LỜI NÓI ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Mục đích nghiên cứu và ý nghĩa của đề tài 1
3. Phạm vi nghiên cứu 2
4. Phương pháp nghiên cứu 2
5. Kết cấu tiểu luận luận 2
CHƯƠNG 1 3
NHỮNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CÁC CẤP 3
1.1. Khái niệm giám sát 3
1.1.1.Cơ sở pháp lý về hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân các cấp: 3
1.1.2. Khái niệm giám sát: 5
1.1.3. Mục đích giám sát: 9
1.2. Nội dung giám sát 9
1.2.1. Hội đồng nhân dân giám sát hoạt động của thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân 9
1.2.2. Giám sát việc thực hiện các Nghị quyết của Hội đồng nhân dân 10
1.2.3. Giám sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân ở địa phương 10
1.3. Hình thức thực hiện quyền giám sát 11
1.3.1.Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân: 11
1.3.2. Giám sát của thường trực Hội đồng nhân dân 13
1.3.3. Hoạt động giám sát của các Ban của Hội đồng nhân: 14
1.3.4. Hoạt động giám sát của Đại biểu Hội đồng nhân dân: 16
CHƯƠNG 2 18
THỰC TRẠNG VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CÁC CẤP TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 18
2.1. Thực trạng hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân các cấp. 18
2.1.1. Những thành tựu đạt được từ hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân: 18
2.1.2. Những tồn tại trong hoạt động giám sát của Hội đông nhân dân các cấp: 24
2.2. Phương hướng hoàn thiện những quy định pháp luật về hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân các cấp trong giai đoạn hiện nay. 28
2.2.1. Cần sớm ban hành luật về hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân để thể chế hoá chức năng giám sát của Hội đồng nhân dân trong một văn bản thống nhất: 28
2.2.2. Đổi mới phương thức hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân để hoạt động giám sát đạt hiệu quả cao: 29
2.2.3. Nâng cao hiệu quả giám sát của Hội đồng nhân dân tại kỳ họp, giám sát cuả Thường trực Hội đồng nhân dân, giám sát của các Ban của Hội đồng nhân dân và giám sát của các đại biểu Hội đồng nhân dân: 32
2.2.4.Tăng cường mối quan hệ gắn bó, sự phân công hợp lý, phối hợp điều hoà giữa các cơ quan thực hiện hoạt động giám sát để hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân thực sự phát huy hiệu quả: 37
2.2.5. Đảm bảo tính quyền lực thực tế của Hội đồng nhân dân ở địa phương. Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân phù hợp với yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước: 41
KẾT LUẬN 44
57 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1880 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân các cấp-Thực trạng và phương hướng hoàn thiện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tố cáo vượt cấp, vượt quyền và tồn đọng vấn đề này từng bước được giải quyết. Điển hình là các tỉnh Tuyên Quang, Hà Nội trong năm 2005 đã giải quyết dứt điểm 50% số vụ việc khiếu nại tồn đọng. Một số địa phương có số vụ việc được các cơ quan chức năng giải quyết và có báo cáo kết quả như: Thanh Hoá 77%; Gia Lai 70,96%; Bình Phước 67,27%; Phú Yên 64,28%; Tây Ninh 65,79% [17,tr.3].
- Hoạt động giám sát của HĐND góp phần quan trọng đảm bảo tính pháp chế Xã hội chủ nghĩa, nhằm mục tiêu xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa.
Thông qua hoạt động giám sát, HĐND các cấp đã phát hiện kịp thời những hành vi vi phạm pháp luật của đối tượng chịu sự giám sát. Điển hình như ở Hải Phòng qua công tác giám sát của HĐND thành phố về tình hình quản lý và sử dụng đất đai năm 2003 các đoàn kiểm tra giám sát của thành phố, quận, huyện đã phát hiện 766 trưòng hợp giao đất sau 12 tháng không đưa vào sử dụng với diện tích 437,196 ha; sử dụng không đúng mục đích 581 trường hợp với diện tích 20,16 ha; lấn chiếm đất đai 556 trường hợp; chuyển nhượng đất trái phép 208 trường hợp [14].
Có thể nói, hoạt động giám sát của HĐND đã bao quát được nhiều lĩnh vực khác nhau trong đời sống xã hội ở địa phương. Qua giám sát đã xác định mức độ vi phạm, trách nhiệm của các cá nhân, công chức và các cơ quan hữu quan, đồng thời có kiến nghị về biện pháp khắc phục xử lý cán bộ, cơ quan sai phạm. Nhân dân ủng hộ hoan nghênh kết quả giám sát của HĐND.Từ đó vị trí, vai trò của HĐND các cấp được đề cao. Pháp chế Xã hội chủ nghĩa được tôn trọng và được bảo đảm thực hiện ở địa phương.
2.1.2. Những tồn tại trong hoạt động giám sát của Hội đông nhân dân các cấp:
a. Về mặt pháp luật:
Hoạt động giám sát của HĐND các cấp trong thời gian qua, bên cạnh những thành tựu đã đạt được góp phần đảm bảo cho chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, Nghị quyết của HĐND được thực hiện nghiêm chỉnh và thống nhất thì do nhiều nguyên nhân khác nhau ( trong đó có nguyên nhân bắt nguồn từ những quy định pháp luật chưa phù hợp, chưa sát với thực tế ) làm cho hiệu quả hoạt động giám sát của HĐND vẫn còn có những hạn chế nhất định, ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả hoạt động của cơ quan Nhà nước ở địa phương.
Cho đến nay Nhà nước chưa ban hành một văn bản pháp luật cụ thể về hoạt động giám sát của HĐND, vì thế hạn chế tính thống nhất trong việc thực hiện hoạt động giám sát cũng như hiệu quả của hoạt động giám sát. Với sự ra đời của Luật tổ chức HĐND và UBND 2003, hoạt động giám sát của HĐND từng bước được đề cao. Song các quy định trong Luật mới chỉ dừng lại ở những điều khoản rất chung chung, chưa xây dựng được một hành lang pháp lý đủ mạnh tạo điều kiện cho công tác giám sát được tiến hành thống nhất, đảm bảo tính chất của hoạt động giám sát ở tầm vĩ mô, đó là lấy pháp luật, Nghị quyết của HĐND làm căn cứ đánh giá tính đúng sai mà không đi sâu chi tiết vào các nghiệp vụ cụ thể như thủ tục, trình tự, các chế tài, biện pháp đảm bảo thực hiện. Pháp luật hiện hành cũng chưa quy định rõ ràng một cơ chế hữu hiệu để giải quyết mối quan hệ giữa các cơ quan, cá nhân có quyền giám sát với cơ quan chịu sự giám sát, mà mới chỉ dừng lại ở việc xác định thẩm quyền giám sát và cơ chế giải quyết các mối liên hệ đó một cách chung chung mà thôi. Một khi Luật ( Pháp lệnh ) giám sát chưa được ban hành thì căn cứ pháp lý để HĐND thực hiện quyền giám sát mới chỉ là Luật tổ chức HĐND và UBND 2003. Vì thế thiếu hẳn đi những quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ của cơ quan giám sát, cơ quan chịu sự giám sát của HĐND và những chế tài kèm theo. Điều đó tất yếu dẫn đến hiệu lực của những yêu cầu, kiến nghị sau giám sát còn thấp nếu không muốn nói là lời góp ý.
b. Cơ chế bảo đảm thực hiện:
Có thể hiểu cơ chế đảm bảo thực hiện hoạt động giám sát của HĐND các cấp là toàn bộ hệ thống những quy định của pháp luật về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan, chủ thể tiến hành giám sát và mối quan hệ giữa các chủ thể này với nhau trong quá trình thực thi nhiệm vụ theo quy định. Cơ chế đảm bảo thực hiện hoạt động giám sát của HĐND hiện nay còn bộc lộ nhiều hạn chế khiến cho hiệu quả giám sát của HĐND còn thấp, biểu hiện:
Các quy định của Luật tổ chức HĐND và UBND các cấp chưa xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong nhiệm vụ xử lý những vấn đề đã phát hiện qua hoạt động giám sát. Sự phân biệt thẩm quyền giám sát cũng không được đề cập vì vậy ngay trong việc lập kế hoạch, chương trình giám sát đã không có sự thống nhất dẫn đến tình trạng chồng chéo, trùng lặp trong công tác giám sát.
