Đề tài Hoạt động của ngân hàng Nhà nước Việt Nam sau 10 năm đổi mới - Thực trạng và giải pháp

Em nghĩ rằng không quá ví von khi cho rằng kiến thức về NHNN thật là đồ sộ và những câu hỏi như: “NHNN phải làm gì?” luôn luôn được đặt trong két mà không có chìa khóa để mở. Điều đó đòi hỏi phải rất nỗ lực trong nghiên cứu lý luận và hoạt động thực tiễn. Là những sinh viên khoa ngân hàng đang trong giai đoạn nghiên cứu khởi đầu và tương lai sẽ là những cán bộ ngành ngân hàng em nhận thức được rằng mình phải thật cố gắng. Em rất tự hào rằng lớp sinh viên chúng em hôm nay đã nhận được sự tin tưởng của thày giáo và những người đi trước. Chúng em cũng tin rằng với những thành quả to lớn thế hệ trước để lại và những cố gắng nhiệt tình hết mình kết hợp với tri thức thế hệ mới chúng em sẽ đoàn kết đưa ngành ngân hàng nói riêng và kinh tế đất nước ngày càng phát triển .

doc24 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1599 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoạt động của ngân hàng Nhà nước Việt Nam sau 10 năm đổi mới - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
doanh nghiệp sản xuất và lưu thông nên tính thương mại cũng mất dần và trở thành ngân hàng cuả các ngân hàng có quyền lực và kinh tế chi phối các ngân hàng TM theo pháp luật của Nhà nước pháp quyền. Giai đoạn thứ hai thừa hưởng thành tựu của giai đoạn thư nhất diễn ra nhanh chóng hơnbằng cách thiết lập ngân hàng TWcó tương đốiđầy đủ chức năng, nhiệm vụ, công cụ điều hành. Mở đầu giai đoạn này là hội nghị tài chính quốc tế năm 1920 ở Brucxlle (thủ đô nước Bỉ) với một nghị quyết nói lên sự cần thiết phải thiết lập ngân hàng TW như sau: Mong mỏi tất cả những nước nào chưa có ngân hàng TW cần thiết lập ngay càng sớm càng tốt để không những lập lại sự ổn định tiền tệ và hệ thống ngân hàng nước đó mà còn để gia tăng sự hợp tác quốc tế trong lĩnh vực này. Sau hội nghị hàng loạt nước từ năm châu đều thành lập ngân hàng TW như: Nam Phi 1921, ấn Độ 1934, Canada 1935, Thái Lan 1942, Indonexia 1953. Riêng ở Mỹ từ năm 1913 đã thiết lập hệ thống dự trữ liên bang, bao gồm 12 chi nhánh. Hiện nay, trên thế giới tồn tại nhiều loại mô hình tổ chức của ngân hàng TW: Mô hình ngân hàng TW trực thuộc Quốc hội (ngân hàng TW Cộng hoà liên bang Đức, hệ thống dự trữ liên bang Hoa Kỳ ). Mô hình ngân hàng TW trực thuộc chính phủ (ngân hàng TW Anh, ngân hàng TW Hàn Quốc ...) và mô hình ngân hàng TW thuộc Bộ tài chính (Xu hướng đang lần lượt loại bỏ mô hình này, coi như một kinh nghiệm không thành công trong chức năng quản lý vĩ mô của chính phủ đối với nền kinh tế thị trường). Dù với tên gọi khác nhau (ngân hàng TW, ngân hàng Nhà nước, ngân hàng quốc gia, hệ thống dự trữ liên bang) tuỳ thuộc vào đặc điểm kinh tế chính trị của mỗi nước nhưng giữa chúng có những nét tương đồng: - Ngân hàng TW là cơ quan công lập của Nhà nước, thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng, ngân hàng, đối nội và đối ngoại. - Hệ thống tổ chức của ngân hàng TW thường được bố trí theo chiều dọc từ tư đến các địa phương. - Hoạt động của các ngân hàng TW theo nguyên tắc tập trung thống nhất nhằm thực hiện ổn định tiền tệ và đamr bảo cho hệ thống trong nước hoạt động an toàn, hiệu quả. - Về cơ chế quản trị, ngày nay hầu hết ngân hàng TW các nước đều thực hiện theo cơ chế: quản trị tập thể dưới hình thức “Một hội đồng” với tên gọi khác nhau, tuỳ theo luật của từng nước. II- Vai trò, chức năng của ngân hàng TW: Vị trí đặc thù của ngân hàng TW trong nền kinh tế thị trương được quyết định bởi mục đích, tính chất và yêu cầu quản lý vĩ mổ của Nhà nước đối với hoạt động tiền tệ, tín dụng và ngân hàng. Đây là cách quản lý đặc thù của ngân hàng TW: quản lý không phải chỉ bằng pháp luật mà còn được thực hiện bằng những công cụ điều tiết thị trường thông qua các hoạt động nghiệp vụ có tính chất sinh lời (Tuy nhiên hoạt động sinh lời này chỉ là phương tiện để thực hiện mục tiêu quản lý). Để thực hiện nhiệm vụ cơ bản này, các ngân hàng TW phải đóng vai trò vừa là ngân hàng phát hành, ngân hàng của chính phủ và ngân hàng của các ngân hàng. Ba vai trò này của ngân hàng TW có mối quan hệ biện chứng với nhau, tác động hỗ trợ lẫn nhau cùng phát triển. Chỉ có thực hiện tốt các nhiệm vụ của ngân hàng TW trong 3 vai trò nói trên thì mới đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của ngân hàng TW. 1. Ngân hàng TW là ngân hàng phát hành: Nhiệm vụ bao trùm nhất là hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ theo cơ chế thị trường. Với chức năng phát hành. Ngân hàngTW không chỉ phát hành tiền mặt mà cả phương tiện lưu thông nói chung. Trách nhiệm của ngân hàng TW là đảm bảo cung ứng đủ, không để thiếu phương tiện thanh toán (kể cả tiền mặt), làm sao cho tổng cung phù hợp với tổng cầu tiền tệ. Một vấn đề có tính nguyên tắc và là đòi hỏi đối với việc vận hành chính sách tiền tệ là không được phát hành tiền bù đắp thiếu hụt Ngân. Tiền mặt không phải là tất cả mà năm trong lương tiền cung ứng. Quản lý tiền mặt đã từng là công cụ quản lý duy nhất, là nhiệm vụ thường xuyên, hàng đầu của ngân hàng TW. Tiền mặt giờ đây chỉ là phương tiện thanh toán, xã hội cần bao nhiêu đều được đáp ứng đủ. Quản lý tiền mặt được thay bằng khái niệm quản lý lượng tiền cung ứng. Chính sách tiền tệ được vận hành thông qua các chính sách cụ thể về tín dụng, về quản lý ngoại hối và về chính sách đối với ngân sách Nhà nước. Hàng loạt công cụ kinh tế vĩ mô ngày càng được hoàn thiện tái cấp vốn, lãi suất, tỷ giá, dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở ... 2. Chức năng ngân hàng của các ngân hàng Trên cơ sở độc quyền phát hành tiền, ngân hàng TW thực hiện việc cung ứng tiền tệ cho nền kinh tế thông qua việc cấp tín dụng cho các ngân hàng kinh doanh và kiểm soát khối lượng tiền cung ứng từ tín dụng tạo tiền của các ngân hàng kinh doanh. Hoạt động đó làm hình thành mối quan hệ giữa chủ thể quản lý (ngân hàng TW) và đối tượng chịu sự quản lý- ngân hàng TM (ở đây các ngân hàng TM trở thành khách hàng của ngân hàng TW). Mặt khác, do hoạt động kinh doanh sôi động đầy tính cạnh tranh trên thị trường vốn, thị trường tiền tệ, cần thiết phải có người đóng vai trò điều chỉnh hoạt động của hệ thống ngân hàng – vai trò đó thuộc về ngân hàng TW. Chức năng này được thể hiện qua các nghiệp vụ sau: -Quản lý tài khoản và dự trữ tiền tệ trên tài khoản của các ngân hàng. -Cấp tín dụng cho các ngân hàng (chủ yếu bằng phương pháp tái cấp vốn). -Là trung tâm thanh toán của các ngân hàng. -Thực hiện quản lý Nhà nước đối với ngân hàng kinh doanh bằng các công cụ luật