Đề tài Hoạt động của NHTM trong quá trình hình thành và phát triển TTCK ở Việt Nam

Ngày 20/7/2000, thị trường giao dịch CK đầu tiên của Việt Nam chính thức đi vào hoạt động tại thành phố Hồ Chí Minh. Đối với Việt Nam, đây là một lĩnh vực mới. Nó là dấu ấn quan trọng đối với nền kinh tế thị trường non trẻ của nước ta. Tổ chức ra một TTCK không khó, cái khó là làm thế nào để thị trường đó có sức sống thực sự, phát huy được vai trò của nó. Một hệ thống NH vững chắc sẽ giúp cho TTCK đạt được mục tiêu này. NHTM Việt Nam bên cạnh những thành tựu đạt được còn nhiều hạn chế trong hoạt động , tổ chức và chưa thể đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi của công cuộc đổi mới đất nước trong giai đoạn mới, đặc biệt với đòi hỏi sớm cho ra đời TTCK hoạt động an toàn hiệu quả. Như thế, đổi mới hoạt động của các NHTM là một vấn đề hết sức cần thiết. Đề tài đã đưa ra một số yêu cầu nhằm đổi mới hoạt động NHTM trong quá trình hình thành phát triển TTCK. Những yêu cầu này nhằn xây dựng một hệ thống NHTM lành mạnh, hoạt động có hiệu quả, an toàn và có đủ khả năng tham gia TTCK. Đổi mới hoạt động của các NHTM đang là vấn đề đặt ra hết sức cấp thiết. Nhưng cũng cần nhận định rõ ràng, đây là vấn đề hết sức phức tạp mang tính hệ thống, nó liên quan đến hầu hết các ngành, các hoạt động trong nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên với những thuận lợi và thành tựu đạt được , cùng sự nỗ lực của các cơ quan chức năng , chúng ta có thể tin tưởng các NHTM sẽ được nâng cao chất lượng hoạt động, giữ vai trò tích cực, quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển TTCK ở nước ta hiện nay.

doc26 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1189 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoạt động của NHTM trong quá trình hình thành và phát triển TTCK ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ữ. Chứng khế được phát hành với một loại CK khác, cho phép người sở hữu nó được quyền mua cổ phiếu thường theo giá định trước gọi là giá đặt mua trong thời hạn nhất định. 1.2 Chức năng của TTCK a. Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế Khi các nhà đầu tư mua CK do các công ty phát hành, số tiền nhàn rỗi của họ đựơc đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh và qua đó góp phần mở rộng sản xuất xă hội. Bằng cách hỗ trợ các hoạt động đầu tư cho công ty, TTCK đã có những tác động quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Thông qua TTCK, chính phủ và chính quyền ở các địa phương cũng huy động được các nguồn vốn cho mục đích sử dụng và đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế, phục vụ các nhu cầu chung của xã hội b.Cung cấp môi trường đầu tư cho công chứng TTCK cung cấp cho công chúng một môi trường đầu tư lành mạnh với các cơ hội lựa chọn phong phú. Các loại CK trên thị trường rất khác nhau về tính chất, thời hạn, độ rủi ro, cho phép các nhà đầu tư có thể lựa chọn cho loại hàng hoá phù hợp với khả năng mục tiêu và sở thích của mình. Vì vậy TTCK góp phần đáng kể làm tăng mức tiết kiệm quốc gia. c.Tạo tính thanh khoán cho các CK Nhờ có CK các nhà đầu tư có thể chuyển đổi CK họ sở hữu thành tiền mặt hoặc các loại CK khác khi họ muốn. Khả năng thanh khoản (khả năng chuyển đổi thành tiền) là một trong những đặc tính hấp dẫn của CK đối với người đầu tư. TTCK hoạt động càng năng động và có hiệu qủa thì càng có khả năng nâng cao tính thanh khoản của các loại CK giao dịch trên thị trường. d. Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp Thông qua CK hoạt động của các doanh nghiệp được phản ánh một các tổng hợp và chính xác giúp cho viêc đánh giá và so sánh hoạt động của các doanh nghiệp được nhanh chóng và thuận tiện, từ đó cũng tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh nhằm năng cao hiệu quả sử dụng vốn, kích thích áp dụng công nghệ mới, cải tiến sản phẩm. e.Tạo môi trường giúp chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô. Các chỉ bảo của TTCK phản ánh động thái của nền kinh tế một cách nhạy bén và chính xác. Giá các CK tăng lên cho thấy đầu tư đang mở rộng, nền kinh tế tăng trưởng và ngược lại giá CK giảm sẽ thấy dấu hiệu tiêu cực của nền kinh tế. Vì thế TTCK được gọi là phong vũ biểu của nền kinh tế và là một công cụ quan trọng giúp chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô. Thông qua TTCK, chính phủ có thể mua và bán trái phiếu để tạo ra nguồn thu bù đắp thâm hụt ngân sách và quản lý lạm phát. Ngoài ra chính phủ cũng có thể sử dụng một số chính sách, biện pháp tác động vào TTCK nhằm định hướng đầu tư đảm bảo cho sự phát triển cân đối của nền kinh tế. 2. Mối quan hệ giữa NH với TTCK TTCK và hệ thống NH có mối quan hệ chặt chẽ và gắn bó hữu cơ với nhau. Rõ ràng TTCK chỉ có thể phát triển vững chắc trên cơ sở một hệ thống NH phát triển lành mạnh và ddược kiểm soát tốt. Mối quan hệ giữa NH với TTCK được thể hiện trên các mặt sau: TTCK chỉ có thể ra đời và phát triển trên cơ sở hệ thống tiền tệ ổn định. Đặc biệt là chỉ số lạm phát, tỷ giá và vấn đề lãi suất có ảnh hưởng rất lớn đến giá cả CK. Kinh nghiệm của Hong Kong cho thấy khi các nhà chức trách Hong Kong nâng lãi suất lên 200-300% để duy trì tỉ giá đã ảnh hưởng ngay đén TTCK làm cho giá CK bị giảm ghê gớm vào ngày 23/10/1997. TTCK có quan hệ chặt chẽ với hệ thống các thị trường vốn ngắn hạn như thị trường vốn tín dụng, thị trường hối đoái và thị trường tiền tệ. Các thị trường ngắn hạn này là địa bàn hoạt động và quản lý của các NH. Mối quan hệ giữa TTCK và thị trường ngắn hạn là mối quan hệ giữa vốn ngắn hạn và vốn dài hạn. Rõ ràng thị trường ngắn hạn hoạt động ổn định và không ngừng phát triển sẽ là tiền đề quan trọng cho sự phát triển của TTCK. Bởi vậy bất kỳ chính sách tiền tệ nào của NHTƯ sẽ tác động đến thị trường ngắn hạn và có ảnh hưởng đến thi trường vốn dài hạn. Các NHTM là những tổ chức đóng vai trò tích cực trong hoạt động kinh doanh CK dưới hình thức trực tiếp hay gián tiếp tuỳ theo từng nước. Bởi vậy hệ thống các NHTM hoạt động lành mạnh và được NHTƯ kiểm soát và giám sát chặt chẽ sẽ có ảnh hưởng lớn đến tính lành mạnh của TTCK. d) Hoạt động giao dịch mua bán trên thị trường tài chính cuối cùng đi đến việc thanh toán chuyển giao chứng khoán và tiền tệ. Quá trình thanh toán chỉ có thể thực hiện được thông qua hệ thống thanh toán của NHTM và cả NHNN. 3. Các nghiệp vụ của NHTM trên TTCK NHTM có vai trò rất quan trọng trong việc hình thành và phát triển TTCK cả đối với thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. Bởi vì, NHTM vốn là yếu tố quan trọng nhất trên thị trường tài chính, nó giữ vai trò trung gian huy động và cung ứng