Đề tài Hoàn thiện quy trình phân tích tín dụng trong hoạt động của các Ngân hàng Thương mại cổ phần Việt Nam

Như vậy cần nhận định rằng phân tích tín dụng rất quan trọng đối với hoạt động của bất kỳ ngân hàng thương mại cổ phần nào. Nó là nhân tố ảnh hưởng rất lớn tới quá trình ra quyết định tín dụng, của ngân hàng thương mại cổ phần. Do vậy việc phân tích tín dụng cũng nhằm mục tiêu đánh giá các rủi ro tín dụng có thể có từ đó nâng cao chất lượng các khoản tín dụng. Đối với các Ngân hàng Thương mại Cổ phần Việt Nam, quy trình phân tích tín dụng ngày càng được hoàn thiện và đã đạt được những kết quả đáng kể tuy nhiên còn rất nhiều việc phải làm. Đó chính là việc hoàn thiện phương pháp, chỉ tiêu phân tích tín dụng, hạn chế những nhược điểm, phát huy những ưu điểm để quy trình này có được ý nghĩa lý luận và thực tiễn đối với các Ngân Hàng Thương mại Cổ phần nước ta trong giai đoạn hiện nay và sắp tới.

doc60 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1678 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoàn thiện quy trình phân tích tín dụng trong hoạt động của các Ngân hàng Thương mại cổ phần Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
quan đến khả năng trả nợ. Các tỷ lệ này sẽ được áp dụng trong phân tích đối với từng người vay có tính đến các điều kiện cụ thể. Trong nhiều trường hợp ban lãnh đạo ngân hàng còn yêu cầu cá bộ tín dụng sắp xếp và cho điểm đối với từng tỷ lệ của mỗi người vay. Điểm càn chú ý là các tỉ lệ này thường được cấu thành từ hai số có bản chất khác nhau, do đó tìm kiếm các số có mối tương quan với nhau là rất cần thiết. Hơm nữa các tỷ lệ này lấy từ các báo cáo tài chính phản ánh tình hình đã đang xảy ra trong khi ngân hàng lại quan tâm chủ yếu tới nhưng cái sẽ xảy ra, do đó các tỷ lệ này không phải lúc nào cũng là những chỉ dẫn cho các quyết định của ngân hàng. Các tỉ lệ: gồm có những tỷ lệ đo thanh khoản, tỷ lệ đo khả năng tạo lợi nhuận, tỷ lệ đó khả năng tài trợ bằng vốn tự có, tỷ lệ đo rủi ro. Nhóm tỷ lệ thanh khoản: Nhóm tỷ lệ thanh khoản đo khả năng của người vay trong việc đáp ứng trách nhiệm tài chính ngắn hạn. Dựa vào đó ngân hàng tìm kiếm khả năng thanh toán các khoản nợ khi đến hạn của người vay. Nhìn chung các tỷ lệ nay càng cao thì khả năng thanh toán của người vay có thể càng tốt. Tỷ lệ thanh toán nhanh = Ngân quĩ của người vay các khoản nợ hiện hành (gồm các khoản nợ ngắn hạn trung hạn đến hạn trả trong kì) Mẫu số phản ánh nợ đến hạn sắp phải trả trong khi đó tử số gồm tiền mặt trong két và tiền gửi ngân hàng hiện có, các khoản đang trong quá trình thu (sắp thu). Đáng chú ý là tiền mặt và tiền gửi có thể giảm nhanh chóng do người vay cần thanh toán tiền mua hàng hoá hoặc trả lương, các khoản đang trong quá trình thu có thể không thu được. Do đó ngân hàng càn xem xét kĩ lưỡng các khoản dang trong quá trình thu, tính số ngày của một lần thu, loại trừ nợ nần dây dưa. Tỷ lệ thanh toán trung bình = Tài sản lưu động Nợ hiện hành Tử số gồm ngân quỹ và hàng hoá của người vay. Điều đáng quan tâm là giá cả hàng hoá kém luân chuyện. Ngân hàng phải loại những hàng hoá này ra khỏi tử số của tỷ lệ thanh toán. Tuỳ từng trường hợp cụ thể mà ngân hàng phân tích các tỷ lệ thích hợp. Nếu cho vay trong thời gian ngắn 2 - 3 tháng ngân hàng cần chú ý đến tỷ lệ thanh toán nhanh; còn cho vay 9- 12 tháng ngân hàng cần chú ý đến thanh khoản trung bình. Nhóm tỷ lệ sinh lợi: Nhóm tỷ lệ sinh lợi đo khả năng tạo lợi nhuận của người vay. Khả năng sinh lời cảu người vay quyết định khả năng hoàn trả vốn và lãi cho ngân hàng. Các tỷ lệ này đều có tử số là thu nhập ròng trước hoặc sau thuế hu nhập, hoặc doanh thu và mẫu số là vốn tự có, vốn lưu động, vốn cố định hoặc tổng vốn. Có thể hỏi là tại sao ngân hàng lại quan tâm tới khả năng sinh lời khi mà luồng tiền có tầmquan trọng đối với khoản trả nợ. Khả năng thu về lượng giá trị lớn hơn giá trị đầu tư ban đầu. Một người vay làm ăn thua lỗ mà vẫn trả nợ được ngân hàng thì chỉ có thể là dùng vốn tự có (giảm vốn tự có) hoặc dùng nợ nuôi nợ (vay người này trả người khác). Cả hai con đường này đều tiềm ẩn rủi ro đối với người cho vay. Để phân tích tỷ lệ sinh lợi bên chạnh bảng cân đối tài sản ngân hàng càn có báo cáo thu nhập của người vay. Nhóm tỷ lệ rủi ro (RR): Rủi ro của người vay rất đa dạng. Chúng ta có nhiều trường hợp điều chỉnh rủi ro trong mọi trường hợp. Danh sách sau trình bày cách tiếp cận rủi ro của mọi người vay. - Sản xuất: Doanh ngiệp có bao nhiêu nguồn cung cấp nguyên vật liệu? Tác động trong thay đổi chi phí là gì? Cái gì là yếu tố chi phí quan trọng nhất? Lao động? Vốn? Có thay đổi nhanh trong kĩ thuật? Chi phí là bao nhiêu? Tính phụ thuộc vào các doanh nghiệp khác nhau như thế nào? Tác động của nghiên cứu và phát triển? Tác động của thay đổi cơ cấu chi phid là gì? RR tác động tới việc dử dụng trang thiết bị là gì? - Tiếp thị: Các nhân tố tác dộng tới việc bán hàng? Cầu co dãn với giá? Thu nhập là co dãn? Sản phẩm thay thế là gì? Nhập khẩu có lớn không? Chiến lược cạnh tranh là gì? Những gì cản trở việc đối thủ khác gia nhập vào ngành? Thay đổi trong nhu cầu của khách? Người bán có quyền lực hơn người mua? Rủi ro thua lỗ của khách hàng là chính là gì? - Nhân sự: Cái gì làm tăng năng suất lao động tăng? Cái gì khuyến khích người lao động? Rủi ro của đình công? Sự phụ thuộc của doanh nghiệp vào những cá nhân đặc biệt? - Tài chính: Sức chịu đựng của doanh nghiệp đối với lãi suất? Có bao nhiêu cách huy động tiền? Sự phụ thuộc của doanh nghiệp vào một dự án? việc đa dạng các nguồn thu? - Chính sách của Chính phủ: Chính phủ và các cơ quan Nhà nước có thể tác động tới khách hàng như thế nào? Chính sách kinh tê? Bảovệ nhập khẩu? Trở cấp xuất khẩu? Hợp đồng với Nhà nước? Giấy phép đối với sản phẩm mới? - Nhóm tỷ lệ đo khả năng tài trợ bằng vốn sở hữu: thông thường một doanh nghiệp phải có vốn sở hưu đủ để tài trợ một phần cho tài sản lưu động và tài sản cố định. Tỷ lệ tài trợ bằng vốn sở hưu = Vốn sở hữu Tổng tài sản Tỷ lệ này cho thấy sức mạnh tài chính của người vay. Nhiều doanh nghiệp Việt Nam hiện nay tỷ lệ này vào khoảng 0,3- 0,4 hoặc thấp hơn buộc ngân hàng phải thận trọng và kiểm soát chặt chẽ các khoản cho vay. Tuỳ theo yêu cầu vay ngắn hạn hay trung và dài hạn mà ngân hàng tập trung chú ý vào tỷ lệ tài trợ cho tài sản lưu động hay tài sản cố định. Khi cho vay ngắn hạn ngân hàng xem xét vốn lưu động tự có của doanh nghiệp. Một khoản xin vay ngắn hạn có thể được ngân hàng chấp nhận nếu không làm xấu đi tình