MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
Chương I: Lý luận chung về đầu tư phát triển sử dụng vốn ngân sách nhà nước 2
1. Khái niệm đầu tư phát triển sử dụng vốn ngân sách nhà nước. 2
1.1. Khái niệm đầu tư phát triển. 2
1.2. Khái niệm nguồn vốn ngân sách nhà nước. 4
2. Đặc điểm của hoạt động đầu tư phát triển sử dụng vốn ngân sách nhà nước. 5
3. Nội dung các hoạt động đầu tư phát triển sử dụng vốn ngân sách nhà nước. 8
4. Các chỉ tiêu đánh giá kết quả và hiệu quả hoạt động đầu tư phát triển sử dụng vốn ngân sách nhà nước 9
5. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư phát triển sử dụng vốn ngân sách nhà nước 14
Chương II: Thực trạng hoạt động đầu tư phát triển sử dụng vốn ngân sách nhà nước tại thành phố Hà Nội 20
1. Điều kiện phát triển kinh tế xã hội của Thành phố Hà Nội 20
2. Thực trạng hoạt động đầu tư phát triển sử dụng vốn ngân sách nhà nước tại thành phố Hà Nội . 23
2.1. Đánh giá về nguồn vốn ngân sách nhà nước tại Hà Nội 23
2.2. Đánh giá cụ thể về nội dung hoạt động đầu tư sử dụng vốn ngân sách nhà nước tại thành phố Hà Nội 24
2.2.1. Đầu tư vào cơ sở hạ tầng. 27
2.2.2. Đầu tư cho giáo dục. 31
2.2.3. Đầu tư cho hoạt động y tế. 32
3. Đánh giá khái quát thực trạng hoạt động đầu tư sử dụng vốn ngân sách nhà nước. 33
Chương III: Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư sử dụng vốn ngân sách nhà nước tại Hà Nội 39
1. Định hướng đối với hoạt động đầu tư sử dụng vốn ngân sách nhà nước tại Hà Nội 39
1.1. Định hướng về phát triển kinh tế xã hội Hà Nội nói chung. 39
1.2. Định hướng đối với hoạt động đầu tư phát triển sử dụng vốn ngân sách. 40
2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư phát triển sử dụng vốn ngân sách nhà nước. 42
2.1. Giải pháp để huy động và sử dụng hiệu quả vốn ngân sách Nhà nước cho từng ngành lĩnh vực cụ thể 42
2.2. Nâng cao chất lượng công tác kế hoạch hóa huy động và sử dụng vốn ngân sách cho hoạt động đầu tư phát triển. 43
2.3. Tăng cường công tác huy động vốn đầu tư ngoài vốn ngân sách Nhà nước để đầu tư có hiệu quả tránh sự phụ thuộc quá nhiều vào vốn ngân sách. 45
2.4. Nâng cao chất lượng dự án, đặc biệt là dự án khả thi 46
2.5. Về công tác chọn nhà thầu và khảo sát thiết kế. 46
2.6. Nâng cao năng lực cán bộ quản lý vốn đầu tư và đào tạo đủ cán bộ cho công tác kế hoạch - đầu tư của thành phố Hà Nội trong những năm tới. 48
KẾT LUẬN 49
50 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1666 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoạt động đầu tư phát triển sử dụng vốn ngân sách nhà nước tại Hà Nội giai đoạn 2005-2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mùa hè nóng, mưa nhiều và mùa đông lạnh, ít mưa. Thuộc vùng nhiệt đới, thành phố quanh nǎm tiếp nhận lượng bức xạ Mặt Trời rất dồi dào và có nhiệt độ cao. Và do tác động của biển, Hà Nội có độ ẩm và lượng mưa khá lớn. Một đặc điểm rõ nét của khí hậu Hà Nội là sự thay đổi và khác biệt của hai mùa nóng, lạnh. Khí hậu Hà Nội cũng ghi nhận những biến đổi bất thường như lũ lụt hạn hán. Nguyên nhân của vấn đề này một phần là do biến đổi khí hậu ảnh hưởng đến phát triển cơ sở hạ tầng giao thông của thành phố.
*Dân số:
Mật độ dân số trung bình của Hà Nội là 1.979 người/km². Mật độ dân số cao nhất là ở quận Đống Đa lên tới 35.341 người/km², trong khi đó, ở những huyện như ngoại thành như Sóc Sơn, Ba Vì, Mỹ Đức, mật độ dưới 1.000 người/km²
*Đánh giá chung về kinh tế của thành phố Hà Nội:
Sau một thời gian dài của thời kỳ bao cấp, từ đầu thập niên 1990, kinh tế Hà Nội bắt đầu ghi nhận những bước tiến mạnh mẽ. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân của thành phố thời kỳ 1991–1995 đạt 12,52%, thời kỳ 1996–2000 là 10,38%. Từ năm 1991 tới 1999, GDP bình quân đầu người của Hà Nội tăng từ 470 USD lên 915 USD, gấp 2,07 so với trung bình của Việt Nam. Theo số liệu năm 2010, GDP của Hà Nội chiếm 12,73% của cả quốc gia và khoảng 41% so với toàn vùng Đồng bằng sông Hồng.
Giai đoạn phát triển của thập niên 1990 cũng cho thấy Hà Nội đã có những thay đổi về cơ cấu kinh tế. Từ 1990 tới 2000, trong khi tỷ trọng ngành công nghiệp tăng mạnh từ 29,1% lên 38% thì nông–lâm nghiệp và thủy sản từ 9% giảm xuống còn 3,8%. Tỷ trọng ngành dịch vụ cũng giảm trong khoảng thời gian này, từ 61,9% xuống còn 58,2%. Ngành công nghiệp của Hà Nội vẫn tập trung vào 5 lĩnh vực chính, chiếm tới 75,7% tổng giá trị sản xuất công nghiệp, là cơ–kim khí, điện–điện tử, dệt–may–giày, chế biến thực phẩm và công nghiệp vật liệu. Bên cạnh đó, nhiều làng nghề truyền thống như gốm Bát Tràng, may ở Cổ Nhuế, đồ mỹ nghệ Vân Hà... cũng dần phục hồi và phát triển.
Năm 2007, GDP bình quân đầu người của Hà Nội lên tới 31,8 triệu đồng, trong khi con số của cả Việt Nam là 13,4 triệu. Hà Nội là một trong những địa phương nhận được đầu tư trực tiếp từ nước ngoài nhiều nhất, với 1.681,2 triệu USD và 290 dự án. Thành phố cũng là địa điểm của 1.600 văn phòng đại diện nước ngoài, 14 khu công nghiệp cùng 1,6 vạn cơ sở sản xuất công nghiệp. Nhưng đi đôi với sự phát triển kinh tế, những khu công nghiệp này đang khiến Hà Nội phải đối mặt với vấn đề ô nhiễm môi trường. Bên cạnh những công ty nhà nước, các doanh nghiệp tư nhân cũng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế Hà Nội. Năm 2003, với gần 300.000 lao động, các doanh nghiệp tư nhân đã đóng góp 77% giá trị sản xuất công nghiệp của thành phố. Ngoài ra, 15.500 hộ sản xuất công nghiệp cũng thu hút gần 500.000 lao động. Tổng cộng, các doanh nghiệp tư nhân đã đóng góp 22% tổng đầu tư xã hội, hơn 20% GDP, 22% ngân sách thành phố và 10% kim ngạch xuất khẩu của Hà Nội.
Năm 2010 vừa qua cũng là lế kỷ niệm 1000 năm Thăng Long Hà Nôi. Trong Báo cáo đánh giá về tình hình kinh tế - xã hội năm 2010 của Ban cán sự Đảng UBND Thành phố Hà Nội vào cuối năm đã cho biết: Tổng sản phẩm nội địa (GDP) ước tăng 11% so với năm 2009, cao hơn chỉ tiêu HĐND đề ra và tăng gấp 1,64 lần mức tăng bình quân chung của cả nước. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực (tỷ trọng ngành dịch vụ và công nghiệp xây dựng tăng, tỷ trọng ngành nông nghiệp giảm dần). GDP bình quân đầu người đạt khoảng 37 triệu đồng (tương đương 1.950 USD). Thu ngân sách Nhà nước đạt 97.428 tỷ đồng, tăng 13% so với dự toán Chính phủ giao và tăng 31,2% so với năm 2009. Huy động vốn đầu tư xã hội đạt 175.063 tỷ đồng, tăng 18,5% so với năm 2009. Công tác xã hội hóa đầu tư tiếp tục được đẩy mạnh, nhất là trong lĩnh vực xử lý rác thải, cải tạo môi trường các hồ và thực hiện các công trình kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội. 9 tháng đầu năm có 64 dự án sử dụng nguồn vốn ngoài ngân sách được cấp giấy chứng nhận đầu tư với tổng kinh phí gần 66.300 tỷ đồng, sử dụng 150 ha đất.