toàn bộ vốn cho nền kinh tế. NHTM với khả năng chuyên môn và quan hệ chặt chẽ với các doanh nghiệp cho nên chính NHTM là người hiểu rõ nhất thực trạng kinh tế tài chính, dự đoán các xu hướng phát triển kinh tế. Do đó, NHTM là người tư vấn đầu tư tài chính tốt nhất trên TTCK. Bên cạnh đó với nguồn vốn dồi dào, NHTM sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc bảo lãnh phát hành CK đối với cả người phát hành và người kinh doanh CK. Ngoài ra, với mạng lưới rộng khắp NHTM sẽ giúp cho việc giao dịch CK được dễ dàng, thuận tiện, tiết kiệm, tiếp cận được với đông đảo khách hàng. Cùng với hệ thống trang thiết bị kỹ thuật, NHTM có thể đảm bảo các thông tin kịp thời về TTCK đảm bảo việc thanh toán, lưu giữ CK và các quyền lợi khác cho các nhà đầu tư. Mặt khác, với uy tín hoạt động nhiều năm trên lĩnh vực đầu tư tài chính, NHTM đã thu hút được sự tín nhiệm của đông đảo khách hàng. Các doanh nghiệp và người dân đến với ngân hàng không còn bỡ ngỡ nghi ngại, mặc dù giao dịch CK là một nghiệp vụ mới của ngân hàng. Với vai trò vô cùng quan trọng trong việc hình thành và phát triển TTCK như trên, NHTM có thể tham gia tích cực vào hoạt động của TTCK với các nghiệp vụ sau: 3.1.NHTM là người trợ giúp đắc lực trong việc cung cấp hàng hoá cho TTCK. Hàng hoá của TTCK là các CK. Các CK tồn tại dưới hình thức như trái phiếu Chính phủ, trái phiếu NHTM, cổ phiếu của các công ty cổ phần, cổ phiếu của các doanh ngiệp Nhà nước cổ phần hoá.. Như vậy để tạo ra hàng hoá cho TTCK, việc đầu tiên là ngân hàng thúc đẩy quá trình cổ phần hoá các DNNN và hình thành các công ty cổ phần. NHTM mua cổ phiếu với một tỉ giá đáng kể và trực tiếp tham gia quản lý kinh doanh, tư vấn hoạt động tài chính của công ty. Đặc biệt NHTM còn tham gia hỗ trợ cho công ty lúc gặp khó khăn. Trong trường hợp này , tín dụng được chuyển thành cổ phần để duy trì hoạt động của công ty. NHTM thực hiện bảo lãnh phát hành CK trên thị trường sơ cấp. Các công ty gặp khó khăn khi tự mình phát hành CK do hạn chế về kinh nghiệm, trình độ và mạng lưới giao dịch. Vì thế họ dựa vào dịch vụ bảo lãnh phát hành của NHTM - người vốn có đủ uy tín kinh nghiệm. Khi thực hiện vai trò này, NHTM có thể giúp cho công ty lựa chọn loại CK phát hành, tư vấn về các vấn đề khác. Trong những trường hợp đậc biệt như số phát hành khá lớn, các NHTM có thể cùng nhau chia sẻ việc dự định số phát hành này nhằm giảm thiểu rủi ro. Bên cạnh đó, NHTM còn thực hiện chiết khấu các loại CK cho khách hành. Nhờ đó nâng cao tính thanh khoản của hàng hoá CK, hấp dẫn các cá nhân và tổ chức sẵn sàng mua KC trên thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. 3.2. NHTM là người môi giới có nhiều ưu thế nhất trên TTCK Người môi giới là thành viên quan trọng của TTCK. Xuất phát từ chức năng làm thủ quỹ cho các doanh nghiệp, các NHTM luôn là người am hiểu tường tận, nắm được thông tin đầy đủ chính xác về các công ty phát hành CK. Hơn nữa, NHTM có đội ngũ cán bộ, nhân viên ngân hàng có nghiệp vụ chuyên môn liên quan chặt chẽ với nghiệp vụ KC, có sẵn những phương tiện vật chất kỹ thuật cần thiết và phù hợp với người môi giới. Với ưu thế đó NHTM giúp khách hàng lựa chọn được những cơ hội đâu tư có lợi, tiết kiệm được chi phí giao dịch, xác định được thời điểm mua CK tốt nhất. Như thế nó mang lại lợi ích cho cả người mua và người bán CK, thúc đẩy TTCK hoạt động sôi động hơn, hiệu quả hơn. 3.3. NHTM cung cấp dịch vụ lưu trữ và quản lý chứng khoán Dịch vụ này được thực hiện theo hai cách : ngân hàng có thể giữ các CK được sử dụng như vật thế chấp cho khoản vay của khách hàng. Hay những cá nhân tổ chức có thể nhờ ngân hàng quản lý sinh lời tài sản của họ và giao các chứng khoán cho ngân hàng quản lý . Ngân hàng có thể bảo quản những CK này dưới nhiều hình thức khác nhau. Đồng thời, khách hàng cũng có thể yêu cầu NHTM thực hiện những dịch vụ liên quan đến CK như thu hồi vốn các CK đáo hạn, thu lãi cổ tức và ghi có vào tài khoản của họ ... Vai trò này xuất phát từ chức năng trung gian tài chính của NHTM . Cũng như vai trò của người môi giới, việc thực hiện vai trò này đem lại cho NHTM nguồn thu đáng kể đồng thời giúp cho người mua bán CK giảm khoản chi phí, thời gian, tăng độ an toàn và được hưởng những lợi nhuận cao hơn nhờ vào kinh nghiệm và chuyên môn của NHTM 3.4. NHTM thực việc thanh toán các chứng khoán Đây là nhiệm vụ thanh toán tiếp nối dịch vụ quản lý CK của NHTM. Ngân hàng có thể mở tài khoản cho khách hàng của mình để theo dõi việc mua bán, chuyển nhượng CK của khách hàng bao gồm cả việc thu lãi thu cổ tức. Như vậy, NHTM đã góp phần làm cho hoạt động trên TTCK được dễ dàng thuận lợi hơn, Bởi các đối tượng tham gia TTCK (người mua bán, môi giới) sẽ không phải quan tâm đến lưu trữ và theo dõi mua bán một số lượng cổ phiếu, trái phiếu rất lớn hàng ngày. Các NHTM đã đảm đương công việc này cho họ . 3.5. NHTM tham gia tích cực vào việc định giá hàng hoá trên TTCK. ở thị trường chính thức ( sở giao dịch chứng khoán) và thị trường bán tập trung thì mọi việc mua, bán CK đều được thực hiện qua người môi giới. Còn thị trường vô hình chỉ là bộ phận nhỏ. Do vậy có thể nói giá CK trên thị trường là do nhà môi giới quyết định qua các cuộc đấu giá hay thương lượng. Kết quả đấu giá hay thượng lượng này tuỳ thuộc vào từng thời điểm, cung cầu các loại CK đó trên thị trường và kinh nghiệm, thực lực của các nhà môi giới, mà NHTM là người môi giới có uy tín nhất trên thị trường. Do đó NHTM trực tiếp tham gia và có ảnh hưởng tới việc định giá CK trên TTCK. Trên đây ta đã thấy rõ vai trò của NHTM đối với sự hình thành và phát triển TTCK ở những nước có nền kinh tế thị trường. Đồng thời TTCK cũng tạo điều kiện để NHTM phát triển các dịch vụ của mình , đáp ứng nhu cầu ngày càng lớn đa dạng của nền kinh tế. Sụ tham gia của NHTM vào TTCK đã làm mờ đi ranh giới giữa hệ thống ngân hàng chuyên doanh và hệ thống ngân hàng đa năng. 3.6.NHTM thực hiện nghiệp vụ đầu tư trên TTCK. NHTM đã huy động được vốn thì phải cho vay kiếm lời. Đây là hoạt động mang lại nguồn lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng, nhưng cũng có rất nhiều rủi ro (ngân hàng có thể bị mất vốn hoặc thu hồi vốn không đầy đủ, có khách hàng không có ý thức trả nợ, hoặc không có khả năng trả nợ...). Chính vì vậy, với mục đích phân tán rủi ro ngân hàng có thể dùng vốn của mình để đầu tư CK ở những công ty có triển vọng thu lợi nhuận cao. Vì ngân hàng có được những thông tin chính xác về tình hình làm ăn của công ty, kết hợp với sự phân tích và tài phán đoán về triển vọng của công ty trong tương lai sẽ giúp cho ngân hàng có được sự lựa chọn đúng đắn mua CK cho