Đối với bên đặt gia công
- Tận dụng được nguồn lao động với chi phí nhân công thấp của nước nhận gia công, do đó giảm chi phí sản xuất, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa. Hơn nữa, nước đặt gia công còn tận dụng được nguồn chất xám của nước nhận gia công mà không mất chi phí đào tạo ra nguồn nhân lực này. Chẳng hạn ở Việt Nam đó là những cán bộ, kỹ sư, cử nhân được đào tạo tại các trưòng đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp trong nước cũng như nước ngoài, mỗi năm số lượng sinh viên tốt nghiệp khá lớn.
- Tại các nước phát triển, ngoài chi phí nhân công rất cao thì giá thuê mặt bằng nhà xưởng cao cũng làm tăng đáng kể giá thành sản phẩm. Trong khi đó ở các nước đang phát triển thì giá thuê này thấp hơn cũng góp phần giảm giá thành sản phẩm.
- Nước đặt gia công có thể tiêu thụ được một lượng lớn nguyên vật liệu, tăng kim ngạch xuất khẩu. Với ưu thế về vốn, máy móc, trang thiết bị và công nghệ hiện đại, nước đặt gia công có khả năng sản xuất nguyên vật liệu với chất lượng cao. Việc xuất khẩu trực tiếp những nguyên vật liệu này thường không hiệu quả bằng đặt gia công ở các nước đang phát triển rồi thu thành phẩm và xuất khẩu. Hơn nữa, việc tiêu thụ thành phẩm dễ dàng hơn nhiều so với tiêu thụ nguyên vật liệu tại các nước phát triển.
78 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1370 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoạt động gia công hàng xuất khẩu tại Việt Nam hiện nay và thủ tục Hải quan đối với hàng gia công xuất khẩu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
doanh nghiệp nhận gia công để che mắt Hải quan nhằm trốn lậu thuế. Như vậy với chênh lệch giữa định mức và thực tế lớn như thế, nhất là với những hợp đồng gia công lớn thì mỗi năm nhà nước ta thất thu bao nhiêu đồng tiền thuế?
Điều này cho thấy việc kiểm tra, đối chiếu định mức của Hải quan là hết sức cần thiết và phải được tiến hành một cách trung thực, chính xác, chặt chẽ. Tuy nhiên đến nay vẫn chưa có một quy định nào của Bộ Thương mại và Bộ Tài chính được ban hành nhằm áp dụng chế độ phạt đối với các doanh nghiệp cố tình khai tăng định mức. Hiện nay, nếu Hải quan phát hiện khai sai thì cho phép hạ định mức xuống cho khớp mà doanh nghiệp không hề bị xử phạt gì. Như thế chẳng khác nào khuyến khích các doanh nghiệp cứ tiếp tục khai tăng định mức, nếu Hải quan không phát hiện được thì doanh nghiệp cứ thế mà tiếp tục thu lợi bất chính. Do đó, việc ban hành một văn bản luật để điều chỉnh vấn đề này là hết sức cần thiết hiện nay.
Một vấn đề nổi cộm nữa trong quản lý Hải quan đối với nguyên phụ liệu là làm thế nào để kiểm tra định mức vừa đảm bảo chặt chẽ, vừa không gây phiền hà, chậm trễ, tốn kém cho các doanh nghiệp. Việc kiểm tra thực tế đối với hàng nguyên phụ liệu nhập khẩu phục vụ gia công không phải lúc nào cũng có thể thực hiện được do tính chất phức tạp của nguyên phụ liệu, do đó việc kiểm tra định mức không phải áp dụng cho tất cả các mặt hàng mà chỉ cho một số mặt hàng có thể kiểm tra được. Hơn nữa, công việc này cũng phần nào dựa vào cảm tính của công chức Hải quan, họ là người quyết định xem định mức đó có sát với thực tế hay không.
Rõ ràng kiểm tra định mức là cần thiết nhưng phương thức kiểm tra cho đến nay vẫn còn là một vấn đề tồn tại rất lớn trong công tác quản lý định mức của Hải quan đòi hỏi phải được giải quyết cấp bách.
2. Vấn đề quản lý nguyên phụ liệu dư thừa
Đến nay, việc xử lý nguyên phụ liệu dư thừa trong gia công hàng xuất khẩu vẫn là một vấn đề gây tranh cãi vì nó còn bất hợp lý và lãng phí. Trong quá trình gia công hàng hóa xuất nhập khẩu thường xuyên dư thừa nguyên phụ liệu, có nhiều nguyên nhân dẫn đến hiện tượng này nhưng có thể nêu ra một số nguyên nhân chính như sau:
Thứ nhất là do định mức tiêu hao nguyên vật liệu đã thỏa thuận trong hợp đồng cao hơn so với thực tế.
Thứ hai là do doanh nghiệp gia công đã không xuất số sản phẩm tương ứng với số nguyên phụ liệu đã nhập khẩu.
Thứ ba là do doanh nghiệp đã cải tiến thao tác, tiết kiệm triệt để số nguyên phụ liệu trong tỷ lệ hao hụt cho phép, vì thế đã dôi ra một số nguyên phụ liệu.
Để giải quyết số nguyên phụ liệu dư thừa này, Hải quan đã đưa ra những biện pháp xử lý tương đối linh hoạt như có thể xuất trả chủ hàng nước ngoài, chuyển sang hợp đồng sau, để lại tiêu thụ nội địa hoặc biếu tặng các tổ chức từ thiện, hoặc phải tiêu hủy nếu không còn sử dụng được nữa.
Tuy nhiên vấn đề gây tranh cãi ở đây lại chính là cách xử lý đối với nguyên phụ liệu để lại tiêu thụ nội địa. Theo Quyết định 126/TCHQ-QĐ của Tổng cục Hải quan thì nếu muốn để số nguyên phụ liệu dư thừa này tiêu thụ ở trong nội địa thì doanh nghiệp phải tiến hành nộp thuế nhập khẩu cho toàn bộ số nguyên phụ liệu dư thừa đó. Điều này không chỉ gây bất đồng giữa các doanh nghiệp làm hàng gia công với các cơ quan quản lý mà còn giữa các cơ quan quản lý với nhau vì nó liên quan đến một chỉ tiêu là tỷ lệ hao hụt nguyên phụ liệu cho phép.
Tỷ lệ hao hụt nguyên phụ liệu là một quy định không thể thiếu được trong các hợp đồng gia công, nhất là trong các hợp đồng gia công may mặc và da giày. Hai bên thỏa thuận điều khoản này để nhằm bù đắp cho phần nguyên phụ liệu bị lỗi, hư hỏng trong quá trình sản xuất. Nhưng tỷ lệ hao hụt ở mức nào thì hợp lý và cơ quan nào là người định ra tỷ lệ hao hụt này?
Để giải quyết vấn đề này, ngày 24/09/1997, Bộ Công nghiệp đã ban hành công văn số 3338/CV-KHĐT có ý kiến về một số vấn đề xung quanh việc quản lý hàng gia công, trong đó quy định tỷ lệ hao hụt với một số mặt hàng như sau:
- Đối với hàng dệt may, da giày bao gồm các loại vải, vải dệt kim, da nguyên liệu: tỷ lệ hao hụt là 3%
- Đối với mặt hàng khăn bông, khăn tắm: tỷ lệ hao hụt là 2%
- Đối với các loại phụ liệu: tỷ lệ hao hụt là 4%
Như vậy là khi quyết toán hợp đồng sẽ căn cứ vào định mức đã được thỏa thuận trong hợp đồng ngoại cộng với tỷ lệ hao hụt cho phép. Nếu trường hợp tỷ lệ hao hụt vượt quá định mức quy định trên xảy ra thì các doanh nghiệp phải có công văn giải trình gửi Bộ Công nghiệp và Tổng cục Hải quan kèm theo các hợp đồng đã ký kết để giải quyết. Với văn bản này, Bộ Công nghiệp đã đưa ra một quy định hoàn toàn mới so với trước, nghĩa là ngoài định mức tiêu hao nguyên phụ liệu trong hợp đồng ngoại thì doanh nghiệp đương nhiên được tính thêm số nguyên phụ liệu theo tỷ lệ hao hụt cho phép vào tổng số nguyên phụ liệu nhập khẩu khi kết thúc hợp đồng. Tuy nhiên từ quy định này lại nảy sinh ra 2 vấn đề mà có lẽ Bộ Công nghiệp cũng chưa thể giải quyết ngay được, đó là:
Thứ nhất, nếu tỷ lệ hao hụt không được thỏa thuận trong hợp đồng mà được ngầm xác định trong định mức của từng đơn vị sản phẩm rồi thì liệu doanh nghiệp nhận gia công có nhận được thêm số nguyên phụ liệu trong tỷ lệ hao hụt cho phép như quy định của Bộ Công nghiệp không?