Đánh giá: có thể thấy từ khi Đảng và Nhà nước có chính sách đổi mới nền kinh tế sau 25 năm đổi mới, kinh tế Hà Nội đã có sự phát triển và chuyển biến tích cực. Nền kinh tế ngày càng phát triển, đời sống nhân dân được nâng cao và ngày càng tiến bộ. Sự phát triển này có được thành công là do đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước nói chúng và của Đảng bộ và UBND thành phố Hà Nội nói riêng, đó là do sự đầu tư phát triển đúng đắn của thành phố trong đó hiệu quả của nguồn vốn đầu tư phát triên sử dụng vốn ngân sách Nhà nước đóng vai trò quan trọng.
Thực trạng hoạt động đầu tư phát triển sử dụng vốn ngân sách nhà nước tại thành phố Hà Nội
Đánh giá về nguồn vốn ngân sách nhà nước tại Hà Nội
Bảng 1: Tổng vốn đầu tư từ nguồn vốn ngân sách nhà nước tại Hà Nội năm 2005-2010
Đơn vị : tỷ đồng
Năm
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
2008
2009
2010
Khối lượng vốn đầu tư nguồn vốn ngân sách trên cả nước(tỷ đồng)
100200
107300
119500
180000
140000
Khối lượng vốn đầu tư từ nguồn vốn ngân sách (tỷ đồng)
8880.0
7456.7
13376.9
12600
21500
23700
Tỷ trọng vốn đầu tư NSNN Hà nôi so với cả nước(%)
7.44
12.46
10.54
11.94
16.93
Nguồn số liệu từ Tổng cục Thống kê
Từ bảng số liệu trên có thể thấy khối lượng vốn đầu tư ngân sách của thành phố Hà nội tăng qua các năm và luôn chiếm tỷ trọng cao trong nguồn vốn ngân sách nhà nước của cả nước. Về giá trị tuyệt đối từ năm 2006 đến năm 2010 khối lượng vốn đầu tư từ NSNN của Hà Nội tăng liên tục cao nhất là năm 2010 là 23700 tỷ đồng và thấp nhất là năm 7456,7 tỷ đồng chứng tỏ sự đầu tư mạnh mẽ của thành phố và trung ương vào sự phát triển của thành phố Hà Nội. Tỷ trọng của vốn đầu tư từ nguồn vốn ngân sách của Hà Nội so với cả nước cũng chiếm luôn chiếm tỷ trọng cao, cao nhất là năm 2010 là chiếm 16,93% và thấp nhất là năm 2006 là 7,44%. Có thể thấy nhà nước ngày càng chú trọng vai trò phát triển của thành phố Hà Nội trong sự phát triển chung của nền kinh tế trong cả nước. Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh đóng vai trò phát triển chủ đạo trong nền kinh tế chứng tỏ là hai trung tâm kinh tế lớn nhất trên cả nước. Qua bảng số liệu trên cũng cho biết việc thực hiện đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách nhaí nước so với kế hoạch trong năm. Chỉ có 2 năm là năm 2005 và năm 2007 là vượt kế hoạch còn tất cả những năm còn lại thành phố đều không thực hiện được kế hoạch đề ra. Đây cũng là một trong những mặt hạn chế trong việc thực hiện đầu tư vốn NSNN của thành phố Hà Nội. Điều này xuất phát từ nguyên nhân cả về chủ quan và khách quan. Nền kinh tế của thế giới bắt đầu từ năm 2008 rơi vào khủng hoảng ảnh hưởng đến nền kinh tế của Việt Nam khiến nhiều chỉ tiêu của cả nước và địa phương không thực hiện được đúng đến kế hoạch đề ra. Đồng thời mặt hạn chế này cũng có nguyên nhân từ khâu quản lý của thành phố còn nhiều mặt chưa tốt ảnh hưởng đến kết quả.
Đánh giá cụ thể về nội dung hoạt động đầu tư sử dụng vốn ngân sách nhà nước tại thành phố Hà Nội
Xét về cơ cấu các lĩnh vực trong hoạt động đầu tư sử dụng vốn ngân sách tại Hà Nội
Bảng 2: Cơ cấu đầu tư các lĩnh vực trong nền kinh tế sử dụng vốn ngân sách tại Hà Nội
Năm
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
2008
2009
2010
Quy mô vốn ( tỷ đồng
Tỷ trọng (%)
Quy mô vốn ( tỷ đồng
Tỷ trọng (%)
Quy mô vốn ( tỷ đồng
Tỷ trọng (%)
Quy mô vốn ( tỷ đồng
Tỷ trọng (%)
Quy mô vốn ( tỷ đồng
Tỷ trọng (%)
Quy mô vốn ( tỷ đồng
Tỷ trọng (%)
Tổng
số vốn ngân sách nhà nước
8880
100
7457
100
13377
100
12600
100
21500
100
23700
100
Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng
5665
63.8
4654
62.4
8307
62.1
7585
60.2
12298
57.2
12632
53.3
Đầu tư giáo dục
693
7.8
604
8.1
1097
8.2
1222
9.7
2107
9.8
2583
10.9
Đầu tư y tế
728
8.2
641.3
8.6
1110
8.3
1197
9.5
2129
9.9
2370
10
Đầu tư khoa học công nghệ
133
1.5
1193
1.6
321
2.4
478.8
3.8
301
1.4
497.7
2.1
Đầu tư văn hóa xã hội- thể dục thể thao
133
1.5
126.8
1.7
240.8
1.8
189
1.5
451.5
2.1
545.1
2.3
Đầu tư an ninh quốc phòng
151
1.7
216.2
2.9
307.7
2.3
100.8
0.8
258
1.2
308.1
1.3
Đầu tư quản lý nhà nước
302
3.4
179
2.4
521.7
3.9
478.8
3.8
1333
6.2
1872
7.9
Đầu tư hỗ trợ doanh nghiệp
107
1.2
111.9
1.5
173.9
1.3
226.8
1.8
451.5
2.1
450.3
1.9
Đầu tư khác khác
968
10.9
12.08
10.8
1298
9.7
1121
8.9
2172
10.1
2441
10.3
Nguồn số liệu : Sở kế hoạch đầu tư thành phố Hà Nội
Nhận xét chung: Nguồn vốn đầu từ ngân sách nhà nước được Hà Nội sử dụng ở rất nhiều các lĩnh vực trong nền kinh tế phục vụ cho sự phát triển của thành phố. Tất cả các lĩnh vực mỗi năm được đầu tư và ngày càng tăng. Cao nhất là đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng luôn chiếm trên 50% ( cao nhất là năm 2005 chiếm 67,2%) tiếp theo là đầu tư vào giáo dục và y tế chiếm trên dưới 10%. Điều này phản ánh đúng xu hướng phát triển chung của thành phố và đất nước. Thành phố Hà Nội là trung tâm chính trị kinh tế văn hóa xã hội của cả nước, vẫn đang trong quá trình phát triển, dân số ngày càng gia tăng cả về mặt gia tăng dân số tự nhiên và gia tăng cơ học nên việc phát triển cơ sở hạ tầng là điều tất yếu của quá trình phát triển. Có thể thấy nguồn vốn đầu tư được tập trung vào 3 lĩnh vực chính là đầu tư vào cơ sở hạ tầng, đầu tư cho giáo dục và đầu tư cho y tế.
Đầu tư vào cơ sở hạ tầng
Hoạt động đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng luôn chiếm tỷ trọng quan trọng trong hoạt động đầu tư của toàn thành phố. Vốn ngân sách được đầu tư cho hoạt động này luôn được tăng đều theo các năm, năm 2005 là 5665 tỷ đồng đến năm 2010 là 12632 tỷ đồng có năm 2006 và năm 2008 vốn đầu tư của ngân sách dùng cho hoạt động đầu tư này bị giảm, giai đoạn tăng mạnh mẽ nhất là năm 2008-2009. Vốn đầu tư trong giai đoạn 2005-2010 tăng lên hơn 2 lần có thể thấy sự đầu tư mạnh mẽ của thành phố vào hoạt động đầu tư này. Sự tăng giảm này có thể lý giải là thành phố Hà Nội có lợi thế là trung tâm kinh tế lớn của cả nước đang trong quá trình phát triển nền kinh tế, cơ sở hạ tầng cần được đầu tư cấp thiết phù hợp với sự phát triển chung của nền kinh tế phát triến công nghiệp và dịch vụ đồng thời đáp ứng nhu cầu xã hội nâng cao cuôc sống của người dân, đặc biêt là tại Hà Nội dân số tăng nhanh, mật độ dân số cao, số lượng người nhập cư lớn gây nên áp lực cho thành phố về cơ sở hạ tầng là rất lớn. Năm 2006 và năm 2008 số vốn đầu tư của ngân sách dùng cho hoạt động phát triển cơ sở hạ tầng giảm ( năm 2006 là 4654 tỷ đồng, năm 2008 là 7585 tỷ đồng) lý do là do khủng hoảng kinh tế trên toàn thế giới ảnh hưởng đến nền kinh tế Việt Nam điều này buộc chính phủ cắt giảm một số dự án không hiệu quả của các tỉnh địa phương trong đó có thành phố Hà Nội. Đến năm 2009 mặc dù nền kinh tế thế giới vẫn rơi vào khủng hoảng chính phủ thực hiện chính sách tài khóa thắt chặt để thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế các dự án cơ sở hạ tầng tiếp tục được triển khai, và đặc biệt năm 2010 Hà Nội kỷ niệm 1000 năm Thăng Long Hà Nội nên số vốn đầu tư ngân sách cho cơ sở hạ tầng cho các dự án phục vục đại lễ tăng lên.