chính mình. II. NHTM với sự ra đời và hoạt động của TTCK việt nam 1. Tính tất yếu của việc hình thành và phát triển TTCK ở Việt Nam Sau hơn 10 năm đổi mới nền kinh tế nước ta đã có sự thay đổi căn bản, từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế của nhà nước. Nền kinh tế đã đạt được những thành tựu nhất định, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện . Hiện nay, chúng ta đang tập trung mọi nguồn lực để thực hiện công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Nhu cầu vốn lúc này rất lớn và cấp bách. Nhưng vấn đề đặt ra là có thể huy động vốn từ những nguồn nào? Có thể trông chờ vào vốn vay từ nước ngoài ( vốn ODA, vốn vay thương mại ...) vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài ( FDI ). Nhưng huy động vốn từ những nguồn này còn nhiều hạn chế như phụ thuộc nặng nề vào kinh tế thế giới và gánh nặng nợ nước ngoài, sử dụng vốn FDI cũng chỉ hướng vào một số lĩnh vực và hạng mục công trình. Do đó để chủ động tạo ra nhiều vốn đầu tư thì vẫn phải từ nội bộ nền kinh tế là chủ yếu. Nhưng không trông chờ nhiều từ nguồn ngân sách nhà nước vì ngân sách nhà nước thường xuyên bị thâm hụt. Việc phát hành công trái không thành công do lãi suất thấp, do dân chúng chưa quen. Phát hành trái phiếu kho bạc, trái phiếu công trình ( như đường dây 500KV) và trái phiếu của các ngân hàng quốc doanh tuy lãi suất cao nhưng bị hạn chế bởi khả năng luân chuyển. Do đó người dân vẫn còn ngần ngại trong đầu tư. Hơn nữa hệ thống ngân hàng tuy đã được đổi mới nhưng tính độc quyền còn cao, cạnh tranh kém, dịch vụ nghèo nàn chưa thực hiện hết các chức năng của mình nên chưa đủ khả năng thu hút vốn nhàn rỗi trong các cá nhân, tổ chức. Ngoài ra, xuất phát từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, bị chiến tranh tàn phá, để thực hiện CNH-HĐH thì rất cần vốn trung và dài hạn để đầu tư xây dựng vật chất kỹ thuật, đầu tư cho phát triển công nghệ. Những vấn đề trên đặt ra nhu cầu cấp thiết tiến tới hình thành TTCK ở nước ta hiện nay. TTCK sẽ là một kênh huy động vốn trung và dài hạn hữu hiệu tận dụng nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư. TTCK ra đời nó sẽ tạo điều kiện cho việc phát hành công trái, trái phiếu kho bạc nhà nước, trái phiếu ngân hàng ...Đồng thời là cửa ngõ thu hút vốn đầu tư nước ngoài, điều chỉnh cơ cấu kinh tế Mặt khác, sau khi chấp nhận nền kinh tế nhiều thành phần, khu vực tư doanh được mở rộng, luật công ty đã được ban hành ( năm 1990 ). Theo luật này, công ty cổ phần được phát hành cổ phiếu và trái phiếu - là những mặt hàng cung cấp cho TTCK. Nếu có được một TTCK thì việc mua bán chứng khoán sẽ dễ dàng hơn, sẽ đưa vốn vào đầu tư sản xuất tốt hơn. Hơn nữa, việc phát triển TTCK ở Việt Nam gắn liền với việc cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước. Chính phủ đã có chủ trương ban hành nghị định 44/1998- NĐ-CP ngày 29/6/1998 về việc cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước để tăng hiệu quả kinh tế. Nhưng tiến độ cổ phần hoá diễn ra rất chậm. Đến hết năm 1999 chúng ta dự kiến cổ phần hoá 400 DNNN, và trong chỉ thị số 20/1998/CT-TTG qui định đến hết năm 2000 sẽ chuyển khoảng 20% tổng số DNNN tức là khoảng 1200 đơn vị thành công ty cổ phần. Đến nay chúng ta mới thực hiện được 370 doanh nghiệp. Do đó việc thành lập TTCK sẽ giúp đẩy nhanh tiến độ cổ phần hoá. Và ngược lại cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước sẽ tạo hàng hoá cho TTCK. Bên cạnh đó, còn có một số yếu tố thuận lợi giúp đẩy nhanh quá trình hình thành và phát triển TTCK Việt Nam. Đó là các yếu tố như: Nước ta có chế độ chính trị - xã hội ổn định. Nền kinh tế từ khi đổi mới có nhiều chuyển biến và đạt được một số thành tựu to lớn, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện, có điều kiện nâng cao tích luỹ, lạm phát giảm và giữ ở mức một con số trong những năm gần đây. Đây là những điều kiện thuận lợi cho việc phát triển TTCK. Hơn nữa, nước ta là nước đi sau nên có thể tiếp thu khoa học tiên tiến của thế giới, có thời cơ và điều kiện để rút kinh nghiệm bổ sung những khiếm khuyết từ mô hình TTCK của các nước. Chúng ta đang từng bước xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật: đã ban hành luật công ty, Luật doanh nghiệp tư nhân, Luật đầu tư nước ngoài có bổ sung, hoàn thiện, bước đầu đã có sức hấp dẫn và thu hút đầu tư trong và ngoài nước. Từ 1988, nhất là từ khi hai pháp lệnh ngân hàng ra đời năm 1990, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã có sự thay đổi về chất, từ hệ thống ngân hàng một cấp thành hệ thống ngân hàng hai cấp với mạng lưới rộng khắp. Các NHTM bao gồm NHTM quốc doanh, Ngân hàng tư nhân, ngân hàng cổ phần, ngân hàng liên doanh. Ngoài ra còn có mạng lưới các quỹ tín dụng được tổ chức ở cấp xã, phường. Thị trường liên ngân hàng ra đời làm tăng khả năng huy động vốn, tăng khả năng cạnh tranh của các NHTM. Các NHTM phải tự chủ tài chính, phát triển các nghiệp vụ kinh doanh và ngày càng có nhiều kinh nghiệm hoạt động và kinh doanh tiền tệ trong nền kinh tế thị trường. Bên cạnh đó các NHTM cũng đã phát hành một số loại kỳ phiếu ngân hàng với các kỳ hạn và lãi suất khác nhau tức là đã tạo ra hàng hoá cho thị trường chứng khoán. Cùng với các NHTM, hệ thống kho bạc nhà nước cũng đã được củng cố về mạng lưới và nghiệp vụ. Những năm gần đây, kho bạc nhà nước đã tiến hành phát hành nhiều đợt tín phiếu kho bạc. Nhờ những kinh nghiệm thu được, kho bạc sẽ là người phát hành một khối lượng lớn công trái - một bộ phận quan trọng trong thị truường trái phiếu. Cũng do đổi mới, nền kinh tế nước ta là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần với sự đa dạng hoá các hình thức sở hữu, các loại hình kinh doanh. Điều đó cho phép giải phóng mọi năng lực sản xuất kinh doanh, huy động tối đa và có hiệu quả nguồn lực cho công cuộc xây dựng đất nước. Nhiều công ty cổ phần và liên doanh đã ra đời với việc đẩy mạnh tiến trình cổ phần hoá DNNN. Điều này cho phép tạo ra ngày càng nhiều hàng hoá cho TTCK ( cổ phiếu và trái phiếu công ty ). Như vậy , xuất phát từ kinh nghiệm của các nước có nền kinh tế thị trường phát triển và nhu cầu thực tiễn ở nước ta, việc hình thành TTCK không những thúc đẩy tiết kiệm trong nước, điều chỉnh cơ cấu kinh tế, thúc đẩy cổ phần hoá DNNN mà còn thúc đẩy vốn đầu tư nước ngoài. Dó đó TTCK Việt Nam ra đời là một tất yếu khách quan. 2. Hoạt động của các NHTM Việt Nam nhằm thúc đẩy sự hình thành và phát triển TTCK. TTCK Việt Nam ra đời là một tất yếu khách quan, đáp ứng nhu cầu đổi mới CNH-HĐH đất nước trong điều kiện hiện nay. Trên cơ sở lý thuyết và kinh nghiệm thực tiễn của các nước cho thấy vai