Đề tài Hoạt động nhập khẩu máy vi tính vàphụ kiện máy vi tính của công ty FPT: Thực trạng và giải pháp

Lượng khách hàng ngày càng tăng, không chỉ trong nước mà còn cả ở nước ngoài rất hài lòng với sản phẩm của công ty đã chứng tỏ rằng FPT có uy tín lớn trong việc kinh doanh về tin học. Bên cạnh việc tập trung vào sản phẩm tin học là chính nhưng công ty cũng kinh doanh cả nhưng mặt hàng phi tin có hàm lượng công nghệ cao như điện thoại di động, khoản doanh thu và lợi nhuận từ mặt hàng này không phải là nhỏ. Xu hướng thế giới ngày một nâng cao trình độ kỹ thuật và công nghệ, do đó FPT đã chọn chiến lược hướng vào những mặt hàng mang hàm lượng công nghệ cao để thực hiện tròn nghĩa vụ đối với Nhà nước đồng thời đạt đúng mục tiêu như trong điều lệ đã ghi. II. THỰC TRẠNG VỀ HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU MÁY VI TÍNH VÀ PHỤ KIỆN MÁY VI TÍNH CỦA CÔNG TY FPT TRONG THỜI GIAN QUA

doc51 trang | Chia sẻ: DUng Lona | Lượt xem: 1257 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoạt động nhập khẩu máy vi tính vàphụ kiện máy vi tính của công ty FPT: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
khẩu 2 mặt hàng chính từ thị trường này tăng liên tục qua các năm tuy nhiên lên xuống và thấp nhất vào năm 1999. Ngược lại, thị trường của Mã lai và Mỹ tăng cả về giá trị và tỷ trọng. FPT nhập khẩu chủ yếu là phụ kiện máy vi tính từ 2 thị trường này. Nhập từ Mỹ các phụ kiện mà hầu như không có ở các nước trong khu vực như các loại cạc mạng hoặc các phụ kiện, máy vi tính đặc biệt khác mặc dù các hãng sản xuất lớn đã đặt cơ sở tại Singapo. Chỉ trong vòng 2 năm từ 1998 đến 2000 giá trị từ Mỹ tăng hơn 1 triệu USD và tỷ trọng tăng gần gấp đôi. Nền công nghiệp điện tử của Mã lai đầy tiềm năng nên các công ty sản xuất phụ kiện lớn như của IBM cũng đặt nhà máy sản xuất. Mã lai là nước nằm trong khu vực, có điều kiện thuận lợi cho việc xuất khẩu sang Việt nam. Gần đây, nước này sản xuất những mặt hàng tinh xảo, có uy tín trên thế giới, giá khá cạnh tranh, phù hợp với người tiêu dùng loại trung bình. Chỉ trong 2 năm, giá trị tăng gấp 14 lần. Hiếm có tốc độ tăng của thị trường nào như vậy. Kim ngạch nhập từ Mã lai toàn bộ là của hàng phụ kiện máy vi tính. Phụ kiện nhập từ Mã lai chiếm tới 30% tổng giá trị phụ kiện nhập của toàn công ty vào năm 2000. Thị trường từ các nước khác tăng cao nhất vào năm 1999 khi tình hình khu vực không ổn định như các nước ý, ôxtơrâylia,... nhưng khi tình hình kinh tế các nước Đông Nam á phục hồi thì thị trường này giảm mạnh từ 2,646 triệu USD năm 1999 chiếm tỷ trọng là 13,9% xuống 0,65 triệu USD với tỷ trọng so với toàn bộ giá trị nhập hàng máy vi tính và phụ kiện của công ty là 2,5% năm 2000. Xác định mặt hàng chủ yếu là “máy