Thứ hai, khi đã đưa ra tỷ lệ hao hụt cho phép nghĩa là nếu hợp đồng nào quy định mức hao hụt cao hơn thì khi thanh khoản hợp đồng phải hạ xuống đúng với mức "cho phép", còn nếu hợp đồng nào quy định mức hao hụt thấp hơn (vì đã có mức hao hụt ngầm hiểu giữa các bên) thì phải chấp nhận theo mức trong hợp đồng, không có cách gì để buộc bên đặt gia công phải chấp nhận tỷ lệ hao hụt do một bên đưa ra.
Nếu tỷ lệ hao hụt được quy định trong hợp đồng thấp hơn so với thực tế thì mọi hậu quả sau này doanh nghiệp phải tự gánh chịu, kể cả việc giảm hay triệt tiêu hiệu quả sản xuất của doanh nghiệp vì đây là lỗi do sự non yếu nghiệp vụ của bên nhận gia công khi ký kết hợp đồng, Nhà nước không thể đứng ra chịu thay cho doanh nghiệp được.
Đó là sự bất cập về tỷ lệ hao hụt cho phép giữa các cơ quan quản lý. Nhưng vấn đề gây tranh cãi nhiều nhất vẫn là vấn đề thuế đối với phần nguyên phụ liệu tiết kiệm được trong tỷ lệ hao hụt này vì nó ảnh hưởng trực tiếp tới quyền lợi của các doanh nghiệp.
Theo quan điểm của các doanh nghiệp thì hầu hết số nguyên phụ liệu dư thừa này là kết quả của sự đấu tranh, thương lượng với chủ hàng nước ngoài của doanh nghiệp nhận gia công. Bởi vậy, việc Hải quan thu thuế nhập khẩu đối với nguyên phụ liệu dư thừa này là rất bất hợp lý, không khuyến khích các doanh nghiệp nâng cao trình độ tay nghề, hợp lý hóa sản xuất và tiết kiệm nguyên phụ liệu nhập khẩu. Đơn cử như công ty may Đồng Tiến (Đồng Nai), theo giám đốc công ty cho biết thì có thể do định mức nguyên liệu không sát, do có nhã ý thưởng cho bạn hàng,... các đối tác nước ngoài thường gửi dư nguyên phụ liệu cho công ty và qua mấy năm số vải dư nói trên đã lên tới 17.000m. Mặc dù công ty không có nhu cầu sử dụng nhưng theo chế độ thuế hiện hành thì nếu cứ để số vải đó trong kho, Hải quan sẽ truy thu thuế nhập khẩu rất cao, tức là doanh nghiệp sẽ phải chịu thêm một gánh nặng về tài chính nữa. Và để tránh phải chịu một gánh nặng không đáng có như vậy thì việc xử lý như thế nào đối với nguyên phụ liệu dư thừa không còn chỉ là vấn đề của công ty may Đồng Tiến mà nó đã trở thành vấn đề đặt ra cho tất cả các doanh nghiệp kinh doanh gia công. Bởi lẽ nếu mang số nguyên phụ liệu dư thừa này đi làm từ thiện như tặng, ủng hộ cho các trại trẻ mồ côi, đồng bào vùng lũ lụt thì doanh nghiệp vẫn bị coi là sử dụng và tất nhiên vẫn phải nộp thuế nhập khẩu, còn nếu để tránh thiệt hại cho mình mà doanh nghiệp tổ chức huỷ bỏ số nguyên phụ liệu dư đó thì là một sự lãng phí bạc tỷ, nhất là trong điều kiện nước ta còn nghèo như hiện nay. Vậy các doanh nghiệp cần phải làm gì trong khi cơ chế vẫn chưa thay đổi để vừa tránh thiệt hại cho mình vừa tránh lãng phí cho Nhà nước?
Về phía các Bộ, ngành liên quan, quan điểm cụ thể như sau:
Theo Tổng cục thuế: “Các văn bản hướng dẫn của Bộ Tài chính về xử lý hoàn thuế đối với nguyên phụ liệu sản xuất hàng xuất khẩu đều quy định: việc xác định số nguyên phụ liệu tiêu hao sản xuất hàng xuất khẩu dựa trên định mức được duyệt và căn cứ vào mức tiêu hao thực tế”. Điều này có nghĩa là đối với phần nguyên phụ liệu dôi ra do tiết kiệm trong tỷ lệ hao hụt sẽ không được tính vào phần nguyên phụ liệu tiêu hao để sản xuất sản phẩm, nếu tiêu thụ tại thị trường Việt Nam thì phải nộp thuế nhập khẩu. Và để triển khai ý kiến của Bộ Tài chính, Tổng cục Hải quan đã hướng dẫn Hải quan các địa phương thực hiện như sau: sau khi kết thúc hợp đồng gia công hoặc phụ kiện hợp đồng gia công, nếu doanh nghiệp tiêu thụ nội địa số nguyên phụ liệu dôi ra do tiết kiệm trong tỷ lệ hao hụt cho phép thì phải khai báo với Hải quan nơi mở sổ theo dõi để làm thủ tục nhập khẩu như hàng nhập khẩu bình thường và khai trên tờ khai phi mậu dịch, việc áp giá, áp thuế suất thực hiện theo các quy định tại thời điểm mở tờ khai. Việc nộp thuế nhập khẩu áp dụng cho cả những hợp đồng gia công đã thanh khoản có phần nguyên phụ liệu dôi ra, doanh nghiệp đã tiêu thụ nội địa nhưng chưa nộp thuế nhập khẩu.
Trong khi đó, theo quan điểm của Bộ Thương mại và Bộ Công nghiệp thì tỷ lệ hao hụt là phần cấu thành trong sản phẩm trả cho bên thuê gia công, doanh nghiệp đương nhiên được sử dụng và không phải nộp thuế nhập khẩu.
Như vậy là ngay giữa các cơ quan quản lý cũng không có ý kiến thống nhất về vấn đề này. Vậy doanh nghiệp phải theo quan điểm nào? Tuy nhiên qua phân tích chúng ta thấy rằng, số nguyên phụ liệu dư thừa này chủ yếu phát sinh trong gia công hàng may mặc và da giày. Nếu định mức tiêu hao nguyên phụ liệu đã được tính toán kỹ thì đương nhiên người thợ khéo sẽ được hưởng số nguyên liệu dư ra và điều này không có gì phải bàn cãi. Nhưng trên thực tế hầu hết số nguyên phụ liệu dư thừa này có được là do định mức cao hơn so với thực tế, do đó việc doanh nghiệp phải nộp thuế nhập khẩu là hợp lý bởi doanh nghiệp chỉ phải nộp một số tiền thuế thay vì cùng mặt hàng đó phải xin hạn ngạch và mất tiền mua từ nước ngoài. Còn với số nguyên phụ liệu dư thừa như của Công ty may Đồng Tiến thì giải quyết thế nào? Nhà nước nên chăng quyết định sung công quỹ toàn bộ số nguyên liệu nhập khẩu dư của các doanh nghiệp gia công trong ngành may mặc, da giày.... rồi bán đấu giá thu ngân sách hoặc cấp phát, cứu trợ cho các đối tượng bảo trợ xã hội,....
Nhìn chung, vấn đề quản lý nguyên phụ liệu dư thừa vẫn còn nhiều ý kiến trái ngược nhau và rất cần được giải quyết triệt để tránh thất thu cho ngân sách Nhà nước cũng như lãng phí không đáng có cho doanh nghiệp.