Lâu nay chúng ta vẫn bị động trong công tác phối hợp hoạt động giám sát giữa các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giám sát, chưa có kế hoạch thống nhất cụ thể mà nguyên nhân chính là do cơ chế bảo đảm thực hiện phối hợp giám sát chưa được quy định một cách cụ thể. Kết quả giám sát cho thấy còn nhiều sai phạm, yếu kém trong hoạt động của các cơ quan Nhà nước, song do chưa có quy định về cơ chế xử lý dẫn đến hiệu quả giám sát thấp.
Hiện nay chưa có Luật (Pháp lệnh) về hoạt động giám sát nên chưa có quy định cụ thể về thẩm quyền, loại văn bản do Thưòng trực HĐND, các Ban HĐND được ban hành trước trong và sau giám sát, tính quy phạm của các văn bản đó ra sao. Đặc biệt những kiến nghị, đề nghị của Thường trực HĐND, các Ban HĐND đối với các cơ quan, đơn vị thuộc đối tưọng giám sát thì chế tài mới chỉ dừng lại ở quy định: “yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền áp dụng các biện pháp để kịp thời chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật, xem xét trách nhiệm, xử lý người vi phạm, khôi phục lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân bị vi phạm”.( Điều 81 Luật tổ chức HĐND và UBND 2003). Mặt khác nếu như những kiến nghị là sai thì cũng chưa có quy định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về cơ chế phản hồi, phản bác, giải trình.
Đối với hoạt động giám sát của đại biểu HĐND. Đại biểu HĐND các cấp hiện nay hoạt động theo chế độ kiêm nhiệm vì vậy rất khó khăn cho đại biểu vì cùng một lúc phải thực hiện tốt nhiệm vụ trên nhiều cương vị xã hội khác nhau, lại càng không có thời gian để toàn tâm, toàn lực thực hiện tốt vai trò là chủ thể tiến hành hoạt động giám sát của HĐND các cấp.
c. Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân còn mang nặng tính hình thức:
Không thể phủ nhận rằng HĐND các cấp ngày càng được củng cố, kiện toàn về tổ chức và hoạt động, nhất là hoạt động giám sát đã có những chuyển biến tích cực song vẫn còn mang nặng tính hình thức. Nhận xét về vấn đề này, trong bài phát biểu tại Hội nghị tổng kết toàn quốc về HĐND và UBND năm 1998 đồng chí Nông Đức Mạnh đã khẳng định: “Hiệu lực và hiệu quả của các hoạt động giám sát chưa cao. Việc đôn đốc kiểm tra thực hiện các kiến nghị sau giám sát chưa được coi trọng đúng mức. Việc giải quyết các khiếu nại tố cáo của công dân chưa đáp ứng mong mỏi của nhân dân. Vì thế không tránh khỏi hình thức và chưa thực quyền so với quy định của luật” [9]. Đến Hội nghị toàn quốc về tổ chức và hoạt động của HĐND và UBND (từ ngày 19/3/2003 đến 21/3/2003) trong bài phát biểu tại Hội nghị Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An tiếp tục chỉ rõ: "Hiệu quả và hiệu lực của các hoạt động giám sát chưa cao, ít nhiều còn mang tính hình thức. Việc đôn đốc, kiểm tra thực hiện giải quyết các khiếu nại, tố cáo của công dân, các kiến nghị sau giám sát chưa đựơc coi trọng đúng mức” [20,tr.193].
Như vậy, bên cạnh những kết quả đạt được thì hiện nay hoạt động giám sát của HĐND vẫn đang là khâu yếu, chưa bắt kịp với đòi hỏi của tình hình và nhiệm vụ. Trước hết tính hình thức trong hoạt động giám sát của HĐND các cấp được thể hiện ở nhận thức về vị trí, vai trò hoạt động giám sát chưa thật đúng tầm và thống nhất. Giám sát là hình thức thực thi quyền lực của cơ quan quyền lực Nhà nước, là hoạt động thể hiện vai trò chỉ đạo của HĐND với chính quyền địa phương nhằm phát huy những mặt tốt, phòng ngừa những tiêu cực, vi phạm và đề ra những giải pháp khắc phục. Qua giám sát HĐND còn thực hiện nhiệm vụ tự giám sát mình để kịp thời điều chỉnh những quyết định cho sát thực, kịp thời hơn. Song không ít lãnh đạo cơ quan, tổ chức còn có biểu hiện cho rằng giám sát là tìm tòi khuyết điểm, cá biệt còn cho là gây khó khăn trong công tác chỉ đạo điều hành của cơ quan liên quan. Từ đó phát sinh tâm tư không cởi mở, không báo cáo theo yêu cầu, làm cho việc xem xét đánh giá thiếu cơ sở khách quan.
Cũng do nhận thức về mục đích, ý nghĩa của hoạt động giám sát chưa đầy đủ và đồng đều. Khái niệm thế nào là một cuộc giám sát, hay giám sát khác với các cuộc làm việc có tính chất kiểm tra đôn đốc, kiểm sát ở chỗ nào cũng chưa được phân tích rõ ràng dẫn đến hiệu lực giám sát thấp, nhất là việc thực hiện những kiến nghị qua giám sát còn nhiều hạn chế. Vì vậy, khi nhận được những kiến nghị của HĐND sau giám sát thì chưa tập trung xem xét, giải quyết một cách nghiêm túc, kịp thời dẫn đến hiệu quả là: Giám sát không đi kèm với quy kết trách nhiệm đối với cơ quan bị giám sát sẽ làm phai nhạt vai trò của cơ quan có quyền giám sát. Không làm rõ trách nhiệm của cơ quan bị giám sát sẽ dẫn đến triệt tiêu hiệu quả giám sát.
Do trình độ, kinh nghiệm của người đại diện cho nhân dân còn hạn chế, chưa dành nhiều thời gian cho công tác giám sát nên hoạt động giám sát chưa bao quát được mọi lĩnh vực kinh tế, xã hội, thi hành pháp luật ở địa phương. Kỹ năng giám sát về một số lĩnh vực chuyên sâu còn hạn chế điều đó khiến cho hoạt động giám sát của HĐND không tránh khỏi hình thức. Trên thực tế nhiều đại biểu HĐND trong các kỳ họp không phát biểu ý kiến, không góp ý, thậm chí chỉ đến ngồi họp, giơ tay biểu quyết khi HĐND lấy ý kiến rồi ra về. Điều này xuất phát từ sự yếu kém về năng lực, trình độ, tâm lý ngại va chạm, không dám đấu tranh của đại biểu.
Một điều đáng chú ý là pháp luật quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Thường trực HĐND, các Ban của HĐND rất lớn và nặng nề, nhưng công tác tổ chức và cán bộ còn bất cập. Hầu hết thành viên của các Ban đều hoạt động kiêm nhiệm ( kể cả lãnh đạo Ban), chuyên viên giúp việc còn hạn chế về chất lượng và số lượng. Chuyên viên HĐND là người tham mưu tích cực giúp Thường trực HĐND và các Ban HĐND trong hoạt động giám sát nhưng việc tăng cường bồi dưỡng, tập huấn đối với đội ngũ này còn hạn chế, hình thức.
Đối với hoạt động giám sát của HĐND thông qua hình thức chất vấn - một hình thức giám sát quan trọng của HĐND được đánh giá là ngày càng có hiệu quả cao, thể hiện tính dân chủ và khách quan trong hoạt động giám sát, thì do những quy định về trách nhiệm pháp lý của người bị chất vấn mới chỉ dừng lại ở việc người bị chất vấn phải trả lời chất vấn, còn việc thực hiện những biện pháp khắc phục những sai phạm thì lại không được đề cập rõ. Chính điều này làm cho chất vấn, trả lời chất vấn trở nên hình thức ( nội dung trả lời chất vấn nặng về giải thích, đổ lỗi cho khách quan, đôi khi được coi là cơ hội để báo cáo thành tích…)
2.2. Phương hướng hoàn thiện những quy định pháp luật về hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân các cấp trong giai đoạn hiện nay.
