Đề tài Hoạt động của các quỹ đầu tư chứng khoán tại Việt Nam

Hoạt động của các quỹ đầu tư chứng khoán tại Việt Nam. Những vấn đề cơ bản về quỹ đầu tư chứng khoán Chương I. Những vấn đề cơ bản về Quỹ đầu tư chứng khoán 1. Khái niệm 1.1 Khái niệm 1.2 Đặc điểm 2. Phân loại Quỹ đầu tư chứng khoán 2.1. Căn cứ vào mô hình tổ chức 2.2. Căn cứ vào cơ cấu huy động vốn 2.3. Căn cứ vào nguồn vốn huy động 3. Vai trò của Quỹ đầu tư chứng khoán 3.1. Đối với nền kinh tế 3.2. Đối với thị trường chứng khoán 3.3. Đối với người đầu tư 3.4. Đối với người nhận đầu tư 4. Nguyên tắc hoạt động của Quỹ đầu tư chứng khoán 5. Một số Quỹ đầu tư chứng khoán trên thế giới Chương II. Hoạt động các quỹ đầu tư chứng khoán tại Việt Nam I. Quỹ đầu tư theo quy chế của Việt Nam II. Đánh giá chung về hoạt động của Quỹ đầu tư chứng khoán tại Việt Nam III. Hoạt động của .

pdf49 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1835 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoạt động của các quỹ đầu tư chứng khoán tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ty trong nước. Trọng tâm đầu tư của quỹ là các dự án đầu tư trên 1 triệu USD vào các công ty trong nước và liên doanh, ưu tiên các công ty trong khu vực xuất khẩu có kim ngạch 4-10 triệu USD. Lượng vốn đầu tư của quỹ được phân chia theo tỷ lệ 32% NAV (tương ứng 18,4 triệu USD) vào cổ phần của các công ty Việt Nam và 46,8% NAV (26,9 triệu USD) vào cổ phần của các công ty nước ngoài còn lại là phần tài sản chưa đầu tư. Tính đến thời điểm ngày 30 tháng 9 năm 2003 thì NAV của quỹ đang ở mức 10,07 USD3). Bảng 2.2 : Danh mục các dự án đầu tư của quỹ Vietnam Fund Nguồn: Báo cáo của Vietnam Fund năm 2002 Tên dự án Lĩnh vực Giá trị ĐT (triệu USD) Tỷ lệ vốn % 1. Dragon Properties Asia Holdings Bất động sản Bất động sản 10.57 18 2. Anglo Vietnam Sugar Investment Chế biến 9 Chế biến 9.04 16 3. Công ty Huy Hoàng Xây dựng Xây dựng 3.96 7 4. Công ty xây dựng Việt Hoa Bất động sản Bất động sản 3.55 6 5. Ngân hàng VP Dịch vụ tài chính Dịch vụ tài chính 3.45 6 6. Công ty VF-CGZ Du lịch Du lịch 4.514 8 7. Công ty Hun San Sản xuất công nghiệp Sản xuất công nghiệp 2.56 5 8. Công ty Johnson Suisse Asia Sản xuất công nghiệp Sản xuất công nghiệp 2.07 4 9. Công ty Agravina Chế biến thực phẩm Chế biến thực phẩm 0.79 1 10. Ngân hàng thương mại Á châu Dịch vụ tài chính Dịch vụ tài chính 4 7 18 3) www.investmentfunds.com Theo cơ cấu ngành, phần đầu tư chiếm tỷ trọng lớn nhất là bất động sản 24,8%, tiếp đó là chế biến sản phẩm nông nghiệp 17,1%, công nghiệp 15%, dịch vụ tài chính 14,1% và du lịch 7,9 %. Nhìn chung, danh mục đầu tư của quỹ tương đối đa dạng, dàn trải ra nhiều ngành, nhiều lĩnh vực khác nhau. Tuy nhiên, tỷ lệ giữa các khoản đầu tư trong cùng một danh mục không cân đối. Trong 17% đầu tư vào nông nghiệp có tới 16% đầu tư vào công ty đường Anglo, chỉ 1% vào công ty Agravina. Tương tự, 24% đầu tư vào bất động sản thì 18% vào bất động sản của công ty Dragon còn lại 6% vào công ty du lịch Việt Hoa 4).Báo cáo của Vietnam Fund năm 2002 Trong các công ty Việt Nam, công ty Việt Hoa, công ty Hun San, công ty Huy Hoàng được quỹ đầu tư dưới hình thức nợ tài chính. Công ty Huy Hoàng là một công ty kinh doanh trong lĩnh vực phát triển nhà ở và xây dựng. Năm 1993, quỹ đã đầu tư 4 triệu USD vào công ty này dưới dạng một khoản vay có thể chuyển đổi. Đây là một khoản vay có bảo lãnh của ngân hàng và có thể chuyển đổi thành 25% cổ phần của công ty. Cũng như công ty Huy Hoàng, công ty Việt Hoa chuyên xây dựng các trung tâm thương mại sau đó cho thuê tài chính dài hạn. Quỹ còn đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp nhẹ như công ty Hun San, một công ty sản xuất giày dép hàng đầu của Việt Nam. Nhà quản lý quỹ có chính sách cử nhân viên sang giúp Hun San để cải thiện tình hình quản lý tài chính và giảm bởt những khó khăn trong việc thanh toán của công ty. Hiện nay, công ty đang hoạt động rất hiệu quả, mức trả lãi suất hàng năm 19 khoảng 7,4%. Sự thành công của quỹ ở khu vực này đã làm thay đổi chính sách cổ tức của quỹ. Ban đầu, kế hoạch của ban lãnh đạo quỹ là không trả cổ tức để tái đầu tư toàn bộ lợi nhuận và lãi vốn từ các khoản đầu tư đã thực hiện. Thế nhưng nhờ có dòng thu nhập ổn định, từ tháng 7 năm 1997 quỹ quyết định trả cổ tức và vẫn thực hiện cam kết phân phối lãi cổ phần từ việc mua lại chứng chỉ. Cũng chính nhờ những thành công trên đã mở ra một chiến lược mới cho quỹ. Theo điều lệ quỹ, Vietnam Fund sẽ chính thức giải thể vào ngày 31/10/2001. Thế nhưng, với việc thị trường chứng khoán Việt Nam ra đời vào tháng 7 năm 2000 thì việc thanh lý các khoản đầu tư vào năm 2001 là quá sớm. Chính vì vậy, Vietnam Fund sẽ vẫn bảo đảm không thực hiện các khoản đầu tư mới mà chỉ theo đuổi chiến lược thanh lý các khoản đầu tư. 2. Beta Vietnam Fund Beta Vietnam Fund được thành lập vào tháng 9 năm 1993 với tổng tài sản là 66 triệu USD. Quỹ dạng đóng được niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán Dublin. Quỹ được quản lý bởi công ty Indochina Asset Management với ngân hàng giám sát là ngân hàng Bermuda. Mục tiêu đầu tư của Beta Vietnam Fund là tăng trưởng vốn. Vì vậy, quỹ chỉ lựa chọn đầu tư vào các công ty nơi mà quỹ có thể mở rộng mức độ ảnh hưởng. Quỹ xác định trọng tâm đầu tư là vào các dự án đầu tư giá trị 1-5 triệu USD vào cổ phiếu thiểu số của các công ty nước ngoài quản lý, tránh đầu tư vào các công ty đang hình thành và các công ty trong nước. Khi đầu tư vào một dự án, người quản lý quỹ 20 sẽ chú trọng 50% đến đội ngũ quản lý, 35% vào hiệu quả kinh doanh của ngành và 15% là vào khả năng tài chính. Như vậy, quỹ rất coi trọng đến khả năng quản lý của một dự án. Để hạn chế rủi ro, quỹ giới hạn các khoản đầu tư không niêm yết chỉ ở mức 5% NAV. Bảng 2.3 : Danh mục các dự án đầu tư của quỹ Beta Vietnam Fund Nguồn: Annual Report Company Data/ Bear Stearns Tên dự án Lĩnh vực Giá trị ĐT (triệu USD) % trên NAV 1. Saigon Water Park Giải trí 4,6 6,9 2. Anziol Thăm dò khí - - 3. Iddison Group Vietnam Tập đoàn - - 4. Indotel Khách sạn 6 9 5. Vietnam Industrial Investment Thép 1.1 1.6 6. Frontier Petrolium Thăm dò khí - - 7. Công ty vật liệu xây dựng KDL Vật liệu xây dựng 3.4 5.1 8. Indochina Finance Cho thuê tài chính 0.1 1.2 9. Công ty nước hoa quả Indochina Sản phẩm nông nghiệp 3 4.5 