Đề tài Hoạt động bảo đảm tiền vay bằng tài sản cầm cố, thế chấp tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Công thương Việt Nam

LỜI NÓI ĐẦU NỘI DUNG Chương I: Lý luận chung về bảo đảm tiền vay trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại 1. Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại3 1.1. Ngân hàng thương mại 1.1.1. Định nghĩa 1.1.2. Các nghiệp vụ chủ yếu của NHTM 1.1.3. Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại 1.2. Nguyên tắc bảo đảm tiền vay, các hình thức đảm bảo tiền vay 1.2.1. Nguyên tắc bảo đảm tiền vay 1.2.2. Hình thức đảm bảo tiền vay bằng tài sản 1.2.3. Hình thức đảm bảo tiền vay trong trường hợp cho vay không có bảo đảm bằng tài sản 1.3. Quan niệm về hiệu quả bảo đảm tiền vay Chương II: Thực trạng đảm bảo tiền vay bằng tài sản cầm cố, thế chấp tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Công thương Việt Nam 1. Khái quát về sở gD I-NHCTVN 1.1. Chức năng, nhiệm vụ của Sở GD I-NHCTVN 1.2. Bộ máy tổ chức của Sở GD I- NHCTVN 2. Thực trạng bảo đảm tiền vay bằng tài sản cầm cố và thế chấp tại sở giao dịch - NHCT 2.1. Thực trạng bảo đảm tiền vay bằng tài sản cầm cố 2.2. Thực trạng bảo đảm tiền vay bằng tài sản thế chấp 2.3. Những kết quả đạt được trong cho vay cầm cố và thế chấp 2.4. Những hạn chế trong cho vay cầm cố và thế chấp Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả bảo đảm tiền vay bằng tài sản cầm cố, thế chấp tại Sở giao dịch I - Ngân hàng công thương Việt Nam 1. Các giải pháp nâng cao hiệu quả cho vay cầm cố và thế chấp tài sản tại Sở giao dịch I - NHCT 1.1. Giải pháp mở rộng tín dụng có bảo đảm bằng tài sản cấm cố, thế chấp nhằm san sẻ rủi ro 1.2. Cần phân định quyền tự quyết và trách nhiệm của cán bộ tín dụng hợp lý hơn 1.3. Đổi mới và hoàn thiện quy trình nghiệp vụ tín dụng tại Sở GDI 1.4. Các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng 2. Các kiến nghị 2.1. Kiến nghị với Chính phủ 2.1.1. Kiến nghị chung về hoàn thiện cơ chế đảm bảo tiền vay 2.1.2. Kiến nghị về hoạt động bảo đảm tiền vay bằng tài sản cầm cố - thế chấp (chủ yếu đối với tài sản thế chấp) 2.2. Kiến nghị với Nân hàng Nhà nước (NHNN) 2.2.1. Cần hoàn thiện cơ sở pháp lý về cho vay cầm cố 2.2.2. Cần hoàn thiện cơ sở pháp lý về cho vay thế chấp tài sản 2.3. Kiến nghị với các Bộ - ngành liên quan 2.4. Kiến nghị với Ngân hàng Công thương Việt Nam KẾT LUẬN

doc85 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2008 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoạt động bảo đảm tiền vay bằng tài sản cầm cố, thế chấp tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Công thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ch hàng vay đặc biệt là khách hàng hộ gia đình có thể khi vay đã thế chấp toàn bộ tài sản cho TCTD. Do đó khi phát sinh rủi ro, khách hàng không trả được đúng hạn từ nguồn sản xuất kinh doanh, dẫn đến các TCTD phải phát mại tài sản thì hộ vay không còn điều kiện sản xuất kinh doanh để tiếp tục hoàn trả nợ vay còn lại. Vì vậy với quy định như trên sẽ làm cho cân đối của các TCTD có 2 khoản nợ khó đòi "treo" không có khả năng thu hồi. Thứ ba, mâu thuẫn giữa nghị định 165/1999/NĐ/CP và Thông tư 06/2000/TT-NHNNI về việc cầm cố tài sản bằng ngoại tệ và tiền mặt, số dư tiền gửi: Theo NĐ 165/1999/NĐ - CP (điều 2 điểm 7), TSCC có thể là "Tiền Việt Nam, ngoại tệ", thông tư 06/2000/TT - NHNN 1 cũng có quy định "Ngoại tệ tiền mặt, số dư tài khoản tiền gửi tại TCTD bằng tiền Việt Nam và ngoại tệ", không nói TSCC là tiền Việt Nam. Tuỳ ngoại tệ tiền mặt hay nội tệ, ngoại tệ trên tài khoản cũng là động sản, nhưng theo Bộ luật dân sự thì tiền và kim khí, đá quý là nằm trong khái niệm "đặt cọc". Nhưng ở góc độ cầm cố ngoại tệ tiền mặt hay tiền gửi để đảm bảo vay vốn thì cũng ít có khả năng xảy ra, chỉ khi nào cần dự trữ ngoại tệ khi khả năng ngoại tệ còn lên giá hay tiền gửi ở các TCTD có kỳ hạn chưa đến kỳ có thể rút ra. Nhưng điều quan trọng là bên cầm cố loại tài sản này là loại tài sản đặc biệt thì phải có điều kiện gì? Nếu kỳ hạn của tiền gửi không phù hợp với kỳ hạn của hợp đồng tín dụng thì việc cầm cố để đảm bảo có được bảo đảm hay không? Nhưng đã cầm cố ngoại tệ tiền mặt thì phải niêm phong gửi tại TCTD (bên nhận cầm cố), vốn sẽ bị ứ đọng và cũng không sinh lợi gì. Còn tiền gửi dù có kỳ hạn hay không kỳ hạn, nếu đã cầm cố cho bên nhận cầm cố thì phải chuyển vào tài khoản phong toả hay đóng tài khoản, bên bảo đảm cũng sẽ không được hưởng lãi suất. Vì thế bên bảo đảm sẽ chọn con đường rút tiền gửi ra, sử dụng ngoại tệ tiền mặt cơ bản để sử dụng, chỉ cầm cố phần tài sản tương đương vốn còn thiếu để vay TCTD. Thứ tư, vướng mắc phát sinh trong việc vận dụng NĐ-165 với tinh thần của NĐ178 và Thông tư 06 về mối quan hệ giữa giao dịch bảo đảm và đảm bảo tiền vay: Thực hiện NĐ 178/NĐ - CP có mối quan hệ chặt chẽ với thực hiện NĐ 165/1999/NĐ - CP. Và bản thân giữa chúng có một số trùng hợp nhỏ làm nảy sinh một số khó khăn trong việc nắm được các điều kiện thuộc quy định nào được phép áp dụng theo trường hợp. Như NĐ 165 chưa có hướng dẫn nhưng khoản 2 điều 16 NĐ này có quy định "Giao dịch bảo đảm bị vô hiệu không làm ảnh hưởng đến hiệu lực của nghĩa vụ được đảm bảo trừ trường hợp giao dịch bảo đảm là điều kiện có hiệu lực của nghĩa vụ được bảo đảm". Khi đó NĐ 178 và các Thông tư 06/2000 của thống đốc ngân hàng Nhà nước hướng dẫn cũng không đề cập đến vấn đề này. Vì thế nảy sinh 3 vướng mắc: . Cơ sở pháp lý nào để xác định khi nào thì giao dịch bảo đảm là điều kiện có hiệu lực của nghĩa vụ được bảo đảm. . Khoản 2 điều 16 của NĐ 165 nói trên được áp dụng đối với việc bảo đảm tiền vay của TCTD hay không? Hợp đồng bảo đảm vô hiệu có dẫn đến vô hiệu hợp đồng tín dụng hay không? Thứ năm, sự khác nhau giữa NĐ178 với Thông tư 06 và Bộ luật dân sự về phạm vi bảo đảm tiền vay của tài sản: Về vấn đề này có sự khác nhau giữa NĐ 175, Thông tư 06 và Bộ luật dân sự điều 11 NĐ 178 quy định: "Trong mọi trường hợp một tài sản chỉ được dùng để bảo đảm nghĩa vụ tại một TCTD. Nếu tài sản có đăng ký quyền sở hữu thì có thể được dùng để đảm bảo cho nhiều nghĩa vụ trả nợ, nhưng cũng chỉ tại một TCTD". Trong khi điều 22 (d) mục 3 của Thông tư 06 hướng dẫn "không được sử dụng TSTC để đảm bảo cho nghĩa vụ khác trừ trường hợp tài sản có đăng ký quyền sở hữu thì có thể thế chấp nhiều nghĩa vụ khác không giới hạn số lượng đối tượng được bảo đảm". Trong trường hợp cho vay hợp vốn thì TSTC không chỉ đảm bảo cho nghĩa vụ trả nợ tại một mà có thể 2 hoặc 3 TCTD. Nếu thực hiện theo NĐ 178 thì lại càng bế tắc. Khi đó, Bộ luật dân sự ở điều 329 và 346 có quy định: "Một tài sản có đăng ký quyền sở hữu theo quy định của pháp luật có thể được cầm cố để đảm bảo thực hiện nhiều