3. Xử lý phế liệu, phế phẩm
Trong quá trình gia công khó có thể tránh khỏi việc sản xuất ra các sản phẩm không đủ quy cách phẩm chất hay nói cách khác là các sản phẩm bị lỗi mà nguyên nhân chính là do điều kiện kỹ thuật hoặc tay nghề công nhân. Việc tiêu hủy phế phẩm, phế liệu là để xử lý chúng khi không thể xuất cho bên thuê gia công hoặc tiêu thụ nội địa được nữa. Theo quy định thì nguyên phụ liệu thừa, sản phẩm thứ phẩm nếu không còn sử dụng được thì lập Hội đồng cho tiêu hủy, không thu thuế nhập khẩu. Tuy nhiên nhìn từ góc độ của một nước nghèo như nước ta thì rất nhiều những sản phẩm gọi là hỏng, là phế phẩm nhưng không phải là không còn giá trị gì. Bởi vậy, nếu tiến hành tiêu hủy thì rất lãng phí. Nhưng do quy định hiện nay, doanh nghiệp sẽ phải nộp một khoản thuế không nhỏ nếu như muốn tận dụng số thứ phẩm này mà hầu hết các doanh nghiệp không muốn như vậy. Ngược lại có những loại phế phẩm, phế liệu theo đúng nghĩa của nó cần phải được tiêu hủy ngay để tránh ô nhiễm môi trường và những chi phí không đáng có như chi phí bảo quản, chi phí kho bãi chứa phế liệu... nhưng thực tế chúng ta đã phải chi những khoản không đáng có vì phải chờ đầy đủ các ban bệ chức năng có mặt chứng kiến mới được phép tiêu hủy. Đây là một vấn đề còn bất cập hiện nay cần có quy định rõ ràng để tránh gây lãng phí.
4. Vấn đề nhãn mác hàng gia công xuất khẩu
Cho đến nay trên thế giới vẫn xảy ra rất nhiều những tranh chấp về nhãn mác hàng hóa mặc dù việc sử dụng nhãn mác của các hãng sản xuất đã được quy định thành những văn bản có tính chất pháp lý như: Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp, Thỏa ước Madrid về đăng ký quốc tế nhãn hiệu hàng hóa... ở Việt Nam, do sự thiếu hiểu biết của các doanh nghiệp và sự buông lỏng quản lý của các cơ quan chức năng nên vấn đề này trong một thời gian dài đã dẫn đến tình trạng các doanh nghiệp nhận gia công phải sử dụng nhãn mác nước ngoài trên sản phẩm gia công của mình.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề nhãn hiệu hàng hóa nói riêng và sở hữu công nghiệp nói chung, Việt Nam đã ban hành những văn bản pháp lý điều chỉnh như “Điều lệ nhãn hiệu hàng hóa” từ thập niên 80, “Pháp lệnh về sở hữu công nghiệp” được công bố rộng rãi vào tháng 2/1989 và Nghị định số 63/CP ngày 24/10/1996 của Chính phủ quy định chi tiết về sở hữu công nghiệp. Tuy nhiên trên thực tế, vấn đề vi phạm sở hữu công nghiệp của các doanh nghiệp nhận gia công của Việt Nam đã vượt quá tầm kiểm soát của Nhà nước. Việc quản lý các loại nhãn mác hàng hóa không chặt chẽ ngay từ khâu nhập khẩu nên các doanh nghiệp đã ký các hợp đồng gia công với nước ngoài (gia công hàng hóa có đính nhãn mác) mà không hề quan tâm đến chuyện kiểm duyệt xuất xứ, quyền sở hữu công nghiệp của nhãn mác. Chính việc làm này đã tạo kẽ hở cho bên đặt gia công nước ngoài lợi dụng. Không ít các thương nhân nước ngoài đã ký hợp đồng với các doanh nghiệp trong nước sản xuất hàng gia công có nhãn mác không có giấy phép sử dụng và vô hình chung các doanh nghiệp Việt Nam đã tiếp tay cho phía nước ngoài sản xuất hàng giả, hàng nhái. Tất nhiên hiện tượng này sẽ còn chưa dừng lại nếu như không có ý kiến của các hãng có sản phẩm bị làm giả khiến cho sản phẩm của họ mất dần uy tín trên thị trường.
Đứng trước thực trạng này, có thể thấy rằng dù cho các doanh nghiệp Việt Nam chỉ là bên nhận gia công nhưng trong mọi trường hợp thì phía doanh nghiệp Việt Nam vẫn là bên chịu thua thiệt, đồng thời gây ảnh hưởng không nhỏ đến lợi ích quốc gia. Bởi vậy để chấn chỉnh tình hình và lập lại trật tự, Bộ Thương mại đã có công văn gửi Bộ Khoa học công nghệ và môi trường, Tổng cục Hải quan, UBND các tỉnh, thành phố đề nghị thông báo cho các cơ sở sản xuất kinh doanh yêu cầu họ chấm dứt ngay những vi phạm về sở hữu công nghiệp. Cục Sở hữu công nghiệp (Bộ Khoa học công nghệ và môi trường) đã ban hành công văn số 213/PC-QL ngày 06/05/1995 về việc quản lý hàng hoá xuất khẩu mang nhãn hiệu nước ngoài. Công văn này quy định: theo pháp luật về nhãn hiệu hàng hoá của Việt Nam và của hầu hết các nước trên thế giới, theo Công ước Pari về bảo hộ sở hữu công nghiệp và Thoả ước Madrid về đăng ký quốc tế nhãn hiệu hàng hoá (Việt Nam là thành viên) thì hàng hoá xuất khẩu mang nhãn hiệu phải là hàng hoá được sản xuất và lưu thông hợp pháp tức là việc sản xuất hàng hoá không vi phạm pháp luật nhãn hiệu hàng hoá tại nước mà hàng hoá được sản xuất (nước xuất khẩu), cụ thể là tại nước xuất khẩu người sản xuất hàng hoá phải là chủ nhãn hiệu hoặc người được chủ nhãn hiệu cấp li-xăng sử dụng nhãn hiệu đó; hoặc tại nước xuất khẩu, nhãn hiệu đó không thuộc quyền sở hữu của phía thứ ba. Đối với hàng hóa được sản xuất ở Việt Nam có gắn nhãn hiệu, khi làm thủ tục xuất khẩu cơ quan Hải quan cần yêu cầu chủ hàng chứng minh được hàng hóa xuất khẩu đã được sản xuất một cách hợp pháp về phương diện sở hữu công nghiệp và việc sản xuất đó không vi phạm quyền sở hữu nhãn hiệu tại Việt Nam của người khác. Điều 12 Nghị định 57/1998/NĐ-CP quy định hợp đồng gia công phải bao gồm điều khoản “Nhãn hiệu hàng hóa và tên gọi xuất xứ hàng hóa”. Đồng thời Khoản 3 mục II Thông tư số 07/2000/TT-TCHQ quy định nhãn hiệu và tên gọi xuất xứ hàng hóa của sản phẩm gia công trong hợp đồng gia công phải là đối tượng sở hữu công nghiệp theo quy định tại Điều 785 và Điều 786 Bộ luật Dân sự năm 1995 và Điều 6, Điều 7 Nghị định 63/CP ngày 24/10/1996 của Chính phủ. Tại Khoản này cũng quy định trong hợp đồng gia công/phụ kiện hợp đồng gia công phải ghi rõ nhãn hiệu hàng hóa, tên gọi xuất xứ hàng hóa sẽ được gắn lên sản phẩm. Nếu trong hợp đồng gia công/phụ kiện hợp đồng gia công, bên thuê gia công cam kết chịu trách nhiệm về việc sử dụng nhãn hiệu hàng hóa, tên gọi xuất xứ hàng hóa và chịu trách nhiệm giải quyết các tranh chấp liên quan đến việc sử dụng nhãn hiệu hàng hóa, tên gọi xuất xứ hàng hóa đó thì sản phẩm gia công được gắn nhãn hiệu hàng hóa và tên gọi xuất xứ thỏa thuận trong hợp đồng/phụ kiện hợp đồng. Trường hợp nhãn hiệu hàng hóa, tên gọi xuất xứ hàng hóa đó trùng với nhãn hiệu và tên gọi xuất xứ hàng hóa đã được đăng ký bảo hộ tại Việt Nam thì phải có giấy chứng nhận của Cục Sở hữu Công nghiệp Việt Nam. Người có nhãn hiệu hàng hóa, tên gọi xuất xứ hàng hóa được cấp văn bằng bảo hộ tại Việt Nam muốn bảo vệ quyền lợi của mình trong lĩnh vực gia công hàng hóa cho nước ngoài phải mang văn bằng này đến đăng ký với đơn vị Hải quan làm thủ tục hàng gia công. Nếu không đăng ký, cơ quan Hải quan không có trách nhiệm bảo vệ trong trường hợp có người khác sử dụng nhãn hiệu, tên gọi xuất xứ hàng hóa đó.
