+ Nhập khẩu xoá bỏ tình trạng độc quyền toàn khu vực và trên thế giới, xoá bỏ nền kinh tế lạc hậu tự cung, tự cấp. Tiến tới sự hợp tác giữa các quốc gia là cầu nối thông suốt của nền kinh tế tiên tiến trong và ngoài nước, tạo lợi thế để phát huy lợi thế so sánh trên cơ sở CNH.
+ Nhập khẩu sẽ thúc đẩy sản xuất trong nước không ngừng vươn lên, không ngừng tìm tòi nghiên cứu để sản xuất ra hàng hoá có chất lượng cao, đảm bảo, tăng cường sức cạnh tranh với hàng ngoại.
+ Nhập khẩu sẽ tạo ra quá trình chuyển giao công nghệ, điều này tạo ra sự phát triển vượt bậc của nền sản xuất hàng hoá, tạo ra sự cân bằng giữa các quốc gia về trình độ sản xuất, tiết kiệm chi phí và thời gian.
Ngoài ra nhập khẩu còn có vai trò to lớn trong việc thúc đẩy xuất khẩu, góp phần nâng cao giá trị cũng như chất lượng hàng hoá xuất khẩu thông qua trao đổi hàng hoá đối lưu, giúp Việt Nam nhanh chóng hoà nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới tham gia nhiều tổ chức kinh tế đặc biệt vững bước để tham gia tổ chức thương mại thế giới WTO.
123 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1082 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoàn thiện quy trỡnh nhập khẩu nguyên liệu và thành phẩm tân dược tại Công ty TNHH Thăng Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tiện vận tải, các thiết bị chuyên dùng đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp hoạt động một cách hiệu quả hơn. Trong năm 2004 nguyên giá tài sản cố định là 768.945.000 tăng 36% so với năm 2003, năm 2005 là 1.242.564.000 tăng 61,6% so với năm 2004.
Nguyên nhân chính là từ năm 2003 đến năm 2005 công ty có mua một số thiết bị máy móc phục vụ cho việc đóng gói sản phẩm, và mua một xe tải phục vụ cho vận chuyển hàng hóa. Đây là việc làm rất cần thiết để đảm bảo cho công ty chủ động hơn trong việc kinh doanh. Tuy nhiên nó cũng ảnh hưởng đến một phần vốn kinh doanh của công ty.
Khấu hao tài sản cố định được tính là chi phí kinh doanh, nó ảnh hưởng đến lợi nhuận trong ngắn hạn và dài hạn. Năm 2003 khấu hao tài sản cố định chiếm 12,72% chi phí, năm 2004 chiếm 18,16% chi phí, năm 2005 chiếm 24,25% chi phí kinh doanh. Có thể nói năm 2005 khấu hao tài sản cố định nó ảnh hưởng rất lớn đến lợi nhuận của công ty, nhưng bù lại trong những năm tiếp theo có thể chi phí TSCĐ trên một sản phẩm bán ra của công ty sẽ giảm, điều đó tạo ra lợi thế cho công ty giảm chi phí kinh doanh của mình
5. Đặc điểm về nguồn vốn của công ty
Bảng 2: Đặc điểm nguồn vốn của công ty
Đơn vị tính : đồng
STT
Các chỉ tiêu
Năm
2003
2004
2005
1
Vốn tự bổ sung
232.500.000
345.650.000
521.760.000
2
Vốn cổ phần
1.000.000.000
1.300.000.000
1.300.000.000
Tổng vốn:
1.232.500.000
1.645.650.000
1.821.760.000
3
Tài sản cố định
378.860.880
497.757.930
834.694.890
4
Tài sản lưu động
4.127.986.550
4.568.995.700
4.321.588.620
5
Các khoản phải thu
2.175.662.000
1.938.557.600
2.244.575.680
6
Các khoản phải trả:
· Nợ ngắn hạn
· Nợ dài hạn
5.450.009.430
5.359.661.230
5.579.099.191
5.450.009.430
5.359.661.230
5.579.099.191
-
-
-
Tổng tài sản:
1.232.500.000
1.645.650.000
1.821.760.000
Tỷ suất lợi nhuận trên vốn năm 2003 là 32,13%, năm 2004 là 30,645%, năm 2005 là 28,86%. Nó phản ánh rằng cứ 100 đồng vốn trong một năm thì thu được bao nhiêu lợi nhuận. Ta thấy rằng lợi nhuận kinh doanh năm nay đều cao hơn năm trước nhưng , nhưng 100 đồng vốn bỏ ra khi kinh doanh năm 2003 thì thu được 32,13 đồng tiền lời còn năm 2004 chỉ thu được 30,65 đồng và năm 2005 là 28,86 đồng. Tức là tỷ suất lợi nhuận trên vốn đã giảm, nó phản ánh số vốn bỏ ra kinh doanh năm 2005 không hiệu quả bằng năm 2004, năm 2004 cũng không hiệu quả bằng năm 2003. Tài sản lưu động trên nợ ngắn hạn năm 2003 là 0,757, năm 2003 là 0,852, năm 2005 là 0,776. Nó phản ánh rằng công ty tương đối mạo hiểm trong kinh doanh, vì họ luôn để số vốn lưu động nhỏ hơn nợ ngắn hạn, nhưng trong bản số liệu ta nhận thấy rằng các khoản phải thu của công ty cũng rất lớn, nếu cộng số vốn lưu động và các khoản phải thu thì ta thấy trong các năm 2003, 2004 và 2005 đều lớn hơn số nợ ngắn hạn. Nó nói nên rằng công ty luôn tạo ra một khoảng cách an toàn cho các khoản nợ ngắn hạn phải trả của công ty.
II. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NHẬP KHẨU CỦA CÔNG TY TRONG THỜI GIAN QUA.
1. Đặc điểm các mặt hàng nhập khẩu của công ty
Trong thời gian hoạt động công ty lấy hàng nhập khẩu là mặt hàng kinh doanh chủ yếu, theo thống kê cho thấy số vốn lưu động của công ty năm 2005 có hơn 80% vốn lưu động phục vụ cho hàng nhập khẩu. Đồng thời mặt hàng kinh doanh của công ty là loại hàng đặc biệt (dược phẩm y tế và hàng tiêu dùng) cho nên việc kinh doanh nó có những quy định khắt khe hơn so với các mặt hàng thường khác.
Cụ thể là:
- Đối với mặt hàng thuốc: là mặt hàng chủ yếu nhập từ nước ngoài, muốn nhập khẩu phải có giấy phép do cục quản lý bộ y tế cấp hoặc 100% nhập khẩu phải nhập khẩu ủy thác qua cơ quan Nhà nước được nhập khẩu. Giấy phép nhập khẩu được chia ra làm hai loại là:
+ Xin visa: Là loại giấy phép do cục quản lý bộ y tế cấp đối với các loại thuốc mà trong đó hạn chế về thời gian nhập khẩu mà không hạn chế khối lượng nhập khẩu.
+ Giấy phép theo đơn hàng: Là loại giấy phép kèm theo đó doanh nghiệp phải lập đơn có số lượng cụ thể đẻ cục cấp giấy phép nhập theo đơn hàng. Theo loại này doanh nghiệp bị hạn chế về số lượng nhưng không đề cập đến vấn đề thời gian.
- Đối với các sản phẩm sâm: Đây là loại hàng mới trên thị trường Việt Nam nên nó có các đặc điểm sau:
+Tính cạnh tranh của sản phẩm này trên thị trường trong nước không cao.
+ Có rất ít doanh nghiệp trong nước kinh doanh sản phẩm này
+ Sự hiểu biết của nhân dân về sản phẩm này chưa cao.
+ Là một sản phẩm mới nên các sản phẩm sâm bị tranh chấp về quy định nó là hàng tiêu dùng hay dược phẩm.