pháp. 3. Chức năng ngân hàng của Nhà nước : Ngân hàng TW nói chung đều thuộc sở hữu của Nhà nước, được thành lập theo luật định là một pháp nhân, có vốn riêng do Nhà nước cấp. Là ngân hàng của Nhà nước, ngân hàng TW thực hiện các dịch vụ tiền tệ, tín dụng cho Nhà nước vì lợi ích quốc gia, gồm các nghiệ vụ chủ yếu như: Mở tài khoản nhận và trả tiền gửi kho ạc Nhà nước. Tổ chức thanh toán cho kho bạc Nhà nước. Bảo quản dự trữ quốc gia về ngoại tệ, vàng bạc, kim khí quí. Tạm ứng cho ngân sách trong trường hợp cần thiết. Làm cố vấn cho Nhà nước về kinh tế tài chính, tiền tệ và đại diện cho Nhà nước tại các tổ chức quốc tế. III- Các vấn đề cơ bản: 1. Quyền phát hành giấy bạc: Cuối thế kỷ 19, ở mỗi quốc gia vẫn tồn tại nhiều ngân hàng phát hành, nhưng chỉ 10 năm sau, quyền phát hành này được tập trung vào ngân hàng TW. Các nguyên tắc cơ bản của phát hành giấy bạc: Nguyên tắc phát hành dựa trên cơ sở dự trữ kim loại quí: là việc phát hành giấy bạc. Ngân hàng vào lưu thông có sự bảo đảm bằng vàng, bạc gửi vào ngân hàng. Nguyên tắc phát hành dựa trên cơ sở tín dụng tức là phát hành qua cho vay nền kinh tế (thông qua việc cho vay các ngân hàng trung gian, thị trường vàng và ngoại tệ, thị trường mở...) thực ra chỉ là ứng trước tiền cho nền kinh tế và sẽ quay trở lại ngân hàng khi đến hạn. 1.1. Cơ sở tiền tệ (MB): Chúng ta hãy xem bản cân đối kế toán (rút gọn) của ngân hàng TW: Tài sản có Tài sản nợ Chứng khoán Tiền mặt đang lưu hành Cho vay chiết khấu Tiền dự trữ của các ngân hàng TMđặt trong ngân hàng TW Như vậy, tiền của ngân hàng TW được hiểu là: 1)Tiền mặt của chính ngân hàng TW (trước hết là giấy bạc ngân hàng , tiền kim loại) 2)Các tài khoản ngân hàng TM trong ngân hàng TW và chúng được gọi là tài khoản chuyển khoản của ngân hàng TW MB= C+R Tiền TW tăng lên bằng 2 cách: - Ngân hàng TW cho vay các chủ thể là ngân hàng TW (DL). - Ngân hàng TW mua vào kim khí quý, ngoại tệ trên thị trường ngoại hối hoặc mua vào tín phiếu kho bạc. - Trên thị trường mở, làm tăng cơ số tiền không vay (MBn). 1.2. Lương tiền cung ứng MS: MS theo nghĩa hẹp, trực tiếp tham gia vào quá trình trao đổi gồm 2 bộ phận: MS= C+D Trong đó: D là tiền gửi không kỳ hạn có thể viết sec. Ngoài ra lượng tiền cung ứng có thể bao gồmtiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và một số động sản tài chính khác để chuyển hoá thành tiền mặt. Để dự đoán và kiểm soát MS người ta thường sử dụng công thức MS= m.MB. Trong đó, m là hệ số gia tăng tiền tệ. Hệ số m lớn hay nhỏ tuỳ thuộc vào: - Ngân hàng TW quy định dự trữ bắt buộc cho hệ thống ngân hàng TM cao hay thấp. - Dự trữ dư thừa của hệ thống ngân hàng TM nhiều hay ít. - Nhu cầu thanh toán bằng tiền mặt của nền kinh tế lớn hay nhỏ. - Chính sự tác động của hệ số m đã dẫn đến : MS tăng hay giảm không phải chỉ riêng ngân hàng TW quyết định mà còn tuỳ thuộc vào cách ứng xử của hệ thống ngân hàng TM , những người gửi tiền và người vay tiền. Ngân hàng TW được Nhà nước giao nhiệm vụ điều tiết và kiểm soát MS cho phù hợp với các mục tiêucủa nền kinh tế vĩ mô- họ phải là người quyết định lượng tiền cung ứng. Để làm được điều đó, ngân hàng TW chủ động chi phối vào MB, đặc biệt là MBn, vì sự tăng giảm của MBn hoàn toàn do ngân hàng TW quyết định. Mặt khác, ngân hàng TW quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc và chủ động thay đổi tỉ lệ này cũng là để tăng cường việc kiểm soát hệ số m. 2. Chính sách chiết khấu: + Nghiệp vụ chiết khấu: Trước tiên, chúng ta hãy cùng xem sơ đồ nghiệp vụ chiết khấu như sau: Ngân hàng trung ương Chiết khấu lại kỳ phiếu (4b) Ngân hàng thương mại (5)Xuất trình kỳ phiếu đến thời hạn Người mua Xuất trình kỳ phiếu đến kỳ hạn (4a) (3) Kỳ phiếu chuyển sang chiết khấu Hàng hoá (1) Người giao hàng C D B A Nghĩa vụ kỳ phiếu (2) Nghiệp vụ chiết khấu được giải thích ngắn gọn như sau: (1)A giao hàng cho B. (2) B lập kỳ phiếu mà A nhận thế vào việc nhận tiền. (3) A bán kỳ phiếu của mình cho ngân hàng TM C. Hiện nay, ở C có 2 khả năng: (4a) C giữ kỳ phiếu và thanh toán cho người mua B khi đến hạn. (4b) C bán kỳ phiếu cho ngân hàng TW Cnhận được không phải toàn bộ tổng số ghi trên kỳ phiếu, mà khấu trừ đi mức chiết khấu của ngân hàng TW vào thời điểm thực hiện (5). Khi đến hạn thanh toán tiền, D đưa kỳ phiếu cho B và nhận đủ tổng số ghi trên kỳ phiếu. Bằng cách tăng hoặc giảm tỷ lệ chiết khấu, ngân hàng TW tác động vào việc đảm bảo tiền tệ cho hệ thống kinh tế. +Vai trò người cho vay cuối cùng. Ngoài việc sử dụng làm một công cụ để ảnh hưởng đến cơ sở tiền tệ và cung ứng tiền tệ, chiết khấu còn quan trọng ở chỗ nhằm tránh khỏi những cơn sụp đổ tài chính. Vai trò người cho vay cuối cùng thể hiện khi ngân hàng TW cung cấp dự trữ cho hệ thống Ngân hàng khi các sự phá sản của các ngân hàng có nguy cơ không kiểm soát được. 3. Chính sách thị trường mở: Chính sách thị trường mở: là mua bán chứng khoán của ngân hàng TW với mục đích tác động vào thị trường tiền tệ. Nhiệm vụ cơ bản của chính sách này là làm sao điều chỉnh cung và cầu đối với chứng khoán để kéo theo sự phản ứng tương tự ở các ngân hàng TM. Nếu chính sách chiết khấu ảnh hưởng toàn cục và bị hạn chế bởi thời gian, thì chính sách thị trường mở là vũ khí tác động nhanh và năng động. Ngân hàng TW xác định “mức” có lợi trong việc mua bán chứng khoán để cố găng tác động vào số lượng dự trữ của ngân hàng TM nằm ở ngân hàng TW, trên thực tế là tác động vào quy mô cho vay của các ngân hàng TM đối với nền kinh tế và dân cư. Vào bất kỳ thời điểm nào ngân hàng TW cũng có thể mua chứng khoán. Họ sẵn sàng mua khi các khả năng khác để điều chỉnh chứng khoán không còn. Ngân hàng TW không sử dụng độc quyền hành chính về việc bán chứng khoán trong tay mình. Nếu nó cần thực hiện chính sách tiền tệ hạn chế nhằm giảm khả năng thanh toán của các ngân hàng TM thì nó khuyến khích các ngân hàng TM mua chứng khoán trên thị trường mở. Để khuyến khích họ mua, ngân hàng TW phải đưa ra lãi suất có lợi cho các ngân hàng khi mua các chứng khoán này, đối với chứng khoán không có lãi thì phải có khoảng cách lớn giữa thị giá bán và giá trị danh nghĩa. Nếu ngân hàng TW thành công trong việc bán chứng khoán cho ngân hàng TM thì các ngân hàng TM sẽ cho vay ít đi. Nghiệp vụ thị trường mở là công cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ, nhưng lại có vai trò rất quan trọng đối với những thay đổi trong cơ số tiền tệ và là nguồn chính sách gây nên những biến động trong cung ứng tiền tệ. Đặc điểm của nghiệp vụ này là dễ dàng đảo ngược lại. Khi có một sai lầm xảy ra trong lúc tiến hành nghiệp vụ thị trường