trạng tài trợ của doanh nghiệp. (Ngân hàng sẽ cộng thêm khoản vay mới để xác định lại tỷ lệ này). Nếu doanh nghiệp vay vốn trung và dài hạn thì khâu hao và thu nhập sau thuế là những yếu tố ảnh hưởng đến quyết định cho vay của ngân hàng. Các điều kiện kinh tế: Các kết quả phân tích trên cho ngân hàng thấy một phần quá khứ và iện tại của khách hàng. Điều ngân hàng quan tâm hơn là khả năng trong tương lai của khách hàng, có thể là trong mấy tháng hoặc một năm. Thời hạn càng dài dự đoán càng khó chính xác đó là do tác động của các điều kiện kinh tế. Thiên tai các thay đổi bất thường trong đời sống chính trị, khủng hoảng kinh tế vùng, quốc gia, sự sa sút đột ngột của ngành... làm thay đổi các tính toán ban đầu, dẫn đến giảm hoặc mất khả năng trả nợ của khách hàng. Tổn thất của khách hàng đến tổn thất của ngân hàng chỉ trong gang tấc. Bước 2. Xây dựng và kí kết hợp đồng tín dụng. Hợp đồng tín dụng là văn bản viết ghi lại thoả thuận giữa người nhận tài trợ (khách hàng) và ngân hàng với nội dung chủ yếu là ngân hàng cam kết cấp cho khách hàng một khoản tín dụng (hoặc hạn mức tín dụng) trong một khoản thời gian và lãi suát nhất định. Hợp đồng tín dụng là văn bản mang tính luật xác định quyền và nghĩa vụ của hai bên trong quan hệ tín dụng, đồng thời phản tuân thủ các điều khoản của các Luật, Qui định. Do vậy cả ngân hàng lẫn khách hàng đều cần cân nhắc kĩ lưỡng trước khi kí kết hợp đồng tín dụng. Sau đây là nội dung chính của hợp đồng tín dụng: Khách hàng: Họ tên địa chỉ tư cách pháp nhân (nếu có). Mục đích sử dụng: khách hàng phải ghi rõ vay để làm gì. Số lượng tín dụng: là số tiền (hoặc hạn mức tín tín dụng) ngân hàng cam kết cấp cho khách hàng. Số lượng tín dụng có thể được chia nhỏ trong các khoan thời gian khác nhau và dưới các hình thức tiền tệ khác nhau. Lãi suất: Hợp đồng tín dụng phải ghi rõ lãi xuất mà khách hàng trả đồng thời xác định tính chất của lãi xuất (là lại suất có định hay biến đổi trong suốt kì hạn tín dụng). Nếu lãi suất có thay đổi thì phải xác định rõ các điều kiện thay đổi đó. Phí: Để có được các cam kết tín dụng có thể khách hàng phải trả cho ngân hàng một khoản phí (ví dụ phí cam kết) được tính bằng tỷ lệ phần trăm trên hạn mức cam kết. Mức phí và các điều kiện nộp phải được thể hiện trong hợp đồng tín dụng. Thời hạn tín dụng: Thời hạn tín dụng thường được xác định cụ thể (ngay, tháng, năm) và ghi trong hợp đồng tín dụng, là thời hạn mà trong đó ngân hàng cam kết cấp cho khách hàng một khoạn tín dụng . Thời hạn tín dụng có thể được tính từ lúc đồng vốn đầu tiên của ngân hàng được phát ra đến lúc đồng vốn và lãi cuối cùng phải thu về. Thời hạn tín dụng có thể là thời gian mà khi kết thúc, ngân hàng sẽ xem xét lại quan hệ tín dụng với kách hàng. Có khoản cho vay không xác định trước thời hạn như cho vay luân chuyển. Khách hàng thoả thuận với nhân hàng về việc ngan hàng được quyền tríchtiền trên tài khoản tiền gửi thanh toán để thu nợ khi tài khoản có tiền.Thời hạn tín dụng có thể được chia thành thời gian đầu tư thời gian ân hạn và thời gian trả nợ; thời gian trả nợ có thể được chia thành nhiều kì hạn nợ nhỏ. Thời gian chiết khấu thương phiếu là thời hạn còn lại của thương phiếu. Thời hạn bảo lãnh là thời gian có hiệu lực của bảo lãnh được thoả thuận ghi trong hợp đồng bảo lãnh.Nếu là cho thuê thời gian được tính từ lúc ngân hàng giao tài sản cho khách hàng đến lúc khách hàng hoàn đủ tiền thuê. Các loại đảm bảo: Hợp đồng tín dụng phải ghi rõ các loại đảm bảo (nếu có) cho các khoản tín dụng (kèm theo các hợp đồng phụ) như hợp đồng bảo lãnh vật tư hàng hoá trong kho tài sản cố định hoặc các chứng khoang có giá trị... Các nội dung quan trọng liên quan đến các đảm bảo như quyền sở hữu quyền chuyển nhượng hoặc bán, định giá, bảo hiểm, ngườ bảo quản, quyền sử dụng đối với các đảm bảo...đều phải được xác định và ghi rõ trong hợp đồng tín dụng. Giải ngân: Hợp đồng tín dụng thường xác định các điều kiện và kì hạn giả ngân. Thường các khoản cho vay nhỏ và trong thời gian ngắn ngân hàng cấp tiền vvay một lần vào đầu kì. Đối với các khoản vay lớn và thời gian dài ngân hàng cấp tiền theo nhiều kì hạn và với các điều kiện cụ thể của mỗi lần cấp vốn. Ví dụ hợp đồng kì cho vay 300 triệu trong thời hạn 9 tháng để thanh toán tiền hàngnhập khẩu. điều kiện giải ngân là nhập về đến đau cho vay đến đó (kèm chứng từ) hoặc trả song khoản vay đợt trước mới cấp tiền đợt sau. Điều kiện thanh toán: Bao gồm các thoả thuận giữa ngân hàng và khách hàng thoả thuận về cách thức thanh toán gốc và lãi (ngay trả, cách trả). Các điều kiện khác: Bao gồm thanh toán tiền gốc và lãi. Ngân hàng ưu tiên thanh toán, kiểm soát vật thế chấp và các hoạt động khác của người vay, phong toả tài sản điều kiện và phương thức phát mại tài sản, nộp báo cáo định kì, phạm vi phạm hợp đồng... Bước 3. Giải ngân và kiểm soát trong khi cấp tín dụng Sau khi hợp đồng tín dụng đã được kí kết ngân hàng phải có trách nhiệm cấp tiền (hoặc thanh toán tiền hàng) cho khách hàng như thoả thuận. Kèm theo việc cấp tín dụng ngân hàng kiểm soát khách hàng: sử dụng tiền vay có đúng mục đích đúng tiến độ hay không, quá trình sản xuất kinh doanh có những thay đổi bất lợi gì có dấu hiệu lừa đảo hoặc làm ăn thua lỗ... Quá trình nay cho phép ngân hàng thu thậ thêm các thông tin về khách hàng. Nếu các thông tin phản ánh chiều hướng tốt cho thấy chất lượng tín dụng đang được đảm bảo. Ngược lại khi chất lượng khoản cho vay bị đe doạ ngân hàng cần có các biện phấp xử lí kịp thời. Ngân hàng được quyền thu hồi nợ trước hạn, ngừng giải ngân nếu bên vay vi phạm hợp đồng tín dụng. Ngân hàng có thể yêu cầu khách hàng bổ sung tài sản thế chấp giảm số tiền vay ... khi thấy cần thiết để đảm bảo an toàn tín dụng. Đối với ngân hàng đây là bước đi nguy hiểm. Do vây cho tài trợ gắn liền với kiểm soát khách hàng giúp ngân hàng ngăn chặn các ý đồ sử dụng tiền vay không đúng mục đích của khách hàng. Đây cũng là quá trình ngân hàng thu nhập thêm các thông tin bổ sung cho các thông tin ở bước 1 và ra các quyết định cụ thể nhằm ngăn chặn kịp thời các khoản tín dụng xấu. Bước 4 . Thu nợ hoặc đưa ra các phán quyết tín dụng mới Quan hệ tín dụng kết thúc khi ngân hàng thu hồi hết gốc và lãi. Các khoản tín dụng đảm bảo hoàn trả đầy đủ và đúng hạn là các khoản là các khoản tín dụng an toàn. Một số trường hợp các khoản tín dụng đã không hoàn trả hoặc không hoàn trả đủ đúng hạn. Việc thanh toán nợ không đúng hạn cho ngân hàng cho thấy các “trục trặc” trong hoạt động của khách hàng . Việc xem