2.2.1. Cần sớm ban hành luật về hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân để thể chế hoá chức năng giám sát của Hội đồng nhân dân trong một văn bản thống nhất:
Để hoạt động giám sát của HĐND thực sự có hiệu quả, trước hết phải ban hành văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lý cao về lĩnh vực này( Luật hoặc Pháp lệnh về hoạt động giám sát ). Chúng ta không thể mong chờ hoạt động giám sát của HĐND các cấp đạt kết quả cao, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn khi mà những cơ sở pháp lý của hoạt động giám của HĐND hiện nay còn bất cập.
Hoạt động giám sát của HDND các cấp có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của HĐND ở địa phương. Do đó muốn nâng cao năng lực giám sát của HĐND, hạn chế tính hình thức, đảm bảo đúng luật thì việc sớm ban hành Luật hoặc Pháp lệnh về hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân trong đó quy định rõ chủ thể giám sát, đối tượng chịu sự giám sát, hình thức giám sát, thẩm quyền của chủ thể giám sát…là cần thiết. Nhằm tạo ra nhận thức thống nhất về hoạt động giám sát-cơ sở pháp lý để phân biệt giám sát của HĐND với hoạt động giám sát của Quốc hội và các hoạt động kiểm tra, kiểm sát của các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội khác.
Hoạt động giám sát của HĐND các cấp động chạm đến nhiều mối quan hệ xã hội, nhiều cơ quan Nhà nước và cá nhân có thẩm quyền vì vậy khi Luật giám sát được ban hành thiết nghĩ phải làm rõ một số vấn đề sau:
- Cần phân biệt rõ hoạt động giám sát của HĐND với hoạt động kiểm tra, thanh tra, kiểm sát của các cơ quan Nhà nước như: Uỷ ban nhân dân, Thanh tra Nhà nước, Thanh tra ngành Viện kiểm sát nhân dân, Toà án nhân dân để tránh sự chồng chéo trong giám sát gây phiền hà cho cơ quan Nhà nước hoặc bỏ trống vấn đề cần giám sát.
- Cần có sự phân định rõ thẩm quyền hoạt động giám sát của các Ban HĐND, nhất là những lĩnh vực có tính chất “giao thoa” vừa là phạm vi giám sát của Ban này, vừa thuộc phạm vi giám sát của Ban kia. Từ đó có sự phân công rành mạch, đặc biệt không bỏ sót, đồng thời không trùng lặp nhau, tạo cơ sở cho Thường trực HĐND tổ chức phân công, phối hợp giữa các Ban cùng kiểm tra giám sát một vấn đề, một lĩnh vực nào đó.
- Cần quy định rõ các cuộc kiểm tra, giám sát phải báo cáo bằng văn bản gửi Thường trực HĐND các cấp, địa phương và đơn vị được kiểm tra, giám sát. Đặc biệt phải quy định rõ thời hiệu, thời hạn và trách nhiệm xem xét, xử lý các báo cáo của các Ban HĐND nhằm đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật.
- Nghiên cứu các hình thức chế tài xử lý phù hợp để trao cho HĐND, Thường trực HĐND, các Ban của HĐND. Đây là vấn đề hết sức quan trọng không những thể hiện hiệu quả công tác giám sát mà còn biểu hiện tính quyền lực Nhà nước của HĐND.
- Quy định hình thức kiểm tra, giám sát việc chấp hành các quyết định xử lý sau giám sát, kiểm tra của HĐND, Thường trực HĐND, các Ban của HĐND và của đại biểu HĐND. Đây là công việc quan trọng và cần thiết, nhưng thường bị lãng quên vì thông thường sau khi HĐND giám sát, kiểm tra, có những quyết định xử lý thì coi như công việc kết thúc. Việc sửa chữa của đối tượng bị xử lý như thế nào, ít được theo dõi, đôn đốc để xem xét kết quả cuối cùng. Từ đó làm nảy sinh tư tưởng coi thường pháp luật Nhà nước và hoạt động giám sát của HĐND. Do vậy, trong cơ chế giám sát, kiểm tra của HĐND vẫn phải có hình thức kiểm tra việc chấp hành các quyết định xử lý của HĐND.
Với sự ra đời của Luật về hoạt động giám sát của HĐND những vấn đề đặt ra trong thực tiễn hoạt động giám sát của HĐND về cơ bản sẽ được giải quyết kịp thời.
2.2.2. Đổi mới phương thức hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân để hoạt động giám sát đạt hiệu quả cao:
Giám sát là hoạt động phức tạp, đòi hỏi người thực hiện phải quán triệt sâu sắc đường lối, chính sách của Đảng, nắm vững luật pháp của Nhà nước và tình hình nhiệm vụ của địa phương. Mặt khác phải có khả năng tổng hợp, phân tích vấn đề, có kiến thức sâu về lĩnh vực tiến hành giám sát. Muốn giám sát có hiệu quả cao đòi hỏi chủ thể tiến hành hoạt động phải là người có kinh nghiệm lâu năm, mà kinh nghiệm đó chỉ có thể có được thông qua hoạt động thực tiễn, đúc kết kinh nghiệm thực tế. Trong khi đó đại biểu HĐND được bầu theo nhiệm kỳ, đa số kiêm nhiệm cho nên người chuyên trách thực hiện công việc này rất ít, hay thay đổi, kiêm nhiệm nhiều công việc khác nhau. Vì thế một trong những vấn đề có ý nghĩa về cả lý luận và thực tiễn hiện nay là việc đổi mới phương thức, nâng cao năng lực và hiệu quả công tác giám sát nhằm khắc phục tính hình thức trong hoạt động giám sát của HĐND các cấp.
Trước hết cần phân định rõ phạm vi chức năng, nhiện vụ và quyền hạn hoạt động giám sát của HĐND với công việc kiểm tra, thanh tra, khảo sát, kiểm toán…của các cơ quan Nhà nước khác. Hoạt động giám sát cuả HĐND phải thể hiện cho được sự phân công, phân cấp, phân nhiệm. HĐND ở cấp nào chỉ nên tập trung thực hiện công việc giám sát đúng nội dung, đối tượng, phương thức phù hợp với chức năng, nhiệm vụ trong bộ máy tổ chức ở cấp đó. HĐND cần sử dụng linh hoạt những phương thức giám sát như: xem xét báo cáo, chất vấn, kiểm tra thực tế, giám sát qua giải quyết đơn thư và qua các thông tin trên phương tiện thông tin đại chúng, tăng cường công tác giám sát theo chuyên đề…Hiệu lực giám sát của HĐND có được phát huy hay không phụ thuộc vào những phương thức giám sát này. Vì vậy, đổi mới phương thức giám sát cần tập trung vào một số vấn đề:
- Đổi mới phương thức chất vấn-hình thức giám sát quan trọng và hữu hiệu của đại biểu HĐND. Khi thực hiện quyền chất vấn các đại biểu HĐND không chỉ nhân danh cá nhân đại biểu mà còn sử dụng quyền lực nhân dân, yêu cầu đối tượng bị chất vấn phải trả lời những vấn đề mà đại biểu và nhân dân quan tâm qua đó xác định trách nhiệm của người bị chất vấn. Sau chất vấn phải có hình thức chế tài, giám sát thực hiện thì mới đảm bảo tính quyền lực của HĐND. Để thực hiện điều này, sự cần thiết phải có những chế tài xử lý đối với các đối tượng chịu sự giám sát của HĐND cũng như giám sát quá trình thực hiện những biện pháp khắc phục mà đối tượng trả lời chất vấn đã hứa khi trả lời chất vấn.