trò đắc lực bậc nhất của các NHTM trong quá trình hình thành và phát triển TTCK, NHTM Việt Nam đã và đang có những đóng góp gì trong việc hình thành và phát triển TTCK ở Việt Nam? Đứng trước yêu cầu cấp thiết đó các NHTM Việt Nam đã và đang tích cực đổi mới về mọi mặt. NHTM đã sử dụng vốn huy động của mình mua công trái quốc gia với số lượng lớn ( 2550 tỷ đồng trong đợt phát hành vừa qua ) và tham gia đấu thầu mua trái phiếu kho bạc ( trong 8 tháng đầu năm 1999 mua trên 2000 tỷ đồng). Qua đó chúng ta nhận thấy NHTM đã tham gia tích cực vào TTCK với tư cách là người mua. Bên cạnh đó, các NHTM chính phủ, ngân hàng liên doanh đã phát hành cổ phiếu để gọi vốn cổ phần từ các cổ đông trong và ngoài nước với mục đích tạo vốn điều lệ. Điển hình là NHTMCP A Châu, ngân hàng First Vina Bank. Đặc biệt ngân hàng đã ban hành quyết định 529 TC- QĐ/TCDN có hiệu lực từ 16/8/1997 cho phép phát hành loạt tờ cổ phiếu thống nhất trên toàn quốc. Điều này làm tăng tính hấp dẫn của cổ phiếu, tạo hàng hoá cho TTCK. Theo mô hình TTCK mà Uỷ ban chứng khoán Nhà nước quy định trong Nghị định 48/1998/CP ngày 11/7/1998 thì hạt nhân cơ bản của Trung tâm giao dịch chứng khoán là các công ty CK. Công ty chứng khoán là một loại định chế tài chính đặc biệt gắn liền với hoạt động CK trên TTCK. Công ty chứng khoán vừa là cầu nối giữa người đầu tư và người phát hành, vừa cung cấp một số hoặc tất cả các nghiệp vụ chứng khoán như môi giới tư doanh, bảo lãnh phát hành... tuỳ theo khả năng tài chính của mình. Trước yêu cầu đó, với tư cách là cơ quan quản lý Nhà nước đối với các NHTM, NHNN có vai trò quan trọng đối với sự ra đời của các công ty chứng khoán, thể hiện trước hết ở việc ban hành các điều kiện thành lập các công ty chứng khoán của NHTM. Điều kiện đầu tiên là số vốn điều lệ tính đến ngày nộp hồ sơ xin phép thành lập công ty chứng khoán của NHTM, với điều kiện này có rất nhiều NHTM trong tổng số >50 NHTM có đủ điều kiện. Điều kiện thứ hai rất quan trọng là tỷ lệ nợ quá hạn trung bình phải dưới 5% tổng dư nợ. Điều kiện thứ ba là tỷ lệ an toàn vốn đạt trên 5% hoặc lãi trước thuế trên vốn điều lệ từ 20% trở lên. Cho đến nay, UBCKNN đã chính thức cấp giấy phép cho ba công ty chứng khoán thuộc NHTM trên tổng số sáu công ty đó là: Công ty chứng khoán NHĐT&PT Việt Nam ( vốn điều lệ là 55 tỷ đồng ), được phép thực hiện cả năm nghiệp vụ: Môi giới, tư doanh, bảo lãnh phát hành, quản lý danh mục đầu tư, tư vấn đầu tư. Công ty chứng khoán NHTM CP A Châu ( vốn điều lệ 43 tỷ đồng), và NHTM cổ phần Quân đội thành lập công ty chứng khoán TNHH Thăng Long có vốn điều lệ là 9 tỷ đồng, được thực hiện các loại hình: Môi giới, quản lý danh mục đầu tư, tư vấn đầu tư. Đồng thời, theo kế hoạch triển khai của UBCKNN, các NHTM quốc doanh khác được phép thành lập các công ty chứng khoán trực thuộc , các NHTM cổ phần sẽ thành lập công ty chứng khoán nếu có đủ điều kiện. Như vậy tuy không phải là những công ty chứng khoán duy nhất, song các công ty chứng khoán do NHTM thành lập là người tiên phong trên TTCK non trẻ của Việt Nam. Điều này xuất phát từ nhiều ưu thế vượt trội của các NHTM so với các doanh nghiệp khác về vốn, mạng lưới chị nhánh và khách hàng, đội ngũ nhân viên được đào tạo quy củ, trình độ quản trị điều hành, cơ sở vật chất kỹ thuật tương đối đầy đủ, thanh toán cập nhật...Trong thời gian tới, với những đổi mới vững chắc như hiện nay sẽ có nhiều NHTM tham gia vào TTCK. Bên cạnh đó, các NHTM đã tích cực đào tạo đội ngũ nhân viên yêu nghề, giỏi về nghiệp vụ chứng khoán, không ngừng nâng cấp mua sắm nhiều trang thiết bị hiện đại sẵn sàng tham gia hoạt động trên TTCK. 3. Một số vấn đề còn tồn tại trong quá trình hoạt động TTCK Việt Nam. Mặc dù còn quá ít thời gian để TTCK Việt Nam có thể khẳng định được vai trò của mình trong đời sống kinh tế, nhưng dù sao cũng cần phải thấy rằng, những diễn biến của TTGDCK TP.HCM thời gian qua đã bộc lộ khá nhiều yếu kém. Nền kinh tế của chúng ta chưa thực sự ổn định, hiệu quả kinh tế thấp, tỷ lệ tích luỹ đầu tư còn nhỏ. Năn 1999 tỷ lệ tăng trưởng GDP chỉ đạt 4.8%. Năng suất lao động thấp, chất lượng sản phẩm còn kém sức cạnh tranh, hàng hoá còn ứ đọng nhiều. Lưu thông tiền tệ chưa thông suốt, quản lý yếu kém, nhiều sơ hở, chưa đẩy lùi được tệ tham nhũng, lạc hậu... Hệ thống pháp luật tuy đã được củng cố, bổ sung nhưng còn rất yếu, chưa đồng bộ và kém hiệu lực, trong khi hoạt động của TTCK đòi hỏi một hệ thống pháp luật chặt chẽ và ý thức chấp hành pháp luật cao. ở nước ta, một văn bản qui phạm pháp luật cao nhất nhằm điều chỉnh hoạt động của TTCK mới được dự thảo là pháp lệnh về chứng khoán và TTCK và cho đến nay vẫn chưa được ban hành. Hoạt động của TTCK liên quan trực tiếp đến luật ngân hàng và các tổ chức tín dụng, luật TTCK, luật dân sự , luật đầu tư....Việc soạn thảo và thi hành luật của ta còn gặp nhiều khó khăn do các nhà làm luật không am hiểu nghiệp vụ kinh tế nói chung và nghiệp vụ TTCK nói riêng, ngược lại các nhà kinh tế lại không nắm vững luật. Bên cạnh đó ý thức chấp hành luật còn thấp. Ngiêm trọng hơn là việc thi hành pháp luật không nghiêm minh dẫn tới nhiều hậu quả tiêu cực và giảm sút lòng tin . TTCK là nơi diễn ra các hoạt động phức tạp , xử lý lượng thông tin khổng lồ đòi hỏi sự chính xác và tốc độ cao nên phải được trang bị những thiết bị hiện đại, cơ sở vật chất đầy đủ, điều kiện của ta chưa thể đáp ứng được. Bên cạnh đó chúng ta chưa có hệ thống kế toán hoàn chỉnh theo tiêu chuẩn quốc tế. Công tác kiểm toán còn mới mẻ, số lượng công ty kiểm toán còn ít, do đó việc đánh giá tài chính của các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn. Điều này dẫn tới việc thiếu các thông tin chính xác, kịp thời, nhạy cảm đáp ứng cho yêu cầu vốn rất khắt khe của TTCK. Về trình độ nhận thức của con người: hầu hết mọi người dân Việt Nam hiểu biết rất ít về các loại chứng khoán và hoạt động của TTCK. Các quan chức, các nhà kinh tế, những người tham gia tích cực, chủ yếu vào sự hình thành và phát triển TTCK thì hầu như mới tiếp cận TTCK về mặt lý thuyết chứ chưa có kinh nghiệm thực tiễn nên gặp rất nhiều khó khăn. Do đó yêu cầu đặt ra hiện nay là phải có kế hoạch đào tạo, phổ biến kiến thức về TTCK cho dân chúngvà đặc biệt là nâng cao trình độ các cán bộ, nhân viên tham gia trực tiếp vào hoạt động TTCK. Hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng tuy đã có những bước tiến căn bản nhưng chưa sẵn sàng tham gia vào TTCK. Các NHTM Việt Nam hiện nay hầu hết chỉ thực hiện các nghiệp vụ truyền thống (chủ yếu là huy động vốn và cho vay) công nghệ ngân hàng yếu kém, lạc hậu dịch vụ nghèo nàn. Đội ngũ cán bộ chưa hoàn toàn