Nội dung đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng tập trung vào 3 lĩnh vực chính là
-Đầu tư phát triển giao thông cầu đường
-Đầu tư phát triển hạ tầng đô thị
-Đầu tư hệ thống cấp thoát nước
-Đầu tư vào lĩnh vực khác
Bảng 3: Bảng số liệu nội dung đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng từ nguồn vốn ngân sách nhà nước
Đơn vị : tỷ đồng
Số vốn đầu tư từ nguồn ngân sách
2005
2006
2007
2008
2009
2010
Đầu tư phát triển giao thông cầu đường
3523
3027
4943
4356
7198
7323
Đầu tư phát triển hạ tầng đô thị
2015
1525
3324
3024
4923
5078
Đầu tư hệ thống cấp thoát nước
137
102
178
159
212
324
Đầu tư vào lĩnh vực khác
-
115
132
156
212
267
Nguồn số liệu : Sở kế hoạch đầu tư thành phố Hà Nội
Qua bảng số liệu trên ta thấy nội dung đầu tư phát triển giao thông cầu đường chiếm tỷ trọng cao nhất khoảng trên dưới 50% và tăng đều qua các năm, chiếm tỷ trọng cao thứ hai là nội dung đầu tư phát triển hạ tầng đô thị. Điều này phù hợp với xu thế và tình hình phát triển của thành phố Hà Nội giải quyết nhu cầu giao thông và nhà ở là nhiệm vụ cấp bách của thành phố hiện nay.
-Nội dung đầu tư phát triển giao thông cầu đường
Số lượng vốn đầu tư cho nội dung này tăng đều qua các năm. Từ năm 2005-2010 số lượng vốn đầu tư tăng lên gấp đôi từ 3523 tỷ đồng lên 7323 tỷ đồng. Trong 5 năm từ năm 2005-2010 Hà Nội đã triển khai thực hiện 525 dự án phát triển giao thông sử dụng vốn ngân sách trong đó có 54 dự án trọng điểm quốc gia, Trong các dự án phát triển giao thông bao gồm các dự án : xây dựng cầu đường mới, cải tạo đường cầu, phát triển điểm đỗ bến xe phục vụ giao thông.
Tuy nhiên các dự án đầu tư phát triển giao thông hiện nay chỉ chú trọng vào khu nội thành như quận Ba Đình, quận Hoàn Kiếm, quận Cầu Giấy. Từ sau khi mở rộng địa giới hành chính năm 2008 thành phố Hà Nội có nhiều vùng sâu vùng xa như Sóc Sơn, Thạch Thất… giao thông chưa phát triển nhưng chưa được quan tâm và đầu tư.
-Nội dung phát triển hạ tầng đô thị
Nội dung đầu tư hạ tầng đô thi nhà ở số vốn đầu tư tăng đều qua các năm với năm 2005 là 2015 tỷ đồng đến năm 2010 là 5078 tỷ đồng.
Hiện nay vấn đề hạ tầng đô thị nhà ở được Hà Nội đầu tư khoảng 25% nguồn vốn ngân sách nhà nước. Bao gồm các nội dung là đầu tư xây dựng các khu đô thị mới, hỗ trợ xây dựng các khu đô thị giải quyết nhà ở cho người có thu nhập thấp. Đặc biệt là thành phố đang tập trung vào nội dung xây nhà cho người có thu nhập thấp bắt đầu triển khai từ năm 2008 đến nay. Tuy nhiên lượng vốn ngân sách thành phố dùng cho phát triển hạ tầng đô thị nhà ở vẫn còn thấp chưa tương xứng vói tốc độ phát triển kinh tế của thành phố và nhu cầu nhà ở hiện nay. Mật đô dân số ngày Hà Nội hiện nay gần gấp 100 lần mật độ dân số chuẩn đứng đầu cả nước.
Từ năm 2005 đến 2009, Hà Nội đã triển khai tới 80 dự án xây nhà tái định cư, những dự án này một phần do thành phố đầu tư trực tiếp, một phần theo phương thức đặt hàng mua bằng vốn ngân sách trong đó quỹ nhà tái định cư nữa do Quỹ Đầu tư phát triển thành phố hoặc Ban quản lý dự án thuộc nguồn vốn ngân sách (Sở Xây dựng) đặt ký hợp đồng mua như nhà chung cư 17T10-17T11 khu đô thị Trung Hòa - Nhân Chính, 80 căn hộ khu Pháp Vân - Tứ Hiệp (Thanh Trì), 780 căn khu đô thị Nam Thăng Long (Tây Hồ). Tuy nhiên chất lượng của các khu nhà tái định cư này còn kém, các hệ thống dịch vụ không đảm bảo thường xuyên bị người dân phàn nàn. Tuy nhiên quá trình giải quyết còn chậm trễ
-Nội dung phát triển hệ thống cấp thoát nước
Số lượng vốn đầu tư dùng cho nội dung đầu tư phát triển hệ thống cấp thoát nước được tăng đều qua các năm từ năm 2005 là 115 tỷ đồng đến năm 2010 là 267 tỷ đồng. Lượng vốn đầu tư từ ngân sách được tăng thêm nhanh do trận lụt lịch sử năm 2008 gây nên tổn thất nặng nề cho thấy những mặt yếu kém về hệ thống cấp thoát nước của thành phố. Ở bảng số liệu trên có thể thấy tỷ trọng vốn đầu tư cho nội dung này là thấp. Thành phố Hà Nội tập trung đầu tư xây dựng cải tạo hệ thống nước sạch và hệ thống thoát nước đô thị. Hai nội dung này được thành phố chú trọng như nhau.
Bảng 4: Nội dung đầu tư hệ thống cấp thoát nước các vùng tại Hà Nội sử dụng vốn ngân sách giai đoạn 2005-2010
Đơn vị : tỷ đồng
Đầu tư hệ thống cấp nước
Đầu tư hệ thống thoát nước
Nội dung đầu tư khác
Khu vực ngoại thành
323
89
0.2
Khu vực nội thành
154
413
0.5
Nguồn số liệu: Sở tài nguyên và môi trường thành phố Hà Nội
Qua bảng số liệu trên có thể thấy khu vực nội thành chủ yếu đầu tư hệ thống thoát nước còn khu vực ngoại thành chủ yếu đầu tư hệ thống cấp nước sạch. Sau khi mở rộng địa giới hành chính năm 2008, Hà Nội có nhiều vùng khó khăn chưa có nước sạch điều này yêu vầu nguồn ngân sách cần cho một khoản đầu tư cho hệ thống cấp nước sạch cho người dân. Còn khu vực nội thành do hệ thống giao thông nhà ở mặc dù vẫn đang phát triển và đầu tư nhưng vẫn còn nhiều bất cập ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư dành cho hệ thống thoát nước.