- Đổi mới phương thức giám sát của HĐND thông qua việc thu thập nắm bắt những thông tin qua các phương tiện thông tin đại chúng, thông tin từ nhân dân. Ngày nay thông tin đại chúng góp phần quan trọng vào hoạt động quản lý Nhà nước và xã hội. Thông tin đại chúng có ý nghĩa như một công cụ trợ giúp cho việc thực hiện chức năng giám sát của HĐND. Các phương tiện thông tin đại chúng đã góp phần quan trọng trong việc phát hiện những hành vi vi phạm pháp luật. Vì vậy từ những thông tin thu thập được thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, HĐND phát hiện những vấn đề nổi cộm, bức xúc trong đời sống xã hội qua đó có biện pháp xử lý. Ngược lại, mỗi khi HĐND đưa ra những quyết định của mình trong hoạt động giám sát thì với sự trợ giúp của các phương tiện thông tin đại chúng sẽ tạo ra áp lực đối với cơ quan bị giám sát. Đặc biệt khi đại biểu HĐND tiến hành chất vấn tại kỳ họp cần được truyền trực tiếp trên các phương tiện thông tin đại chúng như: phát thanh, truyền hình, báo chí…sẽ có tác dụng rất lớn thúc đẩy hoạt động giám sát của HĐND qua đó nhân dân thực hiện quyền được thông tin và giám sát hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân.
- Hoạt động giám sát phải được tiến hành thường xuyên trong thực tế nhằm tạo nên sự đồng bộ giữa pháp luật và thi hành pháp luật. Giám sát kiểm tra việc thực hiện chế độ chính sách phải luôn gắn với việc giám sát kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ kinh tế xã hội và việc chấp hành pháp luật.
Đổi mới phương thức giám sát thông qua việc kiểm tra thực tế có thể được thực hiện bằng cách giảm thời lượng nghe lãnh đạo HĐND các cấp báo cáo chung và tăng thời lượng làm việc, tìm hiểu thực tế tại địa phương. Trên cơ sở so sánh đối chiếu giữa báo cáo của lãnh đạo đơn vị với kết quả kiểm tra, kiểm sát thực tế. Từ đó rút ra những nhận định khách quan, trung thực, tránh được sự chồng chéo, hình thức trong giám sát.
Từ kinh nghiệm thực tế hoạt động giám sát nhiều năm qua cho thấy, không nên coi việc giám sát hoàn thành khi có quyết định xử lý hoặc báo cáo kết quả thực hiện giám sát mà cần có sự kiểm tra kỹ đối với báo cáo đó. Với những vi phạm có tính chất và mức độ nghiêm trọng, gây hậu quả xấu trong địa phương cần tái kiểm tra, giám sát việc thực hiện.
- Đối với phương thức giám sát theo chủ đề, cần chú trọng nhiều hơn. Bởi lẽ muốn nâng cao chất lượng và hiệu quả giám sát của HĐND các cấp cần chọn chủ đề sao cho thiết thực, đúng trọng tâm. Giám sát theo chủ đề đáp ứng được yêu cầu khi đi sâu xem xét vào từng lĩnh vực và những vấn đề bức xúc đặt ra cần giải quyết. Và như vậy trong quá trình thảo luận, chất vấn về những vấn đề thực hiện nhiệm vụ của các ngành chức năng sẽ kịp thời được phản ánh một cách đầy đủ theo mỗi chủ đề đã nêu. Từ đó góp phần tạo mối quan hệ chặt chẽ trong hoạt động giám sát của HĐND các cấp để mỗi cấp có điều kiện thực hiện tốt nhiệm vụ, quyền hạn của mình trên các lĩnh vực khác nhau.
2.2.3. Nâng cao hiệu quả giám sát của Hội đồng nhân dân tại kỳ họp, giám sát cuả Thường trực Hội đồng nhân dân, giám sát của các Ban của Hội đồng nhân dân và giám sát của các đại biểu Hội đồng nhân dân:
a. Nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân tại các kỳ họp:
Kỳ họp là hình thức hoạt động chủ yếu, quan trọng nhất của HĐND. Nơi biểu hiện trực tiếp và tập trung nhất của quyền lực Nhà nước, trí tuệ tập thể của đại biểu. Vì vậy để nâng cao chất lượng, hiệu quả của kỳ họp thì cần phải tăng cường công tác giám sát, kiểm tra các hoạt động của kỳ họp như: công tác chuẩn bị kỳ họp ra sao? Việc thẩm định, thuyết trình của các Ban HĐND như thế nào? hoạt động chuẩn bị của mỗi đại biểu HĐND cho kỳ họp, công tác điều hành theo chương trình nghị sự và chuẩn bị dự thảo các Nghị quyết Hội đồng nhân dân của Thường trực HĐND…
Hoạt động giám sát tại kỳ họp HĐND mang tính chất tổng hợp, toàn diện đối với tất cả các đối tượng thuộc phạm vi giám sát của HĐND. Chính vì thế việc nâng cao chất lượng thẩm tra, xem xét báo cáo, đề án, vấn đề chất vấn và trả lời chất vấn tại kỳ họp là yêu cầu cần thiết để không ngừng nâng cao hiệu quả giám sát của HĐND.
Tại kỳ họp, HĐND xem xét các báo cáo đề án và báo cáo công tác của các cơ quan trình HĐND. Chính vì vậy, để công tác xem xét, đánh giá của HĐND có chất lượng, yêu cầu đặt ra đối với các cơ quan trình báo cáo là:
- Nội dung báo cáo, đề án của các cơ quan trình HĐND phải đầy đủ, khách quan nêu đúng thực trạng tình hình, những vấn đề cần tập trung giải quyết.
- Báo cáo, đề án phải được gửi trước cho đại biểu HĐND để đại biểu có thời gian nghiên cứu, thảo luận. Đối với các cơ quan có nhiệm vụ thẩm tra các báo cáo, dự án đòi hỏi trong báo cáo thuyết trình phải thể hiện rõ quan điểm, chính kiến của mình về những vấn đề đó. Nội dung thuyết trình cần tập trung phân tích sâu vào những vấn đề trọng tâm, gợi mở những vấn đề cần thiết làm cơ sở cho đại biểu HĐND thảo luận và quyết định.
Tại kỳ họp HĐND đại biểu HĐND thực hiện quyền giám sát của mình thông qua hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn. Để nâng cao chất lượng chất vấn và trả lời chất vấn, yêu cầu đặt ra:
- Cần có quy chế phối hợp giữa Thường trực HĐND với Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc trong việc tổng hợp ý kiến của cử tri, từ đó rút ra những vấn đề nổi cộm ở địa phương được cử tri phản ánh nhiều lần, những vấn đề vướng mắc qua các đợt giám sát, qua tiếp dân, qua các phương tiện thông tin…để phân loại nội dung, đối tượng cần chất vấn đồng thời phải gửi trước cho các đối tượng bị chất vấn về những vấn đề chất vấn để họ chuẩn bị trước.
- Nâng cao kỹ năng chất vấn của Đại biểu HĐND. Đại biểu HĐND cần chọn lọc những vấn đề bức xúc, nóng bỏng ở địa phương, những vấn đề mà cử tri quan tâm. Nội dung vấn đề chất vấn phải cụ thể và chính xác, tránh tình trạng nghe dư luận chung chung rồi chất vấn hoặc chất vấn chỉ mang tính chất vấn tìm hiểu thông tin….
- Hoạt động chất vấn giữa hai kỳ họp cần quan tâm nhiều hơn nữa vì đây cũng là một yêu cầu để chất vấn trở thành hoạt động mang tính thường xuyên. Yêu cầu đặt ra đối với đối tượng chịu trách nhiệm trả lời chất vấn phải cụ thể, nhắn gọn đi thẳng vào những vấn đề đại biểu HĐND quan tâm, tránh tình trạng trả lời vòng vo, kể lể, né tránh trách nhiệm… nhằm bảo đảm thực hiện đúng mục đích, yêu cầu của chất vấn, tiết kiệm thời gian cho kỳ họp. Những vấn đề đã báo cáo giải trình trước HĐND thì các cơ quan có liên quan cần nghiên cứu để giải thích cho nhân dân, cử tri hiểu đúng. Tránh tình trạng hứa nhưng không giải quyết hoặc không có hồi âm lại cho cử tri.