nghĩa vụ dân sự, nếu giá trị lớn hơn tổng giá trị các nghĩa vụ được bảo đảm trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác". "Bất động sản có đăng ký quyền sở hữu có thể được thế chấp đê bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ được bảo đảm, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác". Thứ sáu, không có quy định về đăng ký giao dịch đảm bảo trong NĐ 08, nếu khách hàng có ý lừa đảo thì buộc ngân hàng phải thực hiện biện pháp ngăn ngừa rủi ro, dẫn đến gây nhiều phiền phức về thủ tục và thời gian cho TCTD: Theo điều 22.2 của NĐ 08 thì giá trị pháp lý của việc đăng ký giao dịch bảo đảm là "Thứ tự ưu tiên thanh toán giữa người cùng nhận bảo đảm bằng một tài sản được xác định theo thứ tự đăng ký". Như vậy, cơ quan đăng ký giao dịch có bảo đảm không có trách nhiệm ngăn ngừa việc tổ chức hay cá nhân dùng một tài sản để đảm bảo cho nhiều nghĩa vụ trả nợ đối với nhiều người khác nhau. Trường hợp khách hàng có ý lừa dối, có thể báo mất giấy chứng nhận đăng ký tài sản để làm lại và dùng nhiều giấy chứng nhận để cầm cố, thế chấp một tài sản để vay vốn nhiều TCTD, thì TCTD nhận và đăng ký giao dịch bảo đảm sau sẽ bị thiệt hại. Trong mục 3 chương II của Thông tư 06 quy định một trong các nghĩa vụ của khách hàng vay khi cầm cố, thế chấp là đăng ký giao dịch bảo đảm. Vậy khi khách hàng đã ý lừa đảo thì có thể kết hợp 2 nội dung trên để dùng một tài sản cầm cố, thế chấp vay vốn nhiều TCTD. Mặc dù có quy định trường hợp này khách hàng phải đền bù thiệt hại, nhưng khi họ đã cố tình lừa đảo việc đền bù khó có thể thực hiện được, buộc các TCTD muốn ngăn ngừa rủi ro phải thực hiện biện pháp chắc chắn là: Sau khi thẩm định, quyết định cho vay TCTD phải chờ khách hàng đăng ký và giao bản gốc giấy chứng nhận giao dịch bảo đảm mới phát tiền vay. Như vậy thủ tục vay vốn sẽ kéo dài thêm khoảng 3 ngày (theo quy định về thời gian cấp đăng ký giao dịch bảo đảm tại điều 15 NĐ 05) và sẽ gây nhiều phiền phức về thủ tục và thời gian cho TCTD và khách hàng. Thứ bảy, chưa có hướng dẫn cụ thể về việc đăng ký và thứ tự đăng ký trong cho vay hợp vốn: Trong cho vay hợp vốn có nhiều TCTD cùng cho vay một dự án, cùng nhận 1 tài sản cầm cố, thế chấp thì việc đăng ký và thứ tự đăng ký như thế nào để bảo đảm bình đẳng cho các TCTD khi phải xử lý tài sản thu nợ. Vấn đề này chưa có hướng dẫn cụ thể. Chương III Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả bảo đảm tiền vay bằng tài sản cầm cố, thế chấp tại Sở giao dịch I - Ngân hàng công thương Việt Nam. Từ thực trạng của tình hình thực hiện cơ chế đảm bảo tiền vay đối với hoạt động cầm cố, thế chấp tại Sở giao dịch I – NHCTVN trong thời gian qua. Qua thời gian thực tập ít ỏi của mình, với kiến thức và trình độ còn hạn chế song em xin mạnh dạn đưa ra một số ý kiến, có thể còn nhiều bất cập nhưng em mong rằng đó sẽ là những ý kiến mang tính xây dựng góp phần tháo gỡ một phần nhỏ khó khăn mà Sở đang gặp phải. Các giải pháp nâng cao hiệu quả cho vay cầm cố và thế chấp tài sản tại Sở gd I- nhctvn Giải pháp mở rộng tín dụng có bảo đảm bằng tài sản cấm cố, thế chấp nhằm san sẻ rủi ro: Mở rộng 2 loại hình bảo đảm tiền vay này là yêu cầu đầu tiên nhằm tăng hiệu quả nghiệp vụ vì với một khối lượng tín dụng nhỏ như hiện nay không thể khẳng định nó có hiệu quả mặc dù có thể chất lượng rất cao. Đó là một tổng thể gồm các biện pháp sau: + Thay đổi chính sách tín dụng của ngân hàng theo hướng mở rộng cho vay thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Hiện nay chính sách ngân hàng chủ yếu hướng hoạt động cho vay vào khu vực KTQD, với định hướng như vậy khu vực KTNQD chưa được sự chú trọng phát triển của ngân hàng trong khi lượng vốn ngân hàng không sử dụng hết. Đây là một thiệt thòi cho bản thân ngân hàng nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung. Tất nhiên không thể phủ nhận rằng cho vay ngoài quốc doanh đòi hỏi mọi quá trình đều phức tạp hơn (vì theo quan niệm thông thường khi cho vay DNNN gần như được Nhà nước bảo đảm nên không cần những thủ tục để thế chấp …) đòi hỏi tài sản bảo đảm nhưng không vì thế mà khẳng định không an toàn. Thiết nghĩ hướng làm trên sẽ là xu hướng chung của mọi ngân hàng trong cơ chế thị trường. + Tăng cường hoạt động marketing: Công tác chiến lược khách hàng tuy kết quả tốt nhưng chưa hoàn thiện, cũng giống như mọi ngân hàng khác hiện nay Sở giao dịch I vẫn chưa có một phòng marketing hoàn chỉnh, độc lập riêng biệt thực sự. Phải vận dụng hoạt động marketing đúng như bản chất của nó bao gồm có 4 chính sách: Giá cả, phân phối, khuyến mại và khuếch trương, trong thực tế chính là thông qua tiếp xúc với khách hàng. Bởi vì, hiện nay các hợp đồng kinh tế được ký kết chủ yếu là do khách hàng tìm tới ngân hàng. Một bộ phận marketing giỏi, chuyên môn vững chắc sẽ đẩy nhanh hoạt động toàn ngân hàng, mở rộng cả về doanh số của các cá nhân tổ chức kinh tế trong việc cho vay có bảo đảm bằng tài sản cầm cố, thế chấp. + Không ngừng chú trọng tới các mối quan hệ giữa các hoạt động của ngân hàng nhằm mở rộng đối tượng khách hàng. Phương thức thanh toán có vai trò hết sức quan trọng trong việc thu hút khách hàng. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay các hoạt động kinh tế luôn diễn ra không ngừng, ngày càng phong phú và đa dạng, đòi hỏi các hoạt động có liên quan cũng phải phát triển song song. Qua đó ta thấy rằng nếu hoạt động thanh toán của ngân hàng mà diễn ra nhanh chóng, kịp thời, chính xác thì sẽ chiếm được cảm tình, ngày càng thu hút được nhiều khách hàng đến giao dịch và tất nhiên hoạt động tín dụng cũng được mở rộng hơn (trong đó bao gồm cả thành phần KTNQD). Vì vậy Sở giao dịch I cần chú ý tới mối quan hệ giữa các hoạt động của mình, cần phải cải tiến phương tiện và nâng cao chất lượng mọi mặt. + Nâng cao uy tín và sức cạnh tranh của Sở: Cạnh tranh là lẽ tất yếu trong nền kinh tế thị trường, ngay cả trong hoạt động tín dụng. Công nghệ ngân hàng khó có thể tạo ra được những bước đột phá cho nên Sở giao dịch I cần phải nỗ lực nâng cao uy tín của mình bằng các nhân tố cơ bản nhất như thái độ nhân viên, cung cách phục vụ, chất lượng dịch vụ, cán bộ tín dụng cần nhiệt tình hơn nữa trong công tác thẩm định khách hàng, phối hợp cùng giải quyết các vướng mắc của khách hàng. Ngoài ra quy mô vốn cũng là yếu tố giúp nâng cao uy tín vốn của Sở cần được huy động mạnh hơn nữa với cơ cấu hợp lý từ đó có thể phục vụ nhu cầu phát triển trong tương lai, kịp thời nắm bắt cơ hội, tham gia đồng tài trợ vào những dự án lớn, có hiệu quả, nhằm tăng lợi nhuận, thu hút được nhiều khách hàng lớn. Cần phân định quyền tự quyết và trách nhiệm của cán bộ tín dụng hợp lý hơn Điều này không chỉ tạo cho cán bộ tâm lý thoải mái mà còn giúp họ có