Năm 2009, Sở Nông nghiệp & PTNT Hà Nội đã xây dựng chương trình cung cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn của thành phố giai đoạn 2009-2020. Dự kiến tổng kinh phí để thực hiện Chương trình nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn khoảng 4.949 tỷ đồng, trong đó ngân sách thành phố là 1.133 tỷ đồng, ngân sách huyện 449 tỷ đồng, còn lại là do các hộ dân đóng góp và doanh nghiệp đầu tư. Để tăng lượng cung nước sạch cho vùng ngoại thành, thành phố Hà Nội triển khai mở rộng mạng lưới cấp nước tại các huyện Gia Lâm, Đông Anh, Sóc Sơn, Thanh Trì và Từ Liêm. Đồng thời đầu tư, nâng cấp các điểm khai thác nước tại khu vực này
Đầu tư cho giáo dục
Đơn vị: tỷ đồng
Qua sơ đồ trên kết hợp với bảng số liệu bảng 2 cho thấy số vốn đầu tư từ ngân sách cho hoạt động giáo dục tăng trong giai đoạn 2005-2010 tăng gấp 4 lần từ năm 2005 là 693 tỷ đồng đến năm 2010 là 2583 tỷ đồng. Đồng thời cũng thấy được đầu tư cho giáo dục chiếm tỷ trọng thứ hai trong vốn đầu tư sử dụng NSNN chứng tỏ tầm quan trọng của hoạt động giáo dục cho nền kinh tế. Hoạt động đầu tư cho giáo dục ngày càng được chú trọng phù hợp với xu thế phát triển chung của nền kinh tế coi giáo dục là quốc sách hàng đầu phát triển nền kinh tế, đồng thời cũng thấy được đời sống người dân được nâng cao càng coi trọng sự phát triển của giáo dục. Tuy nhiên có thể thấy nguồn ngân sách cho hoạt động của thành phố vẫn còn eo hẹp do nguồn ngân sách có hạn và phải đầu tư cho các lĩnh vực quan trọng khác nữa. Hoạt động đầu tư chủ yếu là xây dựng mới và cải tạo các trường học. Năm 2010 sở giáo dục đào tạo đã triển khai hành loạt dự án phục vụ giáo dục. Ngành giáo dục Hà Nội đã triển khai 40 dự án với kinh phí gần 250 tỷ đồng. Trong đó, hơn 80 tỷ đồng dành cho chống xuống cấp trường học, gần 5 tỷ đồng cho chương trình chống mối ở hơn 30 trường, trên 64 tỷ đồng cho chương trình cải tạo nhà vệ sinh và nước sạch ở gần 60 trường. Kinh phí đầu tư cho xây dựng cơ bản năm học 2009-2010 cũng tăng hơn 100 tỷ đồng so với năm học trước, đạt 405 tỷ đồng
Đầu tư cho hoạt động y tế
Đơn vị: tỷ đồng
Qua bảng số liệu trên có thể thấy số lượng vốn đầu tư từ ngân sách cho hoạt động y tế tăng đều qua các năm từ năm 2005 là 728 tỷ đồng đến năm 2010 là 2370 tỷ đồng, tăng lên gấp 3 lần. Mỗi năm thành phố sử dụng từ 10-15% vốn đầu tư ngân sách thành phố để đầu tư vào y tế. Tuy nhiên do thành phố Hà Nội tập trung nhiều bệnh viện tuyến trên, bệnh viện trung ương, ngoài áp lực bệnh nhân trong thành phố, các bệnh viện của thành phố Hà Nội còn phải chịu áp lực bệnh nhân ở các tỉnh lân cận. Chính vì thế tuy tốc độ gia tăng vốn đầu tư cho hoạt động này là khá nhanh nhưng vẫn chưa tương xứng với tốc độ phát triển kinh tế của thành phố. Nội dung đầu tư là xây dựng bệnh viện mới, cải tạo các bệnh viện cũ, nâng cao số giường bệnh. Các cơ sở chữa bệnh lớn đều tập trung nội thành nên từ năm 2009 Hà Nội có những dự án triển khai xây dựng bệnh viện lớn ngoại thành.
Đánh giá khái quát thực trạng hoạt động đầu tư sử dụng vốn ngân sách nhà nước.
a) Kết quả:
Giai đoạn 5 năm từ năm 2005-2010 đánh dấu sự phát triển của nền kinh tế cả nước nói chung và của thành phố Hà Nội nói riêng. Đây là một giai đoạn khó khăn của nền kinh tế khi cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu nổ ra và cho đến nay hậu quả của nó vẫn còn. Nền kinh tế Việt Nam giai đoạn này đang phát triển trong đó 2 trung tâm kinh tế lớn của cả nước là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh giữ vai trò dẫn đầu. Chính vì thế sự đầu tư của nhà nước vào Hà Nội là một nhu cầu tất yếu và đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của thành phố và cả nước. Tỷ trọng vốn đầu tư sử dụng vốn ngân sách nhà nước luôn chiếm tỷ trọng cao ( một phần là do vai trò phát triển của thành phố Hà Nội, một phần đây là địa phương có số thu ngân sách lướn trong cả nước). Năm 2010 số vốn ngân sách đầu tư vào thành phố là 23700 tỷ đồng cao nhất trong tất cả các năm và có xu hướng ngày càng tăng trong các năm tới. Nguồn vốn ngân sách nhà nước được chủ yếu đầu tư cho hoạt động phát triển cơ sở hạ tầng. Đây cũng là một nội dung hoạt động đầu tư tất yếu ở các nước đang phát triển. Kết quả đạt được của hoạt động đầu tư này là bộ mặt cơ sở hạ tầng của thành phố đã được thay đổi rõ rệt và ngày càng cải thiện.
*Đầu tư cơ sở hạ tầng
-Đầu tư phát triển giao thông cầu đường
Năm 2010,Bộ GTVT cũng thực hiện đầu tư 17 dự án, với tổng kinh phí 121.215 tỷ đồng, trong đó có 9 tuyến quốc lộ: QL 32 các đoạn Nam Thăng Long - Cầu diễn, Cầu Diễn -Nhổn; Vành đai 3 các đoạn Thanh Trì - Pháp Vân, Pháp Vân - Mai Dịch (giai đoạn 1,2), Đại lộ Thăng Long, cầu Nhật Tân…; 4 tuyến cao tốc: Hà Nội - Hải Phòng (105km), Hà Nội - Thái Nguyên (62,5km), Nội Bài - Lào Cai (264km)…; 2 tuyến đường sắt nội đô gồm: Tuyến số 1 đoạn Ngọc Hồi - Yên Viên, Tuyến số 2, nhánh 2 đoạn Cát Linh - Hà Đông và 1 tuyến đường sắt khổ lồng đoạn Yên Viên - Phả Lại - Hạ Long - Cái Lân; 1 dự án nhà ga T2 và 1 đường thủy nội địa.
Các dự án giao thông của thành phố Hà Nội sau khi hoàn thành được đưa vào hoạt động đã phát huy hiệu quả nhất định. Hết năm 2010 theo số liệu thống kê tổng số đường giao thông nông thôn của Hà Nội đã được phủ mặt (mặt đường nhựa, bê tông xi măng, lát gạch...) đạt 8.043,1 km, chiếm 62,13%. Năm 2010 thành phố đã đi vào xây dựng cầu đường bộ trong thành phố gồm 14 cây cầu cầu số 1 trên phố Chùa Bộc, cầu số 2 trên phố Láng Hạ, cầu số 5 trên đường Trần Duy Hưng, cầu số 6 trên đường Nguyễn Chí Thanh, cầu số 13 trên đường Hoàng Quốc Việt, cầu số 3 và cầu số 4 trên phố Giảng Võ, cầu số 16 trên đường Trần Khát Chân. Cầu số 9 trên phố Tây Sơn.,cầu số 10, 11 và 12 trên đường Nguyễn Trãi; cầu số 14 trên đường Xuân Thủy, cầu số 7 phố Liễu Giai và cầu số 17 phố Thái Hà. Số lượng cây cầu trong thành phố đã được tăng, chất lượng các cây cầu được cải thiện, năm 2010 kỷ niệm 1000 năm Thăng Long Hà Nội cầu Vĩnh Tuy đã được hoàn thành đi vào hoạt động và hiện nay đang được mở rộng để trở thành cây cầu rộng nhất Việt Nam. Thành phố cũng đang dự kiến xây dựng 2 cây cầu là cầu Tứ Liên và cầu Nhật Tân, trong đó cầu Nhật Tân được xây dựng nối với sân bay Nội Bài (thay vì đa phần phương tiện từ trung tâm Thủ đô vẫn phải đi và về từ sân bay này theo con đường Thăng Long - Nội Bài 30km). Các tuyến đường sắt được mở rộng và cải tạo thêm km đường sắt.
Tuy nhiên, mạng lưới đường bộ của Thành phố chỉ có khoảng 1.000km, trong đó đường đô thị khoảng 350km, mật độ đường thấp, thường xảy ra ùn tắc giao thông; các tuyến vành đai chưa được xây dựng hoàn chỉnh. Quỹ đất dành cho giao thông chỉ chiếm khoảng 7% (trong khi đó ở các đô thị hiện đại là 20-25%). Hệ thống bãi và điểm đỗ xe thiếu trong khi số lượng phương tiện giao thông tăng nhanh, đặc biệt là ô tô và xe máy. Giao thông công cộng chủ yếu bằng xe buýt đáp ứng được khoảng 20% nhu cầu đi lại của người dân, chưa có hệ thống đường sắt đô thị. Hiện nay thành phố có 5 cây cầu lớn, mới đi vào sử dụng 1 cây cầu và đang mở rộng, tương lai thêm 2 cây cầu nữa, phát triển thêm các tuyến đường sắt nội địa. Các dự án giao thông của thành phố đã giải quyết phần nào tình trạng ùn tắc giao thông.
Hà Nội là một thủ đô ngày càng phát triển, hệ thống giao thông cần được cải thiện. Nhờ những chính sách và nguồn vốn đầu tư của nhà nước bộ mặt giao thông của thành phố đã có những chuyển biến tích cực. Tuy nhiên hiệu quả của công tác đầu tư vẫn chưa thực sự phát huy hết. Tình trạng ùn tắc giao thông vẫn còn và ngày càng còn nhiều bất cập, nhiều tuyến đường được xây dựng chất lượng còn hạn chế, có nhiều tuyến đường được xây dựng ra không được sử dụng. Tình trạng sử dụng nguồn vốn ngân sách còn thất thoát lãng phí thời gian thực hiện kéo dài rất nhiều lần các cơ quan cấp cao vào cuộc rà soát các dự án, tiến độ thực hiện các dự án.