hiệu” nên công ty đã thiết lập mối quan hệ đối tác với hàng loạt các công ty tin học có uy tín nhất thế giới. Ngay từ năm 1989 FPT đã đặt mối quan hệ với Ollivetti-một công ty sản xuất máy vi tính hàng đầu Châu âu nhưng đến nay thì sản phẩm của hãng này hầu như nhập nữa. Năm 1994, FPT ký kết hợp đồng làm đại lý phân phối cho IBM về sản phẩm máy tính để bàn, phần mềm, thiết bị mạng, máy chủ AS/400, RS6000. Đến nay FPT trở thành đại lý bán hàng IBM lớn nhất với trên 50% doanh số bán của IBM tại Việt nam. Năm 1995, Công ty đã trở thành đại lý phân phối của hãng Compaq và nhanh chóng trở thành đại lý lớn nhất tại Việt nam. Bảng 5: Lượng máy vi tính từ các đối tác của công ty năm 1998-2000 Đơn vị: Số lượng: chiếc Tỷ trọng: % Năm Hãng 1998 1999 2000 Số lượng Tỷ trọng Số lượng Tỷ trọng Số lượng Tỷ trọng Compaq 6.512 54 7.112 54 7.800 52 IBM 3.798 32 4.200 32 5.000 34 Các hãng khác 1.710 14 1.900 14 2.100 14 Tổng 12.020 100 13.212 100 14.900 100 Nguồn: FPT Nhìn vào bảng trên ta thấy tốc độ nhập máy từ các hãng IBM, Compaq có xu hướng tăng. Số máy tính của Compaq nhập từ năm 1998 năm 2000 có tốc độ tăng trung bình là: 8,9%/năm. Tỷ trọng lượng máy nhập về từ Compaq chiếm hơn 50% nhưng giảm hơn vào năm 200 nhường chỗ cho IBM. Hãng Compaq là hãng sản xuất máy tính lớn nhất thế giới, FPT cũng nhập lượng phụ kiện chiếm tỷ trọng lớn của hãng sản xuất tại Mã lai và Singapo. Trong khi đó, tốc độ tăng lượng máy vi tính trung bình của IBM nhanh hơn, đạt 19%/năm. IBM là công ty công nghệ thông tin lớn hàng đầu thế giới, luôn đưa ra những sản phẩm có tốc độ xử lý nhanh nhất hay còn gọi là siêu máy tính, bên cạnh đó cũng sản xuất phụ kiện có tính năng đa dạng và luôn được cải tiến. Tỷ trọng của IBM chiếm khoảng 32% năm 1998 và 1999, đến năm 2000 lên 34% năm 2000. Đây là hai hãng mà công ty chú trọng nhất do chất lượng khá cạnh tranh và đã rất nổi tiếng trên thị trường từ lâu, các hãng khác chủ yếu của Đài loan, Hàn quốc,...tính cạnh tranh về chất lượng không bằng trong khi FPT thường làm cho các dự án lớn. Tuy nhiên máy của các hãng khác tăng về số lượng nhưng tốc độ giảm liên tục. Năm 1999 tăng 11% so với 1998 nhưng lại giảm, năm 2000 tăng so với năm 1999 chỉ là 10,5%. Đó là do FPT tập trung nhập từ những hãng lớn và có mối quan hệ lâu dài. Năm 2000, phụ kiện chuyển sang nhập từ Mã lai khá nhiều, riêng màn hình chủ yếu nhập của tập đoàn Sam sung do FPT là đại lý độc quyền của hãng tại Việt nam, một hãng lớn về hàng điện tử của Hàn quốc. Hiện tại, vấn đề nguồn hàng hầu như không gặp khó khăn gì do đã là đại lý cho các hãng lớn và ngày càng mở rộng đối tác nước ngoài không chỉ máy vi tính và phụ kiên mà cả về thiết bị mạng. Công ty đã làm bạn hàng và là đại lý phân phối sản phẩm UPS của hãng APC của Mỹ, Upselec của Đài loan, đối với sản phẩm mạng, có quan hệ với các hãng dẫn đầu thế giới về mặt hàng này như D-Link.3Com. Ngoài ra, công ty là đại lý cho những hãng khác như: Packard Bell, Hewlet, Intel, Cisco,... 