trách nhiệm hơn trong công việc. Quyền tự quyết thể hiện bằng quyền quyết định doanh số cho vay tài sản cầm cố, thế chấp và các điều khoản khác phù hợp với quy định. Hiện nay, thậm chí các khoản cho vay lớn Sở còn phải thông qua trung tâm điều hành chứ chưa nói đến là cán bộ tín dụng. + Phân định rõ ràng trách nhiệm của cán bộ tín dụng đối với tài sản cầm cố, thế chấp. Đổi mới và hoàn thiện quy trình nghiệp vụ tín dụng tại Sở GDI + Tập trung giải quyết nợ quá hạn, nợ khó đòi nhằm lành mạnh hoá tình hình tài chính của Sở giao dịch I (bao gồm cả hạn chế phát sinh nợ quá hạn nhằm phòng ngừa từ xa các rủi ro). + Nhanh chóng tiến hành thẩm định lại dự án và định giá lại tài sản cầm cố, thế chấp đối với những khoản vay đang thực hiện tại Sở để đưa ra những kết luận kịp thời. + Chủ động thực hiện biện pháp xiết nợ đối với những khoản vay được xác định đã ở vào tình trạng khó có khả năng hoàn trả. + Tăng cường hoạt động kiểm tra, giám sát các doanh nghiệp vay vốn. + Thiết lập chế độ tài chính phù hợp giải quyết các chi phí phát sinh cho công tác cho vay có bảo đảm bằng tài sản thế chấp, cầm cố. + Tiếp tục phối hợp với các chi nhánh giải quyết nợ quá hạn tồn đọng từ phương thức chi nhánh thẩm định, quản lý khách hàng, Sở giải ngân hạch toán. + Đối với các khoản cho vay mới, song song với quá trình thẩm định Sở giao dịch I phải nghiên cứu kỹ vấn đề thời hạn cho vay. Các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng. + Không ngừng nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cán bộ tín dụng: Sức mạnh của bất kỳ ngân hàng nào cũng đều thể hiện ở ba yếu tố : vốn – trí tuệ con người – công nghệ ngân hàng . Mọi sự thay đổi có đạt được kết quả hay không và đạt được ở mức độ nào phụ thuộc vào đội ngũ cán bộ tài chính ngân hàng. Vì vậy công tác phát triển nguồn nhân lực đặc biệt là chất lượng hết sức cần thiết. Hiện tại đội ngũ cán bộ của Sở GD I -NHCT Việt Nam có lợi thế là năng động, tuổi đời còn trẻ, phần lớn đều có trình độ đại học, tuy nhiên kinh nghiệm thực tiễn chưa nhiều, thêm vào đó lại thiếu am hiểu về các lĩnh vực sản xuất kinh doanh của khách hàng. Trước tình hình này, Sở cần thiết phải có kế hoạch đào tạo đội ngũ cán bộ có đầy đủ kiến thức chuyên môn, kiến thức tổng hợp cũng như kinh nghiệm thực tiễn. Sở cần tiếp tục phát huy các biện pháp đã thực hiện như: thường xuyên tổ chức các khoá học, tạo điều kiện cho các cán bộ tín dụng tham khảo kinh nghiệm của các chi nhánh NHCT trên địa bàn Hà Nội cũng như các NHTM khác ; tổ chức các buổi chuyên đề luận đàm về các quy định của Nhà Nước và ngành ngân hàng, tạo môi trường cạnh tranh phấn đấu ngay trong từng cán bộ của Phòng kinh doanh ... Đặc biệt chú trọng chuyên môn thẩm định, luôn cập nhật cho các cán bộ tín dụng để rồi qua đó mà tính hiệu quả khả thi của dự án được đánh giá đúng đắn chính xác; đem lại cho Sở những khoản vay có khả năng hoàn trả cao. + Tăng cường công tác thu thập thông tin. Đây là giải pháp cần được đặt nhiều sự quan tâm của Ban lãnh đạo Sở cũng như Hội Đồng Quản Trị NHCT Việt Nam. Đồng thời Sở phải có đội ngũ chuyên viên đánh giá thông tin tín dụng phòng ngừa rủi ro giỏi để phục vụ tốt cho hoạt động của mình, tăng cường sức mạnh cạnh tranh, lại vừa đề phòng được rủi ro ở mức độ tốt nhất có thể. + Nâng cao chất lượng hoạt động thẩm định khách hàng. Để món vay có hiệu quả, trước tiên ngân hàng phải đánh giá khách hàng một cách đúng đắn về tình hình hoạt động kinh doanh của họ, khả năng tài chính, tư cách đạo đức, tư cách pháp nhân . Để làm được điều này Sở cần phải chú trọng bồi dưỡng cho cán bộ thẩm định có trình độ và sự nhạy cảm nghề nghiệp. Thẩm định không chỉ là công cụ giúp đảm bảo hiệu quả hoạt động cho vay, thu được gốc và lãi khi đến hạn, hạn chế rủi ro đến mức thấp nhất mà nó còn là cơ sở để xác định số tiền cho vay, mức thu nợ, thời hạn hợp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp có trách nhiệm đối với khoản vay của mình, từ đó hoạt động kinh doanh thực sự nghiêm túc có hiệu quả Sở phải tuân thủ đầy đủ các nguyên tắc và quy trình thẩm định, đảm bảo độ nhanh chóng và chính xác . Qua đó cán bộ tín dụng có được cái nhìn toàn diện về khách hàng và phương án vay vốn. Việc bỏ qua bất cứ một bước nào sẽ có thể dẫn đến sự sai lệch trong kết luận cuối cùng . Đối với những dự án cầm cố, thế chấp ngắn hạn Sở nên chú ý đến doanh thu bán hàng của khách hàng, xác định khả năng và thời điểm thu tiền hàng vì đây là nguồn trả nợ chính. Khả năng thanh toán của khách hàng cần phải được xem xét kỹ thông qua các chỉ tiêu như : Hệ số thanh toán ngắn hạn( tài sản lưu động/ nợ ngắn hạn ); hệ số thanh toán tức thời ( vốn bằng tiền / Nợ đến hạn ); hệ số thanh toán nhanh. Nếu không xác định đúng dòng tiền thu về và khả năng thanh toán của khách hàng thì Sở khó có thể thu hồi được vốn vay khi đến hạn Đối với những dự án cầm cố thế chấp trung, dài hạn, Sở cần phân tích kỹ tình hình tài chính của khách hàng để biết được cơ cấu tài sản ( tài sản cố định có được đầu tư vững chắc bằng vốn dài hạn không ) ; năng lực hoạt động thể hiện qua vòng quay hàng tồn kho, hiệu suất sử dụng tài sản ; khả năng thanh toán; khả năng sinh lời ; kết quả hoạt động trong những năm gần đây. Bên cạnh đó Sở cũng cần chú ý đến phân tích kỹ thuật. Đối với những dự án đầu tư dây chuyền công nghệ mới Sở cần phải nghiên cứu sản phẩm do dây chuyền sản xuất ra, chi phí đầu tư cho công nghệ, hiệu suất hoạt động của công nghệ, công nghệ đó có phù hợp với điều kiện nước ta hay không, thời gian hoạt động bao lâu...... Đối với những khách hàng có khó khăn tạm thời về tài chính Sở vẫn có thể cho vay nếu như có phương án vay vốn khả thi, hiệu quả cao, đảm bảo khả năng trả nợ. Trong quá trình thẩm định Sở nên phân tích độ nhạy của dự án để dự đoán được những thay đổi có thể ảnh hưởng đến kết quả thẩm định. Ngoài ra cán bộ thẩm định phải thường xuyên cập nhật những quy định của Nhà Nước có liên quan đến lĩnh vực đầu tư . Khách hàng của Sở phong phú, đa dạng cả về thành phần kinh tế và ngành nghề sản xuất kinh doanh, đòi hỏi người cán bộ tín dụng phải am hiểu thấu đáo về lĩnh vực mình thẩm định, có trình độ nghiệm vụ cao. Do đó Sở nên chuyên môn hoá cán bộ thẩm định, mỗi người chỉ nên thẩm định một hoặc một số lĩnh vực nhất định. Có như vậy cán bộ tín dụng mới có những kiến thức sâu sắc, có thời gian để hiểu sâu về lĩnh vực đó. Không ngừng nâng cao chất lượng thông tin tín dụng, thu thập thông tin cho thẩm định bằng cách điều tra, lấy thông tin trực tiếp từ khách hàng kết hợp với những nguồn thông tin có liên quan khác. Như vậy Sở mới có được những thông tin toàn diện, chính xác, kịp thời phục vụ tốt cho công tác thẩm định Sở cần hoàn thiện phương pháp thẩm định. Kết quả thẩm