-Đầu tư phát triển hạ tầng đô thị
Năm 2010, TP Hà Nội đầu tư từ ngân sách xây dựng 2 khu nhà ở tập trung cho học sinh, sinh viên các trường đại học, cao đẳng tại Khu đô thị Pháp Vân - Tứ Hiệp (Thanh Trì) và Khu đô thị Mỹ Đình II (Từ Liêm), với gần 30.000 chỗ ở. Năm 2008, Hà Nội bắt đầu triển khai xây dựng các dự án đô thị vệ tinh.
Hà Nội sử dụng vốn để xây dựng nhà ở xã hội giải quyết nhu cầu: tháng 10/2010, Hà Nội hoàn tất 800 căn hộ đầu tiên trong quỹ nhà ở xã hội tại lô CT 19A khu đô thị Việt Hưng bao gồm 500 căn cho thuê và 300 căn thí điểm cho thuê mua. Cũng trong năm 2010, Thành phố đã phê duyệt chủ trương đầu tư thêm 5 dự án nhà xã hội tại Khu đô thị mới Sài Đồng (Long Biên), xã Ngũ Hiệp (Thanh Trì), xã Kim Chung (Đông Anh) và huyện Chương Mỹ.
Tuy nhiên vấn đề nhà ở hiện nay tại Hà Nội vẫn chưa giải quyết được nhu cầu cấp bách và ngày càng nóng nhu cầu nhà ở của người dân thành phố trong khi dân số thành phố ngày càng gia tăng. Các công trình hạ tầng đi kèm với các khu đô thị còn chậm tiến hành chưa đồng bộ gây khó khăn cho người dân trong việc sử dụng nhà ở.
-Đầu tư phát triển hệ thống cấp thoát nước
Kết quả đạt được là đến hết năm 2008, tổng công suất cấp nước mới đạt 530.000m3/ngđ, còn thiếu so với nhu cầu khoảng 220.000m3/ngđ; hệ thống cấp nước đảm bảo cung cấp nước sạch cho khoảng 90% dân số đô thị với tiêu chuẩn cấp nước chỉ đạt 110-120 lít/người/ngày, một số khu vực còn gặp khó khăn hoặc chưa được cung cấp nước sạch. . Tính đến năm 2010, 100% dân số trong nội thành đã được sử dụng nước sạch tuy nhiên, đa số dân ngoại thành Hà Nội chưa được sử dụng nước sạch. chỉ 11% dân số nông thôn sử dụng nước giếng đào hợp vệ sinh; và có đến 6.662/18.351 mẫu nước ngầm lấy từ giếng khoan gia đình ở 174 xã, thị trấn của 12 huyện trên địa bàn Hà Nội mở rộng bị nhiễm asen vượt quá nồng độ cho phép… Đảm bảo cho hơn 26% dân số ngoại thành có nước sạch (tăng 9% so với năm 2010).
*Đầu tư cho giáo dục
hiện nay thành phố có hơn 683 trường mầm non công lập, 471 trường tiểu học, 281 trường trung học cơ sở, 41 trường trung học phổ thông.
Tính đến hết năm học 2010-2011, theo thông tin từ Sở GD-ĐT Hà Nội, hiện có 2.502 trường học và gần 1,5 triệu học sinh của tất cả các cấp học. Trên địa bàn thành phố Hà Nội còn có 6 phường thiếu trường mầm non công lập (thuộc hai quận Đống Đa và Hai Bà Trưng); 10 phường chưa có trường tiểu học công lập, chủ yếu tập trung ở khu vực nội thành; 28 phường thiếu trường THCS. Tại 17 khu đô thị mới, chỉ có 2 khu đô thị có đủ trường công lập. Do dân số cơ học tăng nhanh, quỹ đất ở khu vực nội thành dành cho trường học hầu như không còn, nên mặc dầu có trường công lập nhưng ở nhiều nơi có số lớp/trường, số HS/lớp luôn vượt quá quy định. Thống kê cho thấy, diện tích xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia của toàn thành phố còn thiếu hơn 5,4 triệu m2, trong đó cấp mầm non thiếu 2,3 triệu m2, cấp tiểu học thiếu 1,9 triệu m2, cấp THCS thiếu 1,2 triệu m2.
Quỹ đất để thành phố đầu tư xây dựng thêm trường mới là còn rất eo hẹp còn khoảng 14%, hiện tại thành phố tìm cách cải tạo xây thêm tầng các trường học để mở rộng trường và thu hồi đất bỏ hoang của doanh nghiệp xây thêm trường công lập.
Tuy nhiên theo đáng giá chung sự phát triên đầu tư cho giáo dục của thành phố vẫn chưa đáp ứng nhu cầu của thành phố. Hàng năm vào mùa tựu trường tình trạng phụ huynh xếp hàng thức đêm nộp đơn cho con chuyển cấp vào các trường công lập tuy nhiên UBND thành phố và sở giáo dục đào tạo thành phố chưa có những chính sách giải pháp rõ ràng cho vấn đề này.
*Đầu tư cho y tế
Theo con số của Tổng cục Thống kê Việt Nam năm 2009, thành phố Hà Nội có 651 cơ sở khám chữa bệnh trực thuộc sở Y tế thành phố, trong đó có 41 bệnh viện, 29 phòng khám khu vực và 575 trạm y tế. Số giường bệnh trực thuộc sở Y tế Hà Nội là 10.066 giường, chiếm khoảng một phần hai mươi số giường bệnh toàn quốc; tính trung bình ở Hà Nội 643 người/giường bệnh so với 307người/giường bệnh ở TPHCM. Điều này dẫn đến tình trạng nhiều bệnh viện 1 giường bệnh có đến 2-3 bệnh nhân nằm điều trị là thường xuyên gặp. . UBND Thành phố đã phê duyệt dự án xây dựng bệnh viện Nhiệt đới Trung ương với sức chứa 1000 giường tại xã Kim Chung, huyện Đông Anh.
Hoạt động đầu tư cho giáo dục và y tế của thành phố mỗi năm đều được gia tăng đáp ứng nhu cầu phúc lợi của xã hội.
b) Hạn chế:
Mặc dù đã đạt được nhiều kết quả khả quan trong hoạt động đầu tư sử dụng vốn ngân sách cả về số lượng và chất lượng tuy nhiên vẫn còn nhiều hạn chế. Kết quả dật được chưa tương xứng với kỳ vọng và số lượng vốn đầu tư đã bỏ ra. Tình trạng ùn tắc giao thông vẫn diễn ra hàng ngày trong hai năm gần đây ngày càng nghiêm trọng hơn. Các công trình giao thông được xây dựng vẫn còn thiếu đồng bộ, chưa có kế hoạch chính xác. Hệ thống hạ tầng đô thị nhà ở vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu nhà ở của người dân thành phố, hiện tại nhà ở dành cho người có thu nhập thấp vẫn chỉ có một số lượng nhỏ đến với người thật sự có nhu cầu. Hệ thống cấp thoát nước của thành phố sau trận lụt năm 2008 đã bộc lộ tất cả mặt hạn chế vốn có, thành phố vẫn còn những con phố ngập lụt. Các dự án về giáo dục thiếu đất trầm trọng. Các dự án về y tế còn chậm triển khai. Có thể thấy chủ yếu các dự án sử dụng vốn ngân sách có thời gian kéo dài so với kế hoạch đề ra, vốn giải ngân còn chậm hiệu quả chưa thực sự phát huy tác dụng, thường xuyên các thanh tra của nhà nước và thành phố vài cuộc kiểm tra. Chất lượng của các công trình này vẫn còn chưa cao thường xuyên cần tu bổ, cải tao mặc dù mới đi vào hoạt động.
c) Nguyên nhân:
-Nguyên nhân khách quan:
+Tình hình phát triển của kinh tế thời gian qua gặp nhiều khó khăn ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư đặc biệt là số vốn đầu tư. Chính phủ thường xuyên thay đổi các chính sách tài khóa đối phó với lạm phát ngày càng tăng của nền kinh tế.
+Do điều kiện tự nhiên, khí hậu không ổn định.
-Nguyên nhân chủ quan:
+Yếu kém trong khâu quản lý thanh tra giám sát hoạt động đầu tư
+Tình trạng giải phóng mặt bằng còn nhiều bất cập. Chủ đầu tư không thỏa thuận được mức giá giải phóng mặt bằng với người dân, nhà tái định cư cho người dân còn kém chất lượng.
+Phẩm chất đạo đức của cán bộ còn yếu, xuất hiện tình trạng tham ô tham nhungc rút ruột công trình của các dự án ngân sách.