- Cần có sự thống nhất trong nhận thức về hoạt động chất vấn của đại biểu HĐND. Phải xác định đó là nhiệm vụ thường xuyên của đại biểu HĐND đã được pháp luật quy định. Tránh tình trạng hiểu sai mục đích, ý nghĩa của việc chất vấn cho là "bới lông tìm vết", tra hỏi dẫn đến né tránh.
- Để tạo điều kiện cho nhân dân, cử tri theo dõi hoạt động chất vấn và trả lời của đại biểu HĐND, có những ý kiến đóng góp kịp thời cho hoạt động của HĐND, các cơ quan, tổ chức đạt kết quả thì việc truyền hình trực tiếp phiên họp khi chất vấn và trả lời chất vấn là cần thiết. HĐND cần duy trì và áp dụng để qua đó nhân dân thực hiện được quyền giám sát của mình. Các cơ quan thông tin đại chúng đảm bảo việc đưa tin kịp thời, chính xác về nội dung chất vấn và trả lời chất vấn tạo điều kiện cho việc theo dõi và kiểm tra của của cử tri và nhân dân được tốt hơn.
- Sau mỗi kỳ họp của HĐND, thường trực HĐND cần có cuộc họp với lãnh đạo các Ban của HĐND, rút kinh nghiệm trong việc điều hành chủ toạ phiên họp chất vấn và trả lời chất vấn.
- Cần xây dựng quy chế chất vấn quy định cụ thể về hình thức chất vấn; về trình tự; chủ thể; đối tượng; nội dung chất vấn hậu quả pháp lí của chất vấn, về giám sát theo dõi kết quả trả lời chất vấn…
b. Nâng cao hiệu quả giám sát của thường trực HĐND:
HĐND là một thiết chế hành động mà cơ quan thường trực có một vị trí, vai trò quan trọng. Trong điều kiện HĐND các cấp hoạt động chưa thường xuyên (họp thường lệ mỗi năm hai kỳ) thời gian mỗi kỳ họp lại rất ngắn do vậy phần lớn nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND (giữa hai kỳ họp) do thường trực HĐND đảm nhiệm.
Theo quy định của Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 thì tổ chức và hoạt động của thường trực HĐND có sự đổi mới cho phù hợp với nhiệm vụ quyền hạn được giao. Song để giám sát của thường trực được thực hiện có hiệu quả thì:
Đổi mới về nhận thức của các cấp uỷ đảng và các đại biểu HĐND khi bầu Chủ tịch, Phó chủ tịch và Uỷ viên thường trực cấp mình. Việc bố trí các cán bộ chủ chốt nói trên phải đáp ứng được yêu cầu nhằm tăng cường hiệu quả giám sát của thường trực. "Thực tiễn đã chứng minh rằng ở đâu làm tốt công tác nhân sự thường trực thì ở đó HĐND hoạt động có hiệu quả hơn và hoạt động giám sát của thường thực đối với UBND cùng cấp mới ý nghĩa của nó, không bị coi là " chuyện nhỏ"[12]. Thường trực HĐND cần hoạt động theo hướng chuyên trách. Đảm bảo mọi hoạt động của HĐND giữa hai kỳ họp được tiến hành có chất lượng và thường xuyên hơn. Thường trực HĐND các cấp phải chủ động đề ra các chương trình, lựa chọn nội dung trọng tâm, bức xúc, phù hợp với tình hình địa phương để có kế hoạch cụ thể, hướng dẫn chi tiết các đợt giám sát theo chuyên đề. Đồng thời thông báo rõ về nội dung, cách thức, phương pháp thực hiện đối với tổ chức, đơn vị được giám sát.
Mối quan hệ phối hợp, điều hoà giữa thường trực HĐND và các Ban của HĐND trong việc thực hiện nhiệm vụ giám sát cần được duy trì trường xuyên. Thường trực HĐND luôn theo sát hoạt động giám sát của các Ban. Ngoài ra hiệu quả giám sát của thường trực còn thể hiện ở việc phối hợp với UBMTTQ và các tổ chức thành viên của Mặt trận trong hoạt động giám sát.
c. Nâng cao hiệu quả giám sát của các Ban của HĐND:
Để các Ban của HĐND hoạt động ngày một hiệu quả hơn góp phần tích cực vào việc thực hiện tốt công tác giám sát của HĐND các cấp thì đổi mới phương pháp tổ chức, chương trình làm việc và nâng cao trình độ các thành viên của các Ban là việc làm cần thiết.
Khi tiến hành hoạt động giám sát, các Ban nên có sự kết hợp giữa các hình thức giám sát như nắm thông tin, xem xét việc ban hành các văn bản, xem xét báo cáo, tổ chức các đoàn giám sát trực tiếp có như vậy mới phát huy được mọi khả năng mà pháp luật cho phép để hoạt động giám sát có hiệu quả. Các Ban của HĐND cần lập kế hoạch chi tiết về hoạt động giám sát của Ban và phân công thành viên duy trì từng đợt giám sát theo từng lĩnh vực, từng chuyên đề giám sát. Khi tổ chức các đoàn giám sát nên mở rộng thành phần của các đoàn. Ngoài các thành viên của Ban, có thể mời thêm chuyên viên của HĐND và một số chuyên gia giỏi ở các ngành khác dự. Sau khi giám sát, Ban phải thông báo kết quả giám sát, đánh giá những mặt làm được, chưa làm được, đặc biệt nêu kiến nghị để các địa phương, các ngành chấn chỉnh trong công tác chỉ đạo điều hành.
Luật Tổ chức HĐND và UBND 2003 khi quy định về các Ban của HĐND các cấp chưa đề cập đến hoạt động của Trưởng và Phó Ban. Trên thực tế hoạt động giám sát của Ban đòi hỏi vấn đề cần bố trí Trưởng Ban hay Phó Ban chuyên môn phải hoạt động chuyên trách thì mới có thể toàn tâm toàn lực dành cho hoạt động chuyên môn mà mình đảm nhiệm. Hơn nữa cần quy định cụ thể số lượng thành viên và các chuyên viên giúp việc có đủ năng lực và trình độ đáp ứng công việc hoạt động của ban. Thực tế cho thấy, việc thẩm tra các báo cáo, đề án trình HĐND là một công việc khó khăn, nhưng giám sát việc thực hiện Hiến pháp, Pháp luật và các Nghị quyết của HĐND lại càng khó khăn hơn. Với số lượng thành viên ít, kiêm nhiệm như hiện nay mà nội dung, lĩnh vực, địa bàn giám sát lại rất rộng thì dù các Ban có nhiều cố gắng song hiệu quả giám sát vẫn không thể cao. Vì thế nâng cao trình độ, năng lực, tiêu chuẩn các thành viên các Ban là một giải pháp có tính thực tiễn, đảm bảo hoạt động giám sát của các Ban sẽ có tính thực quyền, là chỗ dựa vững chắc cho chính quyền điều hành, chỉ đạo tốt. Trong hoạt động của mình, các ban phải hết sức quan tâm đến nguyên tắc hoạt động tập thể, phát huy đúng mức tinh thần trách nhiệm của các thành viên của Ban. Tranh thủ ý kiến của thường trực HĐND và khi cần thiết nên có sự tham gia phối hợp của các cơ quan chuyên môn trong hoạt động thẩm tra và giám sát. Nhất thiết các thành viên của Ban phải được trang bị kiến thức đối với lĩnh vực mà mình phụ trách, đặc biệt là phải nắm vững quan điểm của Đảng và Nhà nước, quy định của pháp luật về những vấn đề cần thẩm tra và giám sát.
d. Nâng cao hiệu quả giám sát của đại biểu HĐND:
Hoạt động của đại biểu HĐND là yếu tố quyết định đảm bảo tính chất đại diện, tính quyền lực cho nhân dân địa phương. Vì vậy có vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng hoạt động giám sát của HĐND. Muốn nâng cao hiệu quả giám sát của đại biểu HĐND thì vấn đề trước tiên phải chú trọng quá trình lựa chọn đại biểu. Đại biểu HĐND phải là những người mà ngoài phẩm chất chính trị tốt, đòi hỏi năng lực, trình độ, có khả năng hoàn thành nhiệm vụ của người đại diện cho nhân dân.