2. Thị trường nhập khẩu (các nước bán)
Trong những năm gần đây nền kinh tế nước ta đã đạt những thành tựu đáng kể, thu nhập bình quân tính theo đầu người tăng đời sống nhân dân đi vào ổn định. Tuy nhiên nhu cầu tiêu dùng của nhân dân về các sản phẩm dược phẩm còn chưa cao, thị trường tiêu thụ trong nước bị bó hẹp. Điều này làm cho doanh nghiệp phải hướng thị trường nhập khẩu vào các thị trường truyền thống, thị trường nhập khẩu chính của công ty hiện nay là Nam Triều Tiên, Đông Âu
3. Khái quát tình hình ngoại thương của doanh nghiệp trong những năm gần đây
Trong cơ chế thị trường hiện nay, đòi hỏi các doanh nghiệp vừa và nhỏ, năng động trong vấn đề tìm ra hình thức kinh doanh phù hợp cũng như phải biết mở rộng thị trường và tìm nguồn hàng cung cấp. Là một công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty thương mại thăng long đã biết thích nghi với cơ chế đó, ngày càng quan hệ thương mại với nhiều hãng trên thế giới. Kết quả đó biểu thị ở bảng sau:
Bảng tổng hợp kim ngạch nhập khẩu
Đơn vị tính: Nghìn đồng
TT
Nhà cung cấp
2001
2002
2003
2004
2005
K.ngạch
K.ngạch
K.ngạch
K.ngạch
K.ngạch
1
Pháp
1801200
1700000
1935200
2089600
2885777
2
Nhật
3175200
3280000
2624000
3148800
3299306
3
Thụy sĩ
1275600
2121550
2970170
861980
1249511
4
Hàn quốc
3345220
6311280
11564155
19340657
5
Ấn Độ
1885000
2073500
2177175
1719566
6
Đức
286540
786260
1255463
Tổng số
6252000
12331770
16200690
20627970
29750280
Đầu năm 2001 công ty mới chỉ quan hệ mua bán với ba nước là Nhật, Pháp, Thụy sĩ, với kim ngạch nhập khẩu không đáng kể, tổng kim ngạch của ba nước mới đạt 6252000 nghìn đồng. Cho đến năm nay công ty đã mở rộng quan hệ thêm với nhiều nước như: Ấn Độ, Hàn Quốc, Đức làm cho tổng kim ngạch đã đạt tới 2750280 nghìn đồng. Mặt khác tỷ lệ kim ngạch nhập khẩu cũng có sự thay đổi giữa các nước qua các năm, công ty tham gia ngoại thương với Hàn Quốc là chủ yếu. Do nhu cầu của thị trường trong nước có sự biến đổi công ty đã chuyển dần thế mạnh từ kinh doanh dược phẩm sang kinh doanh hàng tiêu dùng, nhất là mặt hàng sâm của Hàn Quốc công ty đã mở rộng quan hệ với hãng samsung, pagin, kolon. Điều này chứng tỏ sự linh hoạt trong chính sách thị trường của công ty và đã giúp công ty đạt được những thành công đáng kể, kinh doanh ngày một hiệu quả hơn. Trên đây chúng ta chỉ thấy được tình hình buôn bán chung của công ty với các nước mà chúng ta chưa thấy được thành phần kim ngạch nhập khẩu của các hãng, để hiểu được điều này chúng ta xem xét bảng sau:
Bảng tổng hợp tình hình nhập khẩu theo đối tác cung cấp
Đơn vị tính: nghìn đồng
TT
Nhà cung cấp
2001
2002
2003
2004
2005
1
Roche (Pháp)
1128000
1048000
1152800
1268080
1366277
2
UPSA (Pháp)
5694000
652000
782400
821520
1100220
3
Rousel-morishta (Nhật)
3175200
3280000
2624000
3148800
4121211
4
Vipharco (Pháp)
103800
5
Caba-geigi (Thụy Sỹ)
1275600
2121550
2970170
861980
850712
6
H.dong (Hàn Quốc)
1757220
2635830
2984580
4115266
7
Samsung (HQ)
1588000
1905600
2096160
2513444
8
Deeparma (Án Độ)
1885000
2073500
2177175
2687231
9
Pagin (Hàn Quốc)
546386
4749891
9237370
10
Kolon (Hàn Quốc)
667344
567242
835266
11
Greencroos (HQ)
556120
611732
934721
12
Rotex (Đức)
286550
429810
499222
13
Siniphar (HQ)
278000
521334
14
Yuhan (HQ)
312550
545611
15
Fregenius (Đức)
356450
422345
Tổng số:
6252000
12331770
16200690
20627970
29750280
Cũng từ đầu năm 2001 công ty quan hệ mua bán với hãng Roche, UPSA, Vipharco (của Pháp) là chủ yếu. Do trong thời gian này công ty kinh doanh mặt hàng dược phẩm là chủ yếu, phạm vi buôn bán còn hạn hẹp nên công ty chỉ nhập thông qua nhập ủy thác một số mặt hàng thuốc của hãng trên. Trong quá trình hoạt động với khả năng huy động vốn của một công ty ngày một mở rộng các mặt hàng kinh doanh đồng thời mở rộng quan hệ ngoại thương với nhiều hãng hơn, nhờ vậy đến năm 2005 tổng kim ngạch nhập khẩu của công ty nên tới 29750280 nghìn đồng của 15 hãng là chủ yếu. Thông qua bảng trên chúng ta đã phần nào thấy được tình hình kinh doanh có hiệu quả của công ty, để hiểu hơn vấn đề đó chúng ta có thể xem qua bảng sau:
Bảng tăng trưởng kim ngạch nhập khẩu của công ty với các nước.
TT
Nhà cung cấp
2001
2002
2003
2004
2005
K.ngạch
%
%
%
%
%
1
Pháp
1801200
28,81
13,79
11,95
10,13
9,7
2
Nhật
3175200
50,79
26,60
16,20
15,26
11,09
3
Thụy sĩ
1275600
20,40
17,20
18,33
4,18
4,20
4
Hàn Quốc
27,13
38,96
56,06
65,01
5
Ấn độ
15,29
12,80
10,55
5,78
6
Đức
1,77
3,81
4,22
å
6252000
100
100
100
100
Đồng thời với việc mở rộng quan hệ ngoại thương với nhiều hãng trên nhiều nước khác nhau thì công ty cũng còn chú trọng đến các mặt hàng sản xuất nội địa. Mục tiêu của công ty là đa dạng hóa các mặt hàng nhằm thích nghi với sự thay đổi linh hoạt của thị trường.
4. Các phương thức thực hiện nhập khẩu
a. Nghiên cứu về sản phẩm
Để đáp ứng được sự biến động linh hoạt của thị trường công ty đã thành lập phòng nghiên cứu thị trường nhằm định hướng chiến lược sản phẩm của công ty trong năm kế hoạch (ví dụ như: Thu nhập, tình hình phát triển sức khỏe của nhân dân, các chính sách của Nhà nước trong những năm tới) để xây dựng nhóm sản phẩm mà doanh nghiệp sẽ tập trung khai thác. Từ những căn cứ trên mà doanh nghiệp nghiên cứu thị trường thế giới để chọn các sản phẩm cụ thể: sản phẩm này có tác dụng như thế nào? sản phẩm ở vùng giá nào? và đi đến chọn sản phẩm cuối cùng để nhập khẩu, và căn cứ vào các giao dịch để chọn hãng sẽ cung cấp sản phẩm.
Các nhân tố tác động đến sản phẩm
- Đối với dược phẩm: các sản phẩm có tuổi thọ nhất định, tuổi thọ ở đây không phải là thời hạn sử dụng mà là thời gian sản phẩm được xác định là có tác dụng, chưa có sản phẩm nào thay thế tốt hơn.
Nhà nước luôn luôn định hướng chăm sóc về sức khỏe nhân dân cho nên Nhà nước giao cho cơ quan chủ quản định hướng chi tiết các nhóm sản phẩm sẽ đáp ứng như: Danh mục thuốc thiết yếu, danh mục thuốc hạn chế nhập khẩu và danh mục cấm nhập khẩu.
b. Nghiên cứu về giá sản phẩm nhập khẩu
Khi nghiên cứu về giá hàng hóa công ty phải chú ý các vấn đề sau:
Khi tiến hành nghiên cứu về giá hàng nhập khẩu công ty đã chú ý đến các quy luật của kinh tế, giá cả sản phẩm phải phù hợp với giá của thị trường, quy luật giá cả và giá trị, và các quy luật khác.
Giá của sản phẩm mới thay sản phẩm cũ thì không thể lớn hơn giá sản phẩm cũ. Điều này cũng phù hợp với tự nhiên vì nếu sản phẩm mới mà có giá lớn hơn sản phẩm cũ thì nhu cầu tiêu dùng của sản phẩm cũ sẽ không quay sang sản phẩm mới.