+Quá trình quy hoạch của thành phố vẫn còn nhiều bất cập như nhà ở, giao thông khiến quá trình xây dựng thường xuyên kéo dài hoặc xây dựng xong không đưa vào sử dụng được gây thất thoát lãng phí
Chương III: Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư sử dụng vốn ngân sách nhà nước tại Hà Nội
Định hướng đối với hoạt động đầu tư sử dụng vốn ngân sách nhà nước tại Hà Nội
Định hướng về phát triển kinh tế xã hội Hà Nội nói chung
Thành phố Hà Nội phát huy các kết quả đã đạt được trong những năm qua, tiếp tục nêu cao tinh thần tự lực tự cường, tích cực phát huy nội lực, tranh thủ có hiệu qủa sự giúp đỡ của cấp trên và các nguồn lực từ bên ngoài; tập trung phát triển kinh tế với tốc độ cao bền vững, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ về cơ cấu kinh tế theo đúng định hướng.
Theo Báo cáo tổng hợp Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội thành phố Hà Nội đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 của UBND Thành phố Hà Nội:
-Hà Nội phát triển xứng đáng là thủ đô trung tâm kinh tế chính trị của cả nước. Hình thành hệ thống các khu hành chính, chính trị của Trung ương Thành phố, có hệ thống công sở hiện đại và với những kiến trúc đặc trưng tiêu biểu của Thủ đô một nước Việt Nam phát triển.
-Vào năm 2030, Hà Nội sẽ là một thủ đô văn minh với tổ chức xã hội phù hợp với trình độ tiên tiến về kinh tế tri thức và công trình văn hóa tiêu biểu của cả nước.
-Hà Nội sẽ là thủ đô có không gian xanh đẹp hiện đại. có kiến trúc đô thị mang dấu ấn của một thủ đô ngàn năm văn hiến và mang đậm bản sắc văn hóa của cả dân tộc.
-Về kinh tế, Hà Nội sẽ khẳng định hướng chủ đạo của kinh tế tri thức ( phát triển các ngành, sản phẩm chất lượng cao, sử dụng nguồn nhân lực trình độ cao, phương thức quản lý kinh tế hiện đại, tiên tiến) ; cơ cấu kinh tế với tỷ trọng khu vực dịch vụ và công nghiệp chiếm tỷ trọng trên 98% với các ngành dịch vụ sản xuất, dịch vụ tiêu dùng chất lượng cao và trở thành trung tâm dịch vụ, đặc biệt là dịch vụ tài chính ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán, trung tâm du lịch, trung tâm giao thương và phân phối hàng hóa: công nghiệp công nghệ cao và nông nghiệp đô thị sinh thái. Tỷ lệ lao động qua đào tạo trên 85%, trong đó có 20% lao động có trình độ cao trong tổng số lao động.
-Về phát triển đô thị và kết cấu hạ tầng: Đến năm 2030, tỷ lệ đô thị hóa sẽ đạt khoảng 67-70%. Kết cấu hạ tầng đô thị được xây dựng đồng bộ, hiện đại. Hệ thống các mạng giao thông vành đai, đường hướng tâm được gắn kết với mạng giao thông đô thị với nhiều lọa hình chuyên chở quy mô lớn như đường sắt đô thị, tàu điện ngầm…, kết nối ngoại vùng, nội đô thuận lợi; hệ thống cầu được xây dựng với những kiến trúc đa dạng tạo điểm nhấn trong không gian; hạ tầng thông tin và truyền thông, mạng cấp điện, cấp nước và các công trình bảo vệ môi trường, các công sở, khu dân cư…, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội và nhu cầu ngày càng cao của người dân thành phố.
-Thủ đô Hà Nội sẽ là một đô thị sinh thái, môi trường trong sạch, có sự gắn kết hài hòa các yếu tố tự nhiên-xã hội-con người trên một không gian đô thị phát triển bền vững.
-Hà Nội là thành phố an toàn, yên bình, quốc phồng được đảm bảo.
Định hướng đối với hoạt động đầu tư phát triển sử dụng vốn ngân sách.
a) Đối với hoạt động đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng:
-Hoạt động đầu tư phát triển giao thông cầu đường:
Phát triển giao thông phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội của thủ đô và các vùng xung quanh. Giải quyết ách tắc giao thông với xây dựng cơ sở hạ tầng đồng bộ, bền vững lâu dài. Nhanh chóng đầu tư xây dựng các tuyến vận tải công cộng khối lượng lớn như đường sắt trên cao, tàu điện ngầm.
+Cải tạo, mở rộng các quốc lộ hướng tâm hiện tại lên thành đường có 4 đến 6 làn xe cơ giới, gồm: quốc lộ 1A; quốc lộ 6; quốc lộ 32;quốc lộ 2; quốc lộ 3
+Xây dựng các đường cao tốc song hành với các quốc lộ có lưu lượng lớn, các đường vành đai liên vùng.
+Mỏ rộng, kết hợp xây dựng mới các trục chính đô thị của Thủ đô bao gồm đường Lê Văn Lương kéo dài, đường 5 kéo dài…
+Nâng cấp, mở rộng các bến xe đối ngoại, mạng lưới các điểm đỗ xe và bãi xe công cộng, bến xe tại các đô thị vệ tinh, thị trấn…
-Hệ thống cấp thoát nước
Mục tiêu: phấn đấu đến năm 2020, về cơ bản tất cả dân cư được cấp nước hợp vệ sinh, trong đó bình quân cấp nước đô thị đạt 150-180 l/người.ngày.đêm. Nâng cao chất lượng và năng lực quản lý mạng lưới cấp nước. Giảm tỷ lệ thất thoát, thất thu nước sạch xuống còn khoảng 24-26% vào năm 2020. Hoàn thành Dự án 2 – Dự án thoát nước nhằm cải thiện môi trường Hà Nội cho khu vực nội thành Hà Nội cũ (lưu vực sông Lừ, sông Sét, sông Kim Ngưu và sông Tô Lịch). Cải tạo các tuyến sông, mương thoát nước trong khu vực nội thành. Triển khai dự án thoát nước lưu vực sông Nhuệ, dự án thoát nước cho khu vực phát triển đô thị nằm giữa lưu vực Hữu Nhuệ Và Tả Đáy.
-Đầu tư phát triển hạ tầng đô thị nhà ở
Cải thiện trung cấp chuyên nghiệp) để đảm bảo tiêu chuẩn các trường quốc gia.
c) Đối với hoạt động đầu tư phát triển y tế
Phát triển hệ thống y tế hoàn chỉnh, vừa phổ cập vừa chuyên sâu nhằm đáp ứng tốt nhu cầu chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân Thủ đô Hà Nội, khu vực phụ cận. Phấn đấu đến năm 2015 đạt tỷ lệ 20 giường bệnh/10.000 dân ( kể cả bệnh viện tuyến Trung ương là 34-35 giường bệnh/ 10.000 dân) và khoảng 25 giường bệnh/10.000 dân năm 2020 (kể cả bệnh viện tuyến Trung ương là 41-42 giường bệnh/10.000 dân). Củng cố nâng cấp toàn bộ hệ thống y tế cơ sở trên địa bàn thành phố đảm bảo đáp ứng thuận tiên, nhanh chóng với chất lượng dịch vụ tốt nhất mọi nhu cầu chăm sóc sức khỏe thiết yếu của người dân về khám chữa bệnh, phòng bệnh, phòng dịch.
d) Định hướng về vốn ngân sách
Dự kiến nhu cầu vốn đầu tư toàn xã hội của Hà Nội khoảng 1.400-1.500 nghìn tỷ đồng thời kỳ 2011-2015 và khoảng 2.500-2.600 nghìn tỷ đồng thời kỳ 2016-2020. Về cơ cấu đầu tư theo nguồn vốn, dự kiến đầu tư từ ngân sách Nhà nước giảm dần ( giai đoạn 2011-2015 là 18% và giai đoạn 2016-2020 là 16%). Nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước trong đó có cả từ ngân sách Trung ương và ngân sách Thành phố dành chủ yếu cho phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hôi. Dự kiến vốn đầu tư từ ngân sách sẽ đáp ứng được khoảng 16-18% nhu cầu vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước cần tăng tỷ lệ tích lũy từ nội bộ nền kinh tế của thành phố, tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng cao và có các biện pháp khuyến khích tiết kiệm cho đầu tư phát triển. Kêu gọi Trung ương đầu tư vào công trình kết cấu hạ tầng lớn của mạng lưới giao thông, thủy lợi, bệnh viện, trường đại học, các công trình kết cấu hạ tầng quy mô vùng… trên địa bàn thành phố, tập trung vào lĩnh vực xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật, bảo vệ môi trường như hệ thống cấp nước, thoát nước và xử lý nước thải, xử lý chất thải rắn. Dự kiến nguồn đầu tư từ ngân sách Trung ương đáp ứng 7-8% nhu cầu vốn đầu tư trên địa bàn Thủ đô.