mở, ngân hàng TW có thể đảo ngược lại việc sử dụng công cụ đó. Nếu ngân hàng TW thấy rằng cung ứng tiền tệ tăng quá nhanh do mua trên thị trường mở quá nhiều, thì nó có thể sửa chữa ngay lập tức bằng cách tiến hành nghiệp vụ bán. 4. Chính sách dự trữ tối thiểu: Một công cụ khác giúp ngân hàng TW điều tiết hoạt động của ngân hàng TM đó là chính sách dự trữ tối thiểu. Tuỳ theo tình hình, luật các nước có cơ chế duy trì mức dự trữ tối thiểu khác nhau, song họ đều theo đuổi một mục tiêu chung- các ngân hàng TM bắt buộc phải để lại một phần tiền huy động tại ngân hàng TW. Chính sách dự trữ tối thiểu bắt buộc xuất phát từ yêu cầu đảm bảo khả năng thanh toán tiền mặt khi cần thiết của ngân hàng TM . Hiện nay qui mô dự trữ tối thiểu có ý nghĩa hai mặt. Thứ nhất nó đảm bảo khả năng thanh toán thường xuyên ở các ngân hàng. Thứ hai nó là công cụ của ngân hàng TW để điều chỉnh khối lượng tiền tệ và khả năng cho vay của các ngân hàng TM. Dự trữ bắt buộc xác định bằng cách Tiền dự trữ bắt buộc = Tỷ lệ dự trữ bắt buộc * Tổng số tiền gửi nhận được Hệ số nhân tiền mở rộng = 1 Tỷ lệ dự trữ bắt buộc 1 Tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Khả năng mở rộng tiền gửi Tiền gửi ban đầu x 5. Chính sách lãi suất tín dụng: Cũng như chính sách thị trường mở, chính sách lãi suất tín dụng cũng là công cụ gián tiếp để điều chỉnh cung và cầu về tín dụng qua giá cả của nó. Thông thường lãi suất tiền gửi và tiền vay biến động cùng chiều: khi lãi suất tiền gửi được nâng lên thì lãi suất cho vay cũng được nâng lên và ngược lại. Làm sao dung hoà được hai yêu cầu : nâng lãi suất huy động để thu hút được nguồn vốn và kiềm chế lạm phát. Hạ lãi suất tiền gửi để hạ lãi suất cho vay nâng đỡ sản xuất. Để lãi suất phát huy được vai trò của mình trong quá trình vận hành lãi suất cần tuân thủ các nguyên tắc sau: +Lãi suất thực phải bằng tỷ suất lợi nhuận bình quân. +Lãi suất danh nghĩa = Lãi suất thực + Tỷ lệ lạm phát danh nghĩa +Lãi suất huy động vốn danh nghĩa cao hơn tỷ lệ lạm phát dự kiến (dương). +Lãi suất cho vay trung bình cao hơn lãi suất huy động trung bình. + Lãi suất ngắn hạn thấp hơn lãi suất dài hạn. + Lãi suất nội tệ tương đương lãi suất ngoại tệ (trừ trượt giá) + Lãi suất phải bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. *Chính sách lãi suất được vận hành theo nhiều cách khác nhau ở nhiều quốc gia khác nhau. + ấn định lãi suất: Để tránh rủi ro cho các ngân hàng trung gian, các ngân hàng TW thường ấn định mức lãi suất “sàn” tối thiểu cho tiền gửi và lãi suất “trần” tối đa cho tiền vay. Cũng có trường hợp người ta chỉ khống chế lãi suất trần (đầu ra, lãi suất cho vay) còn lại giao quyền chủ động cho các ngân hàng TM. + Thả nổi lãi suất: Lãi suất là giá bán và giá mua của quyền sử dụng vốn. Lãi suất phụ thuộc vào quan hệ cung cầu về vốn. Với quan điểm cho rằng, đã là giá cả thì lãi suất phải biến dộng, phải được tư doanh hoá, nhiều nước đã từ bỏ biện pháp ấn định lãi suất khung cứng nhắc, chuyển qua thả nổi lãi suất trên thị trường tiền tệ: Quy trình hình thành lãi suất: Cạnh tranh nội địa Nhu cầu vay. Khả năng cho vay Lãi suất thị trường Chính sách tiền tệ. Các công cụ tác động Hệ thống tín dụng Chiến lược phát triển Thị trườngtín dụng quốc tế Là cơ quan thực thi chính sách tiền tệ, ngân hàng TW tác động gián tiếp tới lãi suất tiền gửi và tiền vay của ngân hàng TM bằng cách thay đổi lãi suất tái chiết khấu, làm “đắt” hoặc “rẻ” tín dụng nhằm “hạn chế”, “khuyến khích” các ngân hàng TM trong hoạt động vay vốn của ngân hàng TW. Từ đó có ảnh hưởng đến cung cầu tín dụng. Phần II: Hoạt động của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hiện nay - thực trạng và giải pháp I. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam- những bước đi khởi đầu. Từ một nước thuộc địa không có chủ quyền về tiền tệ, ngay sau Cách mạng tháng 8/1945 thành công, bằng ý chí và sự sáng tạo của mình, dựa vào lòng yêu nước của nhân dân, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã từng bước thiết lập được một nền tiền tệ, ngân hàng độc lập với những bước đi phù hợp và đầy sáng tạo. Tháng 12/1945 chính quyền cách mạng đã phát hành đồng bạc Việt Nam đầu tiên được nhân dân hết sức hoan ngân hàng nghênh, hưởng ứng và được gọi là “tờ giấy bạc cụ Hồ”. Ngày 3/2/1947, tổ chức tín dụng đầu tiên của Việt Nam- Nha tín dụng sản xuất được thành lập. Ngày 6/5/1951 tại Hang Bòng thuộc xã Tân Trào, huyện Sơn Dương, Tỉnh Tuyên Quang, chủ tịch HCM đã ký sắc lệnh số 15/SL thành lập ngân hàng Quốc gia Việt Nam- chính thức khai sinh một ngành kinh tế mới cho đất nước ngành ngân hàng . Ngân hàng quốc gia Việt Nam ra đời thực sự là một bước ngoặt lịch sử trong sự phát triển nền tiền tệ- ngân hàng của Việt Nam. Lần đầu tiê nước ta có một ngân hàng của Nhà nước dân chủ nhân dân, là kết quả của quá trình đấu tranh xây dựng hệ thống tiền tệ, tín dụng độc lập, tự chủ, đánh dấu bước phát triển mới, thay đổi về chất trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng ở nước ta. Từ ngày thành lập đến trước đổi mới, gần 40 năm hoạt động và phát triển theo mục tiêu xây dựng CNXH trong điều kiện cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp, ngân hàng Nhà nước đã được xây dựng và hoạt động phù hợp với yêu cầu của cơ chế kinh tế đó, góp phần quan trọng thực hiện các mục tiêu kinh tế- xã hội trong từng giai đoạn phát triển của đất nước, đồng thời hoạt động của ngân hàng cũng phản ánh đặc trưng của cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp. Với tư cách là cơ quan Nhà nước quản lý tập trung thống nhất trong cả nước về: Phát hành tiền, quản lý tiền mặt và tổ chức kế khoạch hoá lại vốn dưới hình thức tín dụng ngân hàng , quản lý quỹ ngân sách Nhà nước , quản lý ngoại hối vàng, bạc, tín dụng và thanh toán quốc tế, kiểm soát bằng đồng tiền các hoạt động kinh tế quốc dân. Đồng thời là một tổ chức kinh tế của Nhà nước kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, tín dụng. Về hệ thống tổ chức, trong nền kinh tế quốc dân chỉ có một ngân hàng Nhà nước duy nhất với hệ thống tổ chức 3 cấp trên địa bàn hành chính: TW, tỉnh, huyện để thực hiên đồng thời 2 chức năng quản lý và kinh doanh . Thực chất đó là hệ thống ngân hàng một cấp vừa được thực hiện nhiệm vụ của một ngân hàng TW vừa thực hiện nhiẹem vụ của các tổ chức trung gian tài chính. Tất cả các chủ trương, chính sách hoạt động của ngân hàng TW pải hướng vào thực hiện nhiệm vụ kinh tế , chính trị của Đảng và Nhà nước trong từng giai đoạn, từng năm kế hoạch, thể hiện cụ thể bằng các chỉ số phát triển, trên cơ sở đó xác định