định không có ý nghĩa gì nếu như thông tin và phương pháp thẩm định không chính xác. Trước hết cần xác định các dòng tiền vào ra của dự án. Các dòng tiền là cơ sở để xác định lợi nhuận cũng như nguồn trả nợ cho Sở. Sở nên sử dụng phương pháp NPV thay cho phương pháp IRR trong việc xác định khả năng sinh lời của dự án để có đánh giá chính xác hơn . Sở cũng cần chý ý xác định hệ số K ( tỷ lệ lợi tức mong đợi của các nhà đầu tư ) một cách hợp lý vì nó ảnh hưởng đến tính toán lợi nhuận của dự án. Hệ số K phải dựa trên chi phí vốn, phải phản ánh được mức độ rủi ro Sở cần tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật ứng dụng trong thẩm định bằng cách đưa việc tính toán những chỉ tiêu kinh tế cần thiết trong thẩm định vào các chương trình phần mềm máy tính để có thể đạt được những kết quả thẩm định chính xác và nhanh chóng hơn. Qua đó có thể rút ngắn thời gian thẩm định, giúp cho khách hàng nhanh được đáp ứng vốn, không bị bỏ lỡ cơ hội kinh doanh Và cuối cùng kết quả của công tác thẩm định phải được tôn trọng, tức là quyết định cho vay hay từ chối phải dựa trên kết quả thẩm định và không bị chi phối bởi các yếu tố khác + Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ. Những hạn chế trong hoạt động cho vay nói chung và cho vay cầm cố thế chấp nói riêng là do nguyên nhân khách quan và chủ quan. Vấn đề đặt ra là Sở phải ngăn chặt và phát hiện kịp thời các sai sót trong khi cho vay . Kiểm soát nội bộ là biện pháp để Sở tự kiểm tra mình trong quá trình kinh doanh nhằm đảm bảo an toàn vốn, đem lại hiệu quả kinh doanh ngày một cao . Mục tiêu của kiểm soát nội bộ là đảm bảo hạch toán kế toán đầy đủ kịp thời, chính xác và đúng chế độ; phát hiện kịp thời các rắc rối trong kinh doanh để có cơ sở hoạch định và thực hiện các biện pháp giải quyết; ngăn chặn và phát hiện các sai phạm gian lận, lạm dụng trong quá trình kinh doanh . Đến nay công tác này vẫn được phòng kiểm soát nội bộ tiến hành, được lãnh đạo Sở quan tâm nhưng vẫn cần phải được tiếp tục tăng cường, phát huy tác dụng . Kiểm soát nội bộ phải được tiến hành định kỳ thường xuyên và đột xuất, cung cấp đủ số liệu cho hệ thống thanh tra Nhà Nước, thanh tra ngân hàng Nhà Nước . Các hệ thống thanh tra này sẽ sử dụng kết quả của kiểm soát nội bộ, sau đó mới đi sâu vào kiểm tra phân tích theo yêu cầu riêng. Qua đó Sở có thể loại bỏ việc trùng lắp trong hệ thống thanh tra, tiết kiệm thời gian, giảm bớt phiền hà, nâng cao hiệu quả thanh tra để có kiến nghị xác đáng tác động thiết thực đến hoạt động kinh doanh . Kếp hợp kiểm soát nội bộ với kiểm toán bắt buộc từ bên ngoài và thanh tra ngân hàng là tiền đề nâng cao chất lượng hoạt động, hạn chế rủi ro Hâu hết các biện pháp kiểm soát đều có chiều hướng tập trung vào nghiệp vụ đã thấy trước chứ không phải vào các nghiệp vụ mới hình thành, nên chỉ có thể giảm được sai lầm, thiếu sót chứ không ngăn chặn hoàn toàn mọi sự việc đáng tiếc có thể xảy ra . Bởi vậy Sở cần phải tổ chức kiểm tra chặt chẽ trước trong và sau khi cho vay. Có như vậy mới phát hiện kịp thời những tiêu cực để sửa chữa Hoạt động kiểm tra, kiểm soát nội bộ có thể làm chậm lại hoặc hạn chế phần nào nhịp độ kinh doanh nhưng không vì thế mà Sở coi nhẹ hoạt động này, Sở cần phải đảm bảo mối quan hệ hài hoà giữa thực hiện tốt kiểm soát nội bộ vừa không để hoạt động này ảnh hưởng quá lớn đến hoạt động kinh doanh . Sở cần phải đổi mới thủ tục, phương pháp, biện pháp kiểm soát nội bộ cho thích hợp với điều kiện hoàn cảnh thực tế để rút ngắn thời gian nâng cao hiệu quả Kiểm soát nội bộ cũng cần phải kiểm tra kết quả chỉnh sửa sau lần kiểm soát trước đó . Sai lầm bị phát hiện là để sửa chữa, nếu không thì hoạt động kiểm tra, kiểm soát không có ý nghĩa. Việc sửa chữa, chấn chỉnh cũng cần được giám sát chặt chẽ . Kiên quyết loại trừ những cán bộ tín dụng mất phẩm chất, tiêu cực, lợi dụng kẽ hở để gây thất thoát vốn, làm giảm uy tín của Sở Sở phải lựa chọn, đào tạo cán bộ có trình độ, đạo đức để thực hiện công tác này. Hoạt động kiểm soát không thể đạt được kết quả nếu kiểm soát viên không đủ trình độ chuyên môn phân tích, đánh giá hoặc cố tình bỏ qua những sai sót dẫn đến những hạn chế tiêu cực trong thực tế hoạt động cho vay . Hơn ai hết kiểm soát viên phải được đào tạo không ngừng nâng cao phẩm chất trình độ . Các kiến nghị. Kiến nghị với Chính phủ. Kiến nghị chung về hoàn thiện cơ chế đảm bảo tiền vay: Cần có một cơ chế đảm bảo tiền vay theo hướng không quy định thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh là một điều kiện vay vốn mà khách hàng vay phải thực hiện hoặc được "ưu đãi" miễn thực hiện, mà chỉ nên quy định có tính khuôn khổ pháp luật, tách biệt rõ ràng tín dụng theo thương mại và theo chính sách. Đối với tín dụng thương mại thì đưa ra nhiều biện pháp đảm bảo tiền vay một cách phong phú, đa dạng, trên cơ sở đó các tổ chức tín dụng được lựa chọn khách hàng, lựa chọn dự án để tự quyết định cho vay cần có bảo đảm hoặc không cần có bảo đảm bằng tài sản. Và thực hiện áp dụng đối với khách hàng thuộc mọi thành phần kinh tế, không phân biệt đối xử. Đối với tín dụng theo chính sách tức tín dụng ưu đãi của Nhà nước đối với một số đối tượng và không cần biện pháp đảm bảo. Khi bị tổn thất do các nguyên nhân khách quan về các khoản vay thì được Chính phủ xử lý. Cụ thể là: - Đề nghị Chính phủ chỉ đạo các Bộ ngành liên quan đến NĐ 178/1999/NĐ - CP như Bộ tư pháp, Bộ công an, Bộ tài chính, Tổng cục địa chính có các thông tư hướng dẫn đồng bộ, kịp thời, tạo hành lang pháp lý vững chắc cho các TCTD mở rộng cho vay đến các thành phần kinh tế một cách an toàn và có hiệu quả (nhất là thông tư hướng dẫn về đăng ký giao dịch bảo đảm theo NĐ 08/2000/NĐ - CP và giao dịch bảo đảm theo NĐ 165/1999/NĐ - CP). - Đề nghị huỷ bỏ điểm 2 điều 7 (tức là huỷ tài sản cầm cố có thể là tiền Việt Nam, ngoại tệ) cho phù hợp với Bộ luật dân sự. -Hướng dẫn thêm 3 nội dung liên quan đến khoản 2 điều 16 của NĐ 165/1999/NĐ - CP như đã để cập trong vướng mắc thứ 4 mục C phần 2.3.1 chương II -Sửa đổi điều 11/NĐ178 về phạm vi bảo đảm tiền vay cho phù hợp với Bộ luật dân sự, tức là "Trong một trường hợp, một tài sản chỉ được dùng để bảo đảm nghĩa vụ trả nợ tại một TCTD. Nếu tài sản có đăng ký quyền sở hữu thì có thể được dùng để đảm bảo cho nhiều nghĩa vụ trả nợ tại nhiều TCTD nếu giá trị lớn hơn tổng giá trị các nghĩa vụ được bảo đảm" - Đề nghị sửa đổi điều 22.2 trong NĐ 08/2000/NĐ - CP về đăng ký giao dịch bảo đảm. Theo văn bản cũ thì "Thứ tự ưu tiên thanh toán giữa những người cùng nhận bảo đảm bằng một tài sản được xác định theo thứ tự đăng ký", nay nên bổ sung thêm. "Nhưng cơ quan giao dịch bảo đảm chỉ nhận đăng ký giao dịch bảo đảm tiếp nếu thấy giá trị tài sản còn lại có thể