xét tìm nguyên nhân là rất quan trọng để giúp ngân hàng kịp thời đưa ra các quyết định mới liên quan đến tính an toàn của tín dụng. Trường hợp khách hàng cố tình lừa đảo ngân hàng cố tình nợ nần dây dưa hoặc làm ăn yếu kém không còn phương cách cứu vãn ngân hàng áp dụng phương án thanh lí tức là sử dụng các biện pháp có thể được để thu hồi khoản nợ bao gồm phong toả và bán các tài sản thế chấp tước đoạt các khoản tiền gửi... Trường hợp khách hàng co kho khăn về tài chính song vẫn kiên quyết tìm cách khắc phục để trả nợ ngân hàng thường áp dụng phương án khai thác bao gôm gia hạn nợ giảm lãi hoặc cho vay thêm. 1.2.4. Viết báo cáo tín dụng 1.2.4.1. Sự cần thiết viết báo cáo tín dụng Tiếp xúc với khách hàng là cán bộ tín dụng. Thông thường tại ngân hàng cơ sở một cán bộ tín dụng phải chịu nhiều thẩm định và theo dõi việc tài trợ cho nhiều khách hàng. Kết thúc quá trình điều tra tín dụng hoặc sau một giai đoạn cho vay cán bộ tín dụng (hoặc nhóm cán bộ ngân hàng nếu đó là khoản cho vay lớn) phải viết báo cáo tín dụng trình bày các kết quả phân tích lên cho trưởng nhóm trưởng phòng hoặc Ban giám đốc ngân hàng biết để ra các quyết định tín dụng (tài trợ hay không, các nội dung tài trợ tiếp tục giải ngân hoặc ngừng phát mại tài sản hoặc cứu vãn...). Báo cáo tín dụng không cần dài dòng song đòi hỏi sự phân tích vừa chi tiết vừa tổng hợp của một nhóm hoặc nhóm cán bộ ngân hàng. Bản báo cáo tập trung vào phân tích rủi ro hơn là mô tả các số liệu. Rất nhiều các quyết định tín dụng và các nội dung của hợp đồng tín dụng được Ban giám đốc ngân hàng thực hiện dựa trên các báo cáo tín dụng , điều đó cho thấy tầm quan trọng của báo cáo này trong hoạt động của ngân hàng. 1.2.4.2. Nội dung báo cáo tín dụng Phân tích về khách hàng: - Người nhận tài trợ, mục đích xin tài trợ; - Nhu cầu xin tài trợ của khách hàng, khả năng tài trợ của ngân hàng; - Đối tượng tài trợ: tài trợ sản xuất cố định hay tài trợ sản xuất lưu động; - Thời hạn tín dụng và kì hạn nở xác định trên cơ sở thu nhập của người vay như thu bán hàng, người khác trả nợ, thu khấu hao... - Phương pháp cho vay, các nguồn thanh toán. Tóm lược các phân tích về rủi ro: các rủi ro mà các khách hàng đang phải đối đầu có nguy cơ gây ra rủi ro tín dụng; Xếp người vay vào bậc rủi ro; các loại đảm bảo làm giảm rủi ro. - Phân tích tóm tắt ngành và lĩnh vực khách hàng đang hoạt động: Tập trung phân tích mối quan hệ, tác động trong ngành như cạnh tranh, thị phần, trình độ quản lí chung, những thay đổi quan trọng đang diễn ra, rủi ro chung của cả ngành, quyền quyết định thuộc về người mua hay người bán... - Phân tích trình độ quản lí: Các phòng ban chủ yếu, các lĩnh vực có chuyên gia giỏi (như tài chính, tiếp thị, sản phẩm...), cơ cấu tổ chức; - Các dòng tiền: phân tích các dong tiền dự kiến (bao gồm cả rủi ro với dòng tiền). - Nguồn thông tin: phân tích về nguồn thông tin: các thông tin lấy từ các báo cáo tài chính của người vay, từ phỏng vấn trự tiếp, từ các nguồn khác... độ tin cậy và tính cập nhật của nguồn thông tin (qua kiểm toán hay không, uy tín của cơ quan cung cấp thông tin). 2.Thực trạng hoạt động phân tích tín dụng tại các Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam hiện nay 2.1. Khái quát về hệ thống Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam Có thể nói trong 2 năm gần trở lại đây, các NHTMCP Việt Nam đã không ngừng mở rộng hệ thống chi nhánh và tăng cường đầu tư, nâng cấp công nghệ ngân hàng cũng như cải tiến quy trình hoạt động, nâng cao chất lượng phục vụ. Quy mô vốn điều lệ của các NHTMCP ở Việt Nam còn rất nhỏ bé. Cuối thập kỷ 90, cả nước có tới 50 NHTMCP với số vốn điều lệ của mỗi ngân hàng chỉ khoảng vài chục tỷ VND. Trong các năm 2000 – 2002, sau một thời gian thực hiện cơ cấu lại, số lượng NHTMCP đã giảm 13 ngân hàng. Trong năm 2003, tiếp tục giảm 2 ngân hàng, tuy nhiên những vụ sáp nhập này mang tính tự nguyện nhằm tăng cường năng lực hoạt động. Đến năm 2004, cả nước chỉ còn lại 37 NHTMCP….. Mặc dù số lượng giảm rất lớn, nhưng năng lực và chất lượng hoạt động của các NHTMCP được cải thiện đáng kể. Các NHTMCP chuyển hướng sang tập trung nâng cao năng lực tàI chính, hiện đại hoá công nghệ, tăng sức cạnh tranh. Năm 2005 đánh giá sự phát triển nhanh vượt bậc của hệ thống NHTMCP cả về quy mô kinh doanh, mạng lưới, công nghệ, chất lượng nguồn nhân lực. Rất nhiều NHTMCP đồng loạt thực hiện nhiều đợt tăng vốn điều lệ. Cổ phiếu của hầu hết các NHTMCP đô thị hấp dẫn các nhà đầu tư, giá giao dịch trên thị trường OTC cao hơn rất nhiếu so với mệnh giá ban đầu, đặc biệt là của ACB, Sacombank, Đông á, Eximbank, Techcombank, Military Bank… Kết quả hoạt động kinh doanh từ các NHTMCP Việt Nam năm 2005 Đơn vị: tỷ đồng Tên Vốn điều lệ Chênh lệch thu–chi sau khi trích DPRR Cổ tức dự kiến * Các Ngân hàng trên địa bàn TP Hồ Chí Minh Sacombank 1250 306 14 ACB (1) 948 385 28 Eximbank(2) 700 25 2.5 Phương Nam 580 101 16 Đông á 500 131 22 Saigonbank 400 111 15 Phương Đông 300 67 15 Phát triển nhà TPHCM 200 48.7 12 SCB 272 47 12 Việt á 250 42 12 Tân Việt 189 22 - An Bình 165 11.5 6 Nam á 150 29 12-13 Đệ Nhất 98 21 - Gia Định 80 9 - * Các Ngân hàng có hội sở tại Hà Nội Techcombank 617 286 36.6 Quốc Tế (3) 520 79 - Quân Đội 500 148 18 VPBank 310 80 20.5 Hàng Hải (3) 212 63 - Habubank (3) 300 108 - SeA-Bank 250 43 - Chú thích: ACB chia 15% cổ tức bằng cổ phiếu, còn lại bằng tiền mặt Eximbank: chênh lệch thu – chi trước trích dự phòng rủi ro là 244 tỷđ, nhưng phải trích nhiều để bù đắp tổn thất từ những năm trước đọng lại. Eximbank cũng chia cổ tức trở lại (dù chỉ 2.5%) sau một thời gian dài bị kiểm soát đặc biệt và không có cổ tức. Số liệu các Ngân hàng Quốc tế, Hàng Hải, Habubank là tính đến 30/11/2005. Số liệu trên tính đến 31/12/2005 và chỉ có giá trị tham khảo. (Nguồn: Tổng hợp của Thời báo kinh tế Sài Gòn từ các Ngân hàng) Dự kiến trong năm 2006 Việt Nam sẽ có 4 NHTMCP đạt vốn điều lệ trên 1000 tỷ đồng. Cùng với những nỗ lực tăng vốn, các NHTMCP đạt được thành tích khả quan hơn trong việc đảm bảo chỉ tiêu hệ số an toàn vốn tối thiểu (CAR). Cho đến nay, chỉ tiêu CAR của hầu hết các NHTMCP đã đạt được trên 8%, đảm bảo sự hoạt động an toàn của các NHTMCP. Năm 2006 được dự đoán sẽ là một năm sôi động với các hoạt động liên kết giữa các ngân hàng trong nước và quốc tế. Tính đến thời điểm này (31/03/2006) đã có 4 NHTMCP bán cổ phần cho các Ngân hàng nước ngoài. Cụ thể là Ngân hàng ANZ (Australia) đã nắm giữ 10% cổ phần của Sacombank, Ngân hàng Standard Chartered