phương hướng, chỉ tiêu kế hoạch cho các ngân hàng cấp dưới; trong đó chủ yếu là chỉ tiêu thu, chi tiền mặt; mức bội thu, bội chi tiền mặt, chỉ tiêu vay vốn đôí vớitừng ngành kinh tế , từng thành phần kinh tế và chỉ tiêu huy đông tiền tiết kiệm. Coi việc thực hiện các chỉ tiêu đó là một trong những chỉ tiêu chủ yếu của phong trào thi đua hoàn thành kế hoạch Nhà nước, các ngân hàng các cấp chạy theo thành tích, bỏ qua chất lượng và hiệu quả cuối cùng. Về cơ chế nghiệp vụ, hệ thống chế độ, biện pháp nghiệp vụ về tín dụng, tiền tệ, thanh toán nói chung đêùđược áp dụng theo khuôn mẫu của hệ thống XHCN (Liên Xô) mang nặng tính tập trung bao cấp. Công tác tín dụng thực hiện theo chế độ cho vay trực tiếp, có kế hoạch với chính sách lãi suất mang tính chất giá cung cấp ổn định và bằng nhiều loại biện pháp cho vay khác nhau, nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất là lưu thông hàng hoá theo kế hoạch Nhà nước đối với các tổ chức kinh tế . Ngoài ra, phần lớn nhu cầu vốn phát sinh từ nguyên nhân khách quan, và những nguyên nhân do qủn lý yếu kém, kinh doanh thua lỗ, thậm chí cả những nhu cầu vốn nhằm duy trì, củng cố quan hệ sản xuất XHCN, nói chung đều được tín dụng ngân hàng tài trợ. Công tác thanh toán không dùng tiền mặt, kế hoạch hoá thu nộp tiền mặt và chi tiêu tiền mặt qua quỹ ngân hàng được áp dụng một cách phổ cập và bắt buộc đối với mọi tổ chức kinh tế. Kết quả là trong những năm 75-86 nền kinh tế mất cân bằng về cung cầu vốn. Ngân hàng không kiểm soát được gia tăng tín dụng, gia tăng cung tiền. Trong nhiều năm liên tục cán cân thanh toán quốc tế bội chi lớn, kinh tế vĩ mô mất cân đối nghiêm trọng, tình hình tài chính tiền tệ căng thẳng, lạm phát phi mã tới 3 con số (1986, làm phát 774%) toàn bộ nền kinh tế suy sụp đình trệ. Thực tế cho thấy cơ chế kế hoạch hoá không còn phù hợp cho giai đoạn mới. II- Hoạt động của ngân hàng Nhà nước Việt Nam sau 10 năm đổi mới. Thực trạng và giải pháp Đại hội Đảng VI họp 1986 đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện mang tính chiến lược, mở đầu thời kỳ phát triển mới của đất nước. Bước khởi đầu đầy khó khăn này cũng chính là bước khởi đầu về cải cách hệ thống ngân hàng chuyển dần từ tập trung bao cấp sang hạch toán kinh doanh XHCN. Hai pháp lệnh ngân hàng được công bố vào ngày 24/5/1990 là cơ sở pháp lý cho hệ thống ngân hàng Việt Nam tiến hành một bước chuyển đổi mới cơ bản, chuyển sang hoạt động theo mô hình hai cấp. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là cơ quan quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng, là ngân hàng phát hành, đồng thời là ngân hàng của ngân hàng trên lãnh thổ Việt Nam. Qua một số năm thực hiện, hai pháp lệnh ngân hàng trên đã được tổng kết, nâng lên thành luật về ngân hàng được quốc hội thông qua và có hiệu lực thi hành từ 1/10/1998. Sau 10 năm đổi mới, bộ mặt của toàn ngành ngân hàng nói chung và ngân hàng Nhà nước Việt Nam nói riêng đã có rất nhiều thay đổi mới mẻ. Yêu cầu đổi mới đòi hỏi chúng ta phải nhìn nhận một cách đầy đủ và toàn diện về những gì đã thực hiện được và chưa làm được, cần đổi mới của ngân hàng Nhà nước. 1. Về mô hình tổ chức ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Điểm 1, điều 1 luật ngân hàng Nhà nước qui định “ngân hàng Nhà nước là cơ quan của chính phủ và là ngân hàng TW của nước CHXHCN Việt Nam”. Trên thực tế, ngân hàng Nhà nước được coi như một bộ đặc thù trong chính phủ. Trong hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam mô hình này có ưu điểm là thể hiện sự quan tâm, hỗ trợ của chính phủ, hoạt động ngân hàng cũng như phát huy vai trò của ngân hàng Nhà nước trong việc giúp đỡ đắc lực cho chính phủ. Nhưng mô hình này cũng có những hạn chế tương đối. Ngân hàng Nhà nước là thành viên của chính phủ nên ngân hàng Nhà nước không thể trực tiếp trình các dự án quản lý vĩ mô trước quốc hội mà phải thông qua chính phủ, hạn chế cũng thể hiện ở chỗ ngân hàng Nhà nước chưa thực sự chủ động trong việc thực thi chức năng của mình do sự can thiệp quá sâu đối với ngân hàng Nhà nước của các cơ quan, tổ chức. Về tổ chức chi nhánh theo qui định của luật ngân hàng Nhà nước , các chi nhánh ngân hàng Nhà nước tỉnh, thành phố được thành lập trên cơ sở địa giới hành chính. Hiện nay, ngân hàng Nhà nước Việt Nam có 61 chi nhánh tỉnh, thành phố trực thuộc TW và thực hiện các nghiệp vụ ngân hàng TW trên địa bàn. Tuy nhiên trên thực tế các chi nhánh chỉ tập trung vào 2 nhiệm vụ chủ yếu là kiểm tra, thanh tra các chi nhánh ngân hàng TM quốc doanh và cung cấp dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt và cung ứng tiền mặt. Ngoài ra, các chi nhánh ngân hàng Nhà nước có nhiệm vụ tham mưu về lĩnh vực tiền tệ- tín dụng- ngân hàng cho cấp uỷ và chính quyền địa phương. Ưu điểm của mô hình chi nhánh hiện nay là bảo đảm thông tin phục vụ cho hoạch định, điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng Nhà nước , góp phần quan trọng trong quản lý kinh tế địa phương và cung ứng đầy đủ tiền mặt cho các tổ chức tín dụng trong giao dịch với các đối tác trong hoạt độnghàng ngày. Tuy nhiên, mô hình này cũng bộc lộ một số nhược điểm, nhất là làm cho bộ máy ngân hàng Nhà nước khá nặng nề với biến chế đông. Một trong 2 hoạt động của các chi nhánh này là thanh tra, kiểm tra nhưng do chỉ thực hiện với các ngân hàng TMquốc doanh nên hiệu quả đạt được trong công tác này không cao. Như vậy vấn đề đặt ra là cần phải nới lỏng tự do cho ngân hàng Nhà nước , cho phép ngân hàng Nhà nước chủ động trong việc điều tiết lượng tiền cung ứng cho lưu thông tiền tệ, hạn chế sự can thiệp quá sâu của quá nhiều tổ chức vào hoạt động ngân hàng TW trong việc thực thi chính sách tiền tệ. -Hướng đổi mới mô hình tổ chức chi nhánh củangh Nhà nước trong thời gian tới là: vừa phải hình thành một số chi nhánh ngân hàng Nhà nước khu vực, trên cơ sở lựa chọn trong số các chi nhánh ngân hàng Nhà nước hiện nay, tăng chức năng, nhiệm vụ cho các chi nhánh ngân hàng Nhà nước khu vực: 2. Vấn đề xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ: Đây là nhiệm vụ trung tâm, là linh hồn của ngân hàng TW với tư cách là cơ quan quản lý Nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ của hệ thống ngân hàng 2 cấp. Để chính sách tiền tệ thực thi có hiệu quả, ngân hàng TW sử dụng hàng loạt công cụ như tái cấp vốn, lãi suất tín dụng, dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở ...mỗi loại này đều có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến lượng tiền cung ứng. Có thể nói thành công lớn nhất trong điều hành chính sách tiền tệ thời