còn bảo đảm có thể thực hiện nghĩa vụ tiếp theo". - Đồng thời theo Thông tư 06 cũng cần bổ sung mục 3 chương 2. Văn bản cũ là: "Một trong các nghĩa vụ của khách hàng vay khi cầm cố thế chấp tài sản là thực hiện đăng ký giao dịch bảo đảm" nay cần bổ sung thêm: "TCTD chỉ phát vốn vay cho khách hàng vay khi nhận được bản gốc giấy chứng nhận đăng ký bảo đảm". Có như vậy mới rõ ràng hơn, vừa đề cao trách nhiệm của cơ quan giao dịch bảo đảm khi nhận tài sản cấm cố, thế chấp đăng ký giao dịch bảo đảm, vừa đề cao trách nhiệm của TCTD, phòng chống được những khách hàng lừa đảo. - Trong trường hợp cho vay hợp vốn, có nhiều TCTD cũng cho vay một dự án, cùng nhận một tài sản cầm cố, thế chấp thì việc đăng ký được thực hiện như điều 22.2 đã được bổ sung ở trên. Đồng thời NĐ 08/2000/NĐ - CP cần quy định thêm: "Trong trường hợp này nếu xảy ra tranh chấp phải xử lý tài sản thu hồi nợ thì mỗi bên (mỗi TCTD) sẽ được thu nợ theo tỷ lệ tương ứng phần vốn của mình tham gia trong tổng giá trị tài sản cấm cố, thế chấp ở thời giá của thời điểm xử lý tranh chấp". Kiến nghị về hoạt động bảo đảm tiền vay bằng tài sản cầm cố - thế chấp (chủ yếu đối với tài sản thế chấp). *Đơn giản hoá thủ tục công chứng. Nghị định của chính phủ về thủ tục công chứng quy định Bộ tư pháp có trách nhiệm hướng dẫn các mẫu giấy tờ để công chứng đến nay vẫn chưa có mẫu hợp đồng thế chấp. Các NHTM quốc doanh, cổ phần … đều có mẫu riêng nhưng không được phòng công chứng chấp nhận. *Quy định rõ ràng hơn về điều kiện TSTC. + Theo Luật dân sự thì TSTC bao giờ cũng là bất động sản, tài sản cầm cố là động sản nhưng ngân hàng nhận thế chấp cả động sản và bất động sản. Vậy luật nên điều chỉnh như thế nào để phù hợp với thực tế. + Theo quy định TSTC phải có chứng từ sở hữu gốc để giao nộp ngân hàng nhưng trên thực tế hơn 80% tài sản của các pháp nhân khu vực KTNQD và 100% KTQD không có giấy chứng nhận sở hữu dẫn đến có sự bất bình đẳng về đảm bảo tiền vay giữa 2 thành phần kinh tế này. Nhà nước cần có nhiều quy chế mới về quyền sở hữu tài sản đặc biệt với các doanh nghiệp Nhà nước. + Điều kiện về TSTC đặc biệt phức tạp với thế chấp bằng quyền sử dụng đất. Nguyên do là hệ thống pháp luật, sự quản lý đất đai còn lỏng lẻo. - Giấy tờ và hồ sơ nhà có nhiều loại: Có nhiều trường hợp có đủ quyền hợp pháp nhưng không đủ giấy tờ hợp lệ, không xác định được giấy tờ có hợp lệ hay không. Nhà nước cần thống nhất hoá các giấy tờ này. - Với loại nhà do Nhà nước quản lý giao quyền sử dụng (Doanh nghiệp và hộ cá thể) - họ không có quyền sở hữu - liệu phải thế chấp như thế nào. Nhà nước có thể chuyển từ sử dụng sang sở hữu hoàn thiện về mặt giấy tờ giúp các thành phần kinh tế đảm bảo thủ tục vay vốn. - Với các hộ nông dân cần vay vốn mà thiếu giấy chứng nhân quyền sở hữu Nhà nước có thể quy định cho phép sử dụng giấy tờ kê khai về quyền sử dụng đất để thế chấp. *Thay đổi thủ tục đăng ký sở hữu TSTC nhằm đơn giản hoá +Quy đinh về thủ tục chuyển nhượng quyền sở hữu tài sản và quyền sử dụng đất cho người mua TSTC một cách thuận lợi, nhất là quy định các loại giấy tờ cụ thể chứng minh về việc mua TSTC,CC để làm cơ sở cho cơ quan có thẩm quyền làm thủ tục chuyển quyền sở hữu nhất là trong trường hợp TCTD được bán tài sản chứ không phải là chủ sở hữu tài sản. + Quy định về trách nhiệm thực hiện đăng ký các giao dịch đảm bảo đối với từng cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Các cơ quan này sẽ chịu trách nhiệm thực hiện các thủ tục đăng ký, nộp lưu vào hệ thống lưu giữ quốc gia về các giao dịch bảo đảm đã đăng ký làm cơ sở để cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản hay quyền sử dụng đất tạo điều kiện cho việc thế chấp tài sản vay vốn ngân hàng, tránh tình trạng tài liệu sở hữu giả, nhiều tài liệu sở hữu hay không có chứng nhận sở hữu. Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất còn chưa thực hiện đầy đủ nên gây khó khăn trong việc phát mại TSTC. Đề nghị các cơ quan chức năng thực hiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất để khi thế chấp đảm bảo yêu cầu pháp lý. *Chính phủ cần đưa ra các giải pháp về định giá TSTC sao cho hợp lý cả ngân hàng và cả về phía người vay: + Đưa ra một khung giá "mở" tạo điều kiện cho các TCTD linh hoạt hơn trong việc định giá TSTC không đi quá xa so với quy định của Nhà nước những cũng không bị cố định vào khung giá đó, tránh tình trạng giá theo khung giá của Nhà nước thấp hơn rất nhiều so với giá thị trường đặc biệt là đối với thị trường bất động sản. Đồng thời Nhà nước cần thông báo rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng về các chỉ tiêu chung để tránh hiểu lầm giữa các ngân hàng và khách hàng, tránh tình trạng một tài sản được đánh giá khác nhau ở các ngân hàng do không có một chuẩn mức giá trị tài sản. + Quy định chặt chẽ vê công tác hạch toán kế toán của doanh nghiệp để tránh cho việc đánh giá tài sản theo sổ sách kế toán không đúng, các con số thường khác xa so với thực tế. + Từng bước để thành lập một tổ chuyên môn về định giá TSTC. *Quy định lại mức cho vay cho phù hợp với các loại tài sản đem thế chấp. Mức cho vay tối đa không quá 70% là chưa hợp lý vì có những tài sản như chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, sổ tiết kiệm có thể cho vay đến 100% nhưng vẫn đảm bảo an toàn, nhưng có những tài sản như bất động sản hay động sản giá cả lên xuống bất thường có khi tụt xuống chỉ còn 1/2 giá trị ban đầu nên việc cho vay 70% là quá mạo hiểm. Vậy nên Chính phủ cần quy định mức cho vay tối đa với từng loại tài sản cụ thể hoặc không quy định mà để cho ngân hàng tự quyết định bởi nó ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh của ngân hàng. *Cần đưa ra chính sách về xử lý TSTC để hạn chế khó khăn của ngân hàng khi phát mại tài sản: a,Cần có hướng dẫn cụ thể cho những vấn đề phát sinh khi phát mại TSTC qua toà án + Toà án nhân dân tối cao cần có hướng dẫn cụ thể để việc công nhận, xử lý tài sản đồng sở hữu trong quá trình xử lý TSTC, tạo điều kiện thuận lợi cho bên nhận thế chấp TSTC và xử lý TSTC để thu nợ. + Đề nghị UBND và toà án nhân dân các cấp căn cứ vào giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để giải quyết tranh chấp. + Tiền thi hành án nên nộp ngay vào ngân hàng để khấu trừ số nợ vay ngân hàng sẽ có trách nhiệm báo cáo quá trình nộp tiền thi hành án đến khi dứt điểm cho phòng thi hành án. + Trong trường hợp tranh chấp hợp đồng tín dụng hoặc hợp đồng cầm cố, thế chấp hoặc quy định sau một thời gian nhất định mà TSTC,CC không xử lý được để thu nợ thì TCTD có quyền khởi kiện ra toà án có thẩm quyền để xử lý và có biện pháp cưỡng chế thi hành án đã có hiệu lực, trách nhiệm phối hợp của các cơ quan công an, toà án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, cơ quan địa chính, tài chính, tư pháp, cơ quan thi hành án, ngân hàng Nhà nước. Trường hợp bên vay có liên quan đến vụ án hình sự thì cơ quan pháp luật cần tạo điều kiện cho ngân hàng tiến hành phát mại TSTC để thu hồi nợ. b, Thiết lập cơ chế cho vay có bảo đảm bằng TSTC, trong đó gồm các nội dung cơ bản như: + Quyết định nhiều hình thức xử lý TSTC để các bên có thể thoả thuận lựa chọn khi ký hợp đồng như: Bên thế chấp tự bán tài sản hoặc cả 2 bên cùng bán tài sản, hoặc giao cho TCTD bán tài sản, hoặc uỷ quyền cho người thứ 3 bán tài sản, gán nợ bằng TSTC, hoặc thoả thuận bằng các phương án khác. + Nâng cao quyền hạn, tính tự chủ của TCTD được quyền chủ động bán TSTC trong trường hợp TSTC không được xử lý theo hướng tích cực. + Đề ra nhiều phương thức bán tài sản để các bên vận dụng một cách linh hoạt, phù hợp với từng nơi và điều kiện của các bên. c, Cần xử lý TSTC do vướng mắc các thủ tục pháp lý thủ tục hành chính một cách nhanh chóng. + Toà án nên tổ chức xét xử theo thủ tục khẩn cấp và không đình hoãn phiên xử dù có liên quan đến vụ án khác vì đây là những vụ kiện món nợ ngân hàng được quyền ưu tiên thanh toán. + Phần bản án đã được thi hành không nên có hiệu lực hồi tố vì không đảm bảo quyền lợi cho ngân hàng. + Cần có điều luật quy định việc xét xử vắng mặt vì nếu không rất khó xác định sở hữu để ngân hàng phát mại TSTC để thu nợ. + Thành lập lực lượng cảnh sát tư pháp để cưỡng chế việc thi hành án nếu con nợ không giao nhà cho người mua tại trung tâm đấu giá. + Sau khi được xác nhận có công chứng trong thủ tục thế chấp thì hầu như các tài sản hợp lệ nên chỉ cần ngân hàng xuất trình đủ giấy tờ hồ sơ vay, hồ sơ thế chấp thì ngân hàng có quyền phát mại. + Đối với tài sản ngân hàng đã nhận gán nợ mà không tranh chấp nhưng hồ sơ pháp lý chưa đầy đủ đề nghị chính phủ chỉ đạo UBND tỉnh, thành phố và các cơ quan chức năng hợp thức hoá về mặt pháp lý, hoàn chỉnh hồ sơ để ngân hàng có quyền bán, chuyển nhượng, khai thác nhằm thu hồi vốn của mình. d, Thay đổi cách tính lãi suất trong thời gian chờ xét xử TSTC. Thời hạn 30 ngày kể từ ngày kết thúc hạn trả nợ, ngân hàng sẽ áp dụng chính sách lãi suất quá hạn đối với khoản tiền cho vay nhưng từ khi ngân hàng bắt đầu phát mại tài sản cho đến khi hoàn thành thì không có quy định nào về việc tính lãi. Các TSTC có giá trị lớn thời gian phát mại dài. Trong khoảng thời gian này vốn của ngân hàng bị chiếm dụng mà lãi không được tính. Nếu chẳng có quy định cụ thể về điều này, chẳng hạn khống chế về thời gian phát mại với ngân hàng, sau đó ngân hàng phải chịu thời gian kéo dài sau đó. e, Trường hợp bên vay bị phá sản Nhà nước cần quy định rõ thủ tục xử lý TSTC. Ban hành các văn bản dưới luật hướng dẫn việc thực hiện xử lý TSTC của doanh nghiệp thua lỗ, phá sản, giải thể một cách cụ thể đảm bảo công bằng giữa các bên. Bởi vì hiện nay số tiền thu được do đấu thầu thanh lý tài sản của tổ chức kinh tế được giành để thanh toán nợ thuế, tiền lương lao động trước rồi mới thanh toán nợ cho ngân hàng. Nếu phần còn lại không đủ để thanh toán nợ cho ngân hàng thì quả là bất hợp lý vì TSTC là tài sản mà tổ chức kinh tế đã thế chấp cho ngân hàng để được vay vốn. Hơn nữa trong hợp đồng thế chấp vay tiền đã được công chứng hay chính quyền sở hữu của ngân hàng. f, Đưa ra trật tự giải quyết tài sản khi bên vay dùng một tài sản để thế chấp cho nhiều TCTD khác nhau. Cần nghiên cứu bỏ quy định một khách hàng vay vốn nhiều TCTD thành quy định nhiều ngân hàng cho vay theo hướng đồng tài trợ và một ngân hàng sẽ đứng ra làm đầu mối. Còn nếu không bỏ thì cần sửa đổi, bổ sung cơ chế và chấn chỉnh lại hoạt động của trung tâm thông tin tín dụng, từ khâu cập nhật số liệu, cung cấp số liệu đảm bảo kịp thời, chính xác và tin cậy. g, Giảm thuế hoặc bãi bỏ thuế khi phát mại tài sản. h, Thành lập Công ty mua bán TSTC mục tiêu hoạt động không vì lợi nhuận nhưng hoạt động theo cơ chế thị trường. Nhà nước cấp một phần vốn tự có, đại bộ phận vốn được huy động dưới các hình thức như phát hành trái phiếu dưới sự bảo hộ của Chính phủ. - Tiếp nhận hồ sơ tín dụng khó đòi và tiến hành phân tích khả năng thu hồi từng khoản vay. - Được ngân hàng Nhà nước, Bộ tài chính, Bộ tư pháp làm tư vấn, nhằm tránh cho chính phủ và ngân hàng Nhà nước trực tiếp đem tiền tạo ra sự ỷ lại vì lý đó là một nét xấu trong quản lý kinh doanh. Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước chỉ can thiệp trong những trường hợp bất khả kháng. i, Đưa ra các phương pháp, tiêu chuẩn để xác định tổn thất của ngân hàng trong vụ án hình sự (như vụ Tamexco, Epco, Minh Phụng …) j, Ngăn chặn nạn giấy tờ sở hữu giả về tài sản. k, Có chế độ về giải quyết các chi phí mới phát sinh trong quá trình cho vay thế chấp. Nếu chi phí tăng, hoặc phải chi thêm chi phí quản lý dẫn đến số món vay phải giảm, lợi nhuận đương nhiên giảm và ngân hàng đã bỏ lỡ cơ hội có thể thu lợi nhuận. Ngân hàng không trực tiếp chịu tác động của việc tăng chi phí nhưng lại bị ảnh hưởng một cách gián tiếp. Ngoài ra việc thế chấp đối với dây chuyền sản xuất thường xuyên phải đánh giá lại để đề phòng những hao mòn nhất là những hao mòn hữu hình xảy ra hoặc việc sử dụng không đúng hợp đồng của người thế chấp kiểm tra sẽ gây khó khăn cho khách hàng trong quá trình sản xuất đồng thời buộc ngân hàng mất một khoản chi phí đáng kể (có khi phải thuê chuyên gia …) Vậy để giải quyết tốt đẹp khó khăn cho cả ngân hàng và khách hàng, đồng thời giữ mối quan hệ tốt giữa hai bên, nên có một cơ quan thứ ba đứng ra làm trung gian quản lý TSTC vay vốn ngân hàng. Quá trình này thực hiện một cách chuyên môn hoá sẽ làm giảm gánh nặng chi phí xuống và khoản chi phí đó do ngân hàng và khách hàng cùng trả cho cơ quan trung gian đó. Kiến nghị với Nân hàng Nhà nước (NHNN): Cần hoàn thiện cơ sở pháp lý về cho vay cầm cố *Đối với hạn chế sự khác biệt của Công văn 869/CV-NNNH1 vói đặc trưng cơ bản của nghiệp vụ cấp tín dụng : NHNN và các cơ quan chức năng sớm ban hành các hướng dẫn về việc cấp tín dụng dưới hình thức cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn. Trong đó nhất thiết phải quy định chặt chẽ và chi tiết trách nhiệm của tổ chức phát hành giấy tờ có giá, trong đó quy định về việc tổ chức phát hành phải có trách nhiệm thanh toán ngay số tiền cho TCTD cho vay khi nhận được thông báo của TCTD cho vay rằng bên cầm cố (bên vay) thực hiện không đúng hoặc không đủ nghĩa vụ đối với TCTD cho vay. *Đối với hạn chế thời gian, thủ tục còn phiền hà: trong thời gian tới, các TCTD khi cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá của khách hàng cần thiết phải đơn giản hoá quy trình thẩm định và xét duyệt do các khoản vay này có tính an toàn cao. Thủ tục cũ bao gồm 