10. Khách sạn và khu nghỉ Beta Khách sạn 7 10.6 11. Câu lạc bộ Golf Palace Đà Lạt Giải trí 0.3 0.6 12. Câu lạc bộ Golf Phan Thiết Giải trí 0.1 0.2 13. Công ty TNHH giải trí Mekong Giải trí - - 14. Bio Asia Công nghệ sinh học 2.9 4.3 15. Beta Vietnam Textile Industrial Ltd Dệt may - - 16. Vina Taxi Ltd Giao thông 1.2 1.8 17. Greater Indochina Investment Ltd Giáo dục/ truyền thông 3.7 5.5 18. Indochina Leasing Tài chính - - 19. Ngân hàng Ngoại thương VN Trái phiếu 8.8 13.1 20. Terrytex Pre Ltd Nhà phân phối 0.3 0.6 Quỹ có khoảng 18 danh mục đầu tư tại các công ty Việt Nam chiếm 57% tổng tài sản của quỹ, 13,4% tiếp theo đầu tư vào các khoản nợ của Việt Nam, số còn lại đầu tư vào tài sản vãng lai. Lĩnh vực đầu tư chủ yếu của quỹ là vào kinh doanh khách sạn 19,6% vào khách sạn, khu nghỉ Beta và Indotel với mục đích đem lại một phương tiện đầu tư cho các dự án vào khách sạn của quỹ ở 21 khu vực sông Mekong. Tiếp đến là vui chơi, giải trí 7,7%, vật liệu xây dựng 6,7%, dệt may 5,9%… cuối cùng là nông nghiệp, công nghệ sinh học 5). 5) Annual Report Company Data/ Bear Stearns Trong quá trình đầu tư tại Việt Nam, Beta Vietnam Fund đã gặp không ít trở ngại. Đó là quỹ thiếu cách thức để thu hồi vốn đầu tư, thiếu tính minh bạch và quỹ có quá ít chuyên gia giỏi trong nước. Hiện nay, quỹ không tăng cường đầu tư vào các công ty liên doanh có vốn đầu tư nước ngoài nữa. Giải pháp đầu tư mà quỹ đang tiến hành trong thời gian này là chớp thời cơ để thích ứng với những cơ hội của thị trường do những thay đổi tích cực của môi trường kinh doanh đem lại. 3. Vietnam Frontier Fund Vietnam Frontier Fund là quỹ liên hiệp các đảo Cayman được thành lập vào tháng 7 năm 1994 với tổng tài sản ban đầu là 53,2 triệu USD. Công ty quản lý quỹ là công ty Frontier Fund Management thuộc quyền sở hữu của Finansa Ltd (70%) và ABN-AMRO Hoare Govette Asia Ltd (30%). Ngân hàng giám sát là Citibank. Mục tiêu đầu tư của quỹ là tăng trưởng vốn thông qua đầu tư vào các công ty niêm yết hoặc chưa niêm yết hoạt động ở Việt Nam. Quỹ xác định trọng tâm đầu tư là vào các dự án đầu tư giá trị 1-5 triệu USD vào các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các công ty liên doanh có người nước ngoài quản lý, ưu tiên các công ty có nguồn thu ngoại tệ mạnh. Ngoài ra, quỹ cũng đầu tư vào các dự án môi trường và dự án đòi hỏi có thời gian dài để thu hồi vốn. Mục tiêu của quỹ là việc quản lý và phát triển các 22 dự án đã đầu tư hơn là việc tìm kiếm các dự án mới. Ngoài việc đầu tư vào các doanh nghiệp Việt Nam là chủ yếu thì quỹ cũng dành một phần tài sản của mình để đầu tư vào một số nước ở Châu Á. Để đảm bảo đa dạng hoá danh mục đầu tư, quỹ hạn chế mức vốn tối đa đầu tư vào một công ty bất kỳ là 5 triệu USD. Chiến lược của quỹ là đầu tư tích cực vào một danh mục đầu tư gồm các công ty Việt Nam, tập trung vào tìm kiếm lợi nhuận hơn là các mục tiêu xã hội. Quỹ sẽ đầu tư như một chủ dự án hoặc người điều hành chứ không phải là một nhà đầu tư tài chính thụ động. Quỹ có đại diện trong ban quản lý trong khoảng hai phần ba số công ty mà quỹ đầu tư vào các phần đầu tư còn lại quỹ đều có quyền xem xét hoạt động quản lý hàng quý. Tuy nhiên, quỹ sẽ không can thiệp quá sâu vào hoạt động của các công ty nhận vốn mà chỉ giới hạn ở việc quản lý danh mục đầu tư của mình hoặc cung cấp kinh nghiệm chuyên môn cho đối tác của mình. Nhưng để bảo vệ lợi ích của mình quỹ có thể can thiệp nếu cảm thấy dự án đầu tư có nguy cơ thất bại. Bảng 2.4 : Danh mục các dự án đầu tư của quỹ Vietnam Frontier Fund Nguồn: www.finansa.com Tên dự án Lĩnh vực Giá trị ĐT (triệu USD) % NAV 1. Các khoản nợ của chính phủ trên thị trường mới nổi Đơn vị tín thác 7.5 14.1 2. Công ty Luks Xi măng 5.3 9.9 3. Quỹ Northbridge Phát triển nhà ở 5 9.4 4. Công ty dược phẩm MCA Y tế 2.5 4.8 5. Transport Technologies International Ltd Giao thông 1.6 3 6. Vietnam Industrial Investment Thép 1 2.1 7. Cà phê Mcullagh Nông nghiệp 0.3 0.5 8. Structural Steel Engineering Thép 0.05 0.1 9. Sân golf Indochina Giải trí - - 10. Indotel Khách sạn - - 23 50% tài sản của quỹ đầu tư vào 9 công ty Việt Nam, 14% vào các quỹ cho vay trên thị trường mới nổi. Lĩnh vực đầu tư lớn nhất là xây dựng với 4 dự án chiếm gần 20% tổng giá trị tài sản ròng, tiếp đến là bất động sản, y tế, giao thông…6) www.finansa.com Thu nhập ròng của quỹ sẽ được chia cho các cổ đông hàng năm ngay khi quỹ thu đủ tiền để đáp ứng các khoản chi tiêu cần thiết. Quỹ cũng được quyền phân chia lãi vốn kể cả lãi thực hiện và lãi không thực hiện. Lãi thực hiện là lãi từ các khoản đầu tư mà đã chuyển thành tiền mặt có thể được quỹ chia cho người đầu tư tuỳ thuộc vào quyết định của ban giám đốc. Lãi không thực hiện là lãi từ các khoản đầu tư vẫn là các chứng khoán, chưa chuyển thành tiền mặt, dự kiến của ban giám đốc quỹ là không chia khoản lãi này. Trừ trường hợp cổ đông của quỹ quyết định gia hạn hoạt động, quỹ sẽ kết thúc hoạt động của mình vào năm 2004. Tuy nhiên, trong trường hợp lá phiếu của một cổ đông đại diện cho ít nhất hai phần ba cổ phần của quỹ được đưa ra trước đại hội thường niên năm 2003 đồng ý gia hạn hoạt động thì quỹ có thể kéo dài thời gian hoạt động của mình thêm hai năm nữa đến 22/7/2006. 4. Vietnam Enterprise Investments Ltd Vietnam Enterprise Investments Fund được thành lập tại đảo Cayman vào tháng 7 năm 1995, là quỹ hoạt động hiệu quả nhất trong số các Quỹ đầu tư tại Việt Nam. Quỹ do công ty Enterprise Investment Management quản lý, đây là một công ty con dưới quyền sở hữu của Dragon Capital. Quỹ nhằm vào việc cấp vốn phát triển cho các công ty lớn của Việt Nam. Chính vì vậy mà người 24 ta còn gọi quỹ dưới một cái tên là Quỹ tiền phát hành - Pre IPO (Innitial Public Offering). Cách gọi vốn này là một phương thức huy động vốn cho một quỹ thông qua phát hành cổ phiếu hạng C. Quy mô tổng tài sản ban đầu của quỹ là 16,39 triệu USD cùng với 11,1 triệu USD có được nhờ phát hành cổ phiếu hạng C. Đến tháng 9 năm 2001, quỹ phát hành tiếp cổ phiếu hạng C có tổng giá trị là 16,4 triệu USD. Vào tháng 12 năm 2001, công ty tài chính quốc tế IFC cung cấp cho quỹ khoản vốn bổ sung trị giá 12 triệu USD. Tổng tài sản của quỹ tính đến tháng 9 năm 2002 là 64 triệu USD và nó đã được đem đầu tư hết 7). Chiến lược đầu tư của quỹ là tích cực đầu tư vào các công ty Việt