Thực tế đang đòi hỏi chúng ta tiếp tục nghiên cứu, tím tòi cơ chế thích hợp để có thể vừa tăng số lượng đại biểu HĐND không chỉ đáp ứng về mặt cơ cấu mà còn đáp ứng về tiêu chuẩn, chất lượng, kỹ năng hoạt động của đại biểu. Việc tăng số lượng đại biểu là cần thiết để HĐND thực hiện tốt chức năng đại diện của mình. Hơn nữa chất lượng hoạt động của HĐND(đặc biệt là chất lưọng giám sát) phụ thuộc vào chất luợng của đại biểu HĐND nên ngay từ khi giới thiệu người ứng cử, HĐND ở từng cấp cần coi trọng chất lượng là chính. Đồng thời kế hoạch, chương trình thường xuyên bồi dưỡng kiến thức pháp lý, nâng cao trình độ chuyên môn và bản lĩnh, trách nhiệm, kỹ năng hoạt động giám sát cho đại biểu.
Đối với hoạt động giám sát của đại biểu HĐND từ trước đến nay pháp luật mới chỉ quy định về nhiệm vụ, quyền hạn một cách chung chung, thiếu các quy định cụ thể về thủ tục, trình tự, chế tài mà đại biểu HĐND được quyền áp dụng khi thực hiện nhiệm vụ giám sát. Mặt khác, tuyệt đại đa số đại biểu HĐND hoạt động kiêm nhiệm, chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ giám sát. Vì thế hoạt động giám sát của đại biểu còn mờ nhạt. Nên chăng cần bổ sung quy định về việc thành lập tổ đại biểu và mối quan hệ giữa các thành viên trong tổ giữa hai kỳ họp HĐND (vấn đề này đã được quy định trong các Luật tổ chức HĐND và UBND trước đó). Sự phối kết hợp giữa các đại biểu trong tổ giữa hai kỳ họp HĐND sẽ tạo điều kiện hỗ trợ lẫn nhau trong hoạt động giám sát của đại biểu. Nếu duy trì như Luật tổ chức HĐND và UBND như hiện nay, hoạt động giám sát của các đại biểu HĐND sẽ trở nên đơn lẻ và kém hiệu quả.
Cần đổi mới hình thức và kỹ năng tiếp xúc cử tri của đại biểu HĐND nhằm nâng cao chất lượng giám sát của đại biểu. Khi tiến hành tiếp xúc cử tri, đại biểu phải tạo điều kiện để cử tri phản ánh những vấn đề bức xúc ở địa phương, tránh tình trạng cử tri đến chỉ nghe báo cáo. Đồng thời cần có sự bàn bạc với Thường trực HĐND, Thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc để thống nhất cách thức tổ chức, địa điểm, thời gian và thành phần cử tri. Đối với kiến nghị của cử tri đã được giải quyết thì Thường trực HĐND phải đôn đốc các cơ quan, đơn vị hữu quan thực hiện và giám sát đến khi có kết quả cuối cùng.
Trong các hình thức giám sát của đại biểu HĐND thì giám sát thông qua hoạt động chất vấn được xác định là quan trọng nhất. Hiến pháp và Luật tổ chức HĐND và UBND hiện hành ghi nhận chất vấn là quyền hạn và nhiệm vụ đặc biệt mà chỉ đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND mới có "Đại biểu Hội đồng nhân dân có quyền chất vấn Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch và các thành viên khác của Uỷ ban nhân dân, Chánh án toà án nhân dân, Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân và thủ trưởng cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân"(Điều 14 Luật tổ chức HĐND và UBND 2003).
Như vậy, đối tượng chất vấn của đại biểu HĐND là những người đứng đầu các cơ quan, tổ chức tại địa phương. Quyền chất vấn của đại biểu HĐND có thể được tiến hành tại kỳ họp hoặc giữa hai kỳ họp. Trong những năm gần đây, hoạt động chất vấn của đại biểu đã có nhiều đổi mới tích cực song để hoạt động này đạt được kết quả cao hơn nữa cần phải nâng cao năng lực, trình độ và trách nhiệm của đại biểu để thực hiện tốt hơn nữa quyền chất vấn. Đại biểu HĐND với tư cách là một chủ thể thực hiện quyền giám sát của HĐND, vì thế cần có những giải pháp để bồi dưỡng, nâng cao năng lực hoạt động cho đại biểu trên cơ sở nâng cao kỹ năng hoạt động chuyên môn cho đại biểu, kỹ năng tiếp xúc cử tri, thu thập và xử lý thông tin, chất vấn…
Đổi mới cơ cấu đại biểu HĐND theo hướng giảm tỷ lệ đại biểu là cán bộ quản lý ở cơ quan Nhà nước, tăng tỷ lệ đại biểu hoạt động chuyên trách. Thực hiện tốt cơ chế giám sát của nhân dân đối với hoạt động của đại biểu nhằm đảm bảo cho hoạt động của đại biểu thực sự phục vụ lợi ích của nhân dân.
2.2.4.Tăng cường mối quan hệ gắn bó, sự phân công hợp lý, phối hợp điều hoà giữa các cơ quan thực hiện hoạt động giám sát để hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân thực sự phát huy hiệu quả:
Chức năng, vai trò, hiệu lực và hiệu quả hoạt động của HĐND phụ thuộc vào hiệu quả các hình thức giám sát của nó. Mỗi chủ thể giám sát thực hiện hoạt động giám sát trong phạm vi thẩm quyền do luật định. Tuy nhiên muốn hoạt động giám sát của HĐND phát huy hiệu quả thì vấn đề đặt ra là cần có sự phối hợp giữa các chủ thể trong quá trình thực hiện hoạt động giám sát. Theo em vấn đề này cần được chú trọng hơn nữa theo hướng:
Thứ nhất: Sự phối hợp giữa Thường trực HĐND với các Ban HĐND để thực hiện vai trò chỉ đạo, điều hoà, phối hợp hoạt động của Thường trực HĐND đối với các Ban HĐND. Trong công tác giám sát, Thường trực HĐND cần quan tâm theo dõi, thống nhất kế hoạch làm việc của từng Ban, cho ý kiến về những lĩnh vực, nội dung cần quan tâm theo dõi, thống nhất kế hoạch làm việc của từng Ban và phối hợp giữa các Ban.
Thường trực HĐND thường xuyên tổ chức giao ban với các Ban HĐND để nắm bắt thông tin kết quả giám sát, xem xét và bàn biện pháp xử lý các vấn đề phát hiện qua giám sát hoặc kiến nghị, yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền giải quyết những vấn đề được phát hiện một cách kịp thời. Đồng thời Thường trực HĐND có thể yêu cầu các Ban HĐND tổ chức giám sát những vấn đề mang tính bức xúc về kinh tế, xã hội, pháp luật phát sinh trong thực tế đang được đông đảo cử tri ở địa phương quan tâm, làm cho quá trình tổ chức thực hiện Nghị quyết HĐND luôn được theo dõi chặt chẽ, thông tin kịp thời và mang tính thực tế cao. Giúp HĐND có căn cứ xác đáng để điều hành, phối hợp, tổ chức thực hiện tốt Nghị quyết HĐND.
Ngoài ra căn cứ vào dự kiến nội dung chương trình kỳ họp, Thường trực HĐND phân công các Ban HĐND tham gia chuẩn bị kỳ họp, trong đó chỉ đạo cho các Ban xem xét thẩm định các báo cáo sẽ trình tại kỳ họp để HĐND xem xét quyết định. Phân công chuẩn bị các báo cáo thuyết trình về kết quả kiểm sát, giám sát của từng Ban, các lĩnh vực do Ban phụ trách và các vấn đề bức xúc về kinh tế xã hội đang đặt ra ở địa phương.