thích nghi với cơ chế thị trường, chưa có đủ năng lực và trình độ tham gia vào TTCK. Sự yếu kém về kinh nghiệm và trình độ của hệ thống ngân hàng thể hiện rất rõ qua các đợt phát hành trái phiếu của NHTM vừa qua. Hầu hết mới chỉ dừng lại ở mục tiêu huy động vốn mà không tính tới khả năng kinh doanh của những người đầu tư ngay trong các đợt phát hành đó. Hơn nữa các NHTM chưa có sự phối hợp cần thiết trong việc làm đại lý phát hành cho nhau nên chi phí phát hành rất tốn kém. Với thực trạng hiện nay, các NHTM cần phải đổi mới nhiều mới có thể tham gia vào TTCK và phát huy vai trò tích cực của nó đối với TTCK. Một khó khăn nữa đề cập ở đây là hàng hoá cho TTCK. Số lượng các công ty cổ phần của ta còn quá ít. Thêm vào đó hiệu suất kinh doanh kém, hàng hoá kém sức cạnh tranh nên ứ đọng nhiều. Tiến trình cổ phần hoá các DNNN diễn ra rất chậm do nhận thức của công chúng, do nhận thức tâm lý của những người lãnh đạo DNNN, do công tác đánh giá tài sản gặp nhiều khó khăn và sự vắng bóng của một TTCK thực sự. Không những số lượng công ty ít ỏi mà việc bán cổ phiếu của công ty cũng chỉ diễn ra trong phạm vi hẹp chưa rộng rãi cho toàn dân chúng. Khả năng lưu thông bán lại các cổ phiếu đó chưa có. Thêm vào đó, chúng ta chưa có phương pháp xác định chất lượng công ty nên sự hiểu biết khả năng cung cấp thông tin về các công ty là hạn chế. Vì thế không tạo được cơ sở, sự tin tưởng không hấp dẫn công chúng mua bán cổ phiếu. Như vậy, cổ phiếu công ty - loại hàng hoá quan trọng trong TTCK- không những ít về số lượng mà còn kém về khả năng lưu thông. Những khó khăn nêu trên một phần là do những bất cập còn tồn tại trong hoạt động của hệ thống NH. Các NHTM trong những năm qua đã đạt được những thành tựu nhất định như huy động vốn phục vụ có hiệu quả cho nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, xoá đói giảm nghèo, cải thiện đời sống nhân dân... Nhưng do thiếu hiểu biết và kinh nghiệm vận hành trong kinh tế thị trường nên trong NHTM vẫn chứa đựng những yếu tố chưa lành mạnh, vững chắc và an toàn. Luật ngân hàng nhà nước và luật các tổ chức tín dụng đã có hiệu lực từ 1/10/1998 nhưng việc xây dựng các văn bản pháp quy để thi hành luật vẫn còn chậm, thiếu đồng bộ, một số chính sách, quy định không còn phù hợp chưa được sửa đổi bổ sung kịp thời cũng đã gây nhiều khó khăn đối với hoạt động ngân hàng. Cụ thể vấn đề như thế nào chúng ta có thể xem xét trên từng lĩnh vực. a. Cơ cấu tổ chức , cán bộ: Sau đổi mới năm 1988, các NHTM đã phát triển với mạng lưới rộng khắp. Đến giữa năm 1998, các NHTM đã có một số lượng thành viên đáng kể: 4 NHTM quốc doanh với trên 200 chi nhánh trực thuộc, trên 600 chi nhánh cấp huyện và hàng ngàn phòng giao dịch, quỹ tiết kiệm, chi nhánh cấp 4, 61 NHTM cổ phần. Ngoài ra còn có 4 ngân hàng liên doanh và trên 200 văn phòng đại diện, chi nhánh của các ngân hàng nước ngoài. Đây là điều kiện rất tốt để đưa hoạt động ngân hàng phục vụ ngày một tốt hơn nhu cầu đa dạng của đông đảo quần chúng ở mọi địa bàn. Tuy nhiên việc thành lập các ngân hàng theo địa giới hành chính đang làm giảm tính khách quan và độc lập trong hoạt động của nó, các ngân hàng khu vực lại chưa được hình thành. Thêm vào đó các quan hệ trên địa bàn lãnh thổ chưa được xử lý, phối hợp có hiệu quả. Các chi nhánh ngân hàng nước ngoài hình thành quá nhanh và nhiều đã cạnh tranh với ngân hàng trong nước. Năm 1999 chúng ta đã có nhiều nỗ lực trong sắp xếp lại mạng lưới góp phần đẩy mạnh việc lành mạnh hoá hệ thống ngân hàng, điều này thể hiện rất rõ trong việc đóng cửa và cơ cấu lại khu vực NHTM cổ phần. Đầu năm 1999, NHNN đã đệ trình chính phủ kế hoạch cơ cấu và lành mạnh hệ thông NHTM cổ phần, trong đó xác định rõ 10 ngân hàng thuậc loại yếu và không có khả năng trả nợ. Trên cơ sở đó, NHNN đã từng bước tiến hành sắp xếp mạng lưới tổ chức của hệ thống này. Đến nay có 5 ngân hàng bị rút giấy phép hoạt động, trong đó có một ngân hàng được mua lại và 2 ngân hàng được sát nhập với các NHTM cổ phần khác. Vấn đề con người trong các NHTM hiện nay cũng tồn tại nhiều bất cập Hầu hết cán bộ nhân viên nghiên cứu đã được đào tạo nhưng chưa thể đáp ứng nhu cầu phát triển ngày càng cao cuả hệ thống ngân hàng ngày càng hiện đại và cạnh tranh gay gắt. Một số nguyên nhân đó là, công tác đào tạo, bồi dưỡng bố trí cán bộ còn nhiều thiếu sót nên khả năng thích ứng nhanh với cơ chế thị trường chưa cao, trình độ nghiệp vụ còn thấp, một bộ phận cán bộ và viên chức ngân hàng thoái hoá, biến chất, chế độ chính sách nhà nước... Thêm vào đó trong một thời gian dài, công tác thanh tra kiểm tra, giám sát hoạt động ngân hàng không được coi trọng đúng mức, chất lượng hiệu quả kém, thiếu nghiêm minh trong xử lý các vụ vi phạm, điều này đã tạo kẽ hở dẫn đến những vụ vi phạm nghiêm trọng làm ảnh hưởng xấu đến hoạt động của các NHTM nói riêng và hệ thống tài chính nói chung. b. Hoạt động kinh doanh tiền tệ Nhìn chung, năng lực điều hành kinh doanh trong cơ chế thị trường của các NHTM còn nhiều bất cập, nặng nề nghiệp vụ truyền thống, các nghiệp vụ mới chậm được áp dụng nên số lượng ít ỏi và chất lượng chưa cao. Thêm vào đó là sự can thiệp hành chính còn nhiều vào các hoạt động kinh doanh tiền tệ của các NHTM, mức độ độc quyền cao ( các NHTM quốc doanh luôn chiếm trên 75% tỷ phần trong cả hoạt động huy động vốn và hoạt động cho vay. Những điều này dẫn tới tình trạng hiệu quả kinh doanh kém và có xu hướng giảm sút. Các chỉ tiêu về tỷ lệ nghiệp vụ và khả năng sinh lời của phần lớn các ngân hàng trong khu vực. Vấn đề được đề cập đầu tiên ở đây là hoạt động tín dụng-hoạt động chủ yếu của các NHTM Việt Nam. Tính đến hết tháng 8/1999 tổng dư nợ cho vay và đầu tư hệ thống đối với nền kinh tế chỉ tăng 7% so với đầu năm ( trong khi mức đề ra cho cả năm là 18%). Ngược lại, tốc độ huy động vốn thì tăng 10% so với mức dự kiến cả năm là 25%. Đây là tình trạng chung cho toàn ngành, từ các NHTM quốc doanh đến các công ty cổ phần, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân hàng liên doanh. Mức độ tăng trưởng tín dụng thấp như vậy không phải các NHTM không có tiền cho vay. Liên tục trong hơn một năm qua tất cả các NHTM và tổ chức tín dụng đều liên tục giảm lãi suất tiền gửi ( bình quân lãi suát huy động vốn hiện nay là 0,6%-0,7%) nhưng vốn huy động vẫn thường xuyên tăng cao. ở hầu hết các NHTM, tốc độ tăng trưởng vốn huy động gấp 1,8 lần đến 3 lần tốc độ tăng trưởng tín dụng trong 8 tháng đầu năm nay. Có nhiều nguyên nhân dẫn tới tốc độ tăng trưởng tín dụng thấp dù chúng ta đã thực hiện một loạt các giải pháp nới lỏng chính sách tiền tệ như cắt giảm lãi suất, tái cấp