Sản phẩm này sau khi nhập vào thị trường sẽ đáp ứng được bao nhiêu % thị trường với điều kiện tổng giá trị của nó không được vượt quá tổng giá trị sử dụng trong năm.
c. Nghiên cứu lựa chọn đối tác cung cấp
Việc lựa chọn đối tác cung cấp doanh nghiệp thường sử dụng các phương thức sau:
Công ty sử dụng hệ thống thương mại điện tử để chọn ra bạn hàng có nghĩa là công ty thông qua internet tìm hiểu thông tin để chọn hãng cung cấp, gửi thư điện tử cho họ và các thông tin của mình khác. Sau đó bên cung cấp sẽ gửi tài liệu cần thiết mà công ty đã yêu cầu cho công ty từ đó công ty ra quyết định chọn bạn hàng.
5. Đàm phán và ký kết hợp đồng của công ty
Trong quan hệ buôn bán thương mại các bên có thể sử dụng nhiều hình thức giao dịch để đi đến việc ký kết hợp đồng, ở công ty thương mại thăng long sử dụng phương thức giao dịch chủ yếu là phương thức giao dịch trực tiếp và phương thức giao dịch bằng thương mại điện tử.
Đồng thời với việc giao dịch trực tiếp thì công ty cũng sử dụng phương thức đàm phán trực tiếp. Cụ thể như:
- Công ty cử cán bộ trực tiếp sang bên nước bán để đàm phán khi có tín hiệu của bên bán
- Công ty gửi thư mời đại diện của hãng mà mình sẽ quan hệ buôn bán sang Việt Nam để trực tiếp đàm phán.
Phương thức giao dịch bằng thương mại điện tử là việc công ty gửi thư điện tử để trực tiếp đàm phán. Hình thức này công ty chỉ áp dụng đối với các bạn hàng đã quan hệ mua bán nhiều lần.
6. Các bước đàm phán và thực hiện hợp đồng mà công ty thường áp dụng
a. Các bước đàm phán
Các bước đàm phán trong quá trình mua bán quốc tế theo lý thuyết thì các bên phải tuân thủ theo đúng như đã định. Nhưng công ty đã linh hoạt sử dụng các bước đàm phán sau:
- Bên mua (công ty) đưa ra các yêu cầu về sản phẩm.
- Bên bán phải đáp ứng về yêu cầu sản phẩm của bên mua như: chủng loại, mẫu mã, bao bì của sản phẩm
- Các bên đàm phán về giá cả của sản phẩm đã đề cập.
- Các bên đàm phán về phương thức giao nhận hàng hóa
- Các bên đàm phán về phương thức thanh toán
- Các bên đàm phán về phương thức bảo hiểm
- Các bên đàm phán về các vấn đề khác như: Quyền và nghĩa vụ của các bên khi có rủi ro, tranh chấp, bất khả kháng xảy ra.
- Sau khi đã thực hiện các bước trên một cách thuận lợi thì công ty đi đến việc ký kết hợp đồng.
b. Tổ chức thực hiện hợp đồng
Do công ty là công ty trách nhiệm hữu hạn nên ngoài việc được trực tiếp nhập khẩu một số mặt hàng thì công ty phải thực hiện nhập khẩu ủy thác qua cơ quan có thẩm quyền nhập khẩu.
Các hợp đồng ủy thác nhập khẩu: Bên nhận ủy thác là người ký kết hợp đồng nhập khẩu với bên mua và bên công ty là người ký hợp đồng ủy thác với bên ủy thác. Do vậy bên nhận ủy thác phải chịu trách nhiệm các điều khoản mà hợp đồng đã ký. Bên công ty chỉ chịu trách nhiệm về các điều khoản trong hợp đồng ủy thác mà công ty đã ký. Khi đó việc tổ chức thực hiện hợp đồng của công ty không phải là theo hợp đồng mua bán mà theo hợp đồng ủy thác.
Các hợp đồng nhập khẩu trực tiếp: Do việc công ty trực tiếp ký kết hợp đồng nên công ty chịu toàn bộ trách nhiệm các điều khoản ghi trong hợp đồng. Sau khi nhận giấy báo hàng đến, công ty mở tờ khai hải quan và làm thủ tục nhận hàng tại cảng đến đồng thời chịu trách nhiệm vận chuyển hàng hóa về kho để tiêu thụ.
c. Phương thức thanh toán
Sau khi các bước kia hoàn thành thì các công ty có thể sử dụng nhiều phương thức thanh toán khác nhau. Đối với công ty thương mại Thăng Long sử dụng hai phương thức thanh toán chủ yếu là:
- Phương thức thanh toán sử dụng chứng từ
- Phương thức thanh toán TTR.
Sau khi bên bán xếp hàng lên tàu, hoàn thành bộ chứng từ của bên mua và gửi cho bên mua. Bên mua dùng bộ chứng từ này để đi nhận hàng. Khi đến thời hạn thanh toán theo hợp đồng thì bên mua nhờ ngân hàng chuyển tiền theo hệ thống chuyển tiền điện tử từng phần hoặc toàn bộ theo điều khoản trong hợp đồng.
Chú ý:
Theo nghị định số 09 của Chính phủ quy định: "Đối với doanh nghiệp xuất nhập khẩu hàng hóa phục vụ nhu cầu tiêu dùng mà sử dụng hình thức thanh toán qua ngân hàng thì phải cân đối ngoại tệ để trả ngay". Do những quy định này công ty luôn đảm bảo khả năng tài chính để thanh toán ngay các hợp đồng nhập khẩu. Cụ thể như: vốn lưu động bình quân của công ty là 8 tỷ VNĐ, mức tăng trưởng về vốn bình quân là 18%/năm trong năm 2005.
7. Hiệu quả của nhập khẩu
Trong năm 2005 công ty đã huy động tổng luân chuyển vốn lưu động là trên 80% cho hàng nhập khẩu. Số vốn lưu động còn lại được thực hiện kinh doanh các mặt hàng trong nước. Đối với hoạt động kinh doanh ở nội địa, công ty đạt tỷ lệ lãi gộp bình quân là 5%/doanh số. Đối với hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu thì tỷ lệ lãi gộp bình quân là 15%/doanh số.
Về mặt hàng: công ty cũng đạt được những hiệu quả nhất định cụ thể như:
- Số mặt hàng của công ty nhập khẩu chiếm lớn hơn 70% các mặt hàng của công ty đang kinh doanh.
- Doanh số tiêu thụ chiếm hơn 80% doanh số của công ty.
- Lợi nhuận của hàng nhập khẩu chiếm lớn hơn 90% lợi nhuận của công ty
8. Tình hình phân phối sản phẩm của công ty
Trên đây chúng ta đã nghiên cứu đầu vào của công ty, để hiểu rõ hơn về doanh nghiệp này chúng ta cùng xem xét thêm tình hình tiêu thụ của công ty (đầu ra).
Trong những năm gần đây nền kinh tế nước ta chuyển sang nền kinh tế mở, nền kinh tế thị trường đã làm cho việc thành lập và hoạt động của các công ty vừa và nhỏ linh hoạt hơn điều này đồng nghĩa với ngày càng có nhiều đối thủ cạnh tranh với công ty thương mại Thăng Long hơn. Mặt khác có nhiều các đối thủ cạnh tranh khác cũng tham gia vào thị trường này. Vì vậy muốn tồn tại và phát triển công ty phải đa dạng hóa các kênh phân phối nhằm mở rộng thị trường tiềm năng và tận dụng thị trường của các đối thủ khác. Để biết được các kênh phân phối sản phẩm của công ty chúng ta xem bảng sau:
Bảng tổng hợp doanh số theo kênh phân phối.
Đơn vị tính: Nghìn đồng
TT
Nhà cung cấp
2001
2002
2003
2004
2005
1
Phòng KD công ty
3706500
4484280
8836740
9376350
10540218
2
Chi nhánh TPHCM
2242140
4418370
4125594
4837260
3
H.thống cửa hàng BB
9636900
12331770
14727900
13126890
13257330
4
H.thống cửa hàng BL
3750540
4215377
5
Phòng TDV
1482600
3363210
1472790
3750450
3848265
6
Các nhà phân phối tỉnh
2625378
2675888
7
Các đại lý
750108
820190
Tổng số:
1482600
22421400
29455800
37500400
40194528
Trong năm 2001 công ty chỉ sử dụng 3 kênh phân phối là phòng kinh doanh công ty, hệ thống cửa hàng bán buôn và phòng trình dược viên (TDV) do vậy doanh số bán ra trong năm này mới chỉ đạt 14826000 nghìn đồng. Với sự thay đổi có định hướng của công ty, công ty đã đưa thêm các kênh phân phối khác vào sử dụng là thành lập chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh, hệ thống các cửa hàng bán lẻ, các nhà phân phối tỉnh và các đại lý điều này không những đã giúp cho công ty mở rộng thị trường tiêu thụ cả về bề ngang và chiều sâu mà còn tác động tích cực làm tăng doanh số của công ty từ doanh số 14286000 nghìn đồng năm 1996 đã tăng tới 40194528 nghìn đồng năm 2005.