Những quy định của các cơ quan chức năng về vấn đề nhãn mác là đúng và tỏ ra kín kẽ trong việc ngăn chặn tình trạng sử dụng bừa bãi nhãn hiệu hay đúng hơn là tệ nạn sản xuất hàng giả, hàng nhái. Nhưng trên thực tế khi đưa các văn bản này vào áp dụng thì lại nảy sinh nhiều vướng mắc và bất cập, chủ yếu tập trung ở một số điểm sau:
Thứ nhất, các doanh nghiệp kinh doanh gia công của Việt Nam tiếng là doanh nghiệp nhận gia công, là một chủ thể của hợp đồng gia công nhưng thực chất chỉ là người đi làm thuê và phải tuân thủ mọi quy định của bên đặt gia công về quy cách phẩm chất, nhãn mác,... của sản phẩm gia công. Nếu sản phẩm gia công chỉ gắn nhãn hiệu của Việt Nam thì không có gì đáng ngại vì Cục Sở hữu Công nghiệp có thể xác định và kiểm soát được chúng. Nhưng vấn đề sẽ trở nên phức tạp hơn khi nhãn hiệu có nguồn gốc từ nước ngoài mà lại không phải những nhãn hiệu nổi tiếng hay không có đăng ký bản quyền, trường hợp này các cơ quan chức năng rất khó kiểm soát.
Thứ hai, mặc dù Nghị định 57/1998/NĐ-CP quy định trong hợp đồng gia công phải có điều khoản “Nhãn hiệu hàng hóa và tên gọi xuất xứ hàng hóa” nhưng rất nhiều hợp đồng gia công trên thực tế không có điều khoản này hoặc nếu có cũng rất chung chung và phần lớn là do bên thuê gia công cung cấp nhãn mác, tên gọi xuất xứ hàng hóa. Từ đó dẫn đến tình trạng Hải quan gặp rất nhiều khó khăn trong công tác quản lý còn doanh nghiệp thì bị động, không chuẩn bị trước giấy tờ, đến khi Hải quan yêu cầu mới đi lấy giấy xác nhận của Cục Sở hữu Công nghiệp nên rất mất thời gian, gây thiệt hại không chỉ cho doanh nghiệp mà còn cho cả cơ quan Hải quan.
Thiết nghĩ đã là các văn bản quy định của Nhà nước thì phải có sự thống nhất giữa các bộ, ngành, các cơ quan chức năng, đồng thời phải có sự thống nhất thực hiện từ trên xuống dưới. Các văn bản đó cũng cần phải được điều chỉnh, sửa đổi bổ sung thường xuyên cho phù hợp với yêu cầu thực tế, có như thế mới giảm thiểu được tính phức tạp trong công tác quản lý Hải quan đối với vấn đề nhãn mác sản phẩm gia công.
5. Vấn đề thanh khoản hợp đồng gia công
Sau khi đã hoàn thành xuất khẩu sản phẩm gia công, doanh nghiệp nhận gia công phải tiến hành việc thanh khoản hợp đồng với cơ quan Hải quan. Khoản 10.3 phần III Thông tư 07/2000/TT-TCHQ quy định chậm nhất 03 tháng kể từ khi chấm dứt hợp đồng gia công bên nhận gia công phải hoàn tất việc thanh khoản hợp đồng với cơ quan Hải quan bao gồm việc giải quyết nguyên phụ liệu, vật tư dư thừa, máy móc, thiết bị tạm nhập, phế liệu, phế phẩm. Nếu quá thời hạn trên mà doanh nghiệp không hoàn thành việc thanh khoản mà không có lý do chính đáng được Trưởng đơn vị Hải quan quản lý hợp đồng gia công chấp thuận thì sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính về Hải quan theo quy định tại Điều 12 Nghị định số 16/CP ngày 20/03/1996 của Chính phủ và được sửa đổi bổ sung tại Nghị định số 54/1998/NĐ-CP ngày 21/7/1998 của Chính phủ.
Như vậy thanh khoản hợp đồng gia công giữ một vai trò rất quan trọng trong toàn bộ quy trình quản lý Hải quan đối với hàng gia công xuất khẩu. Thanh khoản hợp đồng gia công thể hiện sự quản lý chặt chẽ của Hải quan đối với hàng gia công xuất nhập khẩu nhằm ngăn chặn và xử lý kịp thời các hành vi gian lận thương mại, buôn lậu, trốn thuế,... của một số doanh nghiệp.
Quy trình thanh khoản thì được quy định như vậy nhưng trên thực tế vấn đề thanh khoản hợp đồng gia công được thực hiện rất chậm trễ, rất nhiều hợp đồng còn tồn đọng từ những năm trước. Nguyên nhân của tình trạng này qua thực tế cho thấy là do lỗi của cả hai phía doanh nghiệp và Hải quan.
Về phía doanh nghiệp, sau khi kết thúc hợp đồng, hầu hết các doanh nghiệp không chủ động thanh khoản hợp đồng mà phải đợi có sự thông báo của cơ quan Hải quan thì mới bắt đầu thực hiện. Thêm nữa, mỗi hợp đồng gia công bao gồm rất nhiều điều khoản, quy định phức tạp về mẫu mã, kích cỡ, chủng loại,... và ứng với mỗi điều khoản, quy định đó là một định mức khác nhau nên doanh nghiệp cần phải có rất nhiều thời gian để thống kê các số liệu xuất trình cơ quan Hải quan. Ngoài hai lý do trên, doanh nghiệp còn viện cớ vào một lý do khách quan, đó là thời điểm thanh khoản hợp đồng thường vào cuối năm nên các doanh nghiệp bị cuốn vào mùa vụ bận rộn nên không chú trọng đến việc thanh khoản hợp đồng gia công đúng hạn. Tuy nhiên những lý do mà doanh nghiệp đưa ra khó có thể chấp nhận được vì thời hạn mà cơ quan Hải quan dành cho việc thanh quản hợp đồng cũng không phải là ngắn. Thiết nghĩ các doanh nghiệp cũng cần phải xem xét lại ý thức chấp hành pháp luật của mình, tại sao lại cứ phải đợi Hải quan thông báo thì mới đến thanh khoản hợp đồng.
Về phía cơ quan Hải quan, thời gian gần đây công tác thanh khoản hợp đồng gia công đã đi vào nề nếp và có hiệu quả hơn trước. Tuy nhiên, sự chậm trễ trong thanh khoản hợp đồng vẫn chưa được cải thiện nhiều nguyên nhân là do các quy định về thanh khoản hợp đồng gia công còn chưa thống nhất, chồng chéo. Hơn nữa, việc thanh khoản hợp đồng gia công rất phức tạp đòi hỏi cán bộ, công chức Hải quan phải có trình độ nghiệp vụ vững chắc, có kiến thức tổng hợp đặc biệt là kiến thức thương phẩm học, thông thạo ngoại ngữ và sự cẩn thận cần thiết mới có thể thực hiện tốt được.
Khó khăn chồng chất như vậy nhưng khâu thanh khoản hợp đồng là không thể thiếu trong quy trình quản lý Hải quan đối với hàng gia công xuất nhập khẩu, qua đó quản lý được đầu vào, đầu ra của quá trình gia công, nâng cao hiệu quả kinh tế, xã hội của phương thức kinh doanh này.
Qua phân tích những điểm còn tồn tại trong công tác quản lý Hải quan đối với hoạt động gia công xuất khẩu có thể nhận thấy rằng: trong những năm qua hoạt động gia công ở nước ta đã có những bước phát triển vượt bậc và bên cạnh đó cũng không tránh khỏi những thiếu sót trong công tác quản lý Hải quan đối với hoạt động này nhưng nếu để tình trạng này kéo dài thì chúng ta sẽ phải trả giá đắt cho những lợi ích mà phương thức kinh doanh này mang lại. Bởi vậy vấn đề đặt ra là cần có một hệ thống văn bản pháp lý thống nhất, hợp lý quản lý hoạt động này và định hướng cho hoạt động của các doanh nghiệp kinh doanh gia công, tránh tình trạng cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp trong nước và bảo vệ lợi ích cho các doanh nghiệp Việt Nam trong quan hệ với các đối tác đặt gia công nước ngoài, đồng thời tạo điều kiện cho hoạt động gia công xuất khẩu ở Việt Nam phát triển có hiệu quả và ổn định.