nắm giữ 8.3% cổ phần của ACB, Ngân hàng Hồng Kông – Thượng Hải (HSBC) nắm giữ 10% cổ phần Techcombank, và gần đây nhất, VPBank cũng đã tuyên bố bán 10% cổ phần cho Ngân hàng OCBC (Singapore). Như vậy, có thể thấy rằng các ngân hàng đang nỗ lực để mở rộng quy mô và chất lượng hoạt động, tận dụng tối đa cơ hội học hỏi về kinh nghiệm, quy trình, quản lý và công nghệ của các ngân hàng có uy tín hàng đầu trong khu vực. Có thể nói, mặc dù ngành ngân hàng đã có nhiều đổi mới song đến nay hệ thống NHTMCP Việt Nam vẫn ở giai đoạn phát triển ban đầu, năng lực tài chính của nhiều ngân hàng còn yếu, nợ quá hạn cao, còn nhiều rủi ro. Hơn nữa, hiện nay dịch vụ ngân hàng của các NHTMCP Việt Nam còn đơn điệu, nghèo nàn, tính tiện lợi chưa cao, chưa tạo thuận lợi và cơ hội bình đẳng cho khách hàng thuộc các thành phần kinh tế trong việc tiếp cận và sử dụng dịch vụ ngân hàng. Tín dụng vẫn là hoạt động kinh doanh chủ yếu tạo thu nhập cho các ngân hàng; các nghiệp vụ mới như thanh toán dịch vụ qua ngân hàng, môi giới kinh doanh, tư vấn dự án chưa phát triển. Bên cạnh đó, phần lớn các NHTMCP thiếu chiến lược kinh doanh hiệu quả và bền vững. Hoạt động kiểm tra, kiểm toán nội bộ còn yếu, thiếu tính độc lập; hệ thống thông tin báo cáo tài chính, kế toán và thông tin quản lý (MIS) còn chưa đạt tới các chuẩn mực và thông lệ quốc tế. Đội ngũ lao động của các ngân hàng thương mại Việt Nam khá đông nhưng trình độ chuyên môn nghiệp vụ chưa đáp ứng các yêu cầu trong quá trình hội nhập. Không có hệ thống khuyến khích hợp lý để thu hút nhân tài và áp dụng công nghệ hiện đại. Cơ cấu tổ chức trong nội bộ nhiều ngân hàng thương mại lạc hậu, không phù hợp với các chuẩn mực quản lý hiện đại đã được áp dụng phổ biến từ nhiều năm nay ở các nước. 2.2. Thực trạng hoạt động phân tích tín dụng tại các Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam hiện nay Hoạt động tín dụng vẫn là hoạt động chủ yếu và mang lại phần lớn lợi nhuận cho các NHTMCP, đồng thời cũng là hoạt động mang lại nhiều rủi ro nhất. Thông qua hoạt động cho vay, NHTMCP góp phần tạo điều kiện cho các đơn vị, tổ chức, hộ gia đình hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ thúc đẩy sự phát triển chung của nền kinh tế. Tuy nhiên, tác dụng thúc đẩy kinh tế và phát triển tạo thu nhập ổn định của các NHTM chỉ thực sự có được nếu các khoản cho vay của ngân hàng đảm bảo an toàn. Do những biến đổi về môi trường kinh tế, cũng như sự thay đổi các điều kiện về pháp luật có liên quan đã tác động đến chất lượng hoạt động cho vay và tình hình đảm bảo an toàn trong cho vay của các NHTMCP. Nhiều khoản nợ khó đòi đã và đang tác động tiêu cực đến hiệu quả hoạt động của các NHTMCP Việt Nam. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến hạn chế trong an toàn cho vay của các NHTMCP trong những năm vừa qua trong đó có các nguyên nhân từ chính những tồn tại trong quá trình xây dựng và thực hiện các quy chế về đảm bảo tiền vay, sự hạn chế trong trình độ phân tích và nội dung của hoạt động phân tích tín dụng. Năng lực tài chính của nhiều ngân hàng còn yếu, nợ quá hạn cao, còn nhiều rủi ro. Khối ngân hàng thương mại cổ phần với 37 ngân hàng chỉ chiếm 11% tổng nguồn vốn huy động và 10% thị phần tín dụng. Trong khi đó, Nhóm ngân hàng thương mại nhà nước (5 ngân hàng) chiếm gần 76% tổng nguồn vốn huy động và 80% thị phần tín dụng, nhóm chi nhánh các ngân hàng nước ngoài và liên doanh (30 ngân hàng) có tiềm lực khá mạnh với khoảng 30% vốn chủ sở hữu trong hệ thống ngân hàng thương mại đang hoạt động tại Việt Nam. Sau khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài và liên doanh bắt đầu cho vay thận trọng hơn nên chỉ chiếm khoảng 10% thị phần tín dụng, nhưng nhìn chung họ có ưu thế hơn các ngân hàng Việt Nam về công nghệ, loại hình dịch vụ, chiến lược khách hàng, hiệu quả hoạt động và chất lượng tài sản. Cạnh tranh trong lĩnh vực tín dụng giữa các ngân hàng thương mại cổ phần cũng bắt đầu có những sự thay đổi. Các ngân hàng bắt đầu hướng sang những phân đoạn thị trường mới, đặc biệt là thị trường cho vay tiêu dùng như thị trường cho vay mua ô tô trả góp với sự tham gia của những ngân hàng như NHTMCP Quân đội, NH TMCP Quốc tế, NH TMCP Kỹ thương, NH TMCP á Châu, NHTMCP các doanh nghiệp ngoàI quốc doanh, NHTMCP SàI Gòn Thương tín… NHTMCP Kỹ thương hướng tới tàI trợ cho các hộ kinh doanh cá thể, NHTMCP á Châu đưa ra dịch vụ “Cho vay hoán đổi nhà”, dịch vụ “Hỗ trợ tàI chính cho du học sinh”… 2.3.Đánh giá chung về phân tích tín dụng của hệ thống Ngân hàng thương mại cố phần Việt Nam 2.3.1.Kết quả đã đạt được Trong quá trình phát triển, mặc dù gặp không ít khó khăn nhưng với sự nỗ lực không ngừng, hệ thống NHTMCP cũng đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Dư nợ cho vay liên tục tăng đồng thời chất lượng tín dụng cũng tăng. Để đẩy mạnh hoạt động tín dụng, các NHTMCP không ngừng củng cố và nâng cao vai trò công tác phân tích, đánh giá khách hàng trong hoạt động tín dụng nói chung và trong hoạt động tín dụng doanh nghiệp nói riêng. Những thành công của hệ thống NHTMCP trong công tác phân tích, đánh giá doanh nghiệp vay vốn thể hiện ở chất lượng của hoạt động tín dụng doanh nghiệp, được thể hiện cụ thể hơn ở các chi tiêu: doanh số cho vay, doanh số thu nợ, dư nợ cho vay đều tăng mạnh trong các năm qua đồng thời nợ quá hạn giảm xuống chiếm tỷ lệ thấp trong tổng dư nợ. Chất lượng tín dụng của các NHTMCP gần đây đã có những cảI thiện đáng kể nhưng vẫn còn nhiều hạn chế. Tỷ lệ nợ quá hạn của các NHTMCP trong những năm gần đây giảm đáng kể, làm cho tình hình hoạt động của các ngân hàng này lành mạnh hơn nhiều. Nhiều NHTMCP có tỷ lệ nợ quá hạn dưới 2%. Tỷ lệ nợ quá hạn của các NHTMCP năm 2003 chỉ chiếm 6.35% tổng nợ quá hạn của toàn hệ thống, giảm 7.25% so với năm 2002 và 10.45% so với năm 2001. Qua đó thấy các NHTMCP đã tập trung thu hồi nợ quá hạn và quan tâm nâng cao chất lượng tín dụng. Tuy nhiên tỷ lệ 6.35% nợ quá hạn trên tổng dư nợ vẫn là một con số đáng lo ngại. Thêm vào đó, tỷ lệ này mới chỉ tính toán trên cơ sở VAS, chưa được xác định theo tiêu chuẩn kế toán quốc tế (IAS) nên chưa phản ánh chính xác mức độ rủi ro mà thực tế các ngân hàng này phải đối mặt. Ngoài ra, trong công tác phân tích tín dụng doanh nghiệp, các ngân hàng cũng đã tổ chức một cách hợp lý, phân công rõ ràngvề nhiệm vụ và trách nhiệm của từng cán bộ, tạo sự thuận lợi cho các cán bộ tín dụng làm nhiệm vụ thẩm định. Hơn nữa, cán bộ tín dụng của các NHTMCP chủ yếu là những cán bộ trẻ, năng