho mình một phần mềm kiểm toán có chất lượng, có tính khoa học và hiệu quả cao dựa trên phần mềm kiểm toán AS/2 được Công ty kiểm toán DTT cung cấp, được áp dụng vào thực tiễn phù hợp với chế độ tài chính-kế toán và môi trường pháp luật Việt Nam.
Xét riêng việc vận dụng đánh giá trọng yếu và rủi ro trong lập kế hoạch kiểm toán, Công ty vẫn còn một số hạn chế. Mặc dù, hiện tại, Công ty đã xây dựng và áp dụng một hệ thống phương pháp đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán tương đối hoàn chỉnh nhưng nhiều khi công việc này vẫn được thực hiện dựa trên kinh nghiệm chủ quan của kiểm toán viên và không được lưu lại chi tiết và đầy đủ trên giấy tờ làm việc của kiểm toán viên. Nguyên nhân mà Công ty còn gặp khó khăn trong trong việc áp dụng hoàn chỉnh được hệ thống AS/2 là do:
-Mỗi khách hàng hay loại khách hàng đều có đặc điểm và yêu cầu riêng, không thể có một hệ thống chuẩn chung cho tất cả các khách hàng cụ thể mà phải có một mô hình, phương pháp hướng dẫn cơ sở và việc áp dụng như thế nào phụ thuộc vào tính linh động và kinh nghiệm của mỗi kiểm toán viên.
-Do yêu cầu giảm thiểu thời gian và chi phí kiểm toán: trong thực tế, kiểm toán viên không thể thực hiện được đầy đủ các công việc quy định trong giai đoạn lập kế hoạch vì như thế sẽ tốn thêm rất nhiều thời gian cho kiểm toán viên. Trong khi đó, sự cạnh tranh (chủ yếu bằng cách “phá giá”) của các công ty kiểm toán ngày càng tăng lên, do đó, việc tuân thủ AS/2 một cách tuyệt đối sẽ làm cho chi phí kiểm toán tăng cao, làm giảm khả năng cạnh tranh của Công ty.
Lý luận đã cho thấy mối quan hệ giữa việc đánh giá trọng yếu và rủi ro với toàn bộ cuộc kiểm toán, nếu kiểm toán viên không thực hiện hoặc thực hiện không hiệu quả thì sẽ tạo ra rủi ro lớn cho cuộc kiểm toán.
II – kiến nghị về giải pháp nâng cao chất lượng dịch vụ kiểm toán qua phương pháp đánh giá trọng yếu và rủi ro tại Công ty abc.
1.Đánh giá trọng yếu.
Hiện nay, việc xác định giá trị trọng yếu được thực hiện bởi phần mềm kiểm toán AS/2. Tuy nhiên, cơ sở để xác định nó là tuỳ thuộc vào chủ quan của kiểm toán viên. Với cùng một khách hàng là Công ty X, trong đó có 11 đơn vị trực thuộc cùng hoạt động trong một lĩnh vực nhưng với nhóm kiểm toán khác nhau thì tiêu chí được lựa chọn cũng khác nhau. Chẳng hạn, một nhóm sử dụng tiêu chí là doanh thu, một nhóm sử dụng tiêu chí là tổng tiền lương trong năm. Như vậy đã tạo ra sự không nhất quán trong cùng một khách hàng và vì thế rủi ro kiểm toán tăng lên.
Theo ý kiến của tôi, Công ty nên xây dựng một hệ thống văn bản hướng dẫn cụ thể về xác định giá trị trọng yếu đối với từng loại hình doanh nghiệp là khách hàng lớn, khách hàng thường xuyên bởi vì nó chính là căn cứ để kiểm toán viên quyết định loại báo cáo kiểm toán sẽ phát hành.
Cụ thể, trong cuộc kiểm toán Công ty X, kiểm toán viên nên sử dụng tiêu chí là tổng doanh thu thuần để xác định giá trị trọng yếu đối với Công ty X và các đơn vị thành viên. Bởi vì theo quy chế quản lý tài chính của Tổng Công ty A, tổng quỹ tiền lương của Công ty ABC là do Công ty X duyệt cấp xuống trên cơ sở tổng sản lượng điện thương phẩm, do đó, giá trị này không có tính đại diện. Mặt khác, các căn cứ khác như tổng tài sản, tài sản lưu động, lợi nhuận,… cũng không nên sử dụng vì ABC là đơn vị hạch toán phụ thuộc. Do đó, doanh thu thuần là căn cứ thích hợp nhất.
2.Đánh giá rủi ro.