Chương III
Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động gia công
hàng xuất khẩu và hoàn thiện quy trình thủ tục Hải quan đối với hàng gia công xuất khẩu
I. Những giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động gia công hàng xuất khẩu
1. Về chính sách và cơ chế quản lý
Cần thiết phải bổ sung và hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý quản lý hoạt động gia công xuất khẩu. Trên cơ sở Luật Thương mại, những văn bản pháp lý đã có như Nghị định 57/1998/NĐ-CP, Thông tư 07/2000/TT-TCHQ, các ngành chức năng như Bộ Thương mại, Bộ Tài chính, Tổng cục Hải quan cần có các quy định thống nhất bảo đảm cho các doanh nghiệp các điều kiện thuận tiện trong thực hiện các hợp đồng gia công với nước ngoài đồng thời hướng các hoạt động gia công của các doanh nghiệp theo đúng chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Nhà nước cần có chính sách và giải pháp trước mắt để khuyến khích đầu tư, không phân biệt các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp gia công có hiệu quả cần được ưu tiên vay vốn với lãi suất ưu đãi để mở rộng sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm. Đồng thời, Nhà nước cần bổ sung luật đầu tư trực tiếp (FDI) của nước ngoài theo hướng khuyến khích đầu tư sản xuất những nguyên liệu đang phải nhập khẩu để làm hàng xuất khẩu. Các ngành may mặc và giầy da ở các vùng có điều kiện lợi thế thì nên hạn chế cấp giấy phép đầu tư 100% vốn nước ngoài mà nên khuyến khích đầu tư trong nước để các khách hàng nước ngoài tự tìm đến ta mà không phải qua khâu trung gian là các dự án đầu tư nước ngoài.
Về mặt chính sách đối với người lao động trong các doanh nghiệp nhận gia công, cần thiết lập mối quan hệ gắn bó giữa lãnh đạo doanh nghiệp và người lao động, đặc biệt là tại các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài vì đa phần các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực gia công hàng xuất khẩu đều cần nhiều lao động. Tổ chức công đoàn tại các doanh nghiệp nhận gia công cần phát huy hơn nữa vai trò của mình để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người lao động tránh tình trạng vi phạm Luật lao động đang diễn ra khá phổ biến ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam hiện nay, có như vậy thì người lao động mới gắn bó lâu dài với doanh nghiệp được.
Bên cạnh đó cần tăng cường cải cách hành chính và chống tham nhũng, gây phiền hà cho đầu tư, kinh doanh, gia công xuất nhập khẩu hàng hoá, thúc đẩy đầu tư trong các ngành như Hải quan, Ngân hàng, Thuế và các cán bộ trong các doanh nghiệp quốc doanh trực tiếp thực hiện các dự án đầu tư. Nội dung cải cách hành chính phải được thực hiện đồng bộ và ăn khớp với các cải cách về kinh tế. Cải cách hành chính phải vừa sắp xếp lại tổ chức, phải vừa đổi mới về quy chế và cách thực làm việc, bỏ bớt các đầu mối, các cửa trong việc làm thủ tục khai báo, xét duyệt đầu tư, cho vay đầu tư... nhằm mục tiêu nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý ở mọi ngành, mọi cấp.
Trên đây là những giải pháp về mặt quản lý Nhà nước về hàng gia công xuất khẩu. Mặt khác, muốn thúc đẩy để gia công có hiệu quả thì cần phải đi sâu vào khả năng của nền kinh tế hay nói cách khác là phải có những kiến nghị với Nhà nước để cho các doanh nghiệp có điều kiện phát triển lĩnh vực này. Nhà nước và các ngành chủ quản cần phải xác định mục tiêu chiến lược của một số ngành then chốt trong việc gia công, từ đó có sự hỗ trợ, có chính sách hợp lý.
2. Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại
Thực tế hoạt động kinh tế đối ngoại tại Việt Nam cho thấy, nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn trong tìm kiếm bạn hàng nước ngoài hoặc bị khách hàng nước ngoài gian lận trong hợp tác, ép giá thì một trong những nguyên nhân chính là do công tác xúc tiến thương mại chưa được chú trọng. Đối với hoạt động gia công xuất khẩu, ngoài việc thúc đẩy quá trình tìm kiếm bạn hàng, hợp đồng thông qua các tham tán, đại diện thương mại nước ta tại nước ngoài thì việc thành lập hiệp hội các nhà sản xuất hàng gia công xuất khẩu nói chung và của từng mặt hàng nói riêng và phát huy hết vai trò của các hiệp hội này, qua đó sẽ đẩy mạnh hơn nữa hoạt động xúc tiến thương mại. Có thể thấy rằng việc ra đời của các tổ chức hiệp hội, cùng với các đại diện thương mại ở nước ngoài sẽ có sự trao đổi thông tin về thị trường và khách hàng, đảm bảo các điều kiện gia công làm tăng thêm sức cạnh tranh, tạo điều kiện đẩy mạnh sản xuất gia công và xuất khẩu sản phẩm gia công ra thị trường nước ngoài. Các hiệp hội này còn có thể tạo điều kiện cho các thành viên liên kết với nhau tránh được tình trạng tranh giành thị trường, bạn hàng dẫn đến việc bị khách hàng nước ngoài ép giá làm giảm giá trị xuất khẩu, giá gia công xuất khẩu. Thông qua các tổ chức hiệp hội, hoạt động xúc tiến thương mại được đẩy mạnh, qua đó các doanh nghiệp nhận gia công có điều kiện nhận được thêm các đơn đặt hàng.
3. Sự quan tâm đầu tư của Nhà nước về vốn, cơ sở nguyên vật liệu
Song song với nguồn vốn tự có của các doanh nghiệp, Chính phủ cùng với Bộ thương mại, Ngân hàng Nhà nước cần tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vay vốn trung và dài hạn với lãi suất ưu đãi để đầu tư phát triển sản xuất, nhằm hạn chế việc nhập khẩu nguyên phụ liệu, dần dần thay thế bằng nguyên liệu do Việt Nam sản xuất.
Bên cạnh đó, Nhà nước cần đầu tư cơ sở nguyên vật liệu cho các ngành phục vụ sản xuất hàng gia công như trồng bông, tơ tằm, sản xuất tơ hóa học, xây dựng các cơ sở cung cấp nguyên vật liệu ổn định lâu dài, đảm bảo chất lượng.
4. Nâng cấp hệ thống trang thiết bị, hiện đại hóa công nghệ trong sản xuất hàng gia công xuất khẩu
Các đối tác nước ngoài (bên đặt gia công) cũng rất quan tâm đến dây chuyền máy móc, trang thiết bị kỹ thuật và công nghệ sản xuất của doanh nghiệp nhận gia công vì không phải lúc nào bên đặt gia công cũng có điều kiện chuyển giao dây chuyền máy móc cho bên nhận gia công. Vì vậy, các doanh nghiệp nhận gia công cần được trang bị mới hoặc nâng cấp dây chuyền sản xuất để đáp ứng được yêu cầu về sản phẩm của bên đặt gia công vì đó là nền tảng cơ bản để sản xuất được những sản phẩm chất lượng cao với năng suất lao động cao.
5. Tăng cường công tác đào tạo
Bên cạnh dây chuyền thiết bị, máy móc và công nghệ thì một trong những nhân tố quan trọng nhất ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng của sản phẩm gia công và hiệu quả của hoạt động gia công xuất khẩu là lực lượng lao động. Phát triển nguồn nhân lực cũng là một trong những nội dung chủ đạo của chiến lược công nghiệp hóa theo quan điểm mới của Đảng và Nhà nước ta. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cần phải trải qua quá trình đào tạo cơ bản, họ chính là những cử nhân, kỹ sư đã tốt nghiệp đại học. Việc thu hút số lao động dư thừa ở khu vực nông thôn vào hoạt động gia công hàng xuất khẩu cần phải tiến hành có hệ thống, lực lượng lao động trực tiếp cần được học qua các lớp dạy nghề để có thể thao tác sản xuất một cách thuần thục đạt năng suất cao. Ngày nay, phía đặt gia công nước ngoài ngày càng quan tâm nhiều hơn đến chất lượng lao động chứ không dơn thuần là số lượng lao động.