gian qua đặc biệt trong naưm 1999 là: Tuy trong bối cảnh giá vàng, tỷ giá các đồng mạnh như yên, USD,.. có nhiều biến động lớn, nhưng giá trị đồng Việt Nam vẫn ổn định. Mức dao động trên dưới 14000/1USD. Đây cũng là bước thay đổi trong cơ chế quản lý và điều hành tỷ giá, phản ánh khách quan sức mua của đồng Việt Nam so với ngoại tệ. Nhìn chung ngân hàng Nhà nước đã có những bước tiến rất đáng kể. *Thay đổi cơ chế điều hành lãi suất Bắt đầu từ 5/8/2000, ngân hàng Nhà nước đã chính thức chuyển sang cơ chế điều hành theo lãi suất cơ bản, các ngân hàng TM được chủ động quy định các mức lãi suất cho vay cụ thể của mình theo biên độ xoay quanh mức lãi suất cơ bản, trên cơ sở đó chủ động quy định các mức lãi suất tiền gửi. Theo cơ chế mới, hàng tháng ngân hàng Nhà nước công bố mức lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu. Trong các tháng 8,9,10,11 và 12/2000 lãi suất cơ bản đối với tiền đồng Việt Nam vẫn giữ nguyên ở mức 0,75%/tháng các ngân hàng TM được quy định mức lãi suất cho vay cụ thể xoay quanh biên độ 0,3% đối với cho vay ngắn hạn,0,5% đối với cho vay trung và dài hạnh. Lãi suất cho vay ngoại tệ dựa trên cơ sở lãi suất trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng Singapore kỳ hạn 3 tháng, cộng với biên độ 1% đối với cho vay ngắn hạn, 2,5% đối với cho vay trung và dài hạn. Lãi suất tái cấp vốn của ngân hàng Nhà nước được điều chỉnh từ 0,4%/tháng (từ 1/8) lên 0,5%/tháng (từ 1/11) và lãi suất tái chiết khấu tăng từ 0,4% lên 0,45%/tháng. Nếu so sánh với lãi suất cùng kỳ hạn 12 tháng của một số đồng tiền trên khu vực và thế giới thì có thể thấy lãi suất tiền gửi ở Việt Nam là vừa phải. Đó rõ ràng là một ưu việt của cơ chế mới về điều hành lãi suất có lợi cho sản xuất kinh doanh , đồng thời tạo ra sự lựa chọn tối ưu cho người gửi tiền. Lãi suất có tính cạnh tranh thực sự, các doanh nghiệp làm ăn có tín nhiệm, có vốn vay lớn được các ngân hàng TM quốc doanh cho vay với lãi suất chỉ có 0,62%-0,7%/tháng, tương đương 7,5-10%/năm thấp nhất trong hơn 10 năm qua và không chênh lệch nhiều so với lãi suất cho vay bản tệ ở nhiều quốc gia. Tuy nhiên cũng nảy sinh những bất hợp lý về cơ chế điều hành lãi suất mới. Biên độ lãi suất quá rộng, gây ra sự chênh lệch lớn giữa các đối tượng khách hàng. Do đó, không tạo ra sự cạnh tranh bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp, không thúc đẩy cải cách doanh nghiệp nhà nước . Đồng thời mối quan hệ giữa lãi suất nội tệ và lãi suất ngoại tệ không hợp lý, nên tạo điều kiện cho sự chuyển dịch từ đồng VN sang đôla Mỹ gây nên tình trạng đôla hoá nền kinh tế. Lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu chưa có tác động tới hoàn thiện lãi suất cơ bản. Cơ chế điều hành theo lãi suất cơ bản chưa có tác dụng tích cực thực sự vào quan hệ cung cầu vốn trên thị trường. Còn có tình trạng lúc thừa lúc thiếu vốn của các NHTM, trong mỗi hệ thống TCTD và giữa các vùng. Do đó, đồng thời với việc triển khai cơ chế lãi suất mới, NHNN theo dõi chặt chẽ diễn biến của kinh tế vĩ mô và thị trường tiền tệ xét thấy cần thiết có thể điều chỉnh các công cụ tiền tệ khác đảm bảo cho sự vận hành cơ chế lãi suất phù hợp với mục tiêu đề ra. Ngoài ra: -Tạo điều kiện cho các TCTD và khách hàng gửi vay vốn có thể lựa chọn lãi suất cố định hoặc lãi suất có điều chỉnh linh hoạt, có lợi cho các bên, khuyến khích TCTD mở rộng huy động và cho vay vốn trung và dài hạn. Riêng lãi suất cho vay bằng ngoại tệ tuy đã tiếp cận dần với thông lệ quốc tế nhưng sẽ thấp hơn mặt bằng thị trường quốc tế phủ hợp với cung cầu vốn ngoại tệ trên thị trường trong nước hiện nay, có lợi cho cả doanh nghiệp và NHTM, tạo điều kiện NHTM mở rộng cho vay vốn ngoại tệ, hạn chế việc gửi vốn ngoại tệ ở nước ngoài. -Tạo khuôn khổ linh hoạt cho các TCTD khi áp dụng lãi suất phù hợp với đặc điểm từng vùng và mức độ rủi ro trong thời hạn cho vay và đối tượng khách hàng nhưng NHNN vẫn kiểm soát được lãi suất. -Làm cho mối quan hệ lãi suất VNĐ- tỷ giá- lãi suất ngoại tệ linh hoạt hơn phản ánh được chính xác hơn cung cầu về vốn, ngoại tệ, tạo cơ sở cho NHNN khi cần thiết có thể can thiệp để ổn định thị trường. *Đột phá vào thị trường mở nhưng còn buồn tẻ: Thị trườngmở được ngân hàng Nhà nước chính thức khai trương và đưa vào hoạt động từ 7/7/2000 Đến nay nghiệp vụ thị trường mở đã đi vào ổn định, đạt được mục tiêu đề ra của việc sử dụng công cụ gián tiếp trong điều hành chính sách tiền tệ theo thông lệ quốc tế. Các giao dịch trên thị trường mở đã có tác động nhất định tới vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng và đã góp phần thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ, thúc đẩy chu chuyển vốn trong nền kinh tế, có tác động nhất định đến thị trường chứng khoán. Tuy chưa có kinh nghiệm thực tiễn nhưng các qui định về hoạt động thị trường mở đã ban hành trong thời gian qua là phù hợp với các tổ chức tín dụng,với điều kiện hiện nay và sát gần với thông lệ quốc tế. Ban điều hành nghiệp vụ thị trường mở của NHNN chỉ đạo bài bản và sát sao tới các hoạt động của thị trường. Hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở đã bộc lộ một số hạn chế. Về mặt khách quan, do hàng hoá của thị trường mở là các loại tín phiếu ngắn hạn chỉ tập trung vào một số các NHTM quốc doanh cho nên chưa thu hút nhiều các tổ chức tín dụng tham gia nghiệp vụ thị trường mở, vì vậy người ta cho rằng đây chỉ là thị trường của NHTM quốc doanh. Các phiên đấu thầu mua vào và bán ra các loại tín phiếu còn thời hạn ngắn có tính cạnh tranh cao, cả trên thị trường sơ cấp và thị trường mở nên các tổ chức tín dụng nhỏ không đủ điều kiện cạnh tranh với các TCTD với qui mô lớn. Vì thế, thị trường chưa thực sự sôi động, nếu không nói là buồn tẻ. Các thị trường khác của ngành ngân hàng như thị trường liên ngân hàng, thị trường mua bán lại tín phiếu giữa các TCTD với khách hàng chưa phát triển, thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc hoạt động chưa ổn định và chưa thu hút được đông đảo các TCTD tham gia nên cũng ảnh hưởng tới hoạt động thị trường mở. Mặt khác, do các TCTD chưa hiểu biết nhiều về thị trường này. Tuy nhiên, công tác tuyên truyền hướng dẫn đối với các TCTD để hiểu sâu về thị trường này còn hạn chế. Hệ thống máy móc thiết bị thông tin giữa trung tâm giao dịch của thị trường mở với một số TCTD còn có một số trục trặc chậm được khắc phục. Trình độ cán bộ ngân hàng còn hạn chế. Tính đến 18/12/2000 thị trường mở của NHNN đã tổ chức được 15 phiên giao dịch, với tổng khối lượng các loại tín phiếu mua bán trên thị trường này là 2,113 tỷ đồng, trong