Trên đây chúng ta thấy được mạng lưới kênh phân phối sản phẩm của công ty nhưng chúng ta chưa biết được đối tượng cung cấp của công ty là ai? Để hiểu được vấn đề này cần xem xét các thông tin sau:
Bảng tổng hợp doanh số theo khách hàng
Đơn vị tính: Nghìn đồng
TT
Nhà cung cấp
2001
2002
2003
2004
2005
1
Bán buôn
9636900
12331770
14727900
13126890
13257330
2
Bán lẻ
3750540
4215377
3
Khoa dược bênh viện
1482600
3363210
14727900
3750540
3848265
4
Tận tay người TD
1813750
2286860
2774800
3756000
4216123
5
Các khách hàng
1892750
4439560
10480310
13121430
14657433
6
Tổng số:
14826000
22421400
29455800
37505400
40194528
Từ bảng trên ta thấy được đối tượng tiêu dùng sản phẩm của công ty. Thông qua hệ thống bán buôn và bán lẻ công ty đã mở rộng thị trường rộng khắp trên cả nước. Nếu ở năm 2001 doanh số bán buôn mới chỉ đạt 9636900 nghìn đồng thì đến năm 2005 doanh số bán buôn đã tăng 13257330 nghìn đồng ở năm 2005. Đồng thời với việc tiêu thụ sản phẩm qua hệ thống bán buôn và bán lẻ công ty còn mở rộng hình thức tiêu thụ sản phẩm khác là thành lập và buôn bán sản phẩm khoa dược của bệnh viện, tận tay người tiêu dùng cho các khách hàng khác. Nhờ vậy mà doanh số của công ty đạt 14826000 nghìn đồng vào năm 1996 đã tăng lên 40194528 nghìn đồng ở năm 2005, làm cho doanh nghiệp hoạt động ngày một hiệu quả hơn và chiếm lĩnh một phần thị trường đáng kể.
9. Kết quả hoạt động kinh doanh của công ty
Vừa qua chúng ta đã thấy được gần như toàn bộ quá trình hoạt động của công ty nhưng chúng ta chưa thấy được kết quả hoạt động và phát triển của công ty. Để thấy được bao quát hơn, toàn diện hơn chúng ta hãy xem xét bảng tình hình phát triển kinh doanh của công ty:
Bảng tổng hợp tình hình phát triển kinh doanh
TT
Chỉ tiêu
Đơn vị tính
2002
2003
2004
2005
1
Tổng doanh thu
Nghìn đồng
22421400
29455800
37505400
40194258
2
Doanh số nhập khẩu
Nghìn đồng
12331770
16200690
20627970
20750280
Trực tiếp
Nghìn đồng
8593600
9001488
ủy thác
Nghìn đồng
12331770
16200690
12034370
20748792
3
Vốn lưu động bình quân
Nghìn đồng
3268000
3660000
4125000
5100000
4
Vòng quay vốn
Vòng/năm
6.68
8.05
9.09
7.88
5
Số cửa hàng bán buôn
CH
4
4
4
4
6
Số cửa hàng bán lẻ
CH
5
8
7
Số đại lý và chi nhánh
ĐL
1
1
8
10
8
Số đối tác và nhập khẩu
Công ty
8
12
15
15
9
Số mặt hàng kinh doanh
Loại
298
352
401
436
10
Số mặt hàng nhập khẩu
Loại
166
211
245
272
11
Tổng số nhân viên
Người
36
44
58
66
12
Nộp ngân sách
Nghìn đồng
470849
618572
878613
826928
Thuế DT & GTGT
Nghìn đồng
224214
294558
375054
382717
Thuế TL & TNDN
Nghìn đồng
246635
324014
412559
444211
13
Thu nhập sau thuế
Nghìn đồng
301443
396017
504239
621003
Từ bảng trên ta thấy toàn bộ cơ cấu, hoạt động của công ty trong những năm gần đây.
Tổng doanh thu của công ty năm 2002 đạt 22421400 nghìn đồng đến năm 2005 con số này lên tới 40194528 nghìn đồng vào năm 2005 đã cho chúng ta thấy tình hình hoạt động của công ty đã đạt được những hiệu quả đáng kể góp phần nhỏ bé vào sự nghiệp phát triển của đất nước.Trong quá trình hoạt động công ty đã nộp vào vào ngân sách Nhà nước cụ thể như: 470849 nghìn đồng vào năm 2002, 618572 nghìn đồng năm 2003, 787613 nghìn đồng vào năm 2004 và 826928 nghìn đồng vào năm 2005. Sau những khoản đóng góp cho Nhà nước và các khoản chi phí khác thì tình hình thu nhập sau thuế của doanh nghiệp cũng đạt nhiều khả quan cụ thể như số tiền 301410 nghìn đồng vào năm 2002 và 621003 nghìn đồng vào năm 2005. Công ty hoạt động đạt được những thành tựu như vậy đã phản ánh được sự hoạt động đồng bộ và năng động của toàn bộ công nhân viên và tập thể lãnh đạo trong công ty.
III. ĐÁNH GIÁ CHUNG
1. Ưu điểm
1.1. Về hàng hóa nhập khẩu
Công ty có ưu điểm về mặt hàng hóa này số lượng lớn, đa dạng. Hàng hóa nhập khẩu của công ty nhìn chung được đảm bảo về chất lượng giữ được uy tín với khách hàng. Ngoài ra công ty cũng biết chú trọng vào các mặt hàng chủ đạo như sâm. Kim ngạch nhập khẩu mặt hàng này chiếm phần lớn trong tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa của công ty. Chính việc tập trung vào một mặt hàng chủ đạo cũng tạo ra hiệu quả kinh doanh nhất định cho doanh nghiệp . Tuy vậy phụ thuộc quá nhiều vào nó cũng gây ra bất lợi cho doanh nghiệp.
1.2. Về công tác nghiệp vụ nhập khẩu
Công ty tiến hành các hoạt động kinh doanh nhập khẩu theo đúng quy định của pháp luật, chính sách của Nhà nước và pháp luật quốc tế về ngoại thương. Việc ký kết các hợp đồng nhập khẩu, đặc biệt là các hợp đồng nhập khẩu trực tiếp đều diễn ra thuận lợi. Với uy tín kinh doanh lâu năm được các bạn hàng tin cậy cả trong hình thức nhập khẩu ủy thác và trực tiếp đã tạo điều kiện kinh doanh rất tốt cho công ty
Doanh nghiệp cũng kịp thời phổ biến các văn bản, chính sách của doanh nghiệp chuyển xuống các phòng ban để tạo điều kiện cho mọi người làm việc theo đúng các yêu cầu mà công ty đặt ra.
1.3. Về thị trường nhập khẩu
Thị trường nhập khẩu của chi nhánh rất đa dạng, từ Châu á đến Châu âu. Trong đó công ty vẫn chú trọng tới các thị trường Châu á, đặc biệt là các thị trường cùng trong khu vực ASEAN. Chính điều này cũng là một ưu điểm của doanh nghiệp vì hàng rào thuế quan trong khu vực này đã được nới lỏng rất nhiều, và nhất là khi Việt Nam được tham gia khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) thì đây là điều kiện rất tốt để phát triển hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Ta có thể thấy được ba thị trường nhập khẩu lớn nhất của công ty là thị trường Hàn Quốc, Pháp và Nhật Bản.Nhờ có những đối sách thích hợp mà công ty vẫn giữ vững được mối quan hệ tốt đẹp với ba thị trường trên, đặc biệt là với Hàn Quốc và Pháp. Tất nhiên đa dạng hóa thị trường sẽ tránh cho doanh nghiệp quá phụ thuộc vào một thị trường duy nhất và công việc kinh doanh sẽ đa dạng hơn rất nhiều.