4. Hình thức nhập khẩu: Công ty FPT được phép xuất nhập khẩu trực tiếp từ 08/09/1993, chức năng này đã giúp công ty chủ động trong việc xuất nhập khẩu, giá cả, không mất chi phí uỷ thác thậm chí còn nhận xuất nhập khẩu uỷ thác cho các công ty khác. Trước kia phòng xuất nhập khẩu tồn tại độc lập, hiện nay để tăng cường phối hợp với các bộ phận khác như đặt hàng, thanh toán, bộ phận xuất nhập khẩu nằm trong phòng Kế hoạch Kinh doanh. Bộ phận này gồm 7 nhân viên, 1 nhân viên phụ trách vấn đề hợp đồng, 1 phụ trách thuế, 1phụ trách vận tải và bảo hiểm cho hàng hoá nhập khẩu và 4 nhân viên phụ trách việc nhận hàng từ các cảng hoặc sân bay. Tuy có thực hiện uỷ thác cho những công ty không đủ khả năng tài chính, mối quan hệ với đối tác nước ngoài cũng như kinh nghiệm thực hiện nghiệp vụ ngoại thương nhưng tỷ trọng của loại hình này không cao. Sau đây là bảng giá trị nhập khẩu uỷ thác của công ty trong 3 năm vừa qua: Bảng 6 : Giá trị nhập khẩu uỷ thác của công ty từ năm 1998-2000: Đơn vị: Triệu USD Năm Chỉ tiêu 1998 1999 2000 Tổng nhập khẩu 21,849 21,716 24,00 Nhập khẩu uỷ thác 0,110 0,090 0,01 Nhập khẩu uỷ thác MVT+PK 0,080 0,070 0,01 Nguồn: FPT Xem bảng trên ta thấy giá trị nhập khẩu uỷ thác chiếm tỷ trọng rất nhỏ khoảng 0,5% đạt 0,11 triệu USD năm 1998 và chỉ còn 0,04% tức 10 nghìn USD năm 2000, toàn bộ lượng này là do nhập khẩu mặt hàng máy vi tính và phụ kiện máy vi tính. Hai mặt hàng trên thông thường chiếm tới 73% tổng giá trị nhập khẩu uỷ thác. Sự giảm sút mạnh về loại hình nhập khẩu này là do năm 1999 Chính phủ đã ban hành Nghị định 37/CP cho phép các doanh nghiệp kinh doanh các ngành có quyền được xuất nhập khẩu trực tiếp. Điều này đã làm cho nhiều doanh nghiệp tự nhập khẩu, FPT mất đi những bạn hàng trong nước nhưng trong thực tế nó cũng chỉ chiếm lượng khá nhỏ nên không ảnh hưởng nhiều đến hoạt động nhập khẩu. Chủ yếu FPT nhập khẩu trực tiếp phục vụ cho hoạt động kinh doanh của công ty. Thường thì có hai cách để thực hiện kế hoạch nhập khẩu, đó là: *Đầu năm, phòng Kế hoạch kinh doanh sẽ nghiên cứu thị trường trong nước và những biến động ảnh hưởng đến công tác nhập khẩu của các mặt hàng rồi từ đó đưa ra kế hoạch nhập, phân bổ nguồn hàng tới các bộ phận phụ trách kinh doanh. *Các bộ phận phụ trách kinh doanh của công ty sẽ đưa các đơn đặt hàng cùng yêu cầu về chất lượng, mẫu mã, giá cả lên phòng Kế hoạch Kinh doanh, phòng này sẽ tập hợp lại rồi lên kế hoạch nhập khẩu theo đúng như yêu cầu về hàng hoá cũng như thời gian. Thông