Nam nhất là các công ty có thể được niêm yết để tạo độ an toàn cao và đạt được mục tiêu tăng trưởng vốn dài hạn. Tính đến thời điểm ngày 30 tháng 9 năm 2003, NAV của quỹ đang ở mức 1,03 USD 8). Quan điểm của các nhà quản lý quỹ về việc bảo vệ lợi ích của quỹ là phát triển những mối quan hệ không chính thức với các công ty nhận đầu tư, qua đó cung cấp trợ giúp các kiến thức quản lý và kinh doanh khi cần thiết, việc trợ giúp này bao gồm cả việc tuyển dụng nhân viên. Một đặc điểm trong chính sách của quỹ là quỹ không đầu tư vào các dự án là công ty liên doanh vì cho rằng phần vốn góp bên phía Việt Nam, thường là quyền sử dụng đất luôn được định giá quá cao, điều này có thể ảnh hưởng đến quyền lợi của quỹ. Ngoài ra, quỹ cũng hạn chế đầu tư vào các công ty mới ở mức 25% tổng tài sản của quỹ vì cho rằng việc đầu tư vào một công ty chưa được thành lập tốn thời gian và dễ rủi ro, ảnh hưởng tới thời hạn thu hút vốn 25 của quỹ. Về giá trị đầu tư, mỗi dự án quỹ sẽ đầu tư khoảng từ 0,5 đến 2 triệu USD. Khi đưa ra quyết định đầu tư, quỹ đặt mục tiêu là tỷ lệ hoàn vốn nội bộ IRR từ 25%-30%, một chiến lược phát triển trong 3-5 năm và một tỷ lệ chia cổ tức là 10% khi hoạt động kinh doanh được thiết lập vững chắc. Quỹ không có ý định nắm quyền kiểm soát công ty mà nó đầu tư. Trên 50% tài sản đầu tư của quỹ được đầu tư vào các công ty Việt Nam, tài trợ cho hoạt động quản lý của người Việt Nam. Lĩnh vực đầu tư lớn nhất của quỹ là tài chính 37%, tiếp theo đó là vào các ngành sản xuất như xi măng 10%, thép 5% 9). Quan điểm của quỹ đánh giá cao hoạt động tài chính là vì cho rằng sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam sẽ còn phụ thuộc nhiều vào hoạt động tài chính. Ngoài tài chính thì các ngành đầu tư trọng điểm khác của quỹ bao gồm tiêu dùng nội địa, xuất khẩu sản phẩm công – nông nghiệp, phát triển phần mềm, cơ sở hạ tầng, bất động sản và du lịch. Bảng2.5 : Danh mục 5 dự án lớn nhất của Vietnam Enterprise Investment Nguồn: www.dragoncapital.com Tên dự án Giá trị (triệu USD) % trên NAV Total return IRR 1. Vietnam 2028 Par Bonds 10,7 23,7 49,3% +41,4% 2. Hanoi Lake View 7,8 17,4 146,5% +77,2% 3. REE Corp 5,7 8,7 59,7% +12,8% 4. Ngân hàng ACB 3,9 7,5 58,1% +8,9% 5. Vietnam Investment Fund 2,6 5,5 47,5% +97,8% 7) www.dragoncapital.com 8) www.investmentfunds.com 9) www.dragoncapital.com 26 Hiện nay, quỹ đã đầu tư vào khoảng 15 dự án như công ty cổ phần cơ điện lạnh REE, ngân hàng ACB, ngân hàng VP, công ty cổ phần xi măng Việt Trung, Vietnam Investment Fund, Vietnam Industrial Investment, trái phiếu, Agro Industry, cà phê Đakman, công ty xây dựng TOGI, Hanoi Lake View… Vào tháng 2 năm 2003 vừa qua, quỹ đã đầu tư 0,4 triệu USD vào Olympus Pacific Minerals Inc. Về chính sách trả cổ tức, quỹ dự định phân chia toàn bộ lợi nhuận ròng và lãi vốn hàng năm cho đến khi các nhà đầu tư đã thu đủ số tiền đầu tư vào quỹ. Sau đó, quỹ sẽ chỉ chia 50% lợi nhuận ròng và lãi vốn cho cổ đông, phần còn lại sẽ đem vào tái đầu tư. Đối với chính sách hoàn vốn, theo bản cáo trạng của công ty, quỹ sẽ hoạt động cho đến năm 2010 trừ khi các cổ đông mua cổ phiếu hạng C quyết định khác đi và sẽ bỏ phiếu thanh lý quỹ vào năm 2005. 5. Mekong Enterprise Fund Mekong Enterprise Fund ra đời vào tháng 4 năm 2002, đặt trụ sở tại đảo Cayman. Công ty quản lý quỹ là Mekong Capital. Hiện nay, quỹ chưa được niêm yết trên thị trường chứng khoán. Với số vốn đầu tư 18,5 triệu USD, quỹ tập trung vào đầu tư cổ phần của các doanh nghiệp tư nhân tại Việt Nam, Lào, Campuchia. Đầu tư cổ phần bao gồm có thể cổ phần phổ thông, cổ phần ưu đãi, trái phiếu chuyển đổi và các loại chứng khoán liên quan đến cổ phần khác. Quỹ đặt mục tiêu đạt được mức lợi nhuận thu được cao nhất có thể đối với các khoản đầu tư của mình và đồng thời tạo được tác động tích cực đến sự phát 27 triển của các doanh nghiệp tư nhân tại vùng Mekong. Quỹ hướng đến việc đạt được các mục tiêu của mình bằng cách đưa ra những sự trợ giúp đáng kể cho các công ty mà quỹ đầu tư, đặc biệt trong việc giúp họ phát triển hệ thống quản lý như quản trị nhân sự, quản lý tài chính, quản lý thông tin… dựa trên những thông lệ quốc tế tốt nhất. Thay vì tập trung vào các công ty có vốn đầu tư nước ngoài hay các công ty nhà nước cổ phần hoá, quỹ chủ yếu tập trung vào các doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân do các nhà doanh nghiệp tại địa phương thành lập. Tuy nhiên quỹ chỉ tập trung đầu tư vào các công ty tận dụng được các lợi thế cạnh tranh trong vùng liên quan đến chi phí nhân công, nguồn tài nguyên thiên nhiên. Quỹ tập trung đầu tư vào việc mở rộng kinh doanh hoặc tái cơ cấu của các doanh nghiệp đang hoạt động. Quỹ thường không đầu tư vào các công ty mới thành lập, yêu cầu các công ty phải có thời gian hoạt động tối thiểu là một năm và phải đạt được những thành tựu rõ ràng để có thể được xem là khoản đầu tư tiềm năng của quỹ. Chiến lược đầu tư của quỹ chủ yếu tập trung vào các ngành sử dụng nhiều nhân lực và kinh doanh theo hướng xuất khẩu. Hiện nay, quỹ đang tập trung đầu tư vào những ngành sau: - Chế biến nông nghiệp, bao gồm chế biến hải sản. - Sản xuất đồ gỗ, bàn ghế và thủ công mỹ nghệ. - Công nghiệp nhẹ, bao gồm may mặc, giày dép và nhựa. - Phát triển và gia công phần mềm. - Tích hợp hệ thống và tích hợp mạng. - Các dịch vụ chuyên môn như công ty quảng cáo, luật và tư vấn. - Phân phối và vận chuyển. Tuy nhiên, quỹ không chỉ giới hạn đầu tư vào những ngành này mà có 28 thể đầu tư vào những lĩnh vực khác. Nói chung, quỹ ưu tiên những công ty sử dụng nhiều nhân công trong hoạt động kinh doanh của mình, và những công ty có lợi thế cạnh tranh rõ ràng hay có năng lực cạnh tranh đặc biệt. Quỹ dự định sẽ đầu tư trong khoảng từ 250.000 USD đến 1.850.000 USD cho mỗi công ty. Như vậy khoản đầu tư trung bình vào khoảng 1.000.000 USD. Khoản đầu tư trung bình này nhỏ hơn các quỹ khác nên quỹ có thể đầu tư vào các công ty nhỏ hơn. Quỹ có thể nắm giữ tối đa 30% trong tổng số cổ phần đã phát hành của một công ty tại thời điểm đầu tư. Khi quỹ đầu tư, quỹ thường yêu cầu được quyền chỉ định một đại diện vào hội đồng quản trị của công ty. Vai trò của người đại diện này sẽ không liên quan đến việc quản lý hàng ngày của công ty. Thay vào đó, người giữ vai trò này sẽ giám sát khoản đầu tư, tư vấn và trợ giúp công ty nhằm tạo ra giá trị cho công ty. Quỹ có thể đầu tư vào các doanh nghiệp quốc doanh cổ phần hoá. Tuy nhiên, quỹ chỉ có thể đầu tư vào các công ty mà nhà nước nắm giữ ít hơn 35% tổng số cổ phần của công ty sau khi quỹ đầu tư. Quỹ dự kiến sẽ hoạt động trong thời gian 10 năm kể từ ngày khai trương 22/04/2002. Quỹ chỉ có thể tiến hành các hoạt động đầu tư trong 5 năm đầu. Khi đầu tư, quỹ dự định sẽ nắm giữ khoản đầu tư từ 5 đến 8 năm. Thời gian nắm giữ khoản đầu tư sẽ có thể ngắn hơn hoặc dài hơn tuỳ thuộc vào từng trường hợp. Kể từ khi hoạt động tới nay, Mekong Enterprise Fund đã thực hiện được ba dự án đầu tư. Công ty đầu tiên nhận được đầu tư của quỹ là công ty nhựa 29 Tân Đại Hưng với số tiền đầu tư là 1,6 triệu USD. Đây là một trong những công ty tư nhân hàng đầu của Việt Nam trong lĩnh vực sản xuất túi nhựa PP. Quỹ hiện đang nắm giữ 28,5% cổ phần của công ty. Trong tháng 3 năm 2003, quỹ đầu tư vào công ty cổ phần kiến trúc xây dựng AA và đến tháng 10 này, quỹ đã đầu tư 745.000 USD vào công ty máy tính Lạc Việt. Lạc Việt là một trong những công ty dẫn đầu trong công nghệ mạng với nhiều khách hàng lớn như Citibank, ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn, Ngân hàng đầu tư phát triển… 6. Vietnam Opportunities Fund Vào tháng 10 năm 2003 vừa qua, Quỹ đầu tư nước ngoài mới - Vietnam Opportunities Fund - đã xuất hiện trên thị trường tài chính Việt Nam. Đây là quỹ dạng mở do một số tổ chức tài chính lớn thành lập để đầu tư vào Việt Nam. Bốn cổ đông chính của quỹ hiện tại bao gồm Quỹ đầu tư Millenium Partners (Mỹ), Deustche Bank Securities (Đức), Sun Wah Group và Pacific Alliance Group (Hong Kong). Công ty quản lý quỹ là VinaCapital Asset Management Ltd. Quy mô vốn của quỹ hiện nay là 10 triệu USD và dự kiến sẽ tăng lên 50 triệu USD trong vòng ba năm tới. Chứng chỉ của quỹ hiện đang được niêm yết trên thị trường chứng khoán London. Chiến lược đầu tư trọng điểm của quỹ là vào các công ty có vốn đầu tư nước ngoài đang hoạt động không tốt tại Việt Nam. Quỹ sẽ đầu tư vào những công ty này, giúp họ cơ cấu lại để nâng cao giá trị và phát triển lên, sau đó sẽ bán lại hoặc đưa lên niêm yết trên thị trường chứng khoán. Ngoài ra, quỹ cũng 30 sẽ đầu tư vào các công ty cổ phần hoá hoặc công ty cổ phần tư nhân trong nước. Ở những công ty này, quỹ sẽ tham gia góp vốn với tỷ lệ lớn từ 10% trở lên để cùng tham gia công tác quản trị và phát triển doanh nghiệp, chứ không đầu tư vào doanh nghiệp mà tỷ lệ sở hữu quá nhỏ. Quỹ dự định sẽ đầu tư khoảng 1 – 2 triệu USD cho mỗi công ty. So với các Quỹ đầu tư khác đang hoạt động tại Việt Nam, Vietnam Opportunities Fund có lợi thế hơn về nhân sự. Toàn bộ cán bộ nhân viên của VinaCapital hiện là người Việt Nam. Họ là những người có kinh nghiệm làm việc lâu năm trong lĩnh vực tài chính và đầu tư, hiểu biết về tập quán và doanh nghiệp Việt Nam. Hiện nay, quỹ đang tích cực triển khai hoạt động của mình. Nếu không có gì thay đổi, cuối tháng 10 này, quỹ sẽ ký hợp đồng đầu tư vào ba dự án một của công ty nước ngoài và hai doanh nghiệp Việt Nam. 7. VietFund VietFund là Quỹ đầu tư đầu tiên của Việt Nam, liên doanh giữa ngân hàng Sài Gòn Thương Tín (Sacombank) và Dragon Capital (Anh). Hiện nay, quỹ đang đợi được cấp giấy phép thành lập và hoạt động. Công ty quản lý quỹ là Vietfund Management. Đây là công ty liên doanh quản lý quỹ đầu tư chứng khoán đầu tiên tại Việt Nam. Công ty được Uỷ ban chứng khoán nhà nước cấp giấy phép vào ngày 28/08/2003 vừa qua. Công ty được Sacombank giao uỷ thác quản lý 50 tỷ VND vốn đầu tư, ký kết thỏa thuận về hợp đồng giám sát với Ngân hàng ngoại thương Việt Nam và kết ước kiểm toán độc lập với công ty Ernst & Young Việt Nam. Vietfund Management đặt trụ sở tại Thành phố Hồ Chí Minh, có tổng số vốn đầu tư ban đầu là 16 tỷ VND do Sacombank góp 31 70% và Dragon Capital góp 30%. VietFund được thành lập dưới dạng mở với quy mô vốn của quỹ là 100 tỷ VND, trong đó Dragon Capital và Sacombank mỗi bên góp 10 tỷ VND ngay khi thành lập và số còn lại huy động trong ba tháng tiếp theo. Số vốn này sẽ được nâng lên 150 tỷ VND trong năm hoạt động đầu tiên và 200 tỷ VND trong hai năm tiếp theo. Vốn của quỹ sẽ được huy động từ các tổ chức tài chính, cá nhân trong và ngoài nước. Khoảng 60% vốn của quỹ sẽ tập trung đầu tư cho các ngân hàng, doanh nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, phát triển phần mềm, du lịch, nông nghiệp, cơ sở hạ tầng và chế biến thuỷ sản. 40% còn lại sẽ đầu tư cho các hoạt động khác. Để tạo điều kiện thanh khoản cho các nhà đầu tư, chứng khoán của quỹ sẽ được niêm yết và giao dịch trên thị trường chứng khoán Việt Nam khi phát hành. Sự ra đời của Vietfund Management mang một ý nghĩa rất lớn, không chỉ là Công ty liên doanh quản lý quỹ đầu tiên của Việt Nam mà nó còn tạo ra một kênh đầu tư mới cho lượng tiền nhàn rỗi trong dân với dịch vụ quản lý đầu tư chuyên nghiệp và góp phần thúc đẩy sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam. Sau VietFund, hứa hẹn một loạt các Quỹ đầu tư, công ty quản lý quỹ nội địa ra đời như Quỹ đầu tư chứng khoán Sài Gòn, Saigon Fund. Quỹ này đang được công ty cổ phần TVH và Ngân hàng thương mại cổ phần Phương Nam triển khai với số vốn huy động khoảng 40 tỷ VND. Ngoài ra, công ty cổ phần công nghệ thông tin cũng đang có kế hoạch thành lập Công ty quản lý quỹ Feed-up và các Quỹ đầu tư. 32 Chương III. Giải pháp thúc đẩy sự hình thành và nâng cao hiệu quả hoạt động của các Quỹ đầu tư chứng khoán 1. Về phía Nhà nước 1.1. Duy trì sự ổn định kinh tế vĩ mô Sự ổn định và tăng trưởng bền vững của nền kinh tế vĩ mô có mối quan hệ mật thiết tới thị trường chứng khoán nói chung và sự phát triển của các Quỹ đầu tư chứng khoán nói riêng. Chỉ trong một nền kinh tế ổn định, các chỉ số vĩ mô như lạm phát, tỷ lệ tăng trưởng, tỷ giá hối đoái, mức lãi suất ổn định thì mới tạo lập được niềm tin và kích thích người đầu tư xoá bỏ tâm lý e ngại, dè chừng khi tham gia vào một hình thức đầu tư mới. Từ đó khuyến khích các tổ chức kinh tế tích cực hơn trong quyết định thành lập Quỹ đầu tư chứng khoán cũng như tạo ra môi trường tốt cho hoạt động của các Quỹ đầu tư phát triển. Trong bối cảnh nền kinh tế vĩ mô có nhiều dấu hiệu bất ổn, thiếu sự kiểm soát thì các nhà đầu tư không thể mạo hiểm tham gia vào thị trường chứng