vốn, giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, giảm lãi suất cho vay, nới lỏng điều kiện cho vay( các hộ nông dân vay từ 10 triệu đồng trở xuống không cần tài sản thế chấp...) ảnh hưởng chung của tình hình kinh tế khu vực và trong nước, nền kinh tế thiếu các dự án đầu tư có hiệu quả để ngân hàng cho vay, sản xuất kinh doanh đình trệ khó khăn, do thực hiện hai bộ luật ngân hàng, tác động của những vụ vi phạm lớn nên buộc các NHTM phải thực hiện chặt chễ các qui chế về cho vay, bảo lãnh... Điển hình là thị trường vốn tín dụng nông thôn được coi là rộng lớn và nhiều tiềm năng nhất cũng chỉ chiếm 205 tổng dư nợ tín dung ngân hàng đối với nền kinh tế. Chính vì vốn huy động tăng nhanh, cho vay khó khăn nên các NHTM sử dụng nguồn vốn mua công trái quốc gia vơí số lượng lớn (2550 tỷ đồng trong đợt phát hành vừa qua) và tham gia đấu thầu mua trái phiếu kho bạc (trong 8 tháng đầu năm 1999 mua trên 2000 tỷ đồng) để chống lỗ tiết kiệm . Nhưng vấn đề nổi cộm nhất trong hoạt động tín dụng hiện nay là vấn đề nợ quá hạn tăng vượt mức bình thường ở các NHTM. Nợ quá hạn hiện nay chiếm trên 10% tổng dư nợ- gấp đôi thông lệ quốc tế, trong đó 40% thuộc diện nợ khó đòi. Nguyên nhân chính là do các NHTM yếu kém trong việc thu thập thông tin , phân loại đánh giá lựa chọn khách hàng, công tác giám sát yếu kém, vi phạm nguyên tắc tín dụng. Cụ thể: các NHTM tập trung cho vay đối với các doanh nghiệp nhà nước( do có nhà nước bảo đảm). Điều này tưởng như an toàn nhưng lại không an toàn vì trên thực tế có hơn 60% doanh nghiệp nhà nuức làm ăn thua lỗ hoặc cầm chừng. Các NHTM cùng cho vay ồ ạt, thiếu lựa chọn , giám sát đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Nhiều doanh nghiệp khu vực này sử dụng vốn sai mục đích như buôn lậu trốn thuế... hoặc đầu tư không hiệu quả (chẳng hạn đầu tư vào bất dộng sản...) dẫn tới thua lỗ nặng nề mất khả năng thanh toán và quỵt nợ. Tỷ lệ nợ xấu ngày càng gia tăng nên gây rất nhiều khó khăn cho các NHTM ( làm mất đi tính ổn định lành mạnh, hiệu quả trong hoạt động của NHTM. Bên cạnh đó vẫn tồn tại khoảng cách lớn giữa vốn trung và dài hạn (khoảng 20% tổng nguồn vốn) và tín dụng trung - dài hạn( 40% dư nợ tín dụng). Điều này đòi hỏi phát triển TTCK để đáp ứng nhu cầu vốn trung - dài hạn cho nền kinh tế. NHTM từng bước đa dạng hoá và nâng cao chất lượng các hoạt động trung gian, dịch vụ ngân hàng. Biểu hiện là các hình thức bảo lãnh , chuyển tiền thanh toán không dùng tiền mặt đang được mở rộng dần và thực hiện một số dịch vụ trung gian đang trong quá trình giải ngân, thu nợ. Bảo lãnh của các NHTM đang trở thành dịch vụ phổ biến ở nước ta. Doanh số của các NHTM tăng lên hàng năm qua các loại như bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh mở L/C trả chậm... Với chất lược ngày càng cao. Dịch vụ bảo lãnh vừa làm tăng khả năng tìm kiếm đầu tư cho các doanh nghiệp vừa nâng cao năng lực giám sát thực hện hợp đồng của NHTM, nâng cao uy tín của NHTM. Nhưng vẫn còn một số tồn tại: thủ tục bảo lãnh chưa thực sự thuận tiện, thiếu chi tiết, hành lang pháp lý cho bảo lãnh chưa đủ, quỹ bảo lãnh còn quá nhỏ bé. Nghiệp vụ chuyển tiền đã được thực hiện từ khi còn là hệ thống ngân hàng một cấp, nhưng thời gian chuyển tiền rất chậm do chưa được trang bị công nghệ hiện đại. Hiện nay dịch vụ chuyển tiền ngày càng mở rộng với thời gian chuyển tiền ngày một rút ngắn ( thường là 2 ngày, cá biệt từ 3 dến 5 giờ) thu hút số lượng khách hàng ngày càng đông. Đây là kết quả của việc triển khai thanh toán chuyển tiền qua mạng máy tính, thanh toán điện tử nối mạng toàn quốc, tổ chức thanh toán bù trừ giữa các ngân hàng, hoàn thiện dần các thể thức thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng....Tuy nhiên việc thực hiện nghiệp vụ này của các NHTM còn nhiều thiếu sót như dịch vụ với khách hàng nhiều khi chưa có sự hướng dẫn nhiệt tình chu đáo, thủ tục chuyển tiền còn nhiều điểm chưa hợp lý. Trong hoạt động thanh toán của các NHTM cũng có những thành tựu nhất định. Khối lượng thanh toán không dùng tiền mặt trong tổng phương tiện thanh toán tăng: năm1997 tăng 16% so 1996. Tỷ trọng thanh toán không dùng tiền mặt trong tổng phương tiện thanh toán qua ngân hàng chiếm 60%. Trong đó thanh toán bằng uỷ nhiệm chi chiếm 65%, ngân phiếu 17% và séc 8%. Tốc độ thanh toán cũng tăng nhanh, hệ thống thanh toán qua mạng SWIFT bước đầu có kết quả. Nhưng khối lượng thanh toán bằng tiền mặt hiện nay ở nước ta so với tổng phương tiện thanh toán còn quá lớn (năm 1997 là 30%). Điều này sẽ bất lợi cho việc quản lý lưu thông tiền tệ, dễ phát sinh tiêu cực, lãng phí vốn. Nguyên nhân chủ yếu của hiện tượng này là do cơ sở hạ tầng đảm bảo cho hệ thống thanh toán còn yêú kém, công cụ thanh toán cổ truyền như séc không được ưa chuộng do phạm vi sử dụng hẹp, phức tạp, hình thức thanh toán hiện đại như dùng thẻ chưa được phổ biến và do thói quen thanh toán của dân chúng. Bên cạnh đó các NHTM bước đầu cũng tham gia các kinh doanh khác về giấy tờ có giá, mà người tiên phong ở đây là các NHTMCP và ngân hàng liên doanh. Các ngân hàng này sẵn sàng chiết khấu các giấy tờ có giá cho các khách hàng có quan hệ thường xuyên với ngân hàng để tạo vốn cho khách hàng và tìm đầu ra cho nguồn vốn huy động của mình. Chẳng hạn NHTMCP A Châu nhận chiết khấu trái phiếu kho bạc nhà nước, trái phiếu ngân hàng và các loại trái phiếu do các tổ chức quốc doanh lớn phát hành. Bên cạnh chiết khấu các ngân hàng còn tham gia đầu tư vào giấy tờ có giá. Ngân hàng First Vina Bank đã mua trái phiếu chính phủ, tín phiếu chính phủ, kỳ phiếu ngân hàng từ năm 1994. Tuy nhiên, cho đến nay các NHTM Việt Nam vẫn chưa có dịch vụ uỷ thác, dịch vụ mua bán và quản lý hỗ trợ tài sản dịch vụ trung gian tài chính dưới dạng tư vấn, cung cấp thông tin cho khách hàng. Tóm lại, hoạt động của các NHTM nói riêng và cả hệ thống ngân hàng nói chung từ khi đổi mới đã có nhiều cải tiến và đạt được những thành tựu nhất định góp phần phát triển kinh tế xã hội. Song hệ thống ngân hàng vẫn chưa được lành mạnh vững chắc an toàn. Đặc biệt hoạt động của các NHTM còn nhiều bất cập. Như thế thì nó chưa thể đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi của công cuộc đổi mới đất nước. Như vậy, vấn đề đặt ra là phải từng bước thay đổi hệ thống NH, cải tiến các hoạt động của nó để đáp ứng với sự phát triển của TTCK. 4. Một số yêu cầu đối với NHTM Việt Nam hiện nay Với những ưu thế của mình trên TTCK, để hoạt động có hiệu quả, cần phải có một số thay đổi trong hệ thống NHTM: Thứ nhất, về cơ cấu tổ chức. - Mỗi NHTM phải từng bước hợp lý hoá cơ cấu tổ chức: đảm bảo tính độc lập về chức năng của mỗi bộ phận đồng thời đảm bảo tính phối kết hợp đồng bộ nhịp nhàng, tập trung quản lý. -Đẩy mạnh hơn nữa công tác đào tạo, nâng cao trình độ kỹ năng mọi mặt của đội ngũ cán bộ viên chức ngân hàng, xem đây là một khâu then chốt trong tiến trình đổi mới. Đặc biệt phải có một đội ngũ chuyên gia chứng khoán am hiểu sâu về TTCK, một đội ngũ nhân viên tinh thông nghiệp vụ chứng khoán. Đi đôi với nâng cao trình độ là nâng cao ý thức trách nhiệm, phẩm chất đạo đức, lòng nhiệt tình của đội ngũ cán bộ, sử dụng người hợp lý - phân công đúng người đúng việc, thưởng phạt rõ ràng. -Các NHTM cũng phải hết sức chú trọng công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán nội bộ, từng bước hiện đại hoá, tin học hoá trong mọi hoạt động ( trang bị mạng lưới máy tính, trang thiết bị hiện đại phục vụ cho quản lý, cho việc thực hiện các nghiệp vụ như thanh toán, chuyển tiền...). Những việc làm này không những nhằm nâng cao chất lượng hoạt động mà còn có ý nghĩa quyết định trong việc thu thập, xử lý cung cấp những dòng thông tin tin cậy, kịp thời- một yếu tố không thể thiếu khi NHTM tham gia hoạt động trên TTCK. Thứ hai, về quản lý vốn Các NHTM phải có những biện pháp tích cực để tăng vốn tự có, tăng khả năng huy động vốn. Nguồn vốn dồi dào là cơ sở để NHTM mở rộng cho vay, đầu tư thực hiện tốt các nghiệp vụ trung gian, đặc biệt là các nghiệp vụ liên quan đến chứng khoán như bảo lãnh phát hành chứng khoán... - Tăng vốn tự có: Để tăng vốn tự có, ngoài việc đẩy mạnh tích luỹ, các NHTM có thể gọi vốn cổ phần hay sát nhập với NHTM khác tuỳ điêu kiện cụ thể. - Tăng khả năng huy động vốn: Để tăng khả năng huy động vốn, cần có chính sách khách hàng mang tính cách riêng của từng ngân hàng nhằm thu hút sự quan tâm tín nhiệm của khách hàng, mà quan trọng là phải bảo toàn giá trị tiền gửi, đảm bảo khả năng thanh toán nhanh chóng khi đáo hạn, đảm bảo cho khách hàng ngày càng được hưởng nhiều dịch vụ tiện ích do ngân hàng cung cấp. Đồng thời phát triển mạng lưới dịch vụ đến tận nơi khách hàng cần để thu hút tiền nhàn rỗi trong dân cư như dịch vụ uỷ nhiệm chi, chuyển tiền, phát triển dịch vụ tại nhà đối với khách hàng có thu nhập cao, ổn định. NHTM cũng có thể có giải pháp nhận tiền gửi theo các mục đích do khách hàng yêu cầu, chẳng hạn như mở tài khoản tiết kiệm cho trẻ em từ lúc sơ sinh tới lúc trưởng thành. Bên cạnh đó các NHTM phải tích cực tham gia vào thị trường tiền tệ liên ngân hàng và nó có thể huy động vốn thông qua việc phát hành kỳ phiếu, trái phiếu. - Tăng cường hoạt động cho vay , đầu tư. + Trước hết cần phải xử lý nợ quá hạn, nợ khó đòi nhằm lành mạnh hoá tình hình tài chính của các NHTM, tiến hành rà soát, phân loại toàn bộ số dư nợ, đồng thời phân tích tài chính của khách hàng để có biện pháp cụ thể: với trường hợp có thể tiếp tục kinh doanh thì duy trì quan hệ tín dụng để thu hồi vốn dần dần, với trường hợp không thể tiếp tục kinh doanh thì tiến hành thanh lý tài sản thế chấp còn những trường hợp trốn nợ, chây lỳ cần phối hợp với các cơ quan chức năng để thu hồi nợ + Tiếp tục cung ứng vốn cho nền kinh tế, tích cực tìm các dự án khả thi, có khả năng thu hồi vốn để cho vay với những sự trợ giúp nhất định và không phân biệt thành phần kinh tế. Tuy nhiên để ngăn chặn, hạn chế đến mức thấp nhất rủi ro, lệch lạc trong hoạt động tín dụng, các NHTM cần tăng khả năng phân tích, đánh giá lựa chọn khách hàng, tăng khả năng thẩm định dự án đầu tư, phân tích tài chính để xây dựng hạn mức tín dụng, phân bổ tín dụng hợp lý, tăng cường công tác kiểm tra giám sát để đảm bảo an toàn vốn đầu tư. Việc tăng cường thâm nhập vào nền kinh tế như góp vốn liên doanh, mua cổ phiếu của các công ty cổ phần với tỷ lệ đủ để tham gia điều hành cũng là môt giải pháp không những tạo đầu ra cho nguồn vốn của ngân hàng mà còn làm tăng khả năng phân tích tài chính các doanh nghiệp cho NHTM. Đồng thờì các NHTM phải kiểm tra phát hiện và phối hợp với các cơ quan chính quyền, cơ quan pháp luật xử lý có hiệu quả, kịp thời những trường hợp khách hàng sử dụng vốn sai mục đích, vi phạm pháp luật. - Nâng cao chất lượng và đa dạng hoá dịch vụ ngân hàng. + Cải tiến thủ tục bảo lãnh sao cho đơn giản nhưng vẫn đảm bảo an toàn và từng bước đa dạng hoá hình thức bảo lãnh: ngoài các hoạt động bảo lãnh truyền thống cần triển khai hoạt động bảo lãnh liên doanh, chứng khoán. + Phát triển và nâng cấp mạng thanh toán SWIFT và mạng thanh toán thẻ. Trang thiết bị, xử lý công nghệ phục vụ cho thanh toán cần được đồng bộ và liên hệ chặt chẽ giữa các NHTM với NHNN nhằm giúp cho việc thanh toán, chuyển tiền nhanh hơn. Các NHTM cũng cần đơn giản hơn thủ tục phát hành séc, mở rộng phạm vi thanh toán séc ra ngoài địa bàn tỉnh và các hệ thống ngân hàng bằng cách mở tài khoản lẫn nhau để trực tiếp thanh toán bù trừ. + Tham gia tư vấn, cung cấp thông tin về tài chính ngân hàng, đầu tư, công nghệ cho khách hàng + Thực hiện giữ hộ vàng, bạc và đá quý, chứng khoán... Có được những thay đổi trên, các NHTM phải tiếp tục làm gì để tăng cường sự hoạt động của mình trên TTCK? Trong điều kiện hiện nay, các NHTM mà trước hết là NHTMQD thành lập công ty con hoạt động kinh doanh CK độc lập. Mô hình này có ưu điểm các NH được kết hợp kinh doanh NH và kinh doanh CK, do đó tận dụng được thế mạnh về tài chính, kinh nghiệm, mạng lưới khách hàng. Bên cạnh đó , bởi vì có quy định hoạt động riêng rẽ giữa hai hoạt động trên cho nên hạn chế được rủi ro nếu có sự biến động của một trong hai thị trường này. Sau khi thành lập công ty con kinh doanh CK, NHTM sẽ là thành viên của TTGDCK. Trên cơ sở này, NHTM: - Giúp các khách hàng lựa chọn danh mục đầu tư chúng khoán có lợi nhất, an toàn nhất. Với tư cách là người môi giới có uy tín nhất trên thị trường, các NHTM sẽ thực hiện các lệnh mua, lệnh bán của khách hàng. Thông qua đó NHTM tham gia vào việc định giá chứng khoán. - Dùng nguồn vốn của mình mua chứng khoán trên thị trường sơ cấp hay thị trường thứ cấpnhằm thu lợi nhuận đa dạng hoá các loại hình kinh doanh dể giảm thiểu rủi ro. - NHTM tham gia tạo hàng hoá cho TTCK + NHTM có thể trực tiếp phát hành các giấy tờ có giá có khả năng chuyển nhượng như kỳ phiếu, trái phiêu, chứng chỉ tiền gửi, phiếu nợ chuyển đổi... + NHTM mở rộng chiết khấu CK, như thế làm tăng tính lỏng của các CK, các CK trở nên hấp dẫn đối với công chúng và được mua bán nhiều hơn. + NHTM có thể bán các chứng khoán mình có được nhờ hoạt động đầu tư. Hơn nữa việc NHTM đầu tư mua chứng khoán của các công ty cổ phần đang gặp khó khăn sẽ giúp công ty phát triển, chất lượng cổ phần của nó được nâng lên, NHTM cũng có thể mua các cổ phiếu của các DNNN đang cổ phần làm đẩy nhanh