thường cách thứ hai được thực hiện nhiều hơn do hàng nhập về thường giành cho thực hiện các dự án lớn và nhu cầu khách hàng đặt cho các bộ phận. Tuy nhiên, hiện nay đã kết hợp hai cách trên nhằm tránh tình trạng không phục vụ kịp thời khi có đơn đặt hàng gấp. 5. Giao dịch, thực hiện hợp đồng nhập khẩu: Hợp đồng là kết quả của các cuộc đàm phán để giành được những lợi ích từ các bên. Hoạt động nhập khẩu phải thực hiện những vấn đề sao cho không vi phạm điều khoản nào. Điều này đòi hỏi phải có nghiệp vụ vững chắc của các nhân viên thực hiện nhiệm vụ nhập khẩu. FPT có đội ngũ cán bộ thực hiện công việc này khá tốt nên hầu hết không có sự việc đáng tiếc xảy ra. 5.1. Những vấn đề liên quan đến hình thành hợp đồng: Việc lập hợp đồng được thảo luận một cách chặt chẽ giữa các bộ phận trong công ty liên quan tới quá trình nhập khẩu hàng hoá đặc biệt giữa phòng Kế hoạch Kinh doanh, phòng Tài vụ với ban Giám đốc để xem xết khả năng tài chính hiện thời và lên phương án ký kết hợp đồng với các đối tác. Việc ký kết hợp đồng thường gồm các điều khoản cụ thể như tên hàng, số lượng, trọng lượng, quy cách phẩm chất, đơn giá tổng giá, thanh toán giao hàng, vận chuyển, bảo hiểm, khiếu nại, tranh chấp, trọng tài. Công ty FPT quản lý số lượng hợp đồng theo thứ tự trong năm, ví dụ hợp đồng thứ 15 ký với hãng Compaq trong năm 1999 được đặt số 9915/FPT-Compaq. Cách đánh số này rất dễ dàng trong việc thanh toán, phân bổ thuế và chi phí, công tác quản lý và thanh tra. Về mặt hàng, số lượng và đơn giá phòng Kế hoạch Kinh doanh chịu trách nhiệm cung cấp khi lập hợp đồng. Chất lượng được quy định theo tiêu chuẩn xuất nhập khẩu của nhà sản xuất. Điều khoản bảo hành luôn cố định là 3 năm miễn phí. Khi giao hàng nhà sản xuất cung cấp DHL danh sách số mã (sery) của từng chiếc máy để dễ dàng trong việc tra cứu khi bảo hành. Đơn giá và tổng giá trong các hợp đồng ngoại thương của FPT thường là EXW (giao hàng tại xưởng người bán), FOB (giao hàng dọc mạn tàu), kể cả những lô hàng có giá trị nhỏ. Với mỗi lô hàng công ty tự chỉ định người giao nhận và theo dõi lịch trình chuẩn bị hàng, xếp hàng cho đến khi hàng về đến điểm đến. 5.2. Những vấn đề liên quan đến quá trình thực hiện hợp đồng: Thực hiện hợp đồng là một quá trình lâu dài đặc biệt là đối với các hợp đồng thanh toán bằng L/C (thư tín dụng) và/hoặc giao hàng từng phần. Sau hợp đồng được ký kết, thường là qua fax, bên FPT sẽ tiến hành ký quỹ và mở L/C để thanh toán tại ngân hàng Ngoại thương Việt nam (Vietcombank) hoặc ngân hàng Hàng hải Việt nam (Maritime Bank)-chi nhánh Hà nội và fax bản sao của L/C trả chậm 30 đến 60 ngày, Giao hàng từng phần có cho phép, chuyển tải không cho phép. Thời gian xuất hiện chứng từ giao hàng là 21 ngày sau ngày phát hành vận đơn tại nước người bán. Các chứng từ yêu cầu xuất trình khi thanh toán thường gồm: 1.Hoá đơn thương mại. 2.Vận đơn đường biển hoặc vận đơn đường không. 