8 bước: Giấy đề nghị vay vốn, hợp đồng tín dụng cầm cố chứng từ có giá, biên bản kiểm định, giấy nhận nợ, phương án sản xuất kinh doanh, giấy xác nhận chứng từ có giá, bản gốc chứng từ có giá ngắn hạn, biên bản kiểm tra sử dụng vố vay (sau khi phát tiền vay). Khi sửa đổi nên bớt phương án sản xuất kinh doanh, biên bản kiểm tra sử dụng vốn vay, biên bản kiểm định và giấy nhận nợ gộp làm một. Như vậy hồ sơ thủ tục sẽ đơn giản hơn. Cần hoàn thiện cơ sở pháp lý về cho vay thế chấp tài sản + Đề nghị Thống đốc Ngân hàng Nhà nước huỷ bỏ điều 11 mục 2 về TSCC trong Thông tư 06/2000/TT - NHNN 1, tức là huỷ bỏ điều "Ngoại tệ bằng tiền mặt, số dư trên tài khoản tiền gửi tại TCTD bằng tiền Việt Nam, ngoại tệ". + NHNN phối hợp với các cơ quan khác để thành lập một trung tâm chuyên cung cấp thông tin: Qua đó các ngân hàng có thể nhanh chóng nắm bắt được những thay đổi trên thị trường, cập nhật các văn bản, quy định mới của NHNN cũng như các tổ chức khác, giảm thiểu rủi ro. Ngoài ra các ngân hàng trong nước không phải sử dụng dịch vụ thông tin của các tổ chức nước ngoài, giảm được chi phí và theo đó giảm được lãi suất cho vay. + NHNN sớm trình lên Quốc hội, Chính phủ về việc ban hành Luật thế chấp tài sản và nhữnh văn bản hướng dẫn việc xác định quyền sở hữu tài sản đặc biệt là nhà cửa, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sớm hoàn tất cả các giấy tờ có liên quan đến TSTC để tạo điều kiện cho các ngân hàng và khách hàng thuận tiện khi vay vốn. + Sớm xúc tiến việc thành lập công ty mua bán TSTC theo sự uỷ quyền của Chính phủ. + Đưa ra mẫu hợp đồng thế chấp chuẩn chung cho tất cả các TCTD tránh tình trạng không đồng nhất giữa các TCTD và sự không công nhân của công chứng Nhà nước. + Chủ động phối hợp với Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ tư pháp, Bộ công an, Tổng cục địa chính để nghiên cứu soạn thảo, ban hành một văn bản nhằm hoàn thiện cơ sở pháp lý, tạo thuận lợi và an toàn để hướng dẫn xử lý ngay các khó khăn ách tắc trong việc giải toả, phát mại TSTC ở các NHTM hiện nay. + Ngoài ra NHNN cần tháo gỡ một số điều bất hợp lý đối với QĐ 217/QĐ - NH1. Điều 91 quy định: "Mỗi lần thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh phải đăng ký tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền" nhưng mặc dù ngân hàng có đăng ký nhà ở với Sở địa chính nhưng cả 2 cơ quan này đều không cho đăng ký vì chưa có hướng dẫn của UBND thành phố. Điều 17.1 trong QĐ 217 ghi: "Một TSTC để vay nhiều lần tại một bên cho vay, mỗi lần thế chấp phải đăng ký tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và các lần vay sau lập hợp đồng bổ sung phải có chứng thực của cơ quan công chứng Nhà nước". Điều này thực hiện trong thực tế rất phức tạp vì các doanh nghiệp thế chấp hoặc cầm cố để vay vốn ngắn hạn tại ngân hàng thì khoản vay trả là rất nhanh (3 tháng) và thường xuyên nên Công ty phải lập nhiều hợp đồng và khế ước vay vốn. Vì thế nếu phải đưa ra công chứng thì sẽ rất phiền hà và tốn kém cho đơn vị và trên thực tế chưa ngân hàng nào thực hiện được điều đó. + NHNN cần sớm có cơ chế quy định vè thiết lập quỹ bù đắp rủi ro để các TCTD chủ động giải quyết các khoản rủi ro quá hạn. + Quy định tại điều 3 QĐ 48/1999/NĐ - NHNN về việc ban hành quy định về phân loại tài sản có trích lập người sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động ngân hàng của các TCTD. Trong vòng 15 ngày làm việc đầu tiên của mỗi năm thế chấp tín dụng thực hiện việc phân loại tài sản có trích lập dự phòng để xử lý rắc rối. Nghĩa là quỹ dự phòng chỉ được trích lập ngay từ đầu năm hiện hành căn cứ vào số dư năm trước. Như vậy các khoản nợ quá hạn đã được trích lập từ đầu năm nhưng trong năm đã thu hồi được, nhưng vẫn phải trích lập trong khi các khoản nợ quá hạn phát sinh lại không được trích lập trong năm. Tại điều 6 tỷ lệ lập dự phòng cho tài sản có chưa phù hợp vì hiện nay nợ quá hạn còn cao (10 - 20%) thì mức trích lập dự phòng có thể lên đến hàng trăm tỷ với các ngân hàng lớn và hàng chục tỷ đối với các ngân hàng nhỏ. Trong khi lợi nhuận ngân hàng khó có thể đạt bằng con số đã trích từ đầu năm. Ngân hàng Nhà nước nên: - Trích lập theo từng kỳ với mức tỷ lệ thích hợp khác nhau thay vì trích lập từ đầu năm. - Xem xét lại tỷ lệ quy định về trích lập dự phòng trên cơ sở mối tương quan giữa tỷ lệ quá hạn và số rủi ro có thể xảy ra cần phải xử lý. - Giá trị dự phòng nên trích lập theo từng nhóm tài sản có qua phân loại. + Cho phép thành lập Công ty trực thuộc ngân hàng chịu trách nhiệm tiếp nhận các tài sản do ngân hàng xiết nợ để kinh doanh, đẩy nhanh quá trình khai thác, giải quyết các tài sản thế chấp để thu hồi vốn. Trên cơ sở đó cung cấp khoản tín dụng mới (chỉ thị 8/1998/CT - NHNN/4 ngày 03/10/1998). + Chính phủ cùng ngân hàng Nhà nước hoạch định chương trình dài hạn và trước mắt để quy hoạch cơ cấu lại hệ thống các TCTD đặc biệt là loại yếu kém để xây dựng trong tương lai gần có một hệ thống ngân hàng Việt Nam lành mạnh, hoạt động có hiệu quả đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong nước, khu vực và quốc tế. Kiến nghị với các Bộ - ngành liên quan. - Bộ Tư pháp cần sớm có thông tư hướng dẫn NĐ 08/2000/NĐ - CP "Về đăng ký giao dịch bảo đảm" và NĐ 165/1999/NĐ - CP về "Giao dịch bảo đảm để tạo điều kiện nhịp nhàng đồng bộ cho việc thực hiện NĐ 178/1999/NĐ - CP" - Thực hiện nhanh chóng việc cấp giấy chứng nhận chủ quyền tài sản đối với các thành phần kinh tế, nhằm tạo điều kiện để các thành phần kinh tế sử dụng TSTC vay vốn tín dụng. Kiến nghị với Ngân hàng Công thương Việt Nam. + NHCTVN nên xây dựng một biểu giá thích hợp làm căn cứ cho cán bộ tín dụng đánh giá thống nhất cho toàn hệ thống. + NHCTVN nên giao quyền tự quyết hơn nữa cho Sở giao dịch I về việc xử lý TSTC để Sở hoạt động tốt hơn, xử lý các TSTC được nhanh chóng, gọn nhẹ hơn. + Cụ thể hoá và hướng dẫn các quy chế về bán đấu giá TSTC vì: - Quy chế bán đấu giá tài sản ban hành kèm theo NĐ số 86/CP ngày 19/12/1996 của Chỉnh phủ còn nhiều phức tạp, mâu thuẫn. Quy chế đã mở lối thoát cho các ngân hàng trong việc chủ động bán TSTC để thu hồi vốn mà không nhất thiết phải có sự đồng ý của người vay, giải quyết được các nút vướng mắc trước đây phải xử lý theo trình tự tố tụng tuy nhiên lại không quy định biện pháp xử lý và quyền của người bán đấu giá trong từng trường hợp khi người thế chấp không đồng ý uỷ quyền cho người bán đấu giá và sẽ không giao tài sản cho người mua khi đã bán đấu giá. - Ngoài ra đối với việc phát mại quyền sử dụng đất, quy chế yêu cầu người thế chấp, người nhận thế chấp phải có đơn xin phép quyền sử dụng đất được cơ quan có thẩm quyền cho phép trong khi luật đất đai cho phép thế chấp quyền sử dụng đất và do đó khi người