1.4. Về tổ chức và con người
Công ty chỉ có hai phòng là phòng kinh doanh và phòng tài chính. Với cơ cấu gọn nhẹ như vậy cùng với chức năng rõ ràng, đã giúp cho doanh nghiệp thực hiện các hoạt động kinh doanh được dễ dàng, không gặp phải các thủ tục rườm rà. Trưởng phòng kinh doanh giao cho từng người phụ trách từng khâu của quá trình thực hiện hợp đồng nhập khẩu. Mọi vấn đề có liên quan đến hợp đồng đều được phản ánh lên trưởng phòng kinh doanh, từ đó sẽ liên hệ với giám đốc để bàn bạc, xem xét. Chính vì vậy có thể giám sát được hợp đồng, đồng thời tiến độ hợp đồng được thực hiện nhanh chóng và đạt hiệu quả, nâng cao tính chủ động trong công việc kinh doanh.
1.5. Hiệu quả kinh doanh
Kim ngạch nhập khẩu của công ty tăng lên rất nhanh chóng, doanh thu đạt cao, nộp ngân sách Nhà nước lớn, khai thác tốt nguồn vốn kinh doanh của công ty. Hoạt động kinh doanh nhập khẩu của công ty được mở rộng với sản phẩm đa dạng và thị trường rộng lớn, nó đã đáp ứng được phần nào nhu cầu của người dân trong nước. Khi mà việc sản xuất trong nước chưa phát triển thì việc nhập khẩu sẽ là điều kiện kích thích cạnh tranh và làm cho sự sản xuất phát triển hơn.
2. Những tồn tại
- Đầu tiên ta có thể nhận thấy lợi nhuận của công ty là hơi thấp, chiếm một tỷ trọng nhỏ trong doanh thu. Đây là vấn đề cần giải quyết vì rõ ràng doanh thu của công ty ngày càng tăng lên nhanh chóng khi lợi nhuận lại tăng chậm.
- Trình độ của cán bộ chuyên môn chưa thật cao, vững vàng. Vẫn còn tình trạng để tuột mất khách hàng khi mà gần ký được hợp đồng.
- Ngoài ra việc tìm kiếm bạn hàng và nghiên cứu thị trường chưa thực sự sắc bén. Do đó việc dự đoán nhu cầu thị trường trong tương lai cũng như việc dự đoán giá cả tăng giảm như thế nào, khả năng tiêu thụ thay đổi ra sao và thị trường đầu ra có ổn định không thì cán bộ chuyên môn chưa dự đoán được chính xác.
-Việc tồn đọng hàng vẫn còn xảy ra thường xuyên, chứng tỏ chưa tìm đầu ra được hợp lý dẫn đến vốn bị ứ đọng làm giảm hiệu quả kinh doanh và lợi nhuận. Đây cũng là vấn đề mà công ty cần phải xem xét và tìm cách giải quyết.
3. Nguyên nhân của tồn tại
3.1. Khách quan
- Do cơ chế điều hành nhập khẩu của Nhà nước có nhiều thay đổi, Nhà nước chỉ quản lý điều hành những mặt hàng chiến lược thông qua các đầu mối được giao, nhiều mặt hàng Nhà nước không quản lý bằng hạn ngạch nên các đơn vị thuộc các thành phần kinh tế được xuất nhập khẩu theo ngành hàng đăng ký kinh doanh, điều này làm giảm việc ủy thác xuất nhập khẩu của công ty.
- Mặt khác cơ chế thị trường đã tác động đáng kể đến việc cạnh tranh vốn dĩ đã khốc liệt lại càng khốc liệt hơn, làm cho việc kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty càng khó khăn hơn. Nhất là sau khi có luật doanh nghiệp ra đời, mỗi tháng có 2000 doanh nghiệp được thành lập trong toàn quốc, dẫn tới việc tranh mua, tranh bán, cạnh tranh không lành mạnh.
- Ngoài ra, Công ty không chỉ phải cạnh tranh với các đơn vị xuất nhập khẩu trực tiếp những mặt hàng tương tự mà còn phải cạnh tranh với những doanh nghiệp trong nước sản xuất những mặt hàng đó. Nền kinh tế càng phát triển thì hàng hoá càng đa dạng phong phú, do vậy việc khan hiếm hàng hoá là điều ít xảy ra. Nhưng không phải cứ nhập hàng về là bán được ngay hoặc bán được với giá cao mặc dù nhu cầu vẫn có. Lúc đó Công ty phải bán hàng với giá thấp, để mong cạnh tranh lôi kéo được khách hàng về với mình dẫn đến lợi nhuận bị giảm sút.
- Xu hướng chung do tỷ giá USD/VND tăng trong khi giá trong nước không tăng những mặt hàng nhập khẩu nội địa chậm dẫn đến việc khó thu hồi vốn.
- Thị trường nước ngoài không phải lúc nào cũng ổn định, việc phục hồi lại sau khủng hoảng kinh tế của các nước châu Á là thị trường nhập khẩu chính của công ty cũng đã gây ra khó khăn nhất định cho Công ty.
- Ngoài ra biểu thuế nhập khẩu cũng có nhiều thay đổi, Nhà nước đang khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu chính vì vậy mức thuế quan của nhiều hàng hoá mà Chi nhánh nhập khẩu đã tăng lên gây khó khăn cho hoạt động kinh doanh của Công ty.
Nói về tồn tại thì còn rất nhiều, nhưng đây là những tồn tại khách quan chính mà Công ty gặp phải. Công ty có thể xoá bỏ được nó mà chỉ có cách khắc phục để đẩy mạnh hoạt động kinh doanh. Đồng thời mong muốn Nhà nước có những chính sách thích hợp hơn trong hoạt động nhập khẩu.
3.2. Chủ quan
- Công ty hầu như có vốn kinh doanh còn thấp, việc kinh doanh hầu như chỉ dựa vào vốn của mình nên ảnh hưởng rất lớn đến công việc kinh doanh.
- Cán bộ chuyên môn của Công ty chưa có nghiệp vụ vững vàng, chưa có đủ kinh nghiệm dẫn đến việc kinh doanh chưa đạt được hiệu quả cao.
- Công ty vẫn chưa đa dạng hoá mặt hàng kinh doanh, chưa đầu tư vào sản xuất để tạo nguồn hàng ổn định cho xuất khẩu, chưa gắn liền sản xuất, lưu thông và tiêu dùng.
- Ngoài ra việc trả lương theo quy chế cũ, nên chưa tạo ra động lực cho cán bộ nghiệp vụ khai thác, mặt hàng chính vấn do lãnh đạo Công ty khai thác, cán bộ nghiệp vụ đôi lúc vẫn còn thụ động chỉ làm các thủ tục hành chính đơn thuần.
Trên đây là một số khó khăn chính của Công ty trong hoạt động kinh doanh nhập khẩu. Chúng có tác động không nhỏ tới hiệu quả kinh doanh của Công ty nói chung và hiệu quả kinh doanh nhập khẩu nói riêng. Mặc dù gặp phải rất nhiều khó khăn như vậy nhưng Công ty vẫn cố gắng phấn đấu nỗ lực không ngừng để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
CHƯƠNG III
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU CỦA CÔNG TY TNHH THĂNG LONG
I. ĐỊNH HƯỚNG CHO HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU CỦA CÔNG TY TRONG THỜI GIAN TỚI
Lịch sử thế giới càng trở nên rất rõ ràng là thời kỳ lịch sử phát triển rút ngắn với tốc độ phát triển mạnh mẽ chưa từng thấy: đồng thời xu thế toàn cầu hoá, quốc tế hoá với tốc độ chóng mặt tạo nên một thế giới chỉnh thể vừa thống nhất vừa đấu tranh hết sức phức tạp giữa các quốc gia, dân tộc.
Hiện tượng đó nổi lên một xu thế tất yếu. Cơn lốc phát triển của thế giới đã và đang vừa tạo sức mạnh vô số thời cơ vận hội to lớn mới mẻ vừa tạo ra vòng xoáy lớn không ít nguy cơ, thách thức nghiệt ngã, khốc liệt, đặt trước quốc gia, dân tộc một sự lựa chọn hoặc là vượt trội, bứt phá vượt lên hoặc bị chèn ép, tụt hậu. Đứng trước tình hình đó đã làm xuất hiện tính đa dạng của sự phát triển. Mỗi nước phải tự tạo ra cho mình một mô hình phát triển của chính mình, phải tìm hướng đi và giải pháp phát triển trước thềm thế kỷ 21. Việt Nam trên con đường phát triển của mình cũng không nằm ngoài qui luật đó. Đứng trước bối cảnh của thế giới nói chung và sự nghiệp đổi mới công nghiệp hoá hiện đại hoá của Việt Nam nói riêng thì đặt ra cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu nói chung và công ty TNHH Thăng Long nói riêng phải có phương hướng đúng đắn, phù hợp với nhịp độ phát triển để nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh cho công ty, tạo nên một bước nhảy vững chắc sang thế kỷ 21 là thời đại của công nghệ thông tin, công ty đã đề ra một số chủ trương phương hướng như sau:
Mở rộng qui mô kinh doanh, qui mô ngành hàng theo hướng đa dạng hoá kinh doanh, đa dạng hoá mặt hàng, tăng cường xuất nhập khẩu các mặt hàng khác để tăng doanh số và lợi nhuận tạo thêm việc làm, thu nhập cho người lao động.