động, nhiệt tình, tận tâm, không ngừng trau dồi học hỏi trong công việc. Bằng sự cẩn trọng của mình, họ đã giúp các doanh nghiệp thoả mãn được yêu cầu vay vốn sản xuất kinh doanh, khiến cho ngân hàng hài lòng và tin tưởng khi lựa chọn ngân hàng. Thành công trong công tác phân tích, đánh giá khách hàng trong hoạt động tín dụng doanh nghiệp của ngân hàng còn thể hiện ở mặt thời gianthực hiện. Trong thời gian phân tích, đánh giá doanh nghiệp của các ngân hàng đều tương đối nhanh chóng, thủ tục đầy đủ mà không rườm rà, giúp các doanh nghiệp đảm bảo thực hiện tốt hoạt động sản xuất kinh doanh mà qua đó còn tạo lòng tin của khách hàng đối với các ngân hàng. Ngoài ra, những thành tựu trong khoa học kỹ thuật, trong lĩnh vực công nghệ, điện tử, thông tin cũng góp phần đáng kể vào thành công trong công tác thẩm định tín dụng nói chung và thẩm định tín dụng doanh nghiệp nói riêng. Nhờ có những kỹ thuật hiện đại này mà các ngân hàng có thể rút ngắn được thời gian thu thập và xử lý thông tin về doanh nghiệp và đảm bảo được sự chính xác thông tin về doanh nghiệp. Hơn nữa, nhờ có các chương trình trên máy tính, các ngân hàng có thể tính toán các hệ số tài chính doanh nghiệp và hiệu quả kinh tế của các phương án kinh doanh hoặc dự án đầu tư của doanh nghiệp nhanh chóng, qua đó rút ngắn thời gian thẩm định doanh nghiệp. 2.3.2.Một số hạn chế và nguyên nhân Nhìn chung, công tác phân tích tín dụng của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam hiện nay còn gặp phải một số hạn chế như sau: 2.3.2.1. Do nguyên nhân khách quan * Một trong những điểm yếu của hệ thống NHTMCP là sự hạn chế về quy mô vốn tự có. Với mức vốn tự có hạn chế như vậy, các NHTMCP khác phải chịu sự quản lý chặt chẽ của Ngân hàng Nhà nước thông qua các tỷ lệ ràng buộc với vốn tự có. Cụ thể, mức huy động tiền gửi không quá 20 lần vốn tự có, mức cho vay không được quá 15% vốn tự có, đầu tư vào tài sản cố định không được quá 50% vốn tự có, tỷ lệ vốn tự có trên tổng tài sản điều chỉnh rủi ro tối thiểu phải đạt 8%. Như vậy, Ngân hàng không thể huy động nguồn vốn vượt quá các chỉ tiêu trên, kéo theo đó hoạt động tín dụng cũng bị hạn chế trong khuôn khổ nhất định. Nếu lượng vốn cho vay bị hạn chế thì các NHTMCP khó có thể đáp ứng thoả đáng thị trường mục tiêu của mình. *Hạn chế còn tồn tại của trung tâm thông tin tín dụng CIC CIC được thành lập để tạo ra một nguồn dữ liệu về doanh nghiệp cho các tổ chức tín dụng thành viên cùng khai thác, sử dụng để góp phần nâng cao chất lượng tín dụng nhưng thực tế là các thông tin cung cấp còn chưa đầy đủ, có những thông tin chưa chính xác, gây khó khăn cho các ngân hàng thành viên khi muốn tìm hiểu về một khách hàng mới. 2.3.2.2. Do nguyên nhân chủ quan * Hạn chế trong quy trình phân tích tín dụng doanh nghiệp của ngân hàng Nội dung quy trình phân tích tín dụng của NHTMCP đang thực hiện còn chưa đầy đủ, đôi khi còn thiếu những nội dung phân tích cơ bản. Các đánh giá của cán bộ tín dụng ngân hàng mới thường dừng lại ở việc tính toán các chỉ tiêu tàI chính mà không có sự so sánh với những doanh nghiệp đang hoạt động trong cùng lĩnh vực, so sánh với tương quan ngành. Hơn nữa, hoàn toàn không có sự phân tích các báo cáo lưu chuyển tiền tệ và phân tích điểm hoà vốn của doanh nghiệp. Đây cũng là những nội dung hết sức quan trọng khi thẩm định tình hình tàI chính doanh nghiệp. *Hạn chế do ngân hàng thiếu sự giám sát chặt chẽ công tác phân tích tín dụng doanh nghiệp Bộ phận kiểm tra nội bộ của ngân hàng với số lượng cán bộ còn ít trong khi khối lượng công việc lại nhiều, nhất là trong điều kiện hoạt động tín dụng của ngân hàng ngày càng phát triển nên việc kiểm tra công tác phân tích tín dụng của các cán bộ tín dụng còn chưa thường xuyên và chưa chặt chẽ. ở các ngân hàng, định kỳ, phòng kiểm tra nội bộ yêu cầu các cán bộ tín dụng báo cáo tình hình cho vay và thu hồi nợ đối với các doanh nghiệp đang vay vốn, đồng thời báo cáo tình hình thẩm định đối với các doanh nghiệp đang đề nghị vay; tuy nhiên, việc kiểm tra này chỉ là trên giấy tờ chứ cán bộ không kiểm tra trực tiếp đối với cán bộ tín dụng và doanh nghiệp. Vì vậy, chất lượng hoạt động kiểm tra không được bảo đảm, cán bộ kiểm tra không chỉ ra hết các sai sót trong quy trình tín dụng của cán bộ tín dụng. *Hạn chế do đội ngũ cán bộ tín dụng mỏng Để ra quyết định cho vay với khách hàng, các ngân hàng phải tiến hành một quy trình phân tích tín dụng rất phức tạp trong tình trạng đội ngũ cán bộ tín dụng còn mỏng lại phải đảm đương một khối lượng công việc lớn nên việc phân tích còn nặng về tính toán máy móc mà chưa đi sâu vào phân tích. Hiện nay, ở hầu hết các NHTMCP, mỗi cán bộ tín dụng phải phụ trách trung bình trên 10 khách hàng, đồng thời lại phải cố gắng tìm kiếm khách hàng mới để hoàn thành chỉ tiêu tín dụng được giao. *Hạn chế do trình độ nghiệp vụ và kinh nghiệm của các cán bộ tín dụng Nhân tố con người là nhân tố quyết định đến sự thành bại của công việc. Tại các NHTMCP, đội ngũ cán bộ tín dụng hầu hết là những cán bộ trẻ, năng động, tuy nhiên đây cũng chính là một điểm hạn chế. Do khách hàng doanh nghiệp có đặc điểm là ngành nghề kinh doanh đa dạng, một khách hàng có thể hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác nhau nên hầu hết các NHTMCP không thể phân chia đội ngũ cán bộ tín dụng theo ngành nghề như mô hình của một số NHTM lớn vì sẽ gây chồng chéo, lãng phí nguồn nhân lực. Điều này đòi hỏi một cán bộ tín dụng phải am hiểu nhiều lĩnh vực, kiến thực sâu rộng và kinh nghiệm làm việc, đây là những yêu cầu mà không phải cán bộ tín dụng nào cũng có, đặc biệt là lớp cán bộ trẻ của ngân hàng. *Hạn chế do kinh phí Việc thành lập một cơ sở dữ liệu riêng về khách hàng đòi hỏi kinh phí, nhân lực, công nghệ mà chưa phải là ngân hàng nào cũng làm ngay được. Cũng như vậy, để có được một bảng xếp hạng tín dụng chi tiết cho từng ngành nghề hay quy mô doanh nghiệp, thời hạn vay… cũng cần có thời gian dài, chi phí lớn, 3.Giải pháp hoàn thiện phân tích tín dụng trong hoạt động của các Ngân hàng Thương mại cổ phần Việt Nam 3.1.Giải pháp nâng cao chất lượng công tác thu thập thông tin Nguồn thông tin là một yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng của công tác phân tích đánh giá khách hàng trong hoạt động tín dụng, đặc biệt là tín dụng doanh nghiệp. Thông tin đầy đủ là cơ sở cần thiết để cán bộ tín dụng có thể phân tích và đưa ra nhận định chính xác về khách hàng, từ đó có những quyết định hợp lý trong việc đáp ứng nhu cầu cho vay của khách