Thứ hai: Thường trực HĐND muốn thực hiện tốt công tác điều hoà, phối hợp hoạt động giám sát với các Ban HĐND thì cần có sự quan tâm, chỉ đạo tạo điều kiện cho các đại biểu HĐND không phải là thành viên của các Ban thường xuyên được tham gia các hoạt động khảo sát, giám sát thực tế. Đồng thời chuẩn bị chu đáo nội dung các kỳ họp HĐND, cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời cho các đại biểu HĐND để đại biểu thực hiện tốt nhiệm vụ của mình.
Thứ ba: Tăng cường sự phối hợp giữa HĐND vói Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên của Mặt trận cùng quần chúng nhân dân ở địa phương.
Ở nước ta, nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình bằng nhiều hình thức khác nhau, đó là làm chủ bằng Nhà nước, làm chủ thông qua các tổ chức xã hội và làm chủ trực tiếp. Vấn đề này được ghi nhận trong các Văn kiện, Nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX đã chỉ rõ mối quan hệ giữa Mặt trận Tổ quốc với các cơ quan quyền lực Nhà nước: "Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, nơi thể hiện ý chí, nguyện vọng, tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân, góp sức xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh; phát huy khả năng tham gia bầu cử Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp; xây dựng chủ trương, chính sách,pháp luật, tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện đưòng lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thực hiện giám sát của nhân dân đối với công tác và đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, công chức, đại biểu dân cử và các cơ quan Nhà nước; giải quyết những mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân"[2,tr.130]
Về mối quan hệ giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và HĐND, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam quy định: "Mặt trận Tổ quốc Việt Nam…giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ công chức Nhà nước…tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân…"(Điều 2 Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam). Như vậy ở địa phương Mặt trận tổ quốc tham gia vào sự hình thành HĐND-cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, cơ quan đại biểu của nhân dân địa phương. Chính vì thế mà trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình HĐND có trách nhiệm phải thường xuyên thông báo với Mặt trận những vấn đề quan trọng đã giải quyết, "Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc ở địa phương được mời tham dự các kỳ họp Hội đồng nhân dân…Tại kỳ họp thưòng lệ của Hội đồng nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp thông báo về hoạt động của Mặt trận tham gia xây dựng chính quyền; đề xuất kiến nghị với Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân về những vấn đề cần thiết" (Điều 11 Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam).
Có thể nói, mối quan hệ giữa HĐND với Mặt trân Tổ quốc là mối quan hệ phối hợp để thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn theo quy định của pháp luật. Về phía Nhà nước, Nhà nước tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hoạt động có hiệu quả. Trong lĩnh vực giám sát, hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc VIệt Nam là giám sát mang tính nhân dân, hỗ trợ cho công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra của Nhà nước.
Cơ sở pháp lý của mối quan hệ giữa Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc ở địa phương với HĐND trong hoạt động giám sát đó là Hiến pháp 1992, Luật tổ chức HĐND và UBND 2003, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Theo tinh thần của các văn bản trên, thì Mặt trận Tổ quốc có quyền "giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ công chức Nhà nước" (Điều 2 Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam). Hoạt động giám sát của Mặt trận được thực hiện theo ba hình thức trong đó " tham gia hoạt động giám sát với cơ quan quyền lực nhà nước " (Điều 12 Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam) là hình thức giám sát trực tiếp. Sự tham gia của Mặt trận tổ quốc trong hoạt động giám sát được thể hiện:
- Tham gia xây dựng kế hoạch, nội dung và phương thức tiến hành giám sát của Hội đồng nhân dân.
- Cử đại diện Ban thường trực Mặt trận tổ quốc, chuyên viên pháp luật, chuyên viên hội đồng tư vấn của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc tham gia đoàn giám sát.
- Đề nghị mời đại diện tổ chức chính trị - xã hội như: Công đoàn, Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Hội nông dân…tham gia đoàn giám sát tuỳ thuộc nội dung giám sát có liên quan đến nội dung hoạt động của các tổ chức đó.
- Cung cấp thông tin, tài liệu có liên quan đến nội dung giám sát, dư luận nhân dân về các vụ việc vi phạm pháp luật, tiêu cực, tham nhũng. Những ý kiến, kiến nghị của các tầng lớp nhân dân được tổng hợp để phục vụ cho hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc.
Sự tham gia giám sát Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận ở địa phương góp phần tích cực nâng cao hiệu qủa giám sát theo chương trình kế hoạch hàng năm của HĐND. Tuy nhiên hiện nay việc xây dựng cơ chế giám sát giữa HĐND với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên của Mặt trận vẫn chưa được quy định cụ thể trong pháp luật (mới chỉ dừng lại ở quy chế phối hợp giữa Mặt trận và HĐND). Vì vậy rất khó cho sự điều hành chung của HĐND khi tổ chức một hoạt động cụ thể về giám sát, đồng thời làm cho Mặt trận Tổ quốc khi tham gia hoạt động giám sát thường bị động.
Để xây dựng một quy trình giám sát có tính khoa học thì cần thiết phải xác định các hình thức phối hợp giữa HĐND với Mặt trận Tổ quốc và các thành viên của Mặt trận trong hoạt động giám sát. Theo em sự phối hợp đó được thể hiện như sau:
- Thường trực HĐND phối hợp với Mặt trận tổ quốc và các tổ chức thành viên thực hiện việc đôn đốc, kiểm tra các hoạt động của UBND, các cơ quan chuyên môn của UBND, các cơ quan Nhà nước ở địa phương trong việc thực hiện các Nghị quyết của HĐND và các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước liên quan đến công tác của Mặt trận Tổ quốc.
- Có cơ chế phối hợp giữa Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên trong việc tham gia hoạt động giám sát cùng với các Ban của HĐND. Việc phối hợp tham gia giám sát này là cơ sở để đối tượng được giám sát này thấy rõ hành vi của mình hơn. Hạn chế những vấn đề đưa ra xem xét tại kỳ họp HĐND, nhằm bảo đảm kỳ họp HĐND tập trung vào những vấn đề cơ bản, quan trọng, có nhiều bức xúc nổi cộm ở địa phương nhưng vẫn đảm bảo tính quyền lực của Hội đồng nhân dân.
- Thường trực HĐND phối hợp với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên của Mặt trận tạo điều kiện cho đại biểu HĐND thực hiện nhiệm vụ tiếp xúc với cử tri để nắm bắt tâm tư nguyện vọng của cử tri, kịp thời phản ánh, đề xuất, kiến nghị với HĐND. Giúp đại biểu HĐND có căn cứ thực tế để thực hiện quyền chất vấn, giám sát tại kỳ họp.
2.2.5. Đảm bảo tính quyền lực thực tế của Hội đồng nhân dân ở địa phương. Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân phù hợp với yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước:
Đất nước ta đang trong tiến trình đổi mới về mọi mặt, với nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Do đó vấn đề đặt ra là làm thế nào để HĐND thực sự phát huy quyền lực thực tế của mình trong tổ chức và hoạt động đã và đang là vấn đề được quan tâm của Đảng và Nhà nước, đồng thời cũng là một nội dung quan trọng của chủ trương đổi mới hệ thống chính trị. Hội nghị trung ương III khoá VIII đã xác đinh: ''phải tiếp tục kiện toàn và củng cố Hội đồng nhân dân, xây dựng Hội đồng nhân dân các cấp có thực quyền để thực hiện đầy đủ vai trò là cơ quan đại diện của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân từng cấp''.
Để hoạt động của HĐND các cấp có thực quyền, yêu cầu đặt ra hiện nay là phải sớm hoàn thiện cơ sở pháp lý về tổ chức và hoạt động của HĐND. Mặc dù những quy định về HĐND đã được sửa đổi, bổ sung nhiều lần song vẫn còn những điểm chưa phù hợp với yêu cầu cải cách Bộ máy Nhà Nước cũng như thực tiễn hiện nay.