Đánh giá rủi ro trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán bao gồm đánh giá rủi ro kiểm toán (thông qua rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát và rủi ro phát hiện) và rủi ro tài khoản. Trong thực tế kiểm toán, kiểm toán viên VACO đã thực hiện việc đánh giá rủi ro tiềm tàng theo AS/2 là rất có hiệu quả. Tuy nhiên, đối với rủi ro kiểm soát, kiểm toán viên mới chỉ thực hiện việc đánh giá hệ thống KSNB để xác định rủi ro kiểm soát bằng phương pháp phỏng vấn và việc đánh giá hệ thống này thường không được thể hiện trên giấy tờ làm việc của kiểm toán viên. Đây là một công việc khá quan trọng vì việc xác định rủi ro kiểm soát có liên quan trực tiếp đến việc xác định quy mô mẫu cần kiểm tra và bằng chứng kiểm toán cần thu thập thông qua việc đánh giá mức độ tin cậy vào hệ thống KSNB.
Theo AS/2, việc xác định số lượng bằng chứng kiểm toán được xây dựng trên cơ sở sau:
Độ tin cậy kiểm toán: là mức độ đảm bảo rằng các BCTC không chứa đựng các sai sót trọng yếu ảnh hưởng đến người sử dụng thông tin. Độ tin cậy kiểm toán nói chung không thể bằng 100%, tuy nhiên, kiểm toán viên phải chọn mức độ tin cậy này một cách thích hợp nhất, có thể là 95%.
Sơ đồ 2: Xác định số lượng bằng chứng kiểm toán.
Kiểm tra
thủ tục
kiểm soát
Các thủ tục kiểm tra phân tich và kiểm tra chi tiết
Đánh giá rủi ro tiềm tàng và rủi ro tài khoản
Độ tin cậy Độ tin cậy khi
vào HTKSNB kiểm tra chi tiết
Độ tin cậy
mặc định
Nguồn: AS/2-Tài liệu của Công ty
Độ tin cậy mặc định: là mức độ tin cậy dựa vào các bước của quá trình hạch toán để lập BCTC, nó được xác định bằng cách dựa vào đánh giá ban đầu về rủi ro tiềm tàng và kết quả kiểm toán năm trước.
Độ tin cậy kiểm soát: là độ tin cậy dựa vào việc kiểm tra các bước kiểm soát được khách hàng thiết lập để ngăn ngừa và phát hiện sai sót tiềm tàng.
Độ tin cậy kiểm tra chi tiết: là độ tin cậy thông qua các thủ tục kiểm tra chi tiết được xây dựng nhằm phát hiện ra sai sót tiềm tàng xảy ra nhưng không được phát hiện bởi quá trình kiểm soát của khách hàng.
Do vậy, kiểm toán viên phải lập kế hoạch kiểm toán hệ thống KSNB để xác định mức độ tin cậy vào hệ thống kiểm soát:
Bảng 6: Mức độ tin cậy hệ thống KSNB.
Mức độ tin cậy
Chỉ số
Kiểm tra hoạt động quản lý
Kiểm toán thủ tục kiểm soát
Tối đa
2.3
Có
Và
Có
Trung bình
2.0
Có
Hoặc
Có
Cơ bản
1.3
Không
Và
Không
Nguồn: AS/2-Tài liệu của VACO
Việc xác định mức độ tin cậy này có ảnh hưởng to lớn đến quá trình thực hiện kiểm toán vì từ trị số này, kiểm toán viên sẽ xác định được số lượng bằng chứng cần thiết, thời gian, thủ tục kiểm toán phải thực hiện. Do đó, công việc này phải được tiến hành theo đúng quy trình do Công ty xây dựng. Tìm hiểu về hệ thống KSNB là quá trình tích luỹ thông tin và cả dựa trên kinh nghiệm của những năm trước. Vì vậy, khi đưa ra đánh giá về thiết kế và hiệu quả hoạt động của quy trình KSNB, kiểm toán viên cần xem xét bằng chứng thu thập được trong cả năm nay và các năm trước. Kiểm toán viên phải xem xét:
*Các thủ tục kiểm soát: là các chính sách và thủ tục được xây dựng và thực hiện nhằm bảo đảm rằng những hoạt động mà Ban Giám đốc cho là cần thiết để hạn chế rủi ro, được thực hiện có hiệu quả.
*Môi trường kiểm soát: bao gồm những thái độ, sự nhận thức và hành động của Ban Giám đốc doanh nghiệp về tầm quan trọng của KSNB trong doanh nghiệp.
*Đánh giá rủi ro: là quy trình được Ban Giám đốc sử dụng để xác định, đánh giá và kiểm soát những rủi ro mà doanh nghiệp gặp phải.