hàng. Ngoài ra nguồn thông tin đầy đủ cũng giúp ngân hàng nắm bắt được diễn biến của thị trường trong nước và quốc tế, những biến động kinh tế và những thay đổi trong chủ trương, chính sách phát triển kinh tế của Nhà nước, từ đó ngân hàng đề ra những biện pháp kịp thời, nhằm điều chỉnh các hoạt động tránh những rủi ro thiệt hại và ổn định để phát triển. Do đó, cần thiết phải có những giải pháp để nâng cao hơn nữa chất lượng công tác thu thập thông tin. Nguồn thông tin mà các ngân hàng hiện nay sử dụng để phân tích, đánh giá doanh nghiệp bao gồm: thông tin từ bộ hồ sơ của doanh nghiệp gửi đến, thông tin lưu trữ tại ngân hàng, thông tin từ kiểm tra thực tế, phỏng vấn chủ doanh nghiệp và công nhân viên đang làm việc tại doanh nghiệp. Những thông tin này do ngân hàng tự tìm hiểu, do vậy đôi khi còn thiếu tính trọn vẹn và thiếu tính khách quan. Trong khi đó, các thông tin từ các tổ chức chuyên cung cấp tin vẫn chưa được các ngân hàng tận dụng khai thác hoặc có khai thác nhưng còn chưa được triệt để như thông tin từ trung tâm phòng ngừa rủi ro, từ báo chí…thậm chí ngay cả thông tin từ các ngân hàng bạn. Hiện nay, tại các phòng tín dụng ở các ngân hàng đều có máy tính nhưng chủ yếu được sử dụng để đánh văn bản, không có các phần mềm chuyên biệt phục vụ cho công tác phân tích đánh giá doanh nghiệp. Vì vậy, để nâng cao chất lượng công tác phân tích, đánh giá doanh nghiệp, trong thời gian tới, các ngân hàng cần thiết phải đầu tư hoàn thiện hệ thống thu thập thông tin, để có được nguồn thông tin có chất lượng cao hơn, giúp công tác phân tích, đánh giá doanh nghiệp được chính xác và hiệu quả hơn. Các ngân hàng phải thiết lập hệ thống thu thập thông tin từ các cơ quan báo chí như Báo kinh tế, Tạp chí ngân hàng, Tạp chí Khoa học và đào tạo ngân hàng…Trong trường hợp đặc biệt cần thiết, các ngân hàng nên tính đến việc mua thông tin để đảm bảo có được thông tin có chất lượng cao. Đồng thời, ngân hàng cũng cần phải trang bị các thiết bị kế nối internet, thiết bị kết nối với trung tâm thông tin thương mại, trung tâm phòng ngừa rủi ro để có được những thông tin đầy đủ và cập nhật về các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp đang có nhu cầu vay vốn tại ngân hàng. Các ngân hàng cũng cần hoàn thiện hệ thống thông tin báo cáo nội bộ, đồng thời xây dựng một hệ thống thu thập, xử lý và lưu trữ dữ liệu riêng phục vụ cho công tác thẩm định. Bên cạnh đó, các ngân hàng cũng cần tăng cường quan hệ hợp tác thường xuyên với nhau, với Ngân hàng Nhà nước, các Bộ, nghành, các cơ quan, tổ chức khác để khai thác, trao đổi thông tin cần thiết trong mọi lĩnh vực kinh tế-xã hội, kể cả những thông tin, kinh nghiệm, kỹ năng quy trình nghiệp vụ thẩm định. Các ngân hàng nên nghiện cứu thử nghiệm một số biện pháp đang được áp dụng tại các nước phát triển như: xây dựng tập trung và thường xuyên cập nhật ngân hàng dữ liệu các thông tin kinh tế kỹ thuật ( có thể dưới dạng một Website), trong đó có các thông tin như dự báo phát triển các nghành, lĩnh vực, xu hướng diễn biến tỷ giá và giá cả trên thị trường, tỉ suất đầu tư và tỷ suất lợi nhuận bình quân của một ngành, của các loại sản phẩm chủ yếu, những dự án bị từ chối và những khách hàng bị từ chối và những khách hàng có vấn đề cần lưu ý để phục vụ cho công tác thẩm định và tín dụng của toàn hệ thống. 3.2.Giải pháp về tổ chức điều hành công tác phân tích, đánh giá doanh nghiệp trong hoạt động tín dụng doanh nghiệp Tổ chức công tác thẩm định là một vấn đề quan trọng đối với bất kì ngân hàng thương mại nào. Tổ chức, điều hành công tác phân tích, đánh giá doanh nghiệp cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng, nó không chỉ giúp làm giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng mà còn tạo điều kiện cho hoạt động tín dụng doanh nghiệp của ngân hàng một phát triển…Nếu tổ chức, điều hành tốt thì sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho công tác thẩm định. Tổ chức đội ngũ cán bộ thẩm định phải bố trí sao cho hợp lý, tránh sự chồng chéo, đảm bảo sắp xếp các cán bộ đủ trình đủ, năng lực chuyên môn, trách nhiệm làm công việc này. Trong phân công các bộ tín dụng cũng cần căn cứ vào trình độ, khả năng, kinh nghiệm, thế mạnh của từng người để công tác phân tích đạt kết quả cao nhất. Không nên phân công cán bộ thẩm định phụ trách khối doanh nghiệp trong và ngoài quốc doanh như hiện nay mà nên phân theo nghành nghề, mỗi cán bộ tín dụng phụ trách những nghành nghề khác nhau và cho cán bộ đi tìm hiểu, học tập về các loịa ngành nghề đó nhằm tiến tới chuyên môn hoá trong công tác thẩm định. Các ngân hàng nên tập trung hoá-phân cấp một cách hợp lý và chuyên môn hoá hoạt động của các hội đồng thẩm định-tín dụng, mỗi tổ chức tín dụng cần rà soát và điều chỉnh mức phán quyết trong hệ thống để có sự phân cấp phù hợp. Đối với các dự án lớn, phức tạp nên được xem xét tập trung thông qua một hội đồng thẩm định có đủ số lượng các chuyên gia có trình độ cao và nhiều kinh nghiệm thực tế để đảm bảo năng lực xem xét đánh giá tương đối chuẩn xác về các mặt nội dung của dự án. Với cách làm như trên sẽ có thể phần nào khắc phục được tình trạng hiện nay là việc tổ chức thẩm định và cho vay chủ yếu dựa trên sự phân công cho từng cá nhân cán bộ và cán bộ phụ trách xem xét, các hội đồng tín dụng đôi khi còn mang tính hình thức. Trong khi đó, một bộ phận cán bộ tín dụng của các ngân hàng chưa được đào tạo sâu và có hệ thống, có kinh nghiệm cần thiết lại bị quá tải vì phải xem xét theo dõi khối lượng hồ sơ xin vay và khách hàng. Do vậy, khi phải thực hiện thẩm định dự án áp dụng cộng nghệ cao, sản phẩm và thị trường có nhiều đặc thù hoặc chủ yếu mới chỉ đanh cho xuất khẩu nhưng thiếu thông tin để tham khảo sẽ lúng túng trong việc đề xuất ý kiến cho vay hay không cho vay. Các ngân hàng nên thực hiện chuyên môn hoá khi phân công nhân viên tín dụng phục vụ cho vay chuyên biệt một nhóm khách hàng nào đó. Hiện nay, ở nhiều ngân hàng, nhân viên tín dụng được phân theo thành phần kinh tế. điều này sẽ rất khó khăn trong việc thu thập và xử lý thông tin tín dụng.Ví dụ, một nhân viên tín dụng cho vay doanh nghiệp nhà nước sẽ phải vừa cho vay sản xuất công nghiệp nặng, vừa phải cho vay sản xuất công nghiệp nhẹ. Một nhân viên tín dụng dù tài giỏi thế nào đi chăng nữa cũng không thể có hiểu biết sâu rộng về mọi lĩnh vực kinh doanh của nền kinh tế. Do vậy, để giảm thiểu rủi ro tín dụng cần thiết phải chuyên môn hóa đối với từng nhân viên tín dụng. Khi chuyên môn hoá đối với từng nhân viên, ngân