khoán vì họ không tin tưởng vào khả năng sinh lợi trên thị trường này. Điều này dẫn đến sự đình trệ trong hoạt động của các Quỹ đầu tư chứng khoán nói riêng và thị trường chứng khoán nói chung. Một nền kinh tế ổn định còn giúp cho hệ thống doanh nghiệp có thể duy trì sự phát triển ổn định của mình, thu hút được các nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước. Khi các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, quan tâm tới việc mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, họ sẽ có nhu cầu về vốn rất cao và tìm cách huy động dưới nhiều hình thức trong đó có việc tham gia vào thị trường 33 chứng khoán. Đây là xu hướng tất yếu của các doanh nghiệp trong một nền kinh tế phát triển. Như vậy, nguồn cung hàng hoá cho thị trường chứng khoán sẽ phong phú. Đồng thời, khi đó các chứng khoán được phát hành ra sẽ hấp dẫn hơn đối với người đầu tư, do đó sẽ làm tăng tính thanh khoản của các chứng khoán, làm cho hoạt động kinh doanh chứng khoán sôi động. Để có thể duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, ổn định, kiểm soát lạm phát trong điều kiện chịu sự ảnh hưởng của những biến động kinh tế thế giới trong xu hướng toàn cầu hoá mạnh mẽ như hiện nay thì Việt Nam phải thực hiện một số biện pháp cơ bản sau: - Thực hành tiết kiệm để tạo và nuôi dưỡng nguồn vốn cho đầu tư phát triển. Chính sách tiết kiệm phải đi đôi với chính sách khuyến khích đầu tư và chính sách khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm. - Đầu tư phát triển phải là vấn đề ưu tiên hàng đầu trong các quyết sách kinh tế quốc gia. Đầu tư phải có trọng điểm, có ưu tiên theo hướng chuyển dịch cơ cấu theo hướng kết hợp phát triển theo chiều rộng với việc hoàn thiện, cải tiến thiết bị công nghệ theo chiều sâu. 1.2. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp lý Việc hoàn thiện hệ thống pháp lý là để tạo hành lang cho các tổ chức tài chính và doanh nghiệp hoạt động một cách công bằng và hiệu quả. Hiện nay, chúng ta đã có luật các tổ chức tín dụng nhưng chưa đề cập rõ về Quỹ đầu tư. Việc điều chỉnh các hoạt động của Quỹ đầu tư chứng khoán chỉ dựa vào quy chế tổ chức và hoạt động của Quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ kèm theo 34 Quyết định số 05/1998/QĐ-UBCK ngày 13/10/1998. Nhưng để các văn bản này đi vào thực tiễn và phát huy hiệu lực thì cần sớm đưa các nội dung này vào trong khuôn khổ pháp lý cao hơn dưới hình thức các luật như Luật về Chứng khoán và thị trường chứng khoán, Luật các định chế tài chính trung gian khi thị trường chứng khoán Việt Nam dần đi vào hoạt động ổn định. Ngoài ra, do Quỹ đầu tư chứng khoán có một số đặc điểm riêng so với các chủ thể kinh doanh khác trên thị trường nên nó chịu sự chi phối của nhiều bộ luật khác có liên quan như Luật doanh nghiệp, Luật dân sự… Các bộ luật này và các văn bản dưới luật đi kèm có một số điểm bất đồng, chồng chéo nhau và chưa có sự bổ sung điều chỉnh đối với một hình thức đầu tư mới - đầu tư qua quỹ. Do vậy, một yêu cầu đang được đặt ra là cần phải tiếp tục bổ sung, hoàn thiện các bộ luật này để tạo nên một hệ thống pháp luật đồng bộ, tạo sự công bằng cho các nhà đầu tư, các doanh nghiệp cũng như nhằm giải quyết một cách nhanh chóng khi có tranh chấp xảy ra. Ví dụ như đối với Luật đầu tư nước ngoài, cần nhanh chóng chỉnh sửa nhằm khuyến khích và tạo điều kiện cho các Quỹ đầu tư nước ngoài được nắm giữ một tỷ lệ cổ phiếu của một công ty lớn hơn tỷ lệ hiện nay là 30%. 1.3. Nhà nước cần khuyến khích và hỗ trợ tích cực cho việc hình thành và phát triển của Quỹ đầu tư Khi thị trường chứng khoán đã đi vào hoạt động thì việc hình thành các Quỹ đầu tư là hết sức cần thiết để tạo điều kiện cho công chúng có thể tham 35 gia vào thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, Quỹ đầu tư chứng khoán còn là vấn đề rất mới và trong điều kiện hiện nay còn nhiều khó khăn để quỹ ra đời và hoạt động, do vậy rất cần có sự trợ giúp của nhà nước. Kinh nghiệm của Hàn Quốc cho thấy trong giai đoạn đầu phát triển thị trường chứng khoán, chính phủ Hàn Quốc đóng vai trò to lớn trong việc thúc đẩy trợ giúp sự hình thành và phát triển Công ty tín thác đầu tư. Tại Malaixia có Quỹ đầu tư chứng khoán do chính phủ thành lập tên là PNB. Nó có những quỹ chi nhánh theo chuyên ngành để hỗ trợ, giúp đỡ người dân mua các cổ phiếu của các công trình, công ty làm ăn có lãi. Giống với Malaixia, ở Singapore chính phủ cũng thành lập một Quỹ đầu tư chứng khoán của nhà nước với mục đích tham gia vào các doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài. Số vốn của các quỹ đó ngày càng tăng khiến cho quỹ có thể mở rộng đầu tư ra nước ngoài. Do vậy, sự trợ giúp của nhà nước thể hiện ở việc nhà nước cần đi tiên phong trong việc thành lập công ty quản lý quỹ và thiết lập các Quỹ đầu tư để mở đầu tạo niềm tin cho công chúng trong đầu tư. Việc mở đầu thành công có ý nghĩa rất quan trọng để khuyến khích, thu hút các thành phần kinh tế và các tổ chức khác. 1.4. Thu hút đầu tư gián tiếp Chúng ta nên có chế độ ưu tiên đối với lĩnh vực đầu tư gián tiếp cũng được ưu đãi như đầu tư trực tiếp. Đầu tư gián tiếp nước ngoài là một hình thức đầu tư phổ biến trên thế giới và quan trọng không kém so với hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài. Việt Nam đã rất thành công trong thu hút vốn đầu tư trực 36 tiếp nước ngoài nhưng xem ra việc thu hút đầu tư nước ngoài gián tiếp vẫn còn bị bỏ ngỏ. Các nhà quản lý hình như chưa có chính sách thông thoáng để thu hút nguồn vốn đầu tư gián tiếp này, một phần vì sợ các nhà đầu tư nước ngoài có quyền rút vốn ồ ạt gây khủng hoảng cho nền tài chính quốc gia tương tự như cuộc khủng hoảng khu vực xảy ra vào năm 1997. Nhưng trên thực tế, tỷ lệ vốn đầu tư gián tiếp trên thị trường Việt Nam hiện nay chiếm chưa đến 1% vốn đầu tư trực tiếp trong khi ở Thái Lan khi xảy ra khủng hoảng tỷ lệ này là 80%. Chính vì vậy, Việt Nam phải quan tâm hơn nữa tới kênh thu hút vốn này. 1.5. Phát triển hệ thống ngân hàng ở Việt Nam Thị trường chứng khoán và hệ thống ngân hàng có mối quan hệ chặt chẽ và gắn bó hữu cơ với nhau. Thị trường chứng khoán chỉ có thể phát triển vững chắc trên cơ sở một hệ thống ngân hàng lành mạnh và được kiểm soát tốt. Đối với các Quỹ đầu tư, ngân hàng đóng vai trò là chủ thể giám sát, bảo quản tài sản của