Trên đây là một số giải pháp vừa có ý nghĩa trước mắt vừa có tác dụng lâu dài nhằm thúc đẩy hoạt động gia công ở Việt Nam phát triển một cách thuận lợi, phát huy tiềm năng kinh tế đất nước góp phần thực hiện thắng lợi đường lối phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn hiện nay.
II. Một số biện pháp cần thiết để hoàn thiện quy trình thủ tục Hải quan đối với hàng gia công xuất khẩu
Trong thời gian tới, hoạt động gia công xuất khẩu vẫn tiếp tục được chú trọng phát triển vì những lợi ích mà nó mang lại cho các bên tham gia. Để tạo điều kiện cho hoạt động này phát triển, ngoài các giải pháp nêu trên thì công tác quản lý Nhà nước về Hải quan mà ở đây là quản lý Hải quan đối với hoạt động gia công hàng xuất khẩu cần được hoàn thiện hơn nữa. Với phương hướng, mục tiêu chung cho toàn ngành là xây dựng Hải quan thành lực lượng chuyên nghiệp, có chuyên môn sâu và hiện đại, hoạt động minh bạch, liêm chính và có hiệu quả nhằm đáp ứng yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ phát triển kinh tế đất nước, một số giải pháp mang tính định hướng được đưa ra để thực hiện mục tiêu này.
1. Bổ sung, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý quản lý Hải quan hoạt động gia công xuất khẩu
Trong thời gian qua, chúng ta đã ban hành và thông qua một số văn bản pháp quy quan trọng có tính chất định hướng cho các hoạt động thương mại nói chung cũng như cho hoạt động gia công hàng xuất khẩu nói riêng. Ngày 10/05/1997, Quốc hội nước ta đã thông qua Luật Thương mại, đây là cơ sở pháp lý quan trọng để phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển thị trường hàng hoá và dịch vụ thương mại trên các vùng của đất nước, mở rộng giao lưu thương mại với nước ngoài, góp phần đẩy mạnh sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân, bảo vệ lợi ích chính đáng của người sản xuất, người tiêu dùng và lợi ích hợp pháp của thương nhân, góp phần tích luỹ nhằm thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế tăng trưởng nhanh và bền vững theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Luật Thương mại bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01/01/1998 quy định hoạt động thương mại tại Việt Nam. Đối với hành vi gia công trong thương mại (được quy định tại mục 7 Luật Thương mại), Chính phủ đã ban hành Nghị định 57/1998/NĐ-CP, Tổng cục Hải quan đã ban hành Thông tư số 07/2000/TT-TCHQ hướng dẫn thi hành chương III Nghị định 57/1998/NĐ-CP và bên cạnh đó là hàng loạt công văn, thông báo quy định về việc thực hiện hoạt động gia công hàng xuất khẩu. Ngày 29/06/2001, Luật Hải quan đã được Quốc hội khóa X nước ta thông qua tại kỳ họp thứ 9 và Luật này có hiệu lực từ ngày 01/01/2002, đồng thời cũng từ thời điểm này Pháp lệnh Hải quan được Hội đồng Nhà nước ban hành ngày 20/02/1990 hết hiệu lực. Việc nâng Pháp lệnh Hải quan lên thành Luật Hải quan có ý nghĩa pháp lý rất quan trọng do sự phát triển đa dạng của hoạt động kinh tế đối ngoại, Luật Hải quan ra đời đã góp phần bảo đảm thực hiện chính sách của Nhà nước về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học và công nghệ, hợp tác và giao lưu quốc tế, bảo vệ chủ quyền và an ninh quốc gia, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có một văn bản nào được ban hành nhằm hướng dẫn thi hành Luật Hải quan trong lĩnh vực gia công xuất khẩu. Tổng cục Hải quan cần tiến hành rà soát lại toàn bộ hệ thống văn bản pháp luật trong vấn đề quản lý hàng gia công xuất khẩu. Đối với những văn bản có tính chất chỉ đạo chung trong thời gian dài, nếu quá trình thực hiện đã có nhiều vướng mắc và thực tế đã có những thay đổi cơ bản thì cần phải tiến hành sửa đổi hoặc thay bằng văn bản mới, hủy bỏ hoàn toàn hiệu lực của văn bản cũ. Trong việc ban hành, sửa đổi và bổ sung các văn bản pháp luật cần tránh tình trạng ra văn bản bổ sung liên tục, văn bản sau sửa đổi văn bản trước nhiều lần gây rất nhiều khó khăn lúng túng cho người thực hiện, đồng thời cần có thông báo rõ ràng, đầy đủ, rộng rãi và thường xuyên công bố danh sách những văn bản đã hết hiệu lực.
Đối với những văn bản có tính chất tháo gỡ vướng mắc, để chỉ dẫn cho cấp dưới thực hiện theo đúng tinh thần của văn bản, Tổng cục Hải quan cũng cần dẫn chiếu đầy đủ số văn bản, cơ quan ban hành, ngày tháng có hiệu lực..., tránh hiện tượng phổ biến nêu chung chung “giải quyết theo chế độ hiện hành” gây lúng túng, khó khăn trong thực hiện.
Trong thời gian tới, Tổng cục Hải quan (hiện nay đã thuộc Bộ Tài chính) cùng với các bộ, ngành liên quan như Bộ Thương mại, Bộ Công nghiệp, Bộ Khoa học công nghệ và môi trường cần thống nhất dứt điểm một số vấn đề để ban hành những văn bản pháp lý cần thiết, trên cơ sở đó Hải quan có thể thực hiện tốt chức năng quản lý Nhà nước của mình, cụ thể đó là:
- Tỷ lệ hao hụt đối với nguyên phụ liệu gia công đối với tất cả các mặt hàng mà các doanh nghiệp Việt Nam nhận gia công
- Thuế đối với phần hao hụt nguyên phụ liệu
- Định mức thuế tiêu hao nguyên phụ liệu
- Vấn đề duyệt hợp đồng gia công
- Vấn đề nhãn mác hàng hóa gia công
- Vấn đề xử lý phế phẩm, phế liệu dư thừa
- Vấn đề thanh lý hợp đồng gia công và chế tài trong trường hợp chậm thanh lý hợp đồng gia công.
Để giải quyết tốt, triệt để các vấn đề này nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp nhận gia công cũng như thực hiện tốt các chức năng quản lý Nhà nước, cần xác định rõ trách nhiệm của từng cơ quan, từng ngành tránh tình trạng có vấn đề thì quản lý chồng chéo còn có vấn đề thì không biết cơ quan nào chịu trách nhiệm chỉ đạo.
2. Đẩy mạnh quá trình cải tiến thủ tục Hải quan
Nhìn chung, thời gian gần đây công tác cải cách thủ tục Hải quan được chú trọng hơn song trong từng khâu nghiệp vụ, từng khu vực vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế. Bên cạnh đó, do hoạt động gia công xuất khẩu nói riêng cũng như hoạt động kinh tế đối ngoại nói chung phát triển khá đa dạng, đòi hỏi ngành Hải quan cần tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục Hải quan gắn với quá trình thực hiện cải cách hành chính nói chung. Để đẩy mạnh quá trình cải cách thủ tục Hải quan, cần tập trung triển khai Đề án cải cách thủ tục Hải quan cả về chiều rộng và chiều sâu, đặc biệt chú trọng đề ra các giải pháp sát với thực tiễn, phù hợp với thông lệ quốc tế và yêu cầu hội nhập, nhấn mạnh ở một số điểm sau:
- Đề cao tính chủ động, khẳng định tính tự chịu trách nhiệm trước pháp luật của doanh nghiệp
- Thực hiện và nâng cao vai trò kiểm tra, giám sát của cơ quan Hải quan
- Quy trình thủ tục Hải quan thống nhất, đơn giản, dễ thực hiện
- Công khai hóa các văn bản quy phạm pháp luật về xuất nhập khẩu, Hải quan
- Phân công, phân cấp rõ nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của từng cán bộ, công chức Hải quan trong từng khâu nghiệp vụ
3. Nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ, lãnh đạo Hải quan, tăng cường công tác đào tạo
Hàng gia công xuất khẩu, cũng như các mặt hàng xuất nhập khẩu khác đều phải tuân thủ các quy trình thủ tục Hải quan. Tuy nhiên, do đặc thù của loại hình kinh doanh gia công gồm nhiều công đoạn phức tạp đòi hỏi sự quản lý chặt chẽ nhưng cũng phải tạo môi trường thông thoáng cho hoạt động của doanh nghiệp nhận gia công.