Nâng cao hiệu quả đầu tư, chống lãng phí, thất thoát trong đầu tư từ ngân sách Nhà nước. Thực hiện lồng ghép các nguồn vốn của các Chương trình quốc gia, các dự án hỗ trợ của quốc tế để tạo sức mạnh tổng hợp của các nguồn vốn và nâng cao hiệu quả vốn đầu tư
Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư phát triển sử dụng vốn ngân sách nhà nước.
Giải pháp để huy động và sử dụng hiệu quả vốn ngân sách Nhà nước cho từng ngành lĩnh vực cụ thể
Đối với đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng và phát triển đô thị: Đây là ngành được đầu tư nhiều trong những năm qua, lượng vốn ngân sách đầu tư cũng tương đối lớn so với các ngành khác. Trong những năm tiếp theo muốn cho hiệu quả đầu tư cao thì các dự án phải được đầu tư theo đúng kế hoạch và quy hoạch được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Phải huy động đủ vốn đầu tư cho các dự án, tránh trường hợp đầu tư giữa đầu tư giư chừng làm thất thoát vốn đầu tư.
Nâng cao chất lượng công tác kế hoạch hóa huy động và sử dụng vốn ngân sách cho hoạt động đầu tư phát triển
Yếu tố quan trọng hàng đầu là sử dụng có hiệu quả các nguồn lực cho đầu tư phát triển kinh tế xã hội ở địa phương, trong đó vốn đầu tư từ nguồn ngân sách Nhà nước là rất quan trọng. Việc tập trung cho công tác kế hoạch hoá là yếu tố hàng đầu nhằm thực hiện phương hướng, nhiệm vụ, cơ cấu, mục tiêu, kế hoạch đề ra tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các dự án đầu tư.
Công tác kế hoạch hoá phải làm một cách từ tổng thể đến chi tiết, phải có quy hoạch phát triển cho các ngành kinh tế mũi nhọn, các nhành kinh tế phục vụ dân sinh, các quy hoạch phát triển nông nghiệp và nông thôn... Dự báo nhu cầu về vốn đầu tư cho các thời kỳ cụ thể, các kế hoạch dài hạn, trung hạn, ngắn từng bước nhà ở ngoại thành. Tăng cường công tác quản lý quy hoạch, kiến trúc xây dựng ở nông thôn cho phù hợp với quá trình đô thị hóa; kết hợp hài hòa giữa nét đẹp truyền thống của làng xóm với tính hiện đại của nông thôn đô thị. Tiếp tục đầu tư nhiều hơn nữa vào các dự án xây dựng nhà ở cho người có thu nhập thấp
b) Đối với hoạt động đầu tư phát triển giáo dục
Các chỉ tiêu cơ bản đến năm 2020:
+Tỷ lệ học 2 buổi/ ngày: Tiểu học đạt trên 90%; Trung học cơ sở đạt trên 50%
+Tỷ lệ trường đạt chuẩn quốc gia 65-70%
+100% trường học kên cố hóa, tiến dần hiện đại hóa
Ưu tiên đầu trư phát triển mạng lưới trường lớp tại khu vực nông thôn miền núi, các địa bàn gặp nhiều khó khăn. Từng bước giảm sự chênh lệch về điều kiện cơ sở vật chất và trình độ giáo viên giữa các trường phổ thông. Ưu tiên dành quỹ đất cho các trường học (các trường phổ thông, mầm non và các trường đại học, cao đẳng, hạn được nghiên cứu cụ thể nhằm phục vụ định hướng cho đầu tư phát triển trên địa bàn. Tăng cường chất lượng nghiên cứu chiến lược, quy hoạch, kế hoạch trung hạn và ngắn hạn đối với ngành, lãnh thổ để đưa ra các kế hoạch hàng năm. Quy hoạch và kế hoạch phải phù hợp với quy hoạch, kế hoạch của tỉnh thành phố Hà Nội, của cả nước; phù hợp với tình hình thực tế của địa phương; có mối liên hệ mật thiết với các chính sách phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương liền kề để có thể tận dụng được các lợi thế của mình.
Có kế hoạch sử huy động và sử dụng GDP vào ngân sách Nhà nước, huy động các nguồn vốn khác như vốn từ các doanh nghiệp, vốn trong dân cư, vốn từ các tổ chức kinh tế, các tổ chức quốc tế để cùng với nguồn vốn Ngân sách Nhà nước tập trung đầu tư phát triển kinh tế địa phương. Trích một phần GDP để bổ sung vào nguồn vốn cho phát triển cơ sở hạ tầng của thành phố.
Kế hoạch hàng năm phải được coi trọng, lên kế hoạch cụ thể đối với các dự án trọng tâm trọng điểm hàng năm, quan tâm tới các dự án đầu tư thuộc nguồn vốn khác ngoài nguồn vốn Ngân sách.
Năng động, sáng tạo trong công tác kế hoạch. Tạo ra sự định hướng cho toàn bộ nền kinh tế, lấy yếu tố đầu tư là cốt lõi cho sự phát triển kinh tế- xã hội.
Tăng cường công tác dự báo kinh tế, phát huy các lợi thế của mình đã có để thu hút vốn đầu tư, sử dụng vốn đầu tư sao cho có hiệu quả nhất về mặt kinh tế cung như về mặt xã hội. Muốn làm tốt công tác này thì công tác thống kê, kế toán, điều tra xã hội học phải được cũng cố tăng cường. Kết hợp với các chuyên gia đầu ngành về dự báo kinh tế để xây dựng một hệ thống dự báo tình hình kinh tế địa phương trong những năm tới, trước mắt là cho giai đoạn 2006 – 2010 và đến năm 2015.
Có kế hoạch phân chia vốn một cách hợp lý cho các dự án xây dựng kết cấu hạ tầng nhằm khuyến khích phát triển kinh tế và thu hút vốn đầu tư.
Kế hoạch hóa phải xây dựng theo các các nguyên tắc:
+ Kế hoạch hoá phải xuất phát từ nhu cầu của nền kinh tế
+Kế hoạch hoá phải có độ tin cậy và tính tối ưu.
+Kế hoạch hoá phải kết hợp tốt với kế hoạch năm và kế hoạch dài hạn.
+Kế hoạch hoá đầu tư phải dựa vào các định hướng phát triển kinh tế lâu dài của địa phương, phù hợp với các quy định của pháp luật.
+Kế hoạch hoá phải có mục tiêu rõ ràng, không thể nêu ra kế hoạch một cách chung chung, thiếu tính rõ ràng, không khoa học.
+Phải dựa vào kế hoạch định hướng của Nhà nước, kế hoạch định hướng của
+Nhà nước là kế hoạch chủ yếu.
+Kế hoạch đầu tư trực tiếp phải được xây dựng từ dưới lên.
+Kế hoạch phải có tính linh hoạt kịp thời.
+Kế hoạch hoá phải đảm bảo tính khoa học và đồng bộ.
Quản lý vốn đầu tư phải chặt chẽ, khoa học đúng trình tự và đúng quy định của các văn bản pháp luật liên quan đến đầu tư. Khi đưa ra các kế hoạch, các chương trình đầu tư phát triển hàng năm, 5 năm, 10 năm phải nghiên cứu một cáh tỷ mỷ, nghiêm túc từ kế hoạch huy động vốn cho đến kế hoạch triển khai các dự án đầu tư.
Tránh tình trạng đầu tư dàn trải, đầu tư không trọng tâm, trọng điểm làm thất thoát vốn đầu tư. Cần đầu tư vào trọng điểm những ngành, những lĩnh vực có vai trò quyết định, có tốc độ phát triển kinh tế cao nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Trong những năm qua chúng ta đã có rất nhiều chương trình đầu tư đem lại hiệu quả không cao do đầu tư dàn trải vốn như chương trình mía đường quốc gia làm thất thoát một lượng vốn rất lớn của ngân sách Nhà nước. Các dự án kéo dài thời gian thi công do thiếu vốn đã gây ra nhiều sự lãng phí không đáng có. Đây là cái mà các địa phương cần phải khác phục trong nhưng năm tới.
Tăng cường công tác huy động vốn đầu tư ngoài vốn ngân sách Nhà nước để đầu tư có hiệu quả tránh sự phụ thuộc quá nhiều vào vốn ngân sách
Tăng cường khuyến khích các cá nhân bỏ vốn để cùng Nhà nước xây dựng cơ sở hạ tầng như đường giao thông (đặc biệt là giao thông nông thôn), xây dựng các công trình thuỷ lợi, các công trình phụ vụ công cộng như công viên, các khu vui chơi - giải trí....