Phát triển công tác nghiên cứu thị trường nhằm mở rộng thị trường nhập khẩu và tìm kiếm thị trường xuất khẩu tăng nhanh kim ngạch xuất nhập khẩu, từng bước tiến tới cân bằng kim ngạch nhập khẩu và kim ngạch xuất khẩu.
Tiếp tục mở rộng thị trường ở các khu vực trong nước, ngoài nước là một công tác kinh doanh nội địa, chú ý đẩy mạnh xuất khẩu (nếu có thể) những mặt hàng của Công ty, kết hợp có hiệu quả giữa kinh doanh nội địa và kinh doanh xuất nhập khẩu.
Bố trí và tạo điều kiện cho cán bộ công nhân viên đi học để nâng cao nghiệp vụ và trình độ ngoại ngữ tạo điều kiện thuận lợi trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu với nước nước ngoài.
Công ty sẽ chú ý tới việc tìm kiếm và phát hiện những nhu cầu về hàng hoá mới nhảy sinh trong nước chưa đáp ứng được để nhập khẩu và cung cấp những hàng hoá phục vụ cho nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trong nước.
Phương hướng hoạt động của công ty trong năm 2006:
Việc lập kế hoạch thương mại năm 2006 có ý nghĩa rất quan trọng, nó là tiền đề cho việc xác định chỉ tiêu kế hoạch 5 năm 2006-2010, và chiến lược phát triển kinh tế 20006-2015, tạo đà thuận lợi cho kế hoạch 5 năm phục vụ cho thời kỳ công nghiệp hoá, hiệnđại hoá chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đẩy mạnh phát triển sản xuất cải thiện đời sống nhân dân, là bước ngoặt chào đón thiên niên kỷ mới tươi đẹp hơn. Việc xây dựng năm 2005 phải quán triệt đường lối đổi mới của Đảng, phải khai thác triệt để các nguồn tiềm năng sẵn có, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế đồng thời dựa trên cơ sở đánh giá tổng kết việc thực hiện kế hoạch 2001-2004, xác định kế hoạch năm 2006 còn phải đảm bảo tính khoa học và các chỉ tiêu kế hoạch đặt ra. Tất cả các mục tiêu biện pháp tổ chức thực hiện kế hoạch có mối quan hệ hữu cơ với nhau, đòi hỉ người quản lý phải có sự linh hoạt, nhạy cảm để nắm bắt kịp thời các tình huống và xu thế biến chứng của thị trường, bám sát mục tiêu đã đề ra, thường xuyên theo dõi tiến trình thực hiện đề ra các kế hoạch để đưa ra các quyết định điều chỉnh mục tiêu phương hướng, giải pháp phù hợp với công ty nhằm đưa ra các chỉ tiêu kế hoạch một cách có hiệu quả kinh tế cao nhất.
II. NHỮNG GIẢI PHÁP VỚI CÔNG TY
Trong những năm qua các hoạt động của công ty nói chung cũng như các hoạt động kinh doanh nói riêng đã đạt được những thành tựu đãng khích lệ không chỉ đem lại lợi nhuận mà còn đem lại uy tín cho Công ty trên thương trường, nó đã tạo được nền tảng ban đầu rất quan trọng cho sự tồn tại và phát triển của công ty. Tuy nhiên trong hoạt động nhập khẩu Công ty đã gặp một số khó khăn làm ảnh hưởng tới kết quả kinh doanh nhập khẩu của Công ty.
Sau đây là một số giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động nhập khẩu của Công ty trong thời gian tới.
1. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường
Trong cơ chế thị trường, hoạt động kinh doanh của bất kỳ doanh nghiệp nào cũng phải gắn lấy thị trường. Lấy thị trường làm hoạt động của mình, nó là nơi sàng lọc những doanh nghiệp thích nghi với nó.
Đối với các doanh nghiệp kinh doanh hoạt động xuất nhập khẩu thì công tác nghiên cứu thị trường là hết sức cần thiết.
Nghiên cứu thị trường nước ngoài là việc nghiên cứu trạng thái, sự vận động và xu hướng phát triển của thị trường đó vào một thời điểm hay một giai đoạn nhất định. Cụ thể hơn nó là quá trình thu thập tài liệu về các thông tin về thị trường, so sánh và phân tích các thông tin đó để rút ra các kết luận về xu hướng của thị trường quốc tế theo từng lĩnh vực, từng nhóm hàng Tạo cơ sở cho việc chiến lược thị trường cũng như tiến hành ứng xử trong hoạt động nhập khẩu. Công ty cần chú ý đến việc nghiên cứu thị trường nhập khẩu không chỉ dừng lại ở khâu lưu thông hàng hoá và hoạt động dịch vụ mà nó còn bao trùm các giai đoạn khác nhau của quá trình sản xuất.
Thực tế trong mấy năm qua, hoạt động nghiên cứu thị trường của công ty chưa phát huy hết hiệu quả, công ty chưa nắm rõ hết được thị trường kinh doanh. Công ty chưa đi sát với các thị trường ở các vùng nông thôn nên chưa có hệ thống phân phối rộng khắp. Ngoài nghiên cứu các vấn đề của thị trường trong nước doanh nghiệp còn cần nghiên cứu vốn, chính sách thương mại của nước xuất khẩu nghiên cứu thị trường nước ngoài công ty cần phải nắm bắt các thông tin khách quan, những thông tin về tình hình thực tế diễn biến trên thị trường. Đó là cơ sở quan cho việc tìm ra quyết định hàng ngày cũng như hoạch định chiến lược phát triển các hoạt động kinh tế đối ngoại. Việc nghiên cứu thị trường là nhiệm vụ của bất kỳ đơn vị kinh tế nào, của bất cứ nhà quản lý nào và cơ quan nghiên cứu quốc gia và quốc tế về thị trường. Nghiên cứu thị trường nhập khẩu, tức là phải trả lời được các câu hỏi sau:
Nước nào là thị trường triển vọng nhất để đáp ứng được nhu cầu cho việc nhập khẩu với các điều kiện thuận lợi nhất, khả năng mua là bao nhiêu với chất lượng như thế nào?
Mức độ cạnh tranh trên thị trường hiện tại và trong tương lai, sở trường, và các sở đoản của các đối thủ cạnh tranh là gì?
Công ty có thể áp dụng phương thức mua bán nào là hợp, sản phẩm nhập khẩu phải đạt được những yêu cầu về mặt chất lượng, số lượng, mẫu mã, bao bì.
Thu thập thông tin chính xác đầy đủ, chính xác về thị trường bao gồm cả các thông tin về tình hình sản xuất, tình hình đầu tư, áp dụng kỹ thuật và công nghệ mới, chất lượng và số lượng của sản phẩm hàng hoá của từng khu vực, từng quốc gia, thông tin về chính sách hải quan, thuế xuất nhập khẩu, chế độ quản lý ngoại tệ của từng thị trường
Tiến hành đánh giá tầm quan trọng và tình hình hoạt động của các đối thủ cạnh tranh về mặt kinh tế, trình độ khoa học và công nghệ, chiến lược thị trường của họ, chất lượng hàng hoá và tổ chức phục vụ khách hàng. Việc quảng cáo, tổ chức cố vấn kỹ thuật cũng như phương thức và điều kiện bán hàng của họ.
Khi nghiên cứu thị trường nhập khẩu công ty cần phải tìm hiểu đến các chính sách thương mại, khung cảnh pháp lý và tập quán thương mại, khả năng sử dụng tín dụng của nước đó trong nhập khẩu.
Trên cơ sở xử lý các nhu cầu thông tin từ thị trường khác nhau để đề ra được phương hướng cụ thể trong hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá xây dựng chiến lược cho từng đơn vị và từng loại hình hoạt động của công ty.