3.Phiếu đóng gói chi tiết. 4.Giấy chứng nhận xuất xứ. 5.Giấy chứng nhận bảo hiểm. 6.Giấy chứng nhận của nhà sản xuất. Hoá đơn của hãng DHL cho biết một bộ chứng từ gốc hoặc sao đã được gửi cho người mua. Đồng thời căn cứ vào điều kiện giao hàng sẽ thông báo cho bên chuyên chở để bố trí lịch tàu và ngày đến kho người giao hàng để nhận hàng. FPT đôn đốc người bán chuẩn bị và giao hàng cho người chuyên chở đúng hạn, nếu họ lỡ tiến độ sản xuất và bị chậm giao hàng, FPT sẽ sửa L/C tạo điều kiện thuận lợi cho đối tác. Chi phí L/C và điện phí sẽ do bên đề nghị sửa chịu. Yêu cầu người bán bộ sao chứng từ xuất hàng để phía FPT chuẩn bị hồ sơ làm thủ tục nhập khẩu; liên lạc với đại lý hãng tàu trong nước để lấy giấy báo nhận hàng sớm nhất và tiến hành mua bảo hiểm nếu lô hàng cần thiết phải bảo hiểm. Đối với lô hàng thanh toán bằng L/C, trên vận đơn gốc sẽ ghi “theo lệnh của ngân hàng mở” ở mục người nhận hàng, do đó phía FPT sẽ yêu cầu bên đối tác nước ngoài gửi một bộ hồ sơ gốc theo đường DHL và đơn xin ký hậu B/L (vận đơn) gốc gửi tới ngân hàng mở L/C để ký hậu. Trong trường hợp vận đơn gốc gửi qua DHL bị vướng mắc hoặc chậm so với ngày tàu cập cảng hoặc sân bay Nội bài, FPT tiến hành làm công văn xin Ngân hàng mở L/C đứng ra bảo lãnh với đại lý hãng tàu cho phép nhận hàng với vận đơn gốc. Nếu được ngân hàng mở L/C đồng ý, ngân hàng sẽ gửi công văn đến đại lý hãng tàu bảo lãnh cho FPT nhận hàng và đề nghị đại lý hãng tàu giao giấy uỷ quyền ngân hàng và/hoặc lệnh giao hàng cho FPT. Đối với lô hàng có giá trị nhỏ, thanh toán bằng điện chuyển tiền thì trên vận đơn gốc ghi đích danh người nhận hàng là FPT. Khi nhận được vận đơn gốc từ người bán qua DHL, FPT chỉ việc liên hệ với đại lý hãng tàu để lấy giấy uỷ quyền và/hoặc lệnh giao hàng. *Nhận hàng tại cảng: Khi hàng về đến cảng Việt nam, FPT liên hệ với hãng tàu để lấy giấy báo hàng đến (notice of arival) và chuẩn bị bộ chứng từ hồ sơ nhận hàng gồm: 1.Hợp đồng 2.Bản sao L/C 3.B/L 4.Hoá đơn thương mại 5.Giấy chứng nhận xuất xứ 6.Bảng kê chi tiết hàng hoá Với bộ hồ sơ đầy đủ như trên, cán bộ phụ trách nhập khẩu tiến hành tiếp nhận tại Hải quan trong trường hợp kiểm hoá tại cửa khẩu tức cảng Hải phòng hoặc Sài Gòn. Nhưng do tính chất hàng máy tính là hàng điện tử có giá trị cao, cần tránh va đập để hạn chế vướng mắc có thể phát sinh nên FPT thường làm chuyển tiếp nhận hàng và kiểm hoá ngoài cửa khẩu. Trong truờng hợp nhận hàng tại cửa khẩu, cán bộ của FPT sẽ tiến hành tiếp nhận hồ sơ tại Hải quan thành phố Hải phòng. Sau khi kiểm hoá, kẹp chì tại cửa khẩu, bộ hồ sơ giao nhận hàng sẽ được hoàn tất, thuê xe nhận hàng chuyên chở về Hà nội nhập kho. Quá trình nhận hàng tại cửa khẩu đơn giản hơn quá trình chuyển tiếp nếu hồ sơ thông suốt. Nhưng nếu có sự sai lệch hay vướng mắc trong hồ sơ nhận hàng, người cán bộ đi nhận hàng rất khó xử lý, phải quay về Hà nội để giải quyết và xuống Hải phòng lần thứ hai và nhận tiếp lô hàng đó. *Nhận hàng chuyển tiếp: Cách thức nhận hàng chuyển tiếp được tiến hành như sau: 1.Xin quyết định kiểm hoá ngoài cửa khẩu của cục Hải quan Hà nội và đăng ký kiểm hoá tại kho của công ty FPT. Thường thì quyết định này có hiệu lực trong 1 năm, sau đó làm công văn xin lại. 2.Tiếp nhận hồ sơ tại Hải quan thành phố Hà nội, vào số tờ khai Hải quan và tính thuế. 3.Mang bộ hồ sơ trong niêm phong xuống Hải quan cảng Hải phòng, phòng chuyển tiếp để tái tiếp nhận đồng thời xin lệnh giao hàng từ đầu hãng tàu, kiểm tra số kẹp chì, số container và kẹp chì Hải quan. 4.Thuê xe nhận hàng tại cửa khẩu và vận chuyển nội địa về Hà nội, đúng địa điểm đăng ký kiểm hoá. 5.Tiến hành kiểm hoá và nhập kho, hoàn tất hồ sơ nhập khẩu. Các bước trên được làm trình tự, thời gian từ 2 đến 3 ngày. Công việc này có điểm lợi là hàng hoá trong suốt quá trình vận chuyển được nguyên container, chỉ tiến hành bốc vác một lần tại kho FPT nên tính an toàn cao. Các vấn đề về bộ hồ sơ hàng hoá, giấy tờ, tính thuế,...nếu có khúc mắc được giải quyết ngay từ khâu tiếp nhận tại Hà nội, tránh được tình trạng có khi phải từ Hải phòng trở về Hà nội khi gặp khó khăn về các khâu giấy tờ nói trên. *Nhận hàng nhập đường hàng không: Hàng nhận đường hàng không khi về đến sân bay Nội bài sẽ có giấy báo hàng đến của đại lý hãng vận chuyển, cán bộ nhập khẩu FPT chuẩn bị hồ sơ và tiếp nhận tại Hải quan Hà Nội tương tự đối với hàng chuyển tiếp đã đề cập ở trên. Đồng thời, liên hệ với hãng vận chuyển xin giấy uỷ quyền nhận hàng trong trường hợp không vận đơn theo lệnh. Sau khi tiếp nhận và tính thuế xong, bộ hồ sơ sẽ được Hải quan chuyển sang Trạm hàng hoá Gia lâm hoặc niêm phong giao cho FPT. Cán bộ đi nhận hàng của FPT sẽ đem theo hồ sơ niêm phong cùng giấy uỷ quyền nhận hàng đến Vietnam airlines để nhận lệnh giao hàng, tái tiếp nhận hồ sơ tại Hải quan Gia lâm. Nếu hồ sơ chưa thông suốt, không có sự sai sót, hàng sẽ được kiểm hoá, nhận hàng đồng thời hoàn tất thủ tục Hải quan. Các bước tiến hành nhận hàng đều theo trình tự chặt chẽ, yêu cầu cán bộ nhận hàng của FPT phải có sự phối hợp với cán bộ Hải quan. Qua mỗi bước đều có đóng dấu và chữ ký xác nhận của cán bộ thực thi gồm dấu tiếp nhận hồ sơ, dấu tính thuế, dấu kiểm hoá, dấu chứng nhận kiểm hoá và dấu đã hoàn thành thủ tục Hải quan. Hải quan các khâu sau không có quyền sửa chữa các khâu trước, nếu phát hiện