*Thông tin và giao dịch: là những hệ thống thông tin và giao dịch được sử dụng để có thể trao đổi thông tin cần thiết cho việc thực hiện, quản lý và kiểm soát các hoạt động cuả doanh nghiệp.
*Hoạt động quản lý KSNB: là quá trình đánh giá chiến lược thực hiện lâu dài của hệ thống KSNB, phục vụ cho việc nâng cao độ tin cậy vào hệ thống KSNB khi tiến hành kiểm toán.
Từ đó, Công ty nên xây dựng một hệ thống văn bản hướng dẫn thực hiện đánh giá rủi ro kiểm soát thông qua việc tìm hiểu hoạt động KSNB của khách hàng qua các bảng câu hỏi đối với các loại hình doanh nghiệp riêng biệt, từ đó làm cơ sở cho việc lập kế hoạch kiểm toán. Chẳng hạn một bảng câu hỏi về hệ thống KSNB đối với tài khoản tiền như sau:
Tiêu thức
Có
Không
Không áp dụng
Các bảng đối chiếu với ngân hàng có được chuẩn bị hàng tháng không.
Chúng có được nhân viên quản lý tài chính kiểm tra hay không.
Các khoản thu tiền điện ở chi nhánh có được nộp về đơn vị đúng kỳ hạn không.
Các khoản tiền thu về có được nộp ngay vào ngân hàng không.
Có sự đối chiếu định kỳ giữa các sổ sách: tiền mặt, tiền gửi, phải thu, phải trả, …không.
Có sự kiểm kê định kỳ về số tiền tại quỹ không.
Tiền mặt có được lưu giữ ở nơi an toàn không.
…
Kết luận
Kiểm toán là một ngành dịch vụ mới ra đời tại Việt Nam. Tuy nhiên, không vì lẽ đó mà nó chưa có đóng góp gì lớn cho xã hội. Trong giai đoạn hiện nay, vai trò của kiểm toán được ví như một "nhà quan sát" của nền kinh tế. Quá trình kiểm toán một doanh nghiệp, một tổ chức cho phép ta thấy được thực trạng hoạt động của doanh nghiệp, tổ chức đó, từ đó tìm ra những điểm sai sót, những khuyết tật trong quá trình hoạt động, báo cáo và tìm cách giải quyết, khắc phục những khuyết tật này. Cũng qua quá trình kiểm toán, môi trường tài chính-kế toán nói chung được lành mạnh hoá, lòng tin của những đối tượng quan tâm được củng cố và các doanh nghiệp, tổ chức tìm ra được những phương pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động của mình.
Đánh giá trọng yếu và rủi ro là một công việc quan trọng, quyết định chất lượng của một cuộc kiểm toán. Đánh giá trọng yếu và rủi ro trong kiểm toán là một công việc xét đoán mang tính nghề nghiệp của kiểm toán viên và được vận dụng một cách khá linh hoạt. Kiểm toán viên đánh giá, xác định một mức độ trọng yếu và rủi ro hợp lý có thể chấp nhận được và khống chế mức độ này thông qua các kỹ thuật thu thập bằng chứng. Công việc thu thập bằng chứng càng được tiến hành nhiều thì kiểm toán viên càng có một hình ảnh chính xác hơn, trung thực hơn về tình hình tài chính của khách hàng. Việc vận dụng một cách khoa học, hợp lý đánh giá trọng yếu và rủi ro sẽ tạo ra một sự cân bằng hợp lý giữa lợi ích của khách hàng và lợi ích của công ty kiểm toán mà vẫn đảm bảo yêu cầu của Chuẩn mực kiểm toán.
Với chuyên đề thực tập này, tôi đã trình bày từ cơ sở lý luận chung đến thực tiễn áp dụng tại VACO quy trình đánh giá trọng yếu và rủi ro trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán BCTC. Qua so sánh, đánh giá giữa lý luận và thực tiễn, tôi cũng mạnh dạn đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu qủa công tác này tại VACO.
Tài liệu tham khảo
Giáo trình Lý thuyết kiểm toán: GS.TS Nguyễn Quang Quynh - Đại học KTQD - NXB Tài chính 1998.
Kiểm toán-tài liệu dịch của Đặng Kim Cương và Phạm Văn Được - NXB Thống kê 1995.
Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam.
Chuẩn mực kiểm toán quốc tế.
Phần mềm kiểm toán AS/2 (tài liệu của VACO)
Những chuẩn mực và nguyên tắc chỉ đạo kiểm toán quốc tế (tài liệu dịch của VACO).
Một số tạp chí Kế toán, Kiểm toán.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29520.doc