Do đó có thể thấy việc tập trung nâng cao trình độ, năng lực cho đội ngũ cán bộ, lãnh đạo Hải quan làm công tác quản lý hàng gia công xuất khẩu là rất cần thiết nhằm xây dựng một lực lượng cán bộ Hải quan vừa tinh thông nghiệp vụ Hải quan, có kiến thức sâu rộng về kinh tế, pháp luật, thông thạo ngoại ngữ, vừa có phẩm chất trong sáng vững vàng, tận tụy trong công việc.
Cán bộ, công chức Hải quan cần nhận thức được rằng họ là công cụ quan trọng của Nhà nước trong khâu quản lý hoạt động xuất nhập khẩu, bảo vệ sản xuất trong nước. Bên cạnh đó, họ cũng cần đứng ở phía doanh nghiệp để thấy rằng doanh nghiệp nhận gia công thực chất là người làm thuê cho doanh nghiệp đặt gia công nước ngoài nên phải tuân thủ nghiêm ngặt những điều khoản đã ký kết trong hợp đồng gia công. Vì vậy, cần tránh thói làm việc quan liêu, sách nhiễu gây thiệt hại không những về kinh tế mà bên cạnh đó là những hậu quả xã hội như do mất bạn hàng nên công nhân mất việc làm.
Để nâng cao trình độ chuyên môn của cán bộ, công chức Hải quan, trước hết, ngành cần tập trung lãnh đạo và bố trí kinh phí thỏa đáng cho đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng thường xuyên đối với công chức, xây dựng quy hoạch đào tạo cán bộ, công chức ngành Hải quan theo các tiêu chuẩn ngạch công chức và tiêu chuẩn bổ nhiệm, sử dụng cán bộ, công chức Hải quan.
Đồng thời cần tập trung hoàn thiện hệ thống giáo trình giảng dạy tại trường Cao đẳng Hải quan, hoàn thiện nội dung đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ Hải quan theo chuyên đề HS, GATT, KYOTO, sở hữu trí tuệ (TRIPS), xuất xứ hàng hóa (C/O), kiểm tra sau thông quan, kiểm soát chống buôn lậu, ngoại ngữ chuyên ngành Hải quan,v.v...
Về phương thức đào tạo, cần nghiên cứu cải tiến để phù hợp với điều kiện thực tế của ngành, kết hợp giữa cử cán bộ đi đào tạo tại các trường lớp chính quy với việc rèn luyện kỹ năng nghiệp vụ tại cơ sở, đơn vị công tác, coi trọng việc truyền đạt, hướng dẫn của cán bộ quản lý, cán bộ có kinh nghiệm lâu năm đối với cán bộ trẻ, mới vào ngành công tác.
Bên cạnh việc đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ, công chức Hải quan, ngành chủ động có kế hoạch mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng cho các doanh nghiệp và các đối tượng liên quan khác đến làm thủ tục Hải quan về những nội dung cần thiết như danh mục hài hòa mô tả và mã hàng hóa (danh mục HS), về xác định trị giá Hải quan theo GATT, về công ước KYOTO,v.v... để các đối tượng này nắm vững và tuân thủ đúng quy định của pháp luật, tạo thuận lợi cho ngành Hải quan trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ. Công tác này cần được thực hiện thường xuyên để các doanh nghiệp làm thủ tục Hải quan nhanh chóng, đúng quy định, tránh gây ùn tắc làm thủ tục Hải quan.
Đi đôi với công tác nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ, công chức Hải quan, ngành Hải quan cần tăng cường công tác chính trị, tư tưởng và quản lý cán bộ. Những công việc hàng ngày mà cán bộ, công chức Hải quan đảm nhiệm phải thường xuyên tiếp xúc với tiền, hàng trong khi đời sống của đại đa số cán bộ nhân viên Hải quan chưa cao. Do đó, trên thực tế cũng đã xảy ra một số trường hợp cán bộ Hải quan vụ lợi, bị lôi kéo nên đã thông đồng, tiếp tay cho doanh nghiệp trốn thuế, gian lận, gây thất thoát hàng ngàn tỷ đồng tiền thuế cho ngân sách Nhà nước và hậu quả nặng nề cho nền sản xuất trong nước. Công tác bồi dưỡng, giáo dục tư tưởng của cán bộ Hải quan cần được đẩy mạnh hơn nữa, cụ thể như sau:
Bồi dưỡng kiến thức quản lý cho cán bộ lãnh đạo các cấp, phân công, phân cấp rõ ràng, cụ thể giữa các cấp quản lý, giao nhiệm vụ cụ thể cho từng cá nhân, xây dựng quy chế làm việc, quy chế phối hợp giữa các đơn vị thuộc Tổng cục, thường xuyên kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện quy chế.
Coi trọng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, tính trung thực, ý thức tổ chức kỷ luật, danh dự và trách nhiệm nghề nghiệp cho cán bộ, công chức Hải quan. Thường xuyên tổ chức phê bình và tự phê bình, bảo vệ chính trị nội bộ, có phương án phòng ngừa đối với các đơn vị, địa bàn, công việc trọng điểm. Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra của Lãnh đạo các cấp trong ngành. Thực hiện quản lý cán bộ thông qua quản lý công việc, xử lý nghiêm khắc hơn đối với các trường hợp sai phạm, kịp thời khen thưởng, động viên những nhân tố tích cực, những việc làm tốt. Tiến hành rà soát, đánh giá đúng lực lượng, sắp xếp và điều chỉnh cán bộ cho hợp lý, đặc biệt ở các vị trí trọng yếu.
Phát động và duy trì thường xuyên các phong trào thi đua yêu nước với phương thức và nội dung thiết thực, phù hợp với hoạt động thực tiễn của từng đơn vị. Phát huy vai trò của các tổ chức Đảng, đoàn thể trong việc giáo dục, động viên Đảng viên, Đoàn viên hưởng ứng, thực hiện các cam kết và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, phát hiện và nhân rộng các tập thể và cá nhân điển hình tiên tiến.
4. Xây dựng cơ sở hạ tầng, đầu tư trang thiết bị, ứng dụng công nghệ thông tin, hiện đại hóa Hải quan
Trong thời gian tới, ngành Hải quan sẽ xây dựng và cải tạo trung tâm nghiệp vụ Hải quan tại 80 cửa khẩu, sân bay, điểm thông quan, đội kiểm soát; 03 cơ sở đội tàu cao tốc; 03 Trung tâm kiểm định hàng hóa xuất nhập khẩu; trung tâm làm việc của 7 cục Hải quan địa phương, trường Cao đẳng Hải quan và trụ sở Tổng cục Hải quan tại địa điểm mới với kinh phí là 260 tỷ đồng. Ngành cũng sẽ xây dựng trung tâm tự động hóa có hệ thống trang thiết bị máy tính và các thiết bị phụ trợ với kinh phí 420 tỷ đồng có khả năng tiếp nhận và xử lý giao dịch điện tử phát sinh từ khâu tiếp nhận tờ khai, khai báo Hải quan, tính thuế, thu thuế, giải phóng hàng, giám sát cảng và kho, đảm bảo các điều kiện cần thiết để duy trì hoạt động ổn định của trung tâm, có cơ chế dự phòng sự cố, bảo mật dữ liệu, có biện pháp hữu hiệu chống xâm nhập trái phép. Xây dựng mạng diện rộng riêng của ngành Hải quan có khả năng chuyển tín hiệu dữ liệu, âm thanh, fax, hình ảnh kết nối giữa các đơn vị Hải quan trong ngành với Trung tâm tự động hóa, nghiên cứu để kết nối mạng diện rộng của Hải quan với Ngân hàng, kho bạc, hãng vận chuyển, hàng không, cảng vụ để thực hiện các giao dịch xác nhận việc nộp thuế, giám sát kho hàng...
Để thực hiện chương trình phát triển công nghệ thông tin, hiện đại hoá quản lý Hải quan đạt kết quả đòi hỏi sự quyết tâm cao, chăm lo nâng cao trình độ sử dụng, vận hành và quản lý thiết bị, chống tư tưởng bảo thủ, trì trệ, đảm bảo nguồn kinh phí đầu tư trong 5 năm là 1.145 tỷ đồng.