đó NHNN mua vào 2,563 tỷ đồng tín ra và bán ra 550 tỷ đồng tín phiếu. Lãi suất trúng thầu là 4,4 đến 5,78% /năm. Các thành viên tham gia chủ yếu là các NHTM quốc doanh, đứng đầu là NHCT Việt Nam. Hầu hết các NHTM cổ phần và chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh chưa tham gia thị trường. Để nghiệp vụ thị trường mở phát huy được vai trò tác động đến lượng tiền cung ứng: -NHNN phải tạo điều kiện cho các TCTD ngoài quốc doanh tham gia nghiệp vụ thị trường mở một cách thực sự, tạo cho họ một sân chơi bình đẳng, tức là giảm cho vay theo chỉ định, phân biệt rõ ràng tín dụng chính sách và tín dụng thương mại. Ngoài ra, cần tuyên truyền thường xuyên, sâu rộng cho các TCTD về nghiệp vụ này. -Cho phép nghiệp vụ thị trường mở được phép sử dụng các trái phiếu kho bạc đã phát hành khi chúng còn thời gian đáo hạn ngắn làm cho luân chuyển vốn đa dạng hơn. -Đa dạng hoá phương thức giao dịch. -Hoàn thiện thị trường liên ngân hàng. Trên đây là hai sự kiện thể hiện một bước tiến lớn trong việc thực thi chính sách tiền tệ của NHNN. Ngoài ra, NHNN còn thực thi chính sách dự trữ bắt buộc. Tuy nhiên, chính sách này tỏ ra kém hiệu quả mặc dù NHNN đã thực hiện với tần suất mạnh các lần điều chỉnh tỉ lệ dự trữ bắt buộc. Ví dụ như: năm 1999 tỷ lệ dự trữ bắt buộc được điều chỉnh 2 lần trong năm giảm từ mức 5% -7 % xuống còn 1%- 3% -5% (từ 1/9/99 ).Hạn chế ở chỗ NHNN Việt Nam không có khả năng kiểm soát chính xác sự biến động số dư dự trữ của hệ thống ngân hàng. Số dự trữ vượt mức của hệ thống ngân hàng biến động hàng ngày phụ thuộc vào mối quan hệ của nó với các chủ thể phi ngân hàng như quan hệ tiền mặt với công chúng, quan hệ vay mượn với chính phủ, hoặc với NHNN. Khả năng cập nhật thông tin và phương tiện kỹ thuật phụ trợ hiện tại làm hạn chế khả năng của NHNN trong việc kiểm soát và dự báo chính xác sự biến động mức dự trữ của hệ thống ngân hàng. Thực trạng trên cho thấy NHNN cần phải hoàn thiện hệ thống kiểm tra, giám sát các NHTM, mở rộng đối tượng NHTM phải thực hiện tỷ lệ dự trữ bắt buộc, xử phạt đối với những biểu hiện vi phạm. Đồng thời NHNN cần thực hiện các biện pháp thích hợp để có thể đưa ra tỷ lệ dự trữ phù hợp diễn biến và mục tiêu chính sách tiền tệ trong mỗi thời kỳ. Ngoài ra, NHNN thực hiện trả lãi cho các khoản dự trữ ngoài quy định. Các khoản tiền gửi dự trữ bắt buộc phải thật sự trở thành một khoản dự trữ an toàn của tất cả các ngân hàng và điều tiết khối lượng tiền cho lưu thông. 3. Về việc điều hành chính sách tỷ giá. Có thể nói việc thay đổi cơ chế điều hành tỷ giá là một bước tiến quan trọng có tính đột phá của chính phủ và NHTW để đưa hệ thống ngân hàng Việt Nam từng bước hội nhập quốc tế. Trước tháng 2 năm 1999 cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái ở Việt Nam là cơ chế can thiệp trực tiếp bằng cách ấn định chính sách tỷ giá chính thức với biên độ giao dịch ở thời điểm tương ứng có khi lên đến + 10%. Nhưng từ tháng 2/99, NHNN đã bãi bỏ việc công bố tỷ giá chính thức nói trên và thay vào đó là công bố tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Các NHTM được phép xác định tỷ giá mua và tỷ giá bán đối với đôla Mỹ không vượt quá biên độ 0,1% so với tỷ giá giao dịch thực tế bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng do NHNN công bố hàng ngày. Với cơ chế này tỷ giá hối đoái trên thị trường hoạt động một cách khách quan, phản ánh đúng hơn cung cầu về ngoại tệ ở trên thị trường. Thông qua việc can thiệp và công bố tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, NHNN đã điều chỉnh tăng tỷ giá giữa đồng VN và đôla Mỹ (USD) dần dần, đều đặn qua các phiên giao dịch, không gây ra các cú sốc về tăng đột biến tỷ giá, gây bất lợi cho các doanh nghiệp và thị trường. Trong các tháng cuối năm 2000 bình quân mỗi phiên giao dịch tỷ giá tăng từ 5-7 đồng/ 1USD. Đến cuối năm 2000, tỷ giá trên cả 3 thị trường đã tăng so với đầu năm như sau: Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng tăng 3,5%, thị trường mua bán của các NHTM tăng 3,4%, thị trường tự do tăng 3,3%. Mặc dù vậy mức mất giá của đồng VN vẫn thấp hơn mức mất giá của các đồng tiền khác trong khu vực so với đôla Mỹ. Tỷ giá VNĐ /USD liên tục tăng chậm dần trong năm. Bên cạnh đó lãi suất tiền gửi nội tệ giảm thấp, lãi suất tiền gửi ngoại tệ tăng cao. Do đó, người vay thì thích vay tiền đồng VN còn người gửi lại chọn đôla Mỹ để gửi. Do đó, lượng tiền gửi đôla Mỹ trong các NHTM ở Việt Nam tăng nhanh. Trong năm 2000, tốc độ tăng tiền gửi ngoại tệ gấp 3 lần tốc độ tăng tiền gửi VNĐ và chiếm khoảng 40% tổng số dư tiền gửi. Nền kinh tế lâm vào tình trạng đôla hoá, xuất hiện nghịch lý là trong khi nền kinh tế thiếu vốn, chính phủ và các doanh nghiệp phải đi vay vốn ngoại tệ ở nước ngoài trong khi các NHTM lại thừa vốn, đem gửi ngoại tệ cũng ở nước ngoài. Hiện tượng trên phải sớm được khắc phục tránh để tình hình diễn biến xấu thêm làm vô hiệu hoá chức năng điều tiết vĩ mô của NHNN như một số nước đã vấp phải. Muốn vậy, NHNN cần có cơ chế chính sách thích hợp để quản lý ngoại hối chặt chẽ hơn đồng thời tiến hành các biện pháp can thiệp nhằm thực hiện chế độ tỷ giá hối đoái hiện hành. -NHNN luôn xác định là một thành phần chủ chốt, thường trực của các giao dịch trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. -NHNN phân tách rõ ràng 2 chức năng: Đại diện cho nhà nước (thực hiện các giao dịch nhằm thanh toán các khoản thu chi của nhà nước và giao dịch tăng tích luỹ ngoại tệ theo mục tiêu) với chức năng can thiệp thị trường là nhằm điều chỉnh tỷ giá hối đoái trên thị trường. -NHNN phải không ngừng chú trọng việc xây dựng và tăng cường bộ khung của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng bằng việc tăng số lượng thành viên thị trường. -NHNN chỉ nên can thiệp vào thị trường ở tầm vĩ mô, không nên can thiệp sâu vào các nghiệp vụ mang tính kỹ thuật của thị trường. -Nâng cao năng lực các tác nhân tham gia thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. 