tiến độ cổ phần hoá, cung cấp hàng hoá cho TTCK. - Nhờ hiệu quả hoạt động kinh doanh tiền tệ, đặc biệt là huy động vốn NHTM có thể có được nguồn vốn dồi dào, có đủ uy tín kinh nghiệm để thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán. NHTM cần phải phân tích đánh giá, lựa chọn công ty để bảo lãnh và lựa chọn hình thức bảo lãnh cho phù hợp. Khi đó , NHTM có thể tư vấn cho các công ty cách thức phát hành, thời điểm phát hành, hình thức cổ phiếu, lợi suất cổ phiếu...NHTM cũng có thể thực hiện phân phối chứng khoán, có thể mua lượng chứng khoán đầu tiên trên thị trường. - NHTM thực hiện bảo quản và quản lý, thanh toán các CK NHTM phải kiểm tra toàn bộ nội dung, hình thức của từng loại CK được mang tới bảo quản, lựa chọn phương thức bảo quản phù hợp: + Bảo quản đặc biệt: tức là xếp các loại chứng khoán của một khách hàng thành tập riêng + Bảo quản tập trung: tức là xếp chứng khoán của tất cả các khách hành theo từng loại chứng khoán. Phương thức này đơn giản hơn giảm được chi phí. - Các NHTM quản lý chứng khoán thông qua việc thu lợi tức chứng khoán, chuyển đổi sang loại chứng khoán khác hay thay mặt khách hàng tham dự đại hội cổ đông khi khách hàng yêu cầu... NHTM đảm bảo an toàn, quyền lợi cho khách hàng. Để thúc đẩy sự hình thành và phát triển công ty chứng khoán của NH, các giải pháp cần thực hiện là: Thứ nhất, ổn định môi trường kinh tế. Tăng trưởng cao và ổn định, lạm phát ở mức độ vừa phải, lãi suất phải ở mức để các doanh nghiệp tăng cường đầu tư, mục đích để tạo điều kiện hình thành TTCK, tạo niềm tin cho người đầu tư và đó cũng chính là môi trường thuận lợi thành lập công ty CK Thứ hai , có những chính sách kinh tế vĩ mô tạo cung và cầu cho TTCK, tạo thói quen đầu tư CK không chỉ trong các doanh nghiệp mà cả công chúng. Đặc biệt, cần thúc đẩy các doanh nghiệp trong danh sách cổ phần hoá, tránh tình trạng năm 1999 sô doanh nghiệp dự kiến là 400 nhưng chỉ thực hiện được 250 doanh nghiệp . Thứ ba, NHNN nên nới lỏng điều kiện cho phép các ngân hàng thành lập công ty CK, đặc biệt chú trọng NHTMQD. Xuất phát từ vị trí vai trò của hệ thống NH dưới góc độ về vốn, chuyên môn, mạng lưới cán bộ nên trong thời gian đầu, hệ thống các công ty CK chủ yếu phải có sự tham gia của hệ thống NH. Bên cạnh đó, một số NH cổ phần lớn có tình trạng tài chính tốt, kinh doanh có lãi, nợ quá hạn thấp và có quy mô vốn lớn đủ để tham gia thị trường có thể xem xét cho phép hoạt động kinh doanh CK. Với những quy định chặt chẽ nêu trên thì không phải NHTM nào cũng thoả mãn được đặc biệt về qui định nợ quá hạn, hơn nữa hoạt động kinh doanh của NH lại chủ yếu phụ thuộc chủ yếu vào tình hình làm ăn cuả các doanh nghiệp, cho nên có thể trong thời gian này các hệ thống tiêu chuẩn trên được thoả mãn nhưng thời kỳ sau NH lại bị vi phạm tiêu chuẩn đó. Chính vì vậy, NHNN nên quy định khung cho một số tiêu chuẩn chẳng hạn như nợ quá hạn. Trong thời gian đầu, các công ty CK nên chỉ giới hạn ở số lượng nhất định, theo như tính toán có thể khoảng 5-7 công ty. Vì nếu số công ty CK nhiều sẽ dẫn đến khả năng cạnh tranh không lành mạnh, trong khi đó chi phí cho hoạt động ban đầu là rất cao, dẫn đến thu không đủ bù chi. Ngoài ra để đảm bảo nguyên tắc hiệu quả và an toàn nên lựa chọn các ngân hàng có quy mô lớn và chất lượng cao, cần tách bạch rõ ràng giữa hoạt động NH và lĩnh vực CK nhằm mục đích giảm thiểu rủi ro. Thứ tư, là các chính sách hỗ trợ và khuyến khích công ty CK, UBCK cần hỗ trợ về kỹ thuật, thủ tục, các bước thành lập và hướng dẫn thực hiện. Kết luận Ngày 20/7/2000, thị trường giao dịch CK đầu tiên của Việt Nam chính thức đi vào hoạt động tại thành phố Hồ Chí Minh. Đối với Việt Nam, đây là một lĩnh vực mới. Nó là dấu ấn quan trọng đối với nền kinh tế thị trường non trẻ của nước ta. Tổ chức ra một TTCK không khó, cái khó là làm thế nào để thị trường đó có sức sống thực sự, phát huy được vai trò của nó. Một hệ thống NH vững chắc sẽ giúp cho TTCK đạt được mục tiêu này. NHTM Việt Nam bên cạnh những thành tựu đạt được còn nhiều hạn chế trong hoạt động , tổ chức và chưa thể đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi của công cuộc đổi mới đất nước trong giai đoạn mới, đặc biệt với đòi hỏi sớm cho ra đời TTCK hoạt động an toàn hiệu quả. Như thế, đổi mới hoạt động của các NHTM là một vấn đề hết sức cần thiết. Đề tài đã đưa ra một số yêu cầu nhằm đổi mới hoạt động NHTM trong quá trình hình thành phát triển TTCK. Những yêu cầu này nhằn xây dựng một hệ thống NHTM lành mạnh, hoạt động có hiệu quả, an toàn và có đủ khả năng tham gia TTCK. Đổi mới hoạt động của các NHTM đang là vấn đề đặt ra hết sức cấp thiết. Nhưng cũng cần nhận định rõ ràng, đây là vấn đề hết sức phức tạp mang tính hệ thống, nó liên quan đến hầu hết các ngành, các hoạt động trong nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên với những thuận lợi và thành tựu đạt được , cùng sự nỗ lực của các cơ quan chức năng , chúng ta có thể tin tưởng các NHTM sẽ được nâng cao chất lượng hoạt động, giữ vai trò tích cực, quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển TTCK ở nước ta hiện nay. Tài liệu tham khảo 1.Đổi mới chính sách tài chính tiền tệ và kiểm soát lạm phát ở Việt Nam Tập thể tác giả - NXB Chính trị quốc gia .Năm 1995 2.Đề án TTCK Việt Nam / Ngân hàng Nhà Nước 3.Hướng tới một TTCK đầu tiên ở Việt Nam Trần Du Lịch - Hà Nội: Trung tâm phát triển ngoại thương và đầu tư 4.Kiến thức phổ thông để kinh doanh trong TTCK/ NXB Khoa học - Kỹ thuật / 1995 . 5.Niên giám thống kê/ 1998 6.Nghị định 48/1998/NĐ- CP 7.Sự hình thành và phát triển thị trường tài chính ở nền kinh tế chuyển đổi Việt Nam Nguyễn Đình Tài - Học viện chính trị quốc gia -. NXB Chính trị quốc gia./1997. 8.Tiền tệ , ngân hàng và thị trường tài chính Frederic S. Míhkin- NXB Khoa học và kỹ thuật - Năm1993 9.Toàn cảnh TTCK / NXB TP Hồ Chí Minh / 1999/ Nguyễn Ngọc Bích. 10.Tạp chí - Khoa học Ngân hàng số chuyên đề : Để tiến tới hình thành TTCK ở Việt nam - số15 . Năm 1993. - Phát triển kinh tế số 49/ 1999 - Thông tin tài chính tiền tệ :số 1,2,7,9/ 1998 - Thị trường chứng khoán : số 1,5/1999 - Thương mại : số 18/1998 - Tạp chí Ngân hàng: số 10,14.16.17,18/1999 - Diễn đàn chứng khoán : số 37, 38,39 / 2000 - Tạp chí ngân hàng: số 7,8,9 /2000 -Đầu tư chứng khoán : số 33, 34, 35,36., 37,38,39,40,41 /2000 - Uỷ ban chứng khoán nhà nước / Một số vấn đề về tổ chức và vận hành TTCK ở VN / Kinh Tế - Kế hoạch / số 6- 1998. - Sử dụng các công cụ tài chính trong việc thúc đẩy và hình thành TTCK ở Việt Nam / Tạp chí ngân hàng / số 3- 1999.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0749.doc
Tài liệu liên quan