Một trong những ứng dụng công nghệ thông tin quan trọng nhất và có hiệu quả nhất trong quản lý Hải quan là khai báo Hải quan qua mạng. Khai báo Hải quan điện tử đã được thí điểm thực hiện từ đầu tháng 6 năm 2002 với các doanh nghiệp thuộc khu vực làm hàng gia công, cụ thể là từ 01/07/2002 triển khai thí điểm bước đầu tại các doanh nghiệp có khối lượng hàng gia công lớn và có quá trình tuân thủ tốt quy định Hải quan tại các tỉnh, thành phố: Tp. Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Bình Dương, Đồng Nai. Tuy nhiên, hầu hết các doanh nghiệp và Hải quan các cấp vẫn đang chờ văn bản hướng dẫn từ Tổng cục Hải quan để có thể bắt tay triển khai. Các chi cục Hải quan gia công đã chuẩn bị nhân sự và máy móc, hệ thống máy đã nối mạng đầy đủ nhưng vẫn chờ hướng dẫn từ Cục công nghệ thông tin và thống kê Hải quan để có thể chính thức đi vào vận hành. Hơn nữa, hiện cũng chưa có kế hoạch tập huấn để triển khai các nội dung quy trình cụ thể cho đến từng doanh nghiệp. Hầu hết các doanh nghiệp kinh doanh gia công đều muốn chủ trương này đi vào thực hiện nhanh chóng, vừa đỡ lãng phí thời gian, vừa tiện lợi lại tiết kiệm nhân công. Chẳng hạn, mỗi ngày tại Chi cục Hải quan gia công thành phố Hồ Chí Minh có khoảng 600-700 tờ khai Hải quan cần xử lý và phải cần tới 16 bàn tiếp nhận hồ sơ. Đối với tờ khai viết tay, nhân viên Hải quan phải đánh máy và nhập dữ liệu, mỗi tờ khai có 2 đến 3 mã hàng nên mất khoảng 15 phút, có những doanh nghiệp lớn mỗi ngày thực hiện 60 đến 70 tờ khai, mất rất nhiều thời gian và tốn công sức. Tuy nhiên, theo Cục công nghệ thông tin (CNTT) và thống kê Hải quan thuộc Tổng cục Hải quan thì khai báo Hải quan điện tử mới chỉ áp dụng đối với tờ khai Hải quan. Các chứng từ khác như hợp đồng thương mại, bản kê chi tiết hàng hóa... vẫn chưa áp dụng hình thức này. Khi khai báo, phần mềm khai báo của doanh nghiệp sẽ có mẫu khai báo giống của cơ quan Hải quan nên chỉ việc khai trên máy tại doanh nghiệp. Sau đó, doanh nghiệp sẽ dùng chương trình chuyển dữ liệu tới cơ quan Hải quan. Hải quan tiếp nhận và kiểm tra dữ liệu nhanh chóng rồi cho thông quan hàng hóa dựa vào tiêu chí chấp hành chính sách và xuất xứ của doanh nghiệp. Hàng nguyên liệu được thông quan xong sẽ đưa vào xí nghiệp sản xuất ngay cho kịp tiến độ gia công, đến khi thanh khoản mới nộp hồ sơ giấy cho Hải quan đối chiếu kiểm tra. Nếu doanh nghiệp chấp hành tốt, có quy mô sản xuất đủ tiêu chuẩn sẽ nộp hồ sơ giấy sau quá trình thông quan. Trình tự này đảm bảo thời gian làm thủ tục Hải quan và thanh khoản hợp đồng gia công của các doanh nghiệp giảm từ 3-4 ngày xuống chỉ còn nửa giờ. Tuy nhiên, để thực hiện được việc khai báo Hải quan qua mạng đòi hỏi các doanh nghiệp phài trang bị máy tính, có nối mạng và sử dụng thiết bị nối mạng tốt thì tốc độ đường truyền sẽ nhanh chóng và kịp thời, dữ liệu được truyền đi dưới dạng tập tin đến với Hải quan. Các doanh nghiệp sẽ phải đăng ký tên doanh nghiệp, có mã số bảo mật, có số điện thoại đường truyền và người truyền số liệu. Doanh nghiệp cần trang bị phần mềm máy tính quản lý công tác xuất nhập khẩu, có mục khai báo Hải quan, phần mềm này cần tương thích với mạng của Hải quan để có thể bên này gửi, bên kia nhận và đọc được bình thường. Ngoài ra, một vấn đề nữa cần quan tâm là cần có cơ sở pháp lý để xác nhận độ xác thực của khai báo điện tử và điều kiện đảm bảo an toàn của hệ thống trong vấn đề bảo mật, tránh việc mạng của Hải quan bị phá hoại, mất cắp dữ liệu... Nhà nước cần có thêm các quy định rõ ràng hơn về vấn đề này để có thể đẩy mạnh việc triển khai thực hiện các thủ tục Hải quan qua mạng đối với hàng gia công xuất khẩu nói riêng cũng như hàng hóa xuất nhập khẩu nói chung.
5. Thúc đẩy tiến trình hội nhập quốc tế, tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực Hải quan
Hải quan Việt Nam cần tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau với tổ chức Hải quan các nước trên thế giới, trong đó đặc biệt tăng cường quan hệ với Hải quan các nước ASEAN, Hải quan các nước láng giềng như Trung Quốc, và Hải quan một số nước công nghiệp phát triển về kinh nghiệm quản lý Hải quan tiên tiến, đào tạo nâng cao trình độ cán bộ công chức Hải quan, chống ma túy và buôn lậu, tự động hóa và hiện đại hóa Hải quan v.v... Bên cạnh đó, cần chủ động chuẩn bị các điều kiện cần thiết về cơ sở pháp lý, phương tiện kỹ thuật và cán bộ để tiếp cận nhanh quá trình thực hiện các Công ước trong hoạt động Hải quan, chủ động tham gia các hoạt động trong khuôn khổ Tổ chức Hải quan thế giới (WCO), ASEAN, Diễn đàn hợp tác kinh tế châu á Thái Bình Dương (APEC), ASEM..., nâng cao vị thế của Hải quan Việt Nam trong khu vực và quốc tế.
kết luận
Từ khi Việt Nam thực hiện chính sách mở cửa kinh tế năm 1986, nền kinh tế nước ta đã có sự chuyển biến mạnh mẽ nhờ những chủ trương và chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước. Cùng với sự chuyển biến này, sự mở rộng các hoạt động kinh tế đối ngoại trong đó có hoạt động gia công hàng xuất khẩu đã tích cực thúc đẩy quá trình tham gia phân công lao động quốc tế đồng thời tạo mối liên hệ chặt chẽ giữa nền kinh tế trong nước với nền kinh tế các nước trong khu vực và thế giới.
Những năm gần đây, hoạt động gia công xuất khẩu ngày càng được chú trọng nên đã phát triển nhanh chóng và đa dạng, mang lại hiệu quả kinh tế xã hội ngày càng cao cho đất nước. Tuy nhiên, hoạt động này cũng cần có sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước mà ở đây là quản lý Nhà nước về Hải quan. Cơ quan Hải quan cần quản lý chặt chẽ hoạt động này góp phần bảo hộ sản xuất trong nước, chống buôn lậu và gian lận thương mại thông qua gia công hàng hóa cho thương nhân nước ngoài. Bên cạnh đó, chế độ quản lý này cũng cần tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động gia công hàng xuất khẩu nói chung cũng như cho các doanh nghiệp Việt Nam nhận gia công nói riêng. Thủ tục Hải quan đóng vai trò quan trọng trong lĩnh vực quản lý Nhà nước đối với hoạt động gia công xuất khẩu, nhằm thúc đẩy hoạt động này phát triển hơn nữa cả về chiều rộng và chiều sâu.
Qua việc đề cập đến quy trình thủ tục Hải quan đối với hàng gia công xuất khẩu, tác giả đã nhìn nhận lại những mặt đã đạt được và những điểm còn tồn tại trong hoạt động quản lý Hải quan, từ đó đưa ra những giải pháp cần thiết để hoàn thiện công tác quản lý Nhà nước về Hải quan đối với hoạt động gia công xuất khẩu, đồng thời đẩy mạnh hơn nữa sự phát triển của hoạt động này ở nước ta trong thời gian tới.