quỹ. Muốn trở thành ngân hàng giám sát, ngân hàng đó phải đáp ứng các điều kiện do Uỷ ban chứng khoán nhà nước đề ra. Điều này đòi hỏi ngân hàng phải nỗ lực liên tục cơ cấu lại tổ chức, hoàn thiện các nghiệp vụ phục vụ khách hàng và từng bước chuẩn hoá các quy trình nghiệp vụ. Ngân hàng nhà nước nên có chế độ giám sát đảm bảo độ an toàn của các ngân hàng thương mại, xây dựng các môi trường pháp lý chặt chẽ, xây dựng các tiêu chuẩn hạch toán, báo cáo tài chính kế toán, kiểm toán rõ ràng và trung thực để các ngân 37 hàng thương mại có thể đáp ứng một nghiệp vụ mới này. Các ngân hàng thương mại là những tổ chức đóng vai trò tích cực trong hoạt động kinh doanh chứng khoán. Bởi vậy, hệ thống ngân hàng thương mại hoạt động lành mạnh và được ngân hàng trung ương kiểm soát và giám sát chặt chẽ sẽ có ảnh hưởng lớn đến tính lành mạnh của thị trường chứng khoán. Qua đó đã gián tiếp tạo điều kiện cho sự ra đời của các Quỹ đầu tư. Nhà nước tích cực khuyến khích các ngân hàng tham gia tạo lực lượng nòng cốt cho thị trường chứng khoán. Ngân hàng nhà nước có thể dành một khoản chi nhất định cho việc thành lập các công ty chứng khoán hoặc tăng vốn điều lệ cho các ngân hàng thương mại quốc doanh để tạo cơ sở cho các ngân hàng thành lập công ty chứng khoán hoặc thực hiện việc liên doanh với công ty chứng khoán nước ngoài. Bên cạnh đó, ngân hàng không ngừng nâng cao nghiệp vụ, áp dụng các phương thức thanh toán… tạo điều kiện cho mọi hoạt động trên thị trường chứng khoán nói chung cũng như hoạt động của các Quỹ đầu tư nói riêng và nhất là có thể đáp ứng được các điều kiện để trở thành tổ chức bảo quản và giám sát tài sản cho các Quỹ đầu tư. Một tin vui mới đến cho các ngân hàng là vừa qua Uỷ ban chứng khoán nhà nước đã ký giấy phép công nhận Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam và Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam là ngân hàng lưu ký chứng khoán. Đây là bước chuẩn bị nhằm tiến tới việc thành lập các ngân hàng giám sát khi các Quỹ đầu tư ra đời. 1.6. Thực hiện chính sách ưu đãi về thuế đối với hoạt động đầu tư chứng khoán của Quỹ đầu tư. 38 Quỹ đầu tư chứng khoán là một loại hình tổ chức đầu tư còn rất mới mẻ, chắc chắn khi thành lập và những năm đầu mới đi vào hoạt động sẽ gặp nhiều khó khăn. Do vậy, việc thực hiện ưu đãi về thuế đối với hoạt động đầu tư chứng khoán của quỹ là việc hỗ trợ hết sức quan trọng và cần thiết của nhà nước đối với sự hoạt động và phát triển của Quỹ đầu tư chứng khoán. Hiện tại, chưa có bất cứ một quy định nào về thuế đối với Quỹ đầu tư. Theo quy định tại Nghị định 144/2003/NĐ-CP về chứng khoán và thị trường chứng khoán: Quỹ đầu tư là quỹ hình thành từ vốn góp của người đầu tư được uỷ thác cho công ty quản lý quỹ và đầu tư tối thiểu 60% giá trị tài sản của quỹ vào chứng khoán. Với quy định như vậy thì Quỹ đầu tư không có tư cách pháp nhân, không thuộc sự điều chỉnh của Luật doanh nghiệp, vì vậy không phải là đối tượng đánh thuế của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp. Ở nhiều nước như Pháp, Nhật… họ áp dụng nguyên tắc không đánh thuế các Quỹ đầu tư, coi Quỹ đầu tư là phương tiện, công cụ đầu tư cho các nhà đầu tư cá nhân và tổ chức, chứ không phải là một pháp nhân kinh doanh. Ngay cả trong trường hợp quỹ là pháp nhân, một số nước cũng áp dụng chế độ miễn trừ nhất định để quỹ này được hưởng ưu đãi thuế hoàn toàn. Các quy định về thuế đối với Quỹ đầu tư đảm bảo rằng, việc nhà đầu tư thực hiện đầu tư qua Quỹ đầu tư và việc nhà đầu tư đầu tư trực tiếp không qua quỹ là tương đương nhau trên góc độ thuế. Nhà đầu tư chỉ phải trả thuế thu nhập khi nhận lợi tức được chia từ các quỹ hoặc chia từ việc đầu tư trực tiếp không qua quỹ. Rõ ràng nếu thu nhập đầu 39 vào và lợi nhuận của quỹ bị đánh thuế thì sẽ không khuyến khích nhà đầu tư đầu tư qua quỹ. Mô hình về thuế với Quỹ đầu tư như trên nhằm khuyến khích sự phát triển của loại hình đầu tư ưu việt này. Kết quả là nhà đầu tư thấy rằng việc họ đầu tư trực tiếp hay thông qua quỹ đều đem lại một mức thuế như nhau. Điều này sẽ tận dụng được hết mọi nguồn vốn nhàn rỗi trong công chúng. 1.7. Tạo lập thị trường hàng hoá cho thị trường chứng khoán bằng các biện pháp tăng cung kích cầu Quỹ đầu tư là một loại hình hoạt động gắn liền với thị trường chứng khoán. Để Quỹ đầu tư hình thành và phát triển lành mạnh, tích cực, việc đẩy mạnh hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam cũng là một nhân tố quan trọng. Trên thực tế, số lượng và giá trị của các cổ phiếu và trái phiếu được niêm yết trên thị trường tập trung là rất nhỏ, trong khi chưa có thị trường giao dịch ngoài quầy, mức cầu cũng không khả quan. Để khuyến khích việc ra đời của các Quỹ đầu tư chứng khoán, nhà nước phải đảm bảo hoạt động của các quỹ này thông qua các biện pháp tăng cung kích cầu trên thị trường chứng khoán. Các biện pháp tăng cung trên thị trường chứng khoán : Để xây dựng một thị trường chứng khoán hoạt động có hiệu quả thì việc cung cấp hàng hoá chứng khoán cho thị trường là một vấn đề rất quan trọng. Thực tiễn các thị trường chứng khoán thế giới đã chứng minh rằng một thị trường chứng khoán sẽ không thể hoạt động một cách lành mạnh và hiệu quả nếu lượng chứng khoán cung cấp cho thị trường không nhiều và số lượng nhà đầu tư nhỏ. Một 40 thị trường như vậy được coi là một thị trường mỏng, thiếu tính ổn định và ít có khả năng tự điều chỉnh, dễ bị tác động bởi các yếu tố khách quan bên ngoài, không đảm đương được vai trò là nơi huy động và phân bổ một cách có hiệu quả những nguồn lực trong xã hội. Một trong những mục tiêu hàng đầu của Quỹ đầu tư là thực hiện đa dạng hoá đầu tư vào chứng khoán. Trong điều kiện hiện nay, số lượng chứng khoán giao dịch trên thị trường còn hạn chế. Để tạo điều kiện cho Quỹ đầu tư bước đầu đi vào hoạt động có hiệu quả, nhà nước cần trợ giúp hàng hoá chứng khoán cho sự hoạt động của các Quỹ đầu tư. Sự trợ giúp được thực hiện bằng cách khi tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước nên dành quyền ưu tiên mua cổ phiếu bán ra bên ngoài. Hiện nay, khi cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, thường dành một tỷ lệ từ 15% - 20% số cổ phiếu phát hành để bán ra bên ngoài cho công chúng. Thế nhưng, phần vốn thuộc sở hữu nhà nước của các doanh nghiệp cổ phần hoá chiếm tỷ lệ cao 35%, phần bán