Bước vào thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, tiếp tục thực hiện chủ trương Nghị quyết của Đảng về đổi mới và kiện toàn Bộ máy Nhà nước, đáp ứng được các vấn đề mới phát sinh trong thực tiễn trên cơ sở kế thừa những nội dung tích cực của Luật hiện hành. Việc đổi mới tổ chức và hoạt động của HĐND cần quan tâm đến một số vấn đề trọng tâm:
- Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với HĐND. Đây là vấn đề có tính quyết định đến việc phát huy hiệu lực, hiệu quả hoạt động của HDND nói chung và hoạt động giám sát nói riêng. Đổi mới và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động giám sát của HĐND trước hết là Đảng cần phải chăm lo kiện toàn tổ chức bộ máy của HĐND, tổ chức Đảng trong HĐND và bố trí cán bộ (nhất là cán bộ chủ chốt) làm công tác HĐND. Vấn đề này phải được giải quyết một cách toàn diện. Nhưng trước mắt cần chú trọng những vấn đề sau:
Công tác kiểm tra của cấp uỷ Đảng trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của HĐND và UBND phải được tiến hành thường xuyên. Thường trực và cấp uỷ thực hiện điều hoà phối hợp hành động nhằm nâng cao hiệu lực, năng lực hoạt động của chính quyền địa phương, đảm bảo các chủ trương của Đảng được kịp thời thể chế hoá bằng Nghị quyết của HĐND. Đây là hình thức cơ bản để đưa Nghị quyết của Đảng vào cuộc sống và từ đó nâng cao lòng tin của nhân dân đối với Đảng.
Chăm lo kiện toàn tổ chức bộ máy và bố trí cán bộ làm công tác HĐND. Đây là vấn đề quan trọng nhất, quyết định đến hiệu lực, hiệu quả hoạt động của HĐND. Thực tế cho thấy, mặc dù vị trí, vai trò của HĐND đã được Hiến pháp, Luật quy định rõ ràng, cụ thể, nhất quán và xuyên suốt nhưng chỉ từ khi có thiết chế Thường trực HĐND được thành lập, trong đó lãnh đạo Cấp uỷ kiêm nhiệm chức danh Chủ tịch HĐND, Trưởng hoặc Phó Ban HĐND hoạt động chuyên trách thì chất lượng hoạt động của HĐND mới được nâng lên rõ rệt.
- Đổi mới tổ chức và hoạt động của HĐND các cấp phải đảm bảo tính toàn diện và đạt hiệu quả thiết thực.
Đổi mới và hoàn thiện tổ chức HĐND các cấp phải được quán triệt theo hướng nâng cao vị trí, vai trò của HĐND. Đảm bảo HĐND thực hiện ngày càng có hiệu quả chức năng quyết định những vấn đề quan trọng tại địa phương, giám sát thi hành Hiến pháp, pháp luật và các Nghị quyết của HĐND, thực hiện vai trò đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân địa phương. Đổi mới các thiết chế tổ chức của HĐND cần quan tâm đến đổi mới tiêu chuẩn và cơ cấu đại biểu theo hướng tăng số lượng đại biểu và nâng cao chất lượng đại biểu. Đổi mới tổ chức cơ quan Thường trực và các Ban của HĐND cũng như chế độ làm việc và các điều kiện bảo đảm cho tổ chức đó. Phương thức hoạt động của HĐND mỗi cấp cũng phải được đổi mới một cách toàn diện: từ đổi mới nội dung các kỳ họp, quy trình ban hành Nghị quyết đến đổi mới phương thức và chế độ giám sát sao cho bảo đảm hiệu quả thiết thực, đúng thẩm quyền luật định.
Nghị quyết của HĐND được ban hành phải phù hợp với Hiến pháp, pháp luật, có tính thống nhất nội tại cao, thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ. Nếu Nghị quyết của HĐND trái với Hiến pháp và pháp luật thì phải kịp thời sửa đổi, bổ sung và huỷ bỏ. Mọi hành vi vi phạm Hiến pháp, pháp luật và Nghị quyết của HĐND phải được phát hiện và xử lý kịp thời, đúng pháp luật, thực hiện nguyên tắc pháp chế Xã hội chủ nghĩa, đáp ứng yêu cầu của một Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Mặt khác cần nâng cao hơn nữa tính sát thực, sống động của các Nghị quyết, giải quyết đúng các yêu cầu cụ thể của địa và nguyện vọng phương của các tầng lớp nhân dân. Về cơ chế giám sát của HĐND cũng phải được đổi mới toàn diện thực hiện theo đúng chủ trương của Đảng và Nhà nước đã đề ra trong Văn kiện Đại hội Đại biểu Toàn Quốc lần thứ VIII: "Nâng cao chất lượng, hiệu lực và hiệu qủa giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân; xác định rõ phạm vi, nội dung, cơ chế giám sát của Quốc hội, các Uỷ ban của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp"[3]. Do đó giám sát của HĐND tại kỳ họp và giữa hai kỳ họp, thông qua các hoạt động kiểm tra, giám sát của Thường trực HĐND, các Ban của HĐND và của đại biểu HĐND phải đảm bảo tính thực quyền. Mỗi chủ thể thực hiện quyền giám sát của mình có tính đặc thù riêng, nên đổi mới cơ chế giám sát cần cụ thể với những yêu cầu về quy trình, thủ tục, trách nhiệm cho phù hợp với mỗi hình thức giám sát. Mặt khác, yêu cầu đổi mới cơ chế giám sát của HĐND phải theo hướng đảm bảo cho nhân dân (trực tiếp hoặc gián tiếp) tham gia giám sát hoạt động các cơ quan Nhà nước. Vì thực chất hoạt động giám sát của HĐND không chỉ mang tính quyền lực Nhà nước mà còn mang tính nhân dân. Cho nên một trong các điều kiện quyết định đến chất lượng và hiệu quả giám sát của HĐND là phải thể hiện được tính nhân dân, phải huy động được sức mạnh tổng hợp của nhân dân trong hoạt động giám sát. Muốn vậy chương trình giám sát hàng năm của HĐND phải được thông báo công khai và có cách thức phù hợp để tổ chức vận động nhân dân tham gia giám sát theo chương trình đã đề ra.
Từ những vấn đề nêu trên cho thấy việc đổi mới tổ chức và hoạt động của HĐND cho phù hợp với công cuộc đổi mới là yêu cầu cấp bách. Đổi mới tổ chức, tăng cường hiệu quả hoạt động của HĐND chỉ có thể thực hiện được nếu đặt trong chủ trương chung của Đảng và Nhà nước ta là tiếp tục đổi mới và hoàn thiện bộ máy Nhà nước Xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
KẾT LUẬN
Đảng và Nhà nước luôn quan tâm đến vấn đề đổi mới tổ chức và hoạt động của HĐND các cấp (trong đó có chức năng giám sát). Giám sát là một trong ba chức năng của cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương. Sự hình thành quyền giám sát của HĐND bắt nguồn từ sự vận dụng sáng tạo hoặc thuyết của chủ nghĩa Mác-Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về tổ chức và hoạt động của cơ quan chính quyền địa phương.
Nhìn lại hoạt động giám sát của HĐND các cấp trong thời gian qua có thể thấy, hoạt động giám sát của HĐND đã góp phần tích cực vào việc giải quyết các kiến nghị của cử tri, các đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân; các vụ việc tiêu cực, các vi phạm về quản lý trong các lĩnh vực khác nhau ở địa phương và những vấn đề liên quan đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Hoạt động giám sát đã từng bước được cải tiến và đổi mới đạt hiệu quả cao. Thông qua hoạt động giám sát những kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân được giải quyết kịp thời, giúp các cơ quan hữu quan tháo dỡ khó khăn, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau làm cho hoạt động giám sát của HĐND các cấp còn mang tính hình thức, hạn chế đến hiệu quả hoạt động của HĐND. Luật tổ chức HĐND và UBND 2003 ra đời cùng với quá trình đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan Nhà nước ở địa phương làm cho hoạt dộng giám sát của HĐND cững từng bước phát huy hiệu quả trên thực tế.
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LDOCS (13).doc