Để làm tốt công tác nghiên cứu thị trường công ty phải thành lập phòng marketing để nghiên cứu thị trường trong và ngoài nước một cách chính xác đồng thời phải tuyển chọn kỹ lưỡng các nhân viên marketing có trình độ chuyên môn giỏi, có kinh nghiệm hiểu biết về lĩnh vực marketing để phục vụ cho công ty kinh doanh có hiệu quả cao.
2. Xây dựng chiến lược kinh doanh nhập khẩu
Chiến lược kinh doanh nhập khẩu là phương hướng hoạt động của doanh nghiệp, nó quy định các loại sản phẩm hoặc dịch vụ mà doanh nghiệp đảm nhận, quy mô kinh doanh, các nguồn lực sản xuất, khả năng sinh lời cũng như triển vọng của doanh nghiệp,
Như vậy chiến lược kinh doanh có ý nghĩa quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của công ty. Nó định ra được các mục tiêu lớn theo đó cần huy động các nguồn lực trước mắt và lâu dài, nó phải đảm bảo cho kế hoạch nhập khẩu của công ty không bị lạc hướng. Xây dựng một chiến lược kinh doanh hoàn chỉnh và tốt sẽ giúp Công ty thu được nhiều lợi nhuận, tạo được thế lực cạnh tranh và an toàn tránh được rủi ro trong kinh doanh nhập khẩu, chủ động thích ứng với môi trường kinh doanh. Công ty muốn kinh doanh hiệu quả phải có chiến lược riêng được xây dựng trên cơ sở vốn của mình. Trên cơ sở đó đưa ra một chiến lược phù hợp với khả năng của công ty là điều hết sức quan trọng và cần thiết. Chiến lược kinh doanh không chỉ trước mắt mà còn phải có chiến lược lâu dài, đảm bảo được lợi ích của công ty. Để thực hiện kinh doanh nhập khẩu đã hoạch định, công ty cần phải xây dựng và thực hiện một hệ thống chính sách sau:
Thứ nhất: Chính sách về sản phẩm, Công ty phải định hướng và xác định nhóm sản phẩm được lựa chọn để đưa vào kinh doanh phục vụ cho nhóm khách hàng trọng điểm. Sản phẩm nhập khẩu phải thoả mãn được yêu cầu của khách hàng về chất lượng, phẩm chất và mẫu mã Nếu công ty nhập những sản phẩm có chất lượng kém, giá cả lại đắt không đảm bảo được lợi ích của khách hàng thì công ty sẽ gặp khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm.
Thứ hai: Chính sách về giá cả. Là một trong những yếu tố mà bất cứ một công ty nào nói chung và các nhà nhập khẩu nói riêng đều phải áp dụng một cách phù hợp. Khi công ty nhập khẩu hàng hoá từ thị trường nước ngoài cần phải nghiên cứu kỹ giá cả của hàng hoá mình cần nhập ở thị trường đó để làm sao nhập khẩu với giá hợp lý, tránh tình trạng mua đắt, bán rẻ. Trong tình trạng thị trường luôn biến động diễn ra cạnh tranh gay gắt, vì thế hàng hoá nhập khẩu của công ty phải áp dụng mức giá bán linh hoạt. Các quyết định về giá nó có tác động rất lớn đến số lượng bán, doanh thu và lợi nhuận. Xác định được một số giá đẻ chiếm được ưu thế trong cạnh tranh là vấn đề cực kỳ quan trọng đối với Công ty. Nếu giá quá cao thì nhu cầu mua hàng hoá sẽ giảm. Tốc độ lưu chuyển hàng hoá giảm làm cho cạnh tranh của Công ty trên thị trường sẽ giảm. Nếu giá bán quá thấp việc xác định giá cả hợp lý là điều hết sức khó khăn. Công ty định giá không chỉ tạo lợi nhuận mà còn phải phụ thuộc vào tình hình chung của thị trường để đưa ra một mức giá thích hợp, trong nhiều trường hợp Công ty phải chấp nhận hoà vốn hoặc lỗ để bán được hàng. Chính vì vậy việc xác định mức giá phù hợp để nhanh chóng tiêu thụ được hàng hoá Công ty áp dụng một số chính sách linh hoạt, thay đổi theo tình huống, từng thời điểm, từng khách hàng cụ thể. Bên cạnh đó phải có chính sách giá ưu đãi, khuyến khích cho khách hàng đến Công ty như giảm giá, chiết khấu cho khách hàng. Ngoài ra phải luôn luôn phân tích các yếu tố làm ảnh hưởng đến giá như quan hệ cung cầu để có giải pháp phù hợp với sự thay đổi đó.
Thứ ba: chính sách về phân phối. Phân phối là khâu quan trọng trong quá trình kinh doanh, nó là hoạt động lập kế hoạch thực hiện và kiểm tra việc vận tải và lưu kho hàng hoá từ nơi sản xuất. Doanh nghiệp tiêu dùng nhằm phục vụ nhu cầu ở thị trường mục tiêu và thu được lợi nhuận cao nhất.
Vì Công ty nhập khẩu chủ yếu là dược phẩm và hàng tiêu dùng cho nên đòi hỏi Công ty phải cung ứng đúng mặt hàng, đúng số lượng, đúng nơi, đúng lúc cho khách hàng có nhu cầu với mức dịch vụ và chi phí thích hợp.
Thứ tư: Chính sách quảng cáo: hàng hoá của Công ty khi nhập khẩu về phải thực hiện quảng cáo nhằm giới thiệu sản phẩm của mình cho khách hàng có nhu cầu biết. Công ty có quảng cáo trên vô tuyến, đài phát thanh, tạp chí Mục tiêu của quảng cáo Công ty cần hướng vào các vấn đề sau:
- Tăng số lượng trên thị trường truyền thống
- Mở ra thị trường mới
- Giới thiệu sản phẩm mới
- Xây dựng và củng cố uy tín của những nhãn hiệu hàng hoá và uy tín cho công ty.
- Phải lôi kéo được người tiêu dùng
- Gợi được ý sẵn sàng mua
- Gây được sự chú ý của khách hàng đối với sản phẩm của công ty
3. Củng cố, phát triển vốn và sản phẩm vốn hợp lý
Theo như đánh giá về tình hình vốn kinh doanh hiện nay của công ty đang ở mức hơi thấp so với nhu cầu đặt ra đối với công ty. Để có thể chủ động trong kinh doanh thì công ty cần phải có chương trình, kế hoạch nhằm củng cố phát triển vốn đồng thời sử dụng vốn hợp lý. Bên cạnh nguồn vón tự có công ty cần có nguồn vốn vay từ các tổ chức ngân hàng phục vụ cho công việc kinh doanh, nhập khẩu của mình.
Hiện nay muốn có vốn công ty:
- Phải thiết lập mối quan hệ làm ăn hợp tác lâu dài với ngân hàng để đảm bảo rằng họ sẵn sàng cung cấp vốn cho công ty khi có nhu cầu nhập khẩu hàng hoá với lượng vốn lớn.
- Tham gia liên doanh liên kết với các tổ chức nước ngoài.
- Phải kinh doanh có hiệu quả để đạt được lợi nhuận cao hơn, vì lợi nhuận chính là nguồn cơ bản để củng cố vốn.
- Không ngừng nâng cao uy tín cho công ty để thu hút vốn đầu tư của các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước.
Để hạn chế mất mất có thể xảy ra trước khi vay vốn công ty cần phải: Tính toán thận trọng, chính xác xem công ty cần bao nhiêu vốn để sử dụng cho hoạt động nhập khẩu; xác định nên vay vào lúc nào cho phù hợp: Tính toán xem thời hạn vay bao lâu để có hiệu quả.
Khi có vốn công ty cần sử dụng vốn một cách tiết kiệm, giảm tối đa các chi phí không cần thiết, không để các doanh nghiệp, các công ty chiếm dụng vốn trong một thời gian dài, đề ra các biện pháp để nhanh chóng thu hồi các khoản nợ quá hạn, nợ khó đòi. Tuy nhiên cũng nên ưu đãi với những khách hàng mới đến công ty.