hàng cần chia khách hàng theo từng nhóm có đặc điểm riêng. Trên cơ sở đó, căn cứ vào năng lực sở trường và kinh nghiệm của từng cán bộ tín dụng cụ thể để phân công mỗi người thực hiện cho vay một loại khách hàng nhất định. Ngoài ra, để tạo điều kiện thuận lợi cho nhân viên tín dụng có thể hiều biết sâu sắc về khách hàng, ngân hàng cần hạn chế việc thay đổi nhân viên tín dụng phụ trách cho khách hàng vay vốn trong quá trình sắp xếp, phân công lại nhân viên.Chỉ nên thay đổi nhân viên tín dụng khi có những vấn đề ảnh hưởng không tốt đến quyền lợi của ngân hàng, bởi vì có những thông tin về khách hàng không được lưu trữ bằng văn bản hay vật mang tin nào (ví dụ thông tin từ thực tế cơ sở kinh doanh của doanh nghiệp, linh cảm. trực giác của nhân viên tín dụng trong quá trình tiếp xúc, quan hệ với khách hàng) mà khi thay đổi, bàn giao giữa các nhân viên tín dụng, nhữn thông tin trên có thể lãng phí. Việc chuyên môn hoá đối với từng nhân viên tín dụng vẫn đảm bảo được khả năng đa dạng hoá hoạt động đầu tư tín dụng ngân hàng, tránh rủi ro, làm tăng chất lượng và độ tin cậy các thông tin tín dụng, tạo cơ sở cho việc xây dựng cá mối quan hệ khách hàng lâu dài, đồng thời giảm chi phí trong công tác điều tra tìm hiểu khách hàng, thẩm định và phân tích khách hàng, giám sát khách hàng trong quá trình sử dụng tiền vay. Đồng thời, khi phân công cho cán bộ thẩm định, các ngân hàng cũng phải gắn quyền hạn và trách nhiệm trực tiếp của cán bộ đối với kết quả, chất lượng thẩm định. Cần có những biện pháp kiểm tra những sai sót và nhất là ngăn ngừa những hành vi cố tình làm sai của cán bộ thẩm định, tránh rủi ro đạo đức nghề nghiệp. Đối với những dự án có vốn đầu tư lớn, phức tạp, các ngân hàng nên tổ chức cho nhiều cán bộ cùng thực hiện phân tích đánh giá về tính chính xác của các số liệu tài chính mà các doanh nghiệp đưa ra, từ đó có quyết định cho vay đúng đắn. 3.3.Giải pháp về nhân lực Trong hoạt động ngân hàng, đặc biệt trong hoạt động tín dụng, tính phức tạp và rủi ro rất cao nên nhân tố con người đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Công tác phân tích, đánh giá doanh nghiệp là một nghiệp vụ quan trọng của hoạt động tín dụng doanh nghiệp nên càng đòi hỏi cán bộ ngân hàng thực hiện công việc này phải cso trình độ cao hơn trong các nghiệp vụ khác. Yêu cầu của công tác này đòi hỏi can bộ lãnh dạo cũng như cán bộ trực tiếp làm công tác thẩm định không chỉ có trình độ, năng lực chuyên môn nghiệp vụ mà còn có phẩm chất đạo đức, tinh thần trách nhiệm cao và có kinh nghiệm trong công tác. Họ phải có kỹ năng phân tích, am hiểu tường tận về nhiều linh vực kinh tế, nắm được luật pháp, tập quán và thực tiễn hoạt động các doanh nghiệp tại từng khu vực để có khả năng đưa ra các đánh giá chính xác về khách hàng, từ đó giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng. Do đó, để đáp ứng tốt hơn nhu cầu phát triển hoạt động tín dụng, các ngân hàng cần phải thực hiện các biện pháp nhằm nâng cao năng lực và trình độ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ tín dụng: - Lập kế hoạch bồi dưỡng, đào tạo cán bộ hợp lý như: tổ chức các lớp bồi dưỡng thường xuyên do lãnh đạo ngân hàng trực tiếp giảng dạy hoặc mời các giảng viên có kinh nghiệm và trình độ từ các trường đại học, từ trung tâm điều hành, tổ chức thường xuyên các buổi thảo luận, học hỏi kinh nghiệm lân nhau và học tập tùe cá ngân hàng tiến tiến. - Ngoài ra, các ngân hàng còn cần tìm hiểu năng lực, sở trường của từng cán bộ tín dụng để để bạt, bố trí, quản lý sử dụng cán bộ thực hiện nghiệp vụ nàyphù hợp, phát huy tốt nhất khả năng của mỗi cán bộ nhằm đem lại hiệu quả cao trong công tác, ngăn ngừa rủi ro xảy ra. - Thực hiện tốt công tác tuyển dụng cán bộ ngân hàng nói chung cũng như cán bộ tín dụng nói riêng. Các ngân hàng cần đặt ra các điều kiện và yêu cầu tối thiểu về trình độ và kinh nghiệm trong công tác tuyển dụng. - Các ngân hàng cần có chính sách thu hút và ưu đãi các chuyên gia giỏi để thu hút được đội ngũ này về làm việc cho ngân hàng hoặc mời về làm cố vấn,cộng tác viên trong hoạt động tín dụng của ngân hàng. - Khuyến khích các cán bộ ngân hàng tự học tập, nâng cao kiến thức chuyên môn, ngoại ngữ, tin học…Các ngân hàng có thể trích kinh phí hỗ trợ học tập hoặc khuyến khích bằng cách tạo các cơ hội phát triển để cho nhân viên phấn đấu. Các giải pháp về nhân lực cần được các ngân hàng thực hiện sớm để có một lực lượng cán bộ ngân hàng có trinh độ và kinh nghiệm tốt, giúp ích cho quá trình phát triển của ngân hàng trong giai đoạn mới. 3.4.Giải pháp về xây dựng chiến lược khách hàng Công tác phân tích đánh giá khách hàng trong hoạt động tín dụng doanh nghiệp có đạt được hiệu quả cao hay không, một phần phụ thuộc vào doanh nghiệp. Nếu quan hệ của ngân hàng và doanh nghiệp tốt đẹp và bền vững, thì việc cung cấp các khoản cho vay nhằm thoả mãn nhu cầu của doanh nghiệp sẽ trở nên đơn giản rất nhiều. Do vậy, ngân hàng cần phải xây dựng cho mình một chiến lược khách hàng phù hợp. Trước hết các ngân hàng cần phải củng cố và phát triển khách hàng truyền thống. Sở dĩ các ngân hàng cần phải xây dựng cho mình một chính sách khách hàng lâu dài vì việc thiết lập một mối quan hệ lâu dài giữa khách hàng và ngân hàng quyết định sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Thông qua mối quan hệ lâu dài với khách hàng, các ngân hàng sẽ có điều kiện tham gia vào các hoạt động của doanh nghiệp, làm công tác tư vấn giúp các doanh nghiệp phân tích, xem xét về mặt tài chính và các cơ hội đầu tư thực hiện sản xuất kinh doanh. Như vậy, bên cạnh việc duy trì được mối quan hệ làm ăn lâu dài, đay cũng là cách tốt nhất để ngân hàng thực hiện tốt công tác thẩm định doanh nghiệp. Bên cạnh đó, các ngân hang cũng cần mở rộng có chọn lọc đối với khách hàng. Các ngân hàng nên tích cực bằng mọi biện pháp thu hút khách hàng thuộc mọi thành phần kinh tế, bởi đây là những khách hàng tiềm năng đang ngày càng lớn mạnh trong nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, đối với những khách hàng mới, không phải khách hàng truyền thống, thì việc thẩm định cũng có phần khó khăn hơn, tính rủi ro cao hơn nên ngân hàng cần lưu ý thẩm định một cách đầy đủ, cẩn thận để đảm bảo chất lượng tín dụng. Ngoài ra, các ngân hàng cùng cần tư vấn giúp khách hàng trong hạot động đầu tư, sản xuất kinh doanh. Một trong những yêu cầu mà doanh nghiệp phải thực hiện để được vay vốn ngân hàng là khách hàng phải có những phương án, dự án khả thi. Đối với những doanh nghiệp lớn có