sai sót thì cán bộ Hải quan khâu phải cùng giải quyết sửa đổi kịp thời. Mục đích nhằm phân rõ trách nhiệm của các phòng, ban Hải quan và khách đi nhận hàng, tránh được nhiều phiền nhiễu và nhầm lẫn từ phía Hải quan hoặc hành động thông đồng giữa Hải quan và phía khách đi nhận hàng. Đối với trường hợp hồ sơ nhận hàng có sai sót hoặc khi kiểm hoá thấy có sai sót so với hợp đồng đã ký kết hoặc bộ chứng từ đã thực hiện giữa hai bên bán và bên mua về mặt hàng hoặc số lượng, cán bộ Hải quan sẽ tuỳ từng trường hợp cụ thể giải quyết từ phạt hành chính đến tịch thu một phần hoặc toàn bộ lô hàng. Trường hợp nghiêm trọng sẽ truy cứu trách nhiệm hình sự. 5.3. Những nghiệp vụ liên quan đến quá trình thanh toán: *Thanh toán bằng điện chuyển tiền: Đây là phương thức thanh toán rất phổ biến được Công ty FPT áp dụng cho các hợp đồng có giá trị nhỏ, chỉ khoảng vài nghìn USD trở xuống. *Thanh toán trước: ít được áp dụng ở công ty FPT, chỉ áp dụng khi phải mua linh kiện lẻ hoặc các chương trình phần mềm đặc biệt của các hãng có quan hệ. Do đặc điểm kinh doanh trong lĩnh vực CNTT là một thị trường khá cạnh tranh, sản phẩm biến đổi rất nhanh, hàm lượng chất xám trong các nước sản phẩm lớn nên vấn đề uy tín vô cùng quan trọng, vấn đề rủi ro chỉ là hạn hữu. *Chuyển tiền ngay sau khi nhận được hàng: Đây là biện pháp được sử dụng chủ yếu ở FPT. Phương thức này được áp dụng chủ yếu ở FPT. Phương thức này được áp dụng chủ yếu đối với các đối tác nước ngoài truyền thống, tạo điều kiện thuận lợi cho FPT vì đôi khi có thể chiếm dụng vốn trong thời gian dài. Tuy nhiên, hợp đồng thanh toán theo phương thức này thì có giá trị không lớn nên không là mối bận tâm đối với các bên. Khi chuyển tiền thanh toán, Ngân hàng Việt nam như Vietnambank hoặc Maritimebank thường tính phí thanh toán là 0,2% trị giá hối phiếu và mức thu tối thiểu là 10 USD với điện phí thanh toán từ 20-30 USD cho một lần chuyển. *Thanh toán bằng L/C: FPT thường đàm phán để đối tác nước ngoài đồng ý cho thanh toán lô hàng bằng hình thức L/C trả chậm 30 ngày hoăc 60 ngày tính từ ngày của vận đơn đường biển hoặc không vận. Điều này rất có lợi cho FPT trong vấn đề tín dụng vốn, bán hàng xong mới trả tiền. Khi mở L/C Công ty mở L/C không huỷ ngang thường cho phép xuất trình chứng từ trong vòng 21 ngày kể từ ngày giao hàng cuối cùng tại ngân hàng của nước người bán tức ngân hàng thông báo. FPT thường mở L/C tại Vietcombank với tiền kí quỹ là 30% và Maritime Bank linh động ở mức 10% trị giá L/C. Bộ chứng từ gửi hàng FPT yêu cầu xuất trình gồm: 1.Một bộ 2/3 vận đơn đường biển gốc, xếp hàng lên tàu sạch được làm theo lệnh của ngân hàng mở và thông báo cho FPT và một bộ không vận đơn gốc, giao hàng sạch được làm theo lệnh của ngân hàng