4. Các điều kiện thực hiện
Trong nền kinh tế thị trường chịu sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì tất cả các hoạt động kinh tế nói chung và hoạt động nhập khẩu nói riêng đều nằm trong hành lang pháp lý sự hướng dẫn và kiểm soát của Nhà nước như các chính sách của Nhà nước về xuất nhập khẩu, tỷ giá, có ảnh hưởng rất lớn đến chiến lược kinh doanh phát triển, đào tạo, mặt hàng nhập khẩu để có thể hoàn thiện tốt hoạt động nhập khẩu, ngoài sự cố gắng lỗ lực của công ty thì Nhà nước cần có một số giải pháp, chính sách và cơ chế phù hợp. Vận dụng quan điểm chung và kinh doanh theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu phát huy hết được lợi thế của mình.
5. Đối với Nhà nước
a) Hoàn thiện về chính sách thuế nhập khẩu:
Nhà nước cần phải đổi mới và hoàn thiện chính sách thuế để đưa ra một hệ thống thuế đơn giản, dễ hiểu, dễ áp dụng đồng thời phải đảm bảo được lợi ích của các doanh nghiệp tham gia nhập khẩu hàng hoá và nên ưu tiên cho các doanh nghiệp nhập khẩu các sản phẩm phụcvụ sức khoẻ của nhân dân phục vụ sản xuất trong nước.
b) Cải cách và hoàn thiện thủ tục hải quan
Hiện nay các cảng mà hàng hoá của công ty nhận hàng và làm thủ tục hải quan, công ty còn gặp nhiều trở ngị lớn đó là thủ tục rườm rà, chời đợi lâu Vì vậy đã làm ảnh hưởng đến việc bán hàng, quay vòng vốn, nhiều khi làm ảnh hưởng tới khách hàng mua. Chính vì thế cho nên Nhà nước cần cải cách và hoàn thiện thủ tục hải quan tránh phiền hà, nên tiến hành nhanh gọn nhưng vẫn đảm bảo tính pháp lý và chính xác để hàng hoá nhập khẩu về nhanh chóng đáp ứng nhu cầu trong nước, tạo điều kiện cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp nói chung và của hoạt động nhập khẩu của công ty nói riêng.
c) Ổn định tỷ giá hối đoái
Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện đại và lưu thông tiền giấy hiện nay. Vấn đề tỷ giá hối đoái và cơ chế quản lý điều chỉnh tỷ giá hối đoái cả trên tầm vi mô và vĩ mô trở thành một vấn đề lớn trong chính sách kinh tế tiền tệ của bất kỳ quốc gia nào. Tỷ giá là một nhân tố tác động mạnh mẽ đến hoạt động nhập khẩu của các doanh nghiệp. Nếu tỷ giá không đổi sẽ làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, làm giảm hiệu quả nhập khẩu của doanh nghiệp. Vì vậy Nhà nước cần phải điều chỉnh để giữ cho tỷ giá hối đoái ở mức phù hợp với các mục tiêu phát triển kinh tế của đất nước và làm giảm những biến động của tỷ giá có thể làm giảm hướng tới hiệu quả kinh doanh của công ty.
6. Đối với công ty
a) Nâng cao trình độ nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ công nhân viên của công ty.
Ngày nay cùng với sự nghiệp đổi mới của đất nước, chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường dưới sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì yêu cầu về đào tạo con người được coi là quốc sách hàng đầu của mỗi quốc gia. Nhận thức cùng với quan điểm của Nhà nước là phát triển nhanh và bền vững. Theo tôi công ty thương mại Thăng Long nên coi việc đào tạo bồi dưỡng cán bộ là một trong những chiến lược hàng đầu, nó là tiền đề cho sự thành công hay thất bại của công ty. Để làm được việc nỳ, công ty nên bỏ ra các khoản chi phí cho đào tạo để nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ công nhân viên. Hơn nữa nhập khẩu là hoạt động buôn bán diễn ra trong phạm vi quốc tế vì vậy cán bộ công nhân viên phải có trình độ về ngoại ngữ, phải am hiểu sâu sắc tình hình thị trường trong và ngoài nước, phải có kiến thức về thương mại quốc tế, luật pháp, tập quán buôn bán, biết cách giao dịch đàm phán, thương thuyết, có tinh thần hợp tác, có đầu óc thực tiễn, biết tính toán không chỉ lợi ích của doanh nghiệp mà còn lợi ích chung của nền kinh tế.
Để có các cán bộ công nhân viên giỏi, cần hoàn thiện và chú ý hơn nữa đến việc đào tạo cán bộ tại các trường đại học trong và ngoài nước. Khuyến khích và coi trọng sáng kiến trong kinh doanh của các doanh nghiệp. Mở rộng sự tiếp xúc làm ăn với các doanh nghiệp nước ngoài, có chính sách khuyến khích về vật chất đối với các cán bộ công nhân viên giỏi.
b) Chăm lo đời sống cán bộ công nhân viên trong công ty
Ở bất kỳ một công ty nào hoạt động trong bất kỳ một lĩnh vực nào đời sống của cán bộ công nhân viên tốt, chế độ đãi ngộ cao họ mới có thể làm tốt công việc của mình. Và đến lượt mình công việc kinh doanh của công ty thuận lợi thì đời sống cán bộ công nhân viên nâng cao, cái nọ bổ trợ kéo cái kia theo sẽ làm cho mọi hoạt động của công ty được tốt hơn. Khi đời sống của công nhân viên đã cao chế độ đãi ngộ không nhất thiết phải là tiền thưởng, có thể là những kỳ nghỉ với cả gia đình nhân các dịp ngày lễ hoặc tổ chức các cuộc vui chơi để cán bộ công nhân viên trong công ty hiểu nhau hơn và tạo một không khí làm việc thoải mái trong toàn công ty.
KẾT LUẬN
Đối với nền kinh tế của mỗi quốc gia muốn hoà mình vào tiến trình hội nhập khu vực và thế giới sẽ không thể tách rời hoạt động xuất nhập khẩu . Trong nền kinh tế quốc dân hoạt động nhập khẩu đóng vai trò hết sức quan trọng bởi nó mở rộng khả năng tiêu dùng của một nước, làm đa dạng hoá mặt hàng, tạo động lực để phát triển sản xuất trong nước đồng thời nhập khẩu sẽ xoá bỏ tình trạng độc quyền trên thế giới, phá vỡ nền kinh tế đóng cũng như tạo ra sự cân đối cho nền kinh tế và thúc đẩy xuất khẩu .
Thuốc chữa bệnh là một hàng hoá đặc biệt nó ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ của người tiêu dùng, chính vì vậy đảng và nhà nước đã có chủ trương rất rõ ràng trong quá trình nhập khẩu thuốc. Trực tiếp quản lý là cục quản lý dược Việt Nam thuộc Bộ y tế đã có một sự nhìn nhận đúng đắn tạo điều kiện cho hoạt động nhập khẩu không ngừng phát triển và đem lại những kết quả đáng khích lệ. Đóng góp vào sự phát triển đó Công ty TNHH Thăng Long đã nổ lực phấn đấu bằng tất cả khả năng và tâm huyết của các cán bộ công nhân viên của toàn công ty.
Với bài báo cáo thực tập viết về đề tài nhập khẩu, em đã cố gắng đề cập tới mọi vấn đề của hoạt động nhập khẩu thành phẩm tân dược bằng những kiến thức được tích luỹ tại trường và kinh nghiệm thực tế từ quá trình thực tập tại công ty. Tuy nhiên do kiến thức và kinh nghiệm còn hạn chế nên bài viết không tránh khỏi sai sót, em rất mong được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô và bạn đọc để bài viết được hoàn thiện hơn.
Một lần nữa em xin được chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo PGS.TS. Nguyễn Như Tiến cùng các cô chú, anh chị trong Công ty TNHH Thăng Long đã giúp đỡ em hoàn báo cáo thực tập này.
Hà Nội, tháng 11 năm 2006
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Kỹ thuật thương mại quốc tế TS. Đào Thị Bích Hoà ( chủ biên )
2. Marketing Thương mại quốc tế PTS. Nguyễn Bách Khoa
Ths. Phan Thị Thu Hoài
3. Kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương PGS. Vũ Hữu Tửu
4. Kỹ thuật ngoại thương PGS. Dương Hữu Hạnh
5.Thanh toán quốc tế Ths. Dương Hữu Hạnh
6. Các tài liệu có liên quan của Công ty TNHH Thăng Long
PGS. Nguyễn Văn Hảo
7. Hợp đồng thương mại quốc tế Nguyễn Trọng Đàn
8. Quản trị chiến lược quốc tế PTS. Nguyễn Bách Khoa
Mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5165.doc