kinh nghiệm thì việc xây dựng các dự án hay phương án vay thường không gặp mấy khó khăn. Tuy nhiên, đối với những doanh nghiệp vừa và nhỏ hay doanh nghiệp tư nhân do năng lực và trình độ quản trị kinh doanh của đội ngũ quản lý doanh nghiệp còn nhiều hạn chế, ít được đào tạo cơ bản và lại chưa có nhiều kinh nghiệm thì để xây dựng được một dự án đầu tư khả thi không phải dễ dàng. Do vậy, các doanh nghiệp này còn gặp nhiều lúng túng, hạn chế trong việc xây dựng các dự án, phương án kinh doanh khả thi, có hiệu quả theo yêu cầu của ngân hàng đề ra. Nhiều dự án đưa đến ngân hàng được lập rất sơ sài, tính toán theo kiểu thu chi đơn thuần, không phản ánh hết nọi dung của dự án cũng như hiệu quả mà dự án sẽ đem lại. Vì vậy, việc lập phương án hay dự án đều cần đến sự tư vấn của ngân hàng giúp khách hàng lựa chọn được những dự án hiệu quả, loại bỏ những dự án không có tính khả thi. Với cách làm này, các ngân hàng cũng có thể chủ động tìm kiếm và khai thác các dự án có tính khả thi để ra quyết định cho vay. Đây cũng chính là điều kiện cần thiết để nâng cao chất lượng công tác thẩm định, đông thời cũng là lá chắn tốt nhất đối với những rủi ro từ phía khách hàng đối với hoạt động tín dụng của ngân hàng. 3.5.Giải pháp về công nghệ- trang thiết bị và phương tiện Công nghệ trang thiết bị đối với hoạt động của bất kì một ngân hàng nào cũng là một vấn đề hết sức quan trọng. Nó là phần lợi thế tạo ra cạnh tranh và là điều kiện cần thiết cho sự phát triển của mỗi ngân hàng. Các ngân hàng hiện đại trên thế giới đang ngày càng phát triển mạnh mẽ, hầu hết hiện nay họ đều tăng cường đầu tư cải tiến trang thiết bị và công nghệ nhằm làm gia tăng chất lượng phục vụ đẻ thu hút khách hàng về phía mình. Đối với công tác phân tích, đánh giá khách hàng trong hoạt động tín dụng doanh nghiệp, công nghệ-trang thiết bị có ý nghĩa rất lớn trong quá trình thu thập, lưu trữ và xử lý thông tin về doanh nghiệp. Công nghệ và trang thiết bị hiện đại sẽ giúp cán bộ tín dụng tiếp cận thông tin một cách nhanh chóng, chính xác và đầy đủ hơn. Cụ thể, với công nghệ trang thiết bị hiện đại, các ngân hàng có thể kết nối trực tiếp với các tổ chức chuyên cung cấp thông tin, hoặc kết nối với các ngân hàng khác, từ đó có thể có được thông tin 24/24 về doanh nghiệp, về thị trường trong và ngoài nước…Ngoài ra, trang thiết bị và phương tiện tốt là điều kiện cần thiết để cán bộ tín dụng làm việc có hiệu quả hơn. Để hỗ trợ công tác phân tích, đánh giá khách hàng và đặc biệt là doanh nghiệp thì các ngân hàng nên: - Đầu tư có chiều sâu vào các trang thiết bị thuộc hệ thống thu thập thông tin của ngân hàng: máy vi tính kết nối mạng internet, kết nối mạng nội bộ với các phòng và các ngân hàng trong cùng hệ thống, mạng cục bộ với các phòng giao dịch, trung tâm thông tin thương mại, trung tâm phòng ngừa rủi ro và các ngân hàng khác ngoài hệ thống. - Đầu tư cơ sở vật chất phục vụ công việc như: bàn ghế, máy tính, ôtô… với số lượng phù hợp với điều kiện làm việc của từng cán bộ tín dụng. Nếu là trưởng phòng, cần phải trang bị máy tính cá nhân hoặc máy tính xách tay riêng, ôtô phải đảm bảo nhu cầu sử dụng của các cán bộ tín dụng khi đi kiểm tra đơn vị. - Tìm hiểu khai thác những công nghệ, phần mềm mới trong lĩnh vực ngân hàng giúp giảm bớt các công đoạn trong quá tring thực hiện thẩm định, đẩy nhanh tốc độ thẩm định doanh nghiệp trong hoạt động tín dụng. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện giải pháp đầu tư vào công nghệ-trang thiết bị và phương tiện, cần phải có sự cân nhắc kỹ lưỡng, đảm bảo được hiệu quả đồng thời không gây nên lãng phí và phù hợp với từng giai đoạn phát triển của ngân hàng. 3.6.Giải pháp hỗ trợ thẩm định Trước hết, các ngân hàng nên lập quỹ hỗ trợ cho thẩm định. Bản thân lãnh đạo các ngân hàng và các cán bộ tín dụng làm công tác thẩm định doanh nghiệp đều thấy được sự cần thiết của những khoản chi phí hỗ trợ. Vì mặc dù còn lẻ tẻ, không thường xuyên song nó cũng đã hỗ trợ được phần nào chi phí cho công việc thẩm định của cán bộ tín dụng như: chi phí đi thực tế tại các doanh nghiệp, chi phí đi thu thập và tìm hiểu thông tin…Do vậy, các ngân hàng nên xem xét và lập ra một quỹ riêng để chi cho công tác thẩm định, nó sẽ góp phần làm giảm bớt khó khăn cho cán bộ tín dụng khi tiến hành thẩm định. Kinh phí hỗ trợ cho cán bộ tín dụng đi kiểm tra thực tế tại doanh nghiệp là nguồn khuyến khích vật chất, làm tăng tinh thần trách nhiệm của họ đối với công tác của mình. Những hỗ trợ này trước mắt có thể làm tăng chi phí cho ngân hàng, nhưng xét về lâu dài, đay chính là động lực thúc đẩy cho ngân hàng phát triển. Bên cạnh đó, các ngân hàng cũng cần thường xuyên kiểm tra giám sát sau giải ngân. Các phòng kiểm tra, kiểm soát tại ngân hàng phải tăng cường hoạt động kiểm tra, kiểm soát lại công tác phân tích, đánh giá doanh nghiệp sau khi cho vay: kiểm tra hồ sơ cho vay để đánh giá những khoản đã cho vay có cần chỉnh sửa, bổ sung những gì không? Phân tích, đánh giá những khoản đã cho vay để làm cơ sở chắc chắn cho những khoản vay tiếp theo, tiến hành phân loại các khoản nợ và phân loại dư nợ, tổ chức kiểm tra chéo áp dụng các biện pháp cụ thể để xử lý các khoản nợ có vấn đề, tăng cường việc kiểm tra sư dụng vốn của doanh nghiệp, giám sát việc kiểm tra quá trình đầu tư vốn. Những sai sót phát hiện đựoc chính là những bài học quý giá cho công tác phân tích, đánh giá khách hàng trong hoạt động tín dụng doanh nghiệp. Qua đó, nó sẽ giúp mỗi cán bộ thẩm định tự nâng cao trách nhiệm trong công việc của mình, từng bước hoàn thiện tốt hơn công tác thẩm định tại mỗi ngân hàng. KẾT LUẬN Như vậy cần nhận định rằng phân tích tín dụng rất quan trọng đối với hoạt động của bất kỳ ngân hàng thương mại cổ phần nào. Nó là nhân tố ảnh hưởng rất lớn tới quá trình ra quyết định tín dụng, của ngân hàng thương mại cổ phần. Do vậy việc phân tích tín dụng cũng nhằm mục tiêu đánh giá các rủi ro tín dụng có thể có từ đó nâng cao chất lượng các khoản tín dụng. Đối với các Ngân hàng Thương mại Cổ phần Việt Nam, quy trình phân tích tín dụng ngày càng được hoàn thiện và đã đạt được những kết quả đáng kể tuy nhiên còn rất nhiều việc phải làm. Đó chính là việc hoàn thiện phương pháp, chỉ tiêu phân tích tín dụng, hạn chế những nhược điểm, phát huy những ưu điểm để quy trình này có được ý nghĩa lý luận và thực tiễn đối với các Ngân Hàng Thương mại Cổ phần nước ta trong giai đoạn hiện nay và sắp tới.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32676.doc
Tài liệu liên quan