4. Vấn đề phát hành tiền mặt và hoạt động thanh toán: Khi nền kinh tế bước vào thời kỳ chuyển đổi hệ thống hình thành ngân hàng 2 cấp, NHTW áp dụng chính sách tiền tệ thắt chặt chống lạm phát, áp dụng 2 hình thức thanh toán dùng tiền mặt và không dùng tiền mặt. Cùng với công nghệ thanh toán có tiến bộ song chưa đáp ứng được nhu cầu thanh toán không dùng tiền mặt. Để lưu hành tiền mặt thuận lợi, NHNN đã phát hành ngân phiếu thanh toán loại 500.000, 1.000.000, 5.000.000đồng có thời hạn thanh toán 6 tháng. Ngân phiếu thanh toán xuất hiện có nhiều điểm mạnh so với chi trả tiền mặt. Với mệnh giá lớn hơn tiền mặt nhiều lần nên vận chuyển gọn nhẹ dễ kiểm đếm. Nhưng ngân phiếu lưu thông có thời hạn vì vậy đi kèm với nó là nghiệp vụ thu đổi khi hết hạn. Nghiệp vụ này có ở cả NHNN và NHTM. Tính thời hạn cũng chỉ thuận lợi cho các đơn vị có tài khoản nhưng không muốn thanh toán bằng chuyển khoản mà dùng ngân phiếu thay cho tiền mặt để thanh toán nhanh, dễ kiểm đếm, giao nhận với lượng tiền giao dịch lớn. Tính phức tạp của thanh toán ngân phiếu đã đến lúc cần phải khắc phục. Vừa qua NHNN đã cho phát hành loại tiền mặt có mệnh giá 100.000 để thay thế dần ngân phiếu thanh toán. ở Việt Nam hiện nay, tỉ trọng thanh toán bằng tiền mặt còn khá cao: năm 1992 chiếm 39% , năm 1993 chiếm 45%, năm 1994 chiếm 42%, năm 1995 chiếm 34%, 1996 chiếm 33%, 1997 chiếm 30,8%,1999 chiếm 21,9%, so với tiền cung ứng M2. Thanh toán bằng tiền mặt thường được áp dụng cho các khoản chi trả giữa các doanh nghiệp lớn, đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước. Vì vậy, tăng tỉ trọng thanh toán không dùng tiền mặt không chỉ có ý nghĩa về mặt tiết kiệm tiền mặt, chi phí lưu thông mà còn giúp cho công tác quản lý tài sản của doanh nghiệp được tốt hơn. Trên cơ sở tài khoản tiền gửi mà các khoản thanh toán được thực hiện qua ngân hàng đã giúp doanh nghiệp và các cơ quan quản lý như bộ chủ quản, cơ quan thuế có điều kiện đẻ kiểm tra heo dõi doanh thu, chi phí, xác định kết quả kinh doanh chính xác. Đối với ngân hàng , tập hợp được một khối lượng vốn tiền gửi ổn định trong toàn bộ hệ thống vì giảm số dư tiền gửi của khách hàng này thì tăng số dư tiền gửi của khách hàng khác. Điều đó có ý nghĩa rất lớn trong việc xác định thành phần tiền cung ứng, nắm được nguồn vốn để đầu tư cho vay của hệ thống ngân hàng , đẩy nhanh tốc độ lưu thông tiền tệ. Nên trong thời gian tới ở nước ta cần có các giải pháp đẩy nhanh công tác thanh toán không dùng tiền mặt. Trước mắt cần phải : + Khai thác công nghệ thanh toán sẵn có trong các ngân hàng TM , cải tiến các hình thức thanh toán phù hợp với thực tiễn ở Việt Nam như phát triển thanh toán chuyển tiền điện tử, thẻ thanh toán để mở rộng cho nhiều đối tượng, đặc biệt là cá nhân. Phối kết hợp chặt chẽ hệ thống thanh toán trong từng ngân hàng. + Tiếp tục cải tiến thanh toán sec cá nhân tạo điều kiện chi trả giữa cá nhân có thu nhập từ các doanh nghiệpnn , cơ quan hành chính sự nghiệp, các tổ chức khác. + Cần có sự chỉ đạo thống nhất trong việc giảm thanh toán bằng tiền mặt. Ngân hàng Nhà nước cần có chính sách biện pháp hành chính thích hợp để giải toả tâm lý ưa thích dùng tiền mặt của người Việt Nam. Phần III: Đánh giá chung Sau 10 năm đổi mới, cùng với sự đi lên của toàn ngành ngân hàng Việt Nam, ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã không ngừng được củng cố và hoàn thiện phát huy vai trò người dẫn dắt góp phânf tích cực vào những thành tựu chung của công cuộc đổi mới, nổi bật là đẩy lùi lạm phát phi mã, ổn định giá trị đồng tiền, ổn định kinh tế vĩ mô, làm nòng cốt trong huy động vốn, phục vụ có hiệu quả cho nh cầu phát triển kinh tế – xã hội, xoá đói giảm nghèo, cải thiện đời sống nhân dân. Những thành tựu đó đạt được trong hoàn cảnh đầy khó khăn thử thách của cơ chế thị trường và nền kinh tế nước ta còn ở trình độ thấp, đang chuyển đổi, phải vừa học vừa làm, những năm gần đây lại bị thiên tai dồn dập, vừa phải chống đỡ với các tác động khá đậm nét và hết sức phức tạp của cuộc khủng hoảng tài chinhs khu vực. Có thể nói, để thực hiện được những bước đi như vừa qua, ngân hàng Nhà nước đã rất nỗ lực cố gắng. Tuy nhiên, do mới chuyển đổi mô hình và cơ chế hoạt động , còn thiếu hiểu biết và kinh nghiệm vận hành trong cơ chế thị trường nên hoạt động ngân hàng Nhà nước cũng còn những thiếu sót và bất cập cả về xây dựng khuôn khổ pháp lý, kiện toàn tổ chức, đào tạo cán bộ, chất lượng hiệu quả trong quản lý cũng như trong kinh doanh .. chưa đi kịp yêu cầu đổi mới phù hợp với kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, chưa phục vụ thật tốt và có hiệu quả cao cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và tiến trình hội nhập. Luật ngân hàng Nhà nước và các luật tổ chức tín dụng đã có hiệu lực từ ngày 1/10/1998, nhưng việc xây dựng các văn bản pháp quy để thi hành luật tuy có nhiều cố gắng nhưng vẫn còn chậm, thiếu đồng bộ, chưa hoàn chỉnh, một số chính sách, qui định không còn phù hợp chưa được sửa đổi, bổ sung kịp thời đã gây không ít khó khăn đối với việc nâng cao chất lượng tín dụng và hiệu quả hoạt động của các ngân hàng . Các công cụ chủ yếu của chính sách tiền tệ chậm được đổi mới. Công cụ quản lý hành chính trực tiếp không còn phù hợp và ít hiệu lực vẫn còn được sử dụng khá phổ biến. Các công cụ gián tiếp trong hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ còn rất sơ khai. Việc đổi mới sơ chế điều hành tỷ giá hối đoái từ đầu năm 1999 là một bước tiến quan trọng nhưng còn phải tiếp tục hoàn thiện để nâng cao tính linh hoạt và khả năng ứng phó với cơ chế thị trường đầy biến động, bất trắc. Cơ chế điều hành bãi suất còn mang năng tính hành chính trực tiếp và giản đơn. Việc xây dựng thị trường tiền tệ thứ cấp là một khâu then chốt của chính sách tiền tệ nhưng triển khai còn rất chậm. Hệ thống thanh toán giữa khách hàng với ngân hàng và hệ thống thanh toán liên ngân hàng (thanh toán bù trừ) đã góp phần nâng cao hiệu quả chu chuyển vón trong toàn bộ nên kinh tế , nhưng tình trạng thanh toán bằng tiền mặt vẫn còn khá phổ biến, làm cho việc điều hoà lưu thông tiền tệ và quản lý kho quĩ rất khó khăn, phân tán, tốn kém, ảnh hưởng rất lớn đến việc hiện đại hoá công ngân hàngệ ngân hàng và cấu trúc lại hệ thống. Cơ cấu tổ chức của ngân hàng Nhà nước chưa đáp ứng được yêu cầu hoạt động có hiệu lực của một hệ thống được quản lý tập trung thống nhất. Cơ chế điều hành theo thệ thống dọc vẫn còn khiêm khuyết. Các quan hệ ngang trên địa bàn lãnh thổ chưa được xử lý, phối hợp có hiệu quả. Sự phối hợp giưa ngân hàng Nhà nước và Bộ tài chính trong chính sách tài chính, tiền tệ có mặt còn thiếu chặt chẽ. Những hạn chế nói trên đã hần nào làm giảm hiệu lực quản lý, điều hành của ngân hàng Nhà nước , cản trở việc đổi mới công cụ chính sách tiền tệ về hệ thống thanh toán. Trình độ nghiệp vụ của cán bộ quản lý và viên chức ngân hàng nhìn chung chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển ngày càng cao của hệ thông ngân hàng ngày càng hiện đại và phải cạnh tranh gay gắt. Công tác đào tạo, bồi dưỡng, bố trí cán bộ còn nhiều thiếu sót. Một bộ phận cán bộ và viên chức ngân hàng thoái hoá biến chất, tham