vay không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ của mình thì đương nhiên ngân hàng được bán đấu giá quyền sử dụng đất. Như vậy, quy chế đấu giá lại một lần nữa vừa mở lối thoát cho các ngân hàng nhưng vừa gây cản trở cho ngân hàng trong việc thực hiện quy chế đặc biệt trong trường hợp người thế chấp không tự nguyện bán quyền sử dụng đất không có quy trình giải quyết. + Hệ thống hoá toàn bộ các văn bản pháp quy của Nhà nước và của ngành về việc xử lý TSTC, đặc biệt là quyền sử dụng đất, hướng dẫn việc thi hành đối với từng trường hợp, để ban hành thống nhất trong toàn hệ thống, tránh việc áp dụng khác nhau ở các chi nhánh NHCT do không hiểu hết quy định của các văn bản. + Kiên quyết chỉ đạo các chi nhánh trong việc phát mại xử lý TSTC, những trường hợp có tranh chấp lập hồ sơ để chuyển cho các cơ quan pháp luật xử lý, tài sản phát mại không thu đủ gốc vẫn phải xử lý (vận dụng quyết định 48/QĐ - NHNN ngày 8/2/1999 cua Thống đốc ngân hàng) tránh trường hợp một số nơi sợ trách nhiệm nên vẫn găm giữ không phát mại tài sản + Hiện nay chế độ tuyển dụng cán bộ thông qua NHCTVN còn nhiều bất cập. Các cán bộ mới sẽ được đưa về Sở giao dịch I theo sự phân công của NHCTVN. Điều này gây sự khó khăn do Sở bởi có bộ phận thừa, bộ phận khác lại thiếu mà NHCTVN không thể nắm hết được dẫn đến tình trạng thiếu người có chuyên môn mà Sở cần. + Trang bị thêm thiết bị như mạng lưới máy tính cho các chi nhánh đặc biệt là Sở giao dịch I vì đây là trung tâm thu hút khách hàng ở Hà Nội nhằm đảm bảo hoạt động thanh toán thông suốt và quản lý chặt chẽ các khoản vay thông qua mạng máy tính,tăng cường mối liên hệ giữa các bộ phận trong một chi nhánh cũng như giữa các chi nhánh với nhau và giữa các NHTM đảm bảo an toàn tín dụng. - Có chính sách chế độ phù hợp với các đơn vị cấp dưới hoạt động có hiệu quả kịp thời theo hướng cũng như nhắc nhở các đơn vị hoạt động kém hiệu quả phải trình bầy lý do và nêu phương án kinh doanh sắp tới nhằm giúp đỡ bổ sung trong kế hoạch kinh doanh của các đơn vị cấp cơ sở. -Nhanh chóng hoàn thiện và đưa vào hoạt động Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản (AMC): Trong Miền Nam đã có Công ty này của NHCTVN. ở ngoài Bắc chưa thành lập hẳn Công ty mà mới chỉ là phòng quản lý và khai thác tài sản ; hoạt động chưa thật hiệu quả vì phạm vi nhỏ, khối lượng công việc ít. Hoàn thiện thêm chức năng quản lý các TSTC nữa khi đã hình thành hẳn Công ty, Công ty AMC miền Bắc của NHCTVN sẽ chịu trách nhiệm tiếp nhận các khoản nợ, tài sản do hệ thống NHCT xiết nợ đang bị tồn đọng để kinh doanh (bán, cho thuê, liên doanh liên kết...) là biện pháp khả thi và mang lại hiệu quả cao; bởi vì theo luật các TCTD thì NHTM không có quyền kinh doanh bất động sản, trong khi đó phần lớn bất động sản đang nằm tại Ngân hàng do xử lý các biện pháp đảm bảo tiền vay. Công ty này sẽ gồm 3 đặc điểm: - Có tư cách pháp nhân - Hạch toán độc lập bằng vốn tự có - Trực thuộc NHCTVN Như vậy, với hình thức trên hoạt động của Công ty sẽ giúp NHCTVN quản lý các khoản nợ có vấn đề, đẩy nhanh quá trình xử lý các TSTC, CC để thu hồi vốn, lành mạnh hoá dư nợ tín dụng, nhất là đối với tình hình hiện nay của Sở giao dịch, biện pháp này càng ý nghĩa tích cực. KẾT LUẬN Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, các NHTM ngày càng chứng minh vai trò quan trọng của mình trong mối quan hệ với tất cả các ngành khác. Tuy nhiên chất lượng hoạt động tín dụng của các NHTM còn chưa cao đang là mối quan tâm không chỉ với các cấp lãnh đạo, các giới quản lý và điều hành của hệ thống ngân hàng mà còn là mối quan tâm của xã hội. Hoạt động cầm cố, thế chấp đã có rất nhiều văn bản hướng dẫn nhưng các văn bản chưa đồng bộ, còn chồng chéo lên nhau, thiếu hoàn chỉnh; có thể coi là "mới mà chưa mới". Chính vì lẽ đó em đã mạnh dạn đi sâu nghiên cứu, suy nghĩ hy vọng góp phần vào việc hoàn thiện công tác bảo đảm tiền vay bằng tài sản cầm cố - thế chấp tại Sở GDI-NHCTVN . Nội dung trình bày trong luận văn mong muốn bước đầu đóng góp phần tổng hợp và làm rõ những vấn đề cơ bản về nghiệp vụ cho vay của NHTM, về tài sản cầm cố, thế chấp và vai trò của chúng; thực trạng tình hình bảo đảm tiền vay bằng tài sản cầm cố tại Sở GDI-NHCTVN nhằm khẳng định vị trí, vai trò của tài sản cầm cố - thế chấp trong hoạt động ngân hàng, từ đó đưa ra giải pháp và kiến nghị để giải quyết những khó khăn vướng mắc mà Sở đang gặp phải. Những giải pháp và kiến nghị chủ yếu nhằm tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho ngân hàng trong việc cho vay có bảo đảm bằng cầm cố, thế chấp; và những công việc về sau như xử lý chúng; bổ sung và hoàn thiện cơ chế thích hợp vè bảo đảm tiền vay, cơ chế xử lý TSCĐ, cố định thực hiện nghĩa vụ trả nợ vay, cho phép ngân hàng xử lý về sau được thuận lợi, dễ dàng, Công việc này liên quan đến nhiều vấn đề về cơ chế, chính sách,... do vậy đòi hỏi phải có sự quan tâm và đầy đủ đúng mức của Chính phủ, ngân hàng Nhà nước và các ban ngành khác. Em xin chân thành cảm ơn các cô chú cán bộ trong Phòng kinh doanh của Sở GDI-NHCTVN đã giúp đỡ em rất nhiều trong quá trình thực tập. Đồng thời cho em gửi lời cảm ơn sâu sắc đến thầy giáo đã tận tình giúp đỡ em để em có thể hoàn thành tốt luận văn này.Nhưng vì là một công trình nghiên cứu khảo sát, thời gian nghiên cứu còn hạn chế, thiếu sót về kiến thức cho nên em rất mong nhận được sự chỉ bảo thêm của các thầy cô giáo và sự đóng góp của bạn bè để đề tài hoàn thiện hơn và có giá trị thực tiễn Tài liệu tham khảo Giáo trình “ Lý thuyết tài chính tiền tệ “ – Trường ĐH KTQD Giáo trình “ NHTM“ – NXB thống kê năm 2000 ( GS.TS. Lê Văn Tư) NĐ165/1999/NĐ- CP ngày 19/12/1999 về giao dịch đảm bảo NĐ178/1999/NĐ- CP ngày 29/12/1999 về đảm bảo tiền vay của các tổ chức tín dụng NĐ08/2000/NĐ- CP ngày 10/03/2000 về đăng ký giao dịch đảm bảo Bộ luật dân sự QĐ1627/2001/QĐ- NHNN ngày 31/12/2001 của thống đốc NHNN về việc ban hành quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng Thông tư liên tịch 03/2001/TTLT/NHNN-BTP-BCA-BTC-TCĐC ngày 23/4/2001 hướng dẫn việc xử lý đảm bảo tiền vay để thu hồi nợ cho các TCTD. Thông tư 06/2001/TT-NHNN ngày 4/4/2000 hướng dẫn thực hiện NĐ 178/1999/NĐ-CP. Công văn của NHCT Việt Nam Số 1219/CV-NHCT 5 ngày 1/6/2000 về việc hướng dẫn thực hiện đảm bảo tiền vay Số 1472/CV-NHCT 5 ngày 27/6/2000 về việc bổ sung CV 1219/CV-NHNN5 Tạp chí thị trường tài chính tiền tệ các năm 1999, 2000, 2001 Tạp chí ngân hàng các năm 1999, 2000, 2001 MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU NỘI DUNG Chương I: Lý luận chung về bảo đảm tiền vay trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại KẾT LUẬN

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNganHang 75.doc