cho cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp còn cao hơn 38% do đó tỷ lệ bán cho công chúng thấp, không đáp ứng được một trong những điều kiện niêm yết là 20%. Bên cạnh đó, thực tế cho thấy những doanh nghiệp cổ phần hoá có triển vọng làm ăn tốt thì các nhà đầu tư riêng lẻ là công chúng khó có thể mua được cổ phiếu của các doanh nghiệp này. Vì thế, việc dành quyền ưu tiên mua cho các Quỹ đầu tư vừa tạo điều kiện cho các Quỹ đầu tư hoạt động lại vừa có thể thực hiện phổ biến rộng rãi cổ phiếu của các doanh nghiệp cổ phần hoá cho công chúng qua việc họ mua chứng chỉ Quỹ đầu tư của quỹ. 41 Có thể áp dụng các giải pháp tài chính thích hợp để tăng cung hàng hoá cho thị trường như tín dụng nhà nước và thuế. Nước ta đang trong thời kỳ đổi mới và phát triển kinh tế nên nhu cầu chi cho đầu tư của ngân sách là rất lớn nên việc vận dụng công cụ tín dụng nhà nước là rất cần thiết để bù đắp bội chi ngân sách. Nhà nước cần có những dự án đầu tư mang tính khả thi và có thể đẩy mạnh việc phát hành các trái phiếu trung và dài hạn, đặc biệt là những trái phiếu công trình với lãi suất thấp hơn lãi suất huy động của ngân hàng, vì trái phiếu chính phủ là một mặt hàng ít rủi ro dựa trên uy tín của nhà nước. Hiện nay, chính phủ đã ban hành Nghị định 01/2000/ NĐ-CP quy định hai hình thức mới của việc phát hành trái phiếu chính phủ: phát hành thông qua các nhà bảo lãnh phát hành và thông qua đấu thầu tại Trung tâm giao dịch chứng khoán, mục đích tập trung thống nhất để trái phiếu chính phủ có thể giao dịch trên thị trường. Vấn đề đặt ra cho việc phát hành trái phiếu chính phủ là phải đổi mới thực sự cơ cấu phát hành. Trong điều kiện lãi suất ngân hàng thấp như hiện nay, nếu trái phiếu chính phủ dài hạn có mức lãi suất tương ứng thì sẽ ít hấp dẫn nhưng lãi suất trái phiếu chính phủ cũng không nên cao hơn lãi suất ngân hàng. Bên cạnh đó, phải tăng khả năng niêm yết của trái phiếu chính phủ trên thị trường thứ cấp. Muốn vậy, trái phiếu cần phải được phát hành theo lịch biểu định kỳ thường xuyên. Việc phát hành từng đợt phải thống nhất về mệnh giá, lãi suất và thời hạn thanh toán mỗi đợt phát hành phải có khối lượng tương đối lớn. 42 Bên cạnh trái phiếu chính phủ, một nguồn hàng hoá không nhỏ khác cho thị trường chứng khoán là trái phiếu công ty. Để đảm bảo khả năng thanh toán và nâng cao năng lực tài chính doanh nghiệp, hiện nay việc cơ cấu lại nợ cho công ty nhà nước đang được đặt ra. Hơn nữa, nhà nước cần cắt giảm triệt để bao cấp lãi suất, nguồn vốn kinh doanh đối với doanh nghiệp nhà nước. Điều này thúc đẩy họ phải chuẩn bị các điều kiện để phát hành trái phiếu công ty. Nhà nước khuyến khích các công ty phát hành chứng khoán ra công chúng và niêm yết trên thị trường chứng khoán. Nhà nước nên nghiên cứu ban hành các chính sách cho phép chuyển công ty liên doanh thành công ty cổ phần, chính sách khuyến khích phát hành ra công chúng của các doanh nghiệp cổ phần hoá và các công ty tư nhân, công ty liên doanh với nước ngoài như: chính sách ưu đãi thuế, chính sách ưu đãi cho vay thương mại, chính sách cho phép đăng ký phát hành khung, chính sách niêm yết giữa cổ phần hoá và niêm yết chứng khoán… Hiện tại, quy mô vốn của các Quỹ đầu tư nước ngoài đã giảm xuống còn 128 triệu USD, thế nhưng nguồn vốn này sẽ còn là quá lớn so với quy mô vốn giao dịch hiện nay trên thị trường chứng khoán Việt Nam.Bên cạnh đó, tổng giá trị giao dịch của các công ty niêm yết vào khoảng 140triệu USD trong khi các nhà đầu tư nước ngoài chỉ được đầu tư đến 20% cổ phiếu của các công ty niêm yết làm cho các nhà đầu tư có ít chọn lựa để đầu tư vào thị trường chứng khoán. Chính vì vậy, việc gia tăng tỷ lệ cho các nhà đầu tư nước ngoài là điều kiện cần để tăng nguồn cung của thị trường chứng khoán. Ngoài việc tăng về số lượng chúng ta cần phải nâng cao chất lượng 43 chứng khoán thông qua việc tăng cường hoạt động quản lý phát hành và niêm yết để lựa chọn những công ty đủ chất lượng đưa vào thị trường. Các biện pháp tăng cầu cho thị trường chứng khoán: Vấn đề đặt ra là phải tạo lập một cơ chế và môi trường đầu tư tốt để khuyến khích công chúng đầu tư vào chứng khoán. Để kích cầu, trước hết cần tiến hành giáo dục, tuyên truyền rộng rãi để thu hút sự quan tâm và nâng cao kiến thức của công chúng về chứng khoán, thị trường chứng khoán và đầu tư chứng khoán. Có chính sách ưu đãi về thuế đối với các nhà đầu tư và thị trường chứng khoán trong giai đoạn đầu khi mới thành lập. Chưa nên áp dụng thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập ròng từ đầu tư chứng khoán, chưa nên đánh vào cổ tức thu được từ đầu tư chứng khoán. Thực hiện miễn giảm thuế đối với các công ty chứng khoán trong vài năm đầu mới thành lập để tăng cường sức mạnh tài chính của nó, nhanh chóng hội nhập vào thị trường vốn đang cạnh tranh ngày càng khốc liệt giữa các nước. Có chính sách cho vay đầu tư chứng khoán một cách hợp lý để người lao động có thu nhập thấp cũng có quyền sở hữu cổ phiếu của doanh nghiệp cổ phần hoá. Thực chất là người lao động được mua chịu một số cổ phiếu trả chậm với lãi suất ưu đãi Thúc đẩy sự ra đời của các trung gian tài chính với chức năng tạo lập thị trường, muốn vậy nhà nước cần phải thực hiện một số giải pháp như: nâng mức vốn điều lệ của các ngân hàng thương mại quốc doanh để tăng cường sức mạnh tài chính cho các ngân hàng tạo cơ sở thành lập các công ty chứng khoán con tại các ngân hàng thương mại. 44 Đa dạng hoá người đầu tư: công ty bảo hiểm, quỹ hưu trí, ngân hàng, cá nhân, các hội đoàn thể trong và ngoài nước… Đồng thời đa dạng hoá người phát hành như chính phủ, địa phương, ngân hàng, tổ chức tài chính phi ngân hàng, doanh nghiệp… Tạo cầu nối giữa cung và cầu chứng khoán. Qua 3 năm hoạt động, thị trường chứng khoán Việt Nam diễn biến hết sức phức tạp, biểu hiện rõ nét nhất được thể hiện qua sự mất cân đối trong quan hệ cung cầu chứng khoán, làm đẩy giá thoát ly giá trị thực tế vốn có của nó. Có giai đoạn cầu vượt xa cung, cung vượt xa cầu và cho đến nay thì cầu giảm xuống rõ rệt, có thể nói là cung cầu chứng khoán đã không gặp nhau. Chính vì vậy, phải hình thành những kênh phân phối có hiệu quả đó là các công ty chứng khoán có tác dụng hướng dẫn và tư vấn cho người đầu tư về hình thức kinh doanh chứng khoán. Mặt khác, bên cạnh thị trường tập trung