Tạo nguồn vốn tự có của địa phương để đầu tư phát triển. Tăng cường công tác thu - chi ngân sách trên địa bàn sao cho có hiệu quả nhất. Đẩy nhanh quá trình tích luỹ nội bộ, thực hiện tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng. Tập trung khai thác các nguồn thu trên địa bàn, Thực hiện thu đúng thu đủ, thu kịp thời, chống thất thu thuế của Nhà nước. Nguồn vốn tự có của địa phương như thu ngân sách, thu từ các hoạt động kinh tế khác để bổ sung cho nguồn vốn ngân sách Nhà nước mà thị xã Hồng Lĩnh được cấp. các dự án đã đưa vào quản lý như các nhà máy nước, nhà máy cơ khí phải được quản lý tốt, làm ăn có lãi.
Giảm thiểu các thủ tục giấy tờ trong việc cấp giấy phép đầu tư, cho thuê đất đối với các thành phần kinh tế, công tác giải phóng mặt bằng phải đảm bảo nhanh gọn để các dự án có thể tiến hành được thuận lợi. Khuyến khích đầu tư, thực hiện tốt chế độ “một cửa” tập trung các vấn đề liên quan đến đầu tư vào một phòng chức năng.
Nâng cao chất lượng dự án, đặc biệt là dự án khả thi
Chất lượng dự án được thể hiện qua đơn vị lập dự án, cán bộ lập dự án, thời gian lập dự án, tính khách quan của dự án.... làm tốt công tác lập và thẩm định dự án thì chúng ta đã làm tốt được một phần nâng cao hiệu quả đầu tư.
Các dự án đầu tư quan trọng khi lập dự án khả thi phải có đủ thời gian cần thiết cho các nhà tư vấn đủ điều kiện thu thập, nghiên cứu khảo nghiệm các dự án liên quan đến dự án đầu tư. Thời gian càng dài thì số liệu nghiên cứu của các dự án khả thi càng chính xác, độ tin cậy càng cao từ đó kết quả của dự án mang lại càng chính xác và làm tăng hiệu quả của các đồng vốn bỏ ra đầu tư.
Khi lập dự án khả thi phải độc lập khách quan, và các nhà lập dự án khả thi phải chịu trách nhiệm trước pháp luật đối với các kết luận của mình trong dự án.
Cơ quan thẩm định dự án đầu tư phải có trình độ và công tâm trong việc xem xét các yếu tố, các số liệu cần và đủ để các nhà tư vấn khẳng định tính khả thi của dự án.
Các dự án phải tuân thủ các văn bản pháp luật có liên quan đến lĩnh vực đầu tư cũng như các lĩnh vực khác mà dự án hướng tới.
Về công tác chọn nhà thầu và khảo sát thiết kế
Công tác tuyển chọn nhà thầu đóng vai trò quyết định trong số các yếu tố cấu nên sự thành bại của một công cuộc đầu tư nói chung và của một dự án đầu tư nói riêng. Nhà thầu có đầy đủ năng lực về tài chính, về kỹ thuật, về nhân sự... sẽ đảm bảo cho chất lượng dự án dự án, hoàn thành dự án đúng tiến độ.
Khi tuyển chọn nhà thầu, muốn công trình được đảm bảo thì cơ quan tư vấn tuyển chọn nhà thầu, các nhà tuyển chọn phải có năng lực chuyên môn, phải thực sự công tâm và phải chịu hoàn toàn trách nhiệm của mình trước pháp luật. Không nên chọn nhà thầu không có đủ năng lực chuyên môn. Đối với công tác tư vấn, vì đây là một lĩnh vực đặc thù, giá trị của nó phụ thuộc vào “chất xám” của nhà tư vấn cũng như các thiết bị chuyên dùng của họ nên khi tuyển chọn cần xêm xét một cách kỹ lưỡng, đặc biệt là các dự án, công trình họ đã thực hiện trước đây.
Đối với các dự án đòi hỏi phải khảo sát thiết kế như khảo sát địa chất, khảo sát thuỷ văn, khảo sát về văn hoá vùng dân cư mà công trình dự định đặt tại đó... thì phải khảo sát chặt chẽ, tránh tình trạng công trình xây dựng xong đi vào sử dụng một thời gian thì bị hư hỏng, không đảm bảo chất lượng do các yếu tố địa chất, thời tiết, thuỷ văn không phù hợp.
Đối với các công trình đặc thù như thiết kế thi công các công trình xây dựng, các công trình mỹ thuật, tượng đài, nghĩa trang thì phải nghiên cứu kỹ lưỡng về địa điểm đặt dự án, thiết kế phải được xem xét từ nhiều góc độ, nhiều khía cạnh, nên tổ chức các cuộc thi để tuyển chọn những phương án tối ưu cho công trình. Làm được điều này sẽ tránh được thất thoát vốn đầu tư trong công tác khảo sát thiết kế.
Các công trình đầu tư vào lĩnh vực văn hoá - xã hội phải được nghiên cứu kỹ, phải tạo ra được sự tranh đua trong công tác đấu thầu tuyển chọn thì mới chọn được nhà thầu phù hợp, đáp ứng được yêu cầu đề ra.
Chi phí khảo sát thiết kế các công trình phải được đảm bảo. Tránh tình trạng như ở các địa phương đi trước do chi phí khảo sát thiết kế cao đã bỏ qua hoặc khảo sát, thiết kế “qua loa” dẫn đến công trình đầu tư xong chất lượng không đảm bảo, làm thất thoát một lượng vốn đầu tư lớn của Nhà nước
Nâng cao năng lực cán bộ quản lý vốn đầu tư và đào tạo đủ cán bộ cho công tác kế hoạch - đầu tư của thành phố Hà Nội trong những năm tới.
Công tác phân bổ và bố trí cán bộ: Phải phân bổ và bố trí hợp lý cán bộ lĩnh vực đầu tư, xây dựng hợp lý, đủ về số lượng và chất lượng
Tập trung xây dựng và cũng cố tổ chức bộ máy quản lý đầu tư từ cấp trên trở xuống, nâng cao hiệu quả công tác quản lý đầu tư của cán bộ phụ trách trong lĩnh vực này. Tăng cường công tác kiểm tra thanh tra và xử lý đúng mức các tổ chức, cá nhân có vi phạm trong hoạt động quản lý đầu tư. Cụ thể hàng tháng hoặc hàng quý nên thành lập đoàn kiểm tra tới các công trình xây dựng, thành viên của đoàn kiểm tra là liên ngành gồm có công an, cán bộ phòng lao động thương binh xã hội, văn hóa, cán bộ về quản lý vốn , xây dựng …và thay đổi thường xuyên để tránh sự móc nối, tiêu cực có thể xẩy ra.
Các văn bản liên quan đến lĩnh vực đầu tư nói chung cũng như quản lý vốn đầu tư nói riêng thay đổi liên tục để phù hợp với xu thế mới, chính vì vậy cán bộ quản lý vốn đầu tư cũng phải tích cực học hỏi nâng cao trình độ hiểu biết của mình để phục vụ tốt công tác.
Đào tạo và đào tạo lại cán bộ quản lý dự án đầu tư
Sưu tầm bởi: www.daihoc.com.vn
KẾT LUẬN
Thực hiện những năm qua cho thấy để có được Hà Nội như hiện nay phải kể đến sự đóng góp không nhỏ từ nguồn vốn ngân sách nhà nước. Không chỉ góp phần làm tăng GDP của Hà Nội nói riêng và của cả nước nói chung mà còn góp phần giải quyết nhiều vấn đề dân sinh, tạo ra thêm nhiều công ăn việc làm cho người lao động, nâng cao mức sống của người dân Hà Nội; cải thiện hệ thống giao thông, cơ sở vật chất… mở ra cho Hà Nội nhiều cơ hội phát triển hơn nữa.
Để Hà Nội trở thành một thành phố công nghiệp, phát triển mạnh hơn nữa và thực hiện được các mục tiêu đặt ra thì vấn đề quan trọng nhất là cần có những chính sách và biện pháp thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước. Thực tế trong những năm qua hiệu quả nguồn vốn ngân sách vào các ngành chưa tương xứng với nhu cầu phát triển của xã hôi. Nguồn vốn ngân sách nhà nước có vai trò quan trọng trong việc định hướng và đầu tư phát triển cho các lĩnh vực quan trọng đối với sự phát triển chung của toàn bộ nền kinh tế.
Trước những thách thức rất gay gắt và cạnh tranh quyết liệt, nhất là trong bối cảnh kinh tế, xã hội của đất nước nói chung và của thành phố nói riêng cần phải có sự nghiên cứu, xem xét một cách nghiêm túc đến cơ chế, chính sách, và việc thực hiện, triển khai các hoạt động đầu tư phát triển sử dụng vốn ngân sách trên địa bàn thành phố. Từ đó đưa ra được những quyết sách phù hợp và đúng đắn đưa hoạt động đầu tư nói riêng và hoạt động phát triển kinh tế xã hội của thành phố nói chung lên một tầm cao mới. Đó cúng chính là vấn đề mà đề tài quan tâm.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- DE AN NGOC.docx