nhũng, hối lộ, tiếp tay cho kẻ xấu gây tổn thất lớn về tiền của Nhà nước và nhân dân. Một thời gian dài, công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động ngân hàng không được coi trọng đúng mức, chất lượng hiệu quả kém, thiếu nghiêm khắc trong việc xử lý các sai phạm. Điều đóđã tạo kẽ hở cho những vụ vi phạm pháp luật nghiêm trọng làm ảnh hưởng xấu đến nền tảng tài chính, độ an toàn và uy tín của cả hệ thống. Vai trò của tổ chức Đảng và Đảng viên trong ngành ngân hàng chưa được xây dựng và phát huy đúng mức, nhất là trong việc đấu tranh ngăn ngừa tiêu cực làm cho hệ thống ngân hàng thực sự lành mạnh, quán triệt và thực hiện có hiệu quả đường lối chủ trương của Đảng và Pháp luật của Nhà nước. Thực trạng nói trên đã phần nào phản ánh tính phức tạp của quá trình đổi mới hệ thống ngân hàng với không ít khó khăn khách quan và khuyết điểm chủ quan. Quán triệt đường lối của Đảng và yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nhận rõ thành tựu cũng như tồn tại yếu kém và nhiệm vụ chính trị được giao trong giai đoạn mới, đi liền với những thời cơ thuận lợi và khó khăn thách thức to lớn trong tiến trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, đòi hỏi hệ thống ngân hàng Việt Nam phải tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa công cuộc đổi mới một cách cơ bản, toàn diện, với bước đi khẩn trương, đồng bộ vững chắc. Khẩn trương hoàn thiện cơ chế chính sách và hệ thống các văn bản pháp quy để có đủ khuôn khổ pháp lý cần thiết cho việc thực hiện tốt luật ngân hàng Nhà nước và luật các TCTD, bảo đảm cho hệ thống ngân hàng hoạt động hiệu lực hiệu quả, năng động, an toàn. Đổi mới phương thức và thủ tục tín dụng theo hướng tạo thuận lợi và cơ hội bình đẳng cho các đơn vị và các hộ kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế có dự án đầu tư kinh doanh khả thi được vay vốn ngân hàng , nhất là trong lĩnh vực phát triển nông nghiệp nông thôn. Thực hiện chuyển đổi cơ bản về cơ chế điều hành lãi suất, cơ chế quản lý ngoại tệ, tiếp tục hoàn thành cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái, tích cực xây dựng và phát triển thị trường tiền tệ (cả nội tệ và ngoại tệ) tạo điều kiện vận hành các công cụ mới của chính sách tiền tệ phù hợp với cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Hiện đại hoá hệ thống công nghệ ngân hàng mà trọng tâm là nghiệp vụ thanh toán qua ngân hàng. Phát triển mạnh các côngcụ và dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt đối với dân cư và các doanh nghiệp. Từng bước nâng dần tỉ lệ tín dụng so với GDP nên ngang bằng các nước trong khu vực. Cải tiến mô hình tổ chức của ngân hàng Nhà nước ở TW và các chi nhánh, gắn liền với việc hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, đổi mới hệ thống nghiệp vụ và triển khai có hiệu quả các nghiệp vụ chủ yếu của NHNN phù hợp với yêu cầu của thực tiễn Việt Nam và thông lệ quốc tế. Tăng cường công tác thanh tra kiểm tra, giám sát hoạt động ngân hàng, trước hết tập trung vào những khâu trọng yếu như chất lượng tín dụng, quản lý rủi ro, đảm bảo khả năng thanh toán...Chấn chỉnh bộ máy tổ chức, cơ chế hoạt động và nâng cao chất lượng hiệu quả công tác của các cơ quan thanh tra, giám sát của NHNN. Xúc tiến nhanh và có hiệu quả các dự án hiện đại hóa công nghệ ngân hàng nhằm nâng cao năng lực quản lý, năng lực điều hành kinh doanh, phát triển các dịch vụ mới, xây dựng hệ thống thông tin thông suốt trong toàn hệ thống, cung cấp kịp thời và đầy đủ các tiện ích ngân hàng cho mọi doanh nghiệp và người dân có nhu cầu. Đẩy mạnh hơn nữa công tác đào tạo nâng cao trình độ kỹ năng mọi mặt của đội ngũ cán bộ viên chức ngân hàng , xem đây là một khâu then chốt quyết định thắng lợi trong quá trình đổi mới và hội nhập. Tích cực triển khai thực hiện tốt cuộc vận động chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết TW VI lần 2, nghiêm khắc kiểm điểm xử lý nghiêm minh những tổ chức và cá nhân có sai phạm; đồng thời rút ra những bài học phải trả giá đắt về những sai lầm khuyết điểm nghiêm trọng vừa qua, tăng cường vai trò của tổ chức Đảng, nâng cao phẩm chất năng lực và tinh thần chiến đấu của người cán bộ, Đảng viên nhất là đội ngũ cán bộ cốt cán. Kiên trì phấn đấu xây dựng hệ thống ngân hàng Việt nam trong sạch vững mạnh. Kết luận Em nghĩ rằng không quá ví von khi cho rằng kiến thức về NHNN thật là đồ sộ và những câu hỏi như: “NHNN phải làm gì?” luôn luôn được đặt trong két mà không có chìa khóa để mở. Điều đó đòi hỏi phải rất nỗ lực trong nghiên cứu lý luận và hoạt động thực tiễn. Là những sinh viên khoa ngân hàng đang trong giai đoạn nghiên cứu khởi đầu và tương lai sẽ là những cán bộ ngành ngân hàng em nhận thức được rằng mình phải thật cố gắng. Em rất tự hào rằng lớp sinh viên chúng em hôm nay đã nhận được sự tin tưởng của thày giáo và những người đi trước. Chúng em cũng tin rằng với những thành quả to lớn thế hệ trước để lại và những cố gắng nhiệt tình hết mình kết hợp với tri thức thế hệ mới chúng em sẽ đoàn kết đưa ngành ngân hàng nói riêng và kinh tế đất nước ngày càng phát triển . Tài liệu tham khảo Tạp chí: - Tạp chí ngân hàng - Tạp chí Tài chính doanh nghiệp Sách: - Tiền tệ, Ngân hàng, Thị trường tài chính - S.Mishkin - Công nghệ ngân hàng - Nguyễn Công nghiệp - NXB Thống kê - Ngân hàng với quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam - Ngân hàng Việt Nam quá trình xây dựng và phát triển - Ngân hàng trong nền kinh tế thị trường - Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Mục lục Trang Lời mở đầu 1 Phần I: Tổng quan về ngân hàng trung ương 2 I- Ngân hàng trung ương 2 II- Vai trò, chức năng của Ngân hàng trung ương 3 1. Ngân hàng trung ương là ngân hàng phát hành 3 2. Chức năng ngân hàng của các ngân hàng 4 3. Chức năng ngân hàng của Nhà nước 4 III- Các vấn đề cơ bản 5 1. Quyền phát hành giấy bạc 5 2. Chính sách chiết khấu 6 3. Chính sách thị trường mở 7 4. Chính sách dự trữ tối thiểu 7 5. Chính sách lãi suất tín dụng 8 Phần II: Hoạt động của ngân hàng Nhà nước Việt Nam hiện nay - thực trạng và giải pháp 10 I- Ngân hàng Nhà nước Việt Nam - những bước đi khởi đầu 10 II- Hoạt động của ngân hàng Nhà nước Việt Nam sau 10 năm đổi mới - thực trạng và giải pháp 11 1. Về mô hình tổ chức ngân hàng Nhà nước Việt Nam 12 2. Vấn đề xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ 13 3. Về việc điều hành chính sách tỷ giá 16 4. Vấn đề phát hành tiền mặt và hoạt động thanh toán 17 Phần III: Đánh giá chung 19 Kết luận Tài liệu tham khảo

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35102.doc
Tài liệu liên quan