phải hình thành một thị trường phi tập trung OTC để các loại chứng khoán không được niêm yết có thể giao dịch. Theo kế hoạch việc xây dựng thị trường cổ phiếu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Hà Nội sẽ được xúc tiến, chuẩn bị điều kiện để sau năm 2010 chuyển thành thị trường giao dịch chứng khoán phi tập trung. Trung tâm giao dịch chứng khoán TP Hồ Chí Minh sẽ được xây dựng thành Sở giao dịch chứng khoán với hệ thống giao dịch, hệ thống giám sát và công bố thông tin thị trường tự động hoàn toàn. 1.8. Nhà nước đặt định hướng phát triển chung cho các Quỹ đầu tư Khi phân tích hoạt động của các Quỹ đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, có 45 thể nhận thấy rằng việc đầu tư vào kinh doanh bất động sản chiếm tỷ trọng khá lớn. Điều đó là hoàn toàn bình thường vì các quỹ phải tập trung vào những ngành nghề phù hợp với mục tiêu kinh doanh của mình với những dự 2. Về phía các Quỹ đầu tư 2.1. Chú trọng và đẩy mạnh việc đào tạo cơ bản đội ngũ cán bộ quản lý đầu tư chuyên nghiệp Kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy, một yếu tố có tính chất quyết định đến sự thành công của một Quỹ đầu tư đó là trình độ năng lực của nhà quản lý đầu tư chuyên nghiệp. Ở nhiều nước, các nhà đầu tư riêng lẻ thường chọn Quỹ đầu tư dựa trên cơ sở xem xét tài năng của các nhà đầu tư chuyên nghiệp của quỹ, người ta cũng sẵn sàng rút ra khỏi quỹ khi mà nhà quản lý chuyên nghiệp xuất sắc đó không còn làm cho quỹ nữa. Thông thường ở một số nước Quỹ đầu tư do một nhà quản lý đầu tư chuyên nghiệp điều hành, vừa thực hiện chiến lược đầu tư, vừa chịu trách nhiệm điều hành công việc hàng ngày. Hỗ trợ cho sự hoạt động của nhà quản lý chuyên nghiệp còn có đội ngũ chuyên viên phân tích tài chính. Hiện nay, các tổ chức thành lập Quỹ đầu tư chuẩn bị đội ngũ nhân lực cho quỹ theo các kênh: - Cử một số nhân viên theo học các khoá đào tạo cơ bản về đầu tư, phân tích chứng khoán, về khung pháp lý cho hoạt động đầu tư và các kiến thức nghiệp vụ tài chính tín dụng. Sau đó các nhân viên này sẽ nhận được chứng chỉ và tham gia kỳ thi sát hạch để được cấp giấy phép hành nghề đầu tư chuyên nghiệp. 46 - Tuyển nhân viên có kiến thức về đầu tư hoặc có kinh nghiệm trong lĩnh vực tài chính tiền tệ, sau đó tiếp tục bồi dưỡng và bổ sung nâng cao trình độ kiến thức cho các nhân viên này. - Cử nhân viên ra nước ngoài khảo sát, học tập, nghiên cứu về hệ thống Quỹ đầu tư ở một số nước. Những điều kiện trên cho thấy, một nhà quản lý chuyên nghiệp thực thụ của Quỹ đầu tư chứng khoán phải có một kiến thức sâu rộng và đạo đức nghề nghiệp trong sáng, tạo cơ sở niềm tin cho công chúng. Điều đó đòi hỏi phải có kế hoạch, chương trình đào tạo có hệ thống để xây dựng đội ngũ các nhà quản lý chuyên nghiệp cho quỹ. 2.2. Chú trọng nghiên cứu đồng thời phổ biến rộng rãi Quỹ đầu tư ra công chúng Những vấn đề về tín thác và Quỹ đầu tư là những vấn đề còn rất mới mẻ ở Việt Nam. Do vậy, một mặt cần tiếp tục nghiên cứu về mặt lý luận và kinh nghiệm thực tiễn của các nước trong việc phát triển hệ thống tín thác đầu tư. Mặt khác, cần phổ biến rộng rãi những kiến thức cơ bản và thông tin về Quỹ đầu tư cho công chúng qua sách báo và các phương tiện thông tin đại chúng. Đối tượng thu hút các nhà đầu tư tham gia vào Quỹ đầu tư chủ yếu là công chúng. Vì thế sự thành công của quỹ phụ thuộc rất lớn vào sự hiểu biết và tham gia của công chúng. Hiện nay, bên cạnh các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ cho những người đi sâu vào thị trường chứng khoán, Uỷ ban chứng khoán nhà nước đang có rất nhiều hình thức để phổ cập kiến thức về chứng khoán và thị trường chứng khoán cho 47 công chúng như tổ chức các bài giảng, các lớp học ngắn ngày cho những ai quan tâm đến lĩnh vực này hay trang chuyên đề giải đáp trên các tạp chí chứng khoán. Nhưng với vai trò là người quản lý thị trường chứng khoán, Uỷ ban chứng khoán nhà nước cần phải đảm bảo các thông tin trên thị trường chứng khoán là chính xác, trung thực. Có như vậy mới giúp những người ít hiểu biết nhất vẫn tránh được rủi ro và việc quản lý thị trường được dễ dàng. Tuy nhiên, công tác tuyên truyền thời gian qua chưa được làm liên tục và có hệ thống, chưa nhận được sự quan tâm thích đáng tương xứng với tầm quan trọng về yêu cầu phát triển của thị trường. Nhiều chương trình tuyên truyền mới chỉ dừng lại ở mức thảo luận và đề xuất ý kiến mà chưa được triển khai kịp thời và bài bản. Các chương trình đào tạo vẫn còn quá ít và chỉ tập trung vào thành phố lớn là Hà Nội và TP Hồ Chí Minh, chưa mở rộng sang các tỉnh thành khác. 2.3. Chiến lược đầu tư thích hợp Tại Việt Nam, quy mô vốn của một dự án chỉ vào khoảng 10 triệu USD, do đó các Quỹ đầu tư cần xác định chiến lược đầu tư phù hợp, tập trung tìm kiếm các dự án thích hợp với mục tiêu đầu tư của mình. Mặt khác, các quỹ nên hạ thấp yêu cầu về tỷ suất lợi nhuận của các dự án cho phù hợp với tình hình kinh tế Việt Nam hiện tại. Có như vậy, các Quỹ đầu tư mới không bị trói buộc vào thị trường đầu tư của chính mình. Tuy có một đội ngũ quản trị viên xuất sắc song chủ yếu là người nước ngoài vì vậy các quỹ nên tham khảo ý 48 kiến của nhiều chuyên gia trong lĩnh vực đầu tư của Việt Nam hơn nữa nhằm có một chiến lược tương thích với môi trường đầu tư Việt Nam. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO _ Tạp chí Chứng khoán Việt Nam năm 2001, 2006, 2007 _ Tạp chí Đầu tư chứng khoán năm 2002, 2003, ,2007,2008 _ Tạp chí Tài chính năm 2007 _ Nghị định 48/1998/NĐ-CP về chứng khoán và thị trường chứng khoán _ Nghị định 144/2003/NĐ-CP về chứng khoán và thị trường chứng khoán _ Giáo trình Thị trường chứng khoán – PGS-NGƯT Đinh Xuân Trình, PTS Nguyễn Thị Quy - Trường Đại học Ngoại thương, 1998 _ Quy chế tổ chức và hoạt động của Quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ - Ủy ban Chứng khoán nhà nước, 1998 _ Mutual Fund Fact Book 2008 _ Báo cáo của MPDF _ Giáo trình Những vấn đề cơ bản về chứng khoán và thị trường chứng khoán – Ủy ban Chứng khoán nhà nước, NXB Chính trị quốc gia, 2002 _ www.ici.org _ www.ifc.org _ www.dragoncapital.com _ www.finansa.com _ www.investmentfunds.com _ www.mekongcapital.com _www.vietstock.com 49

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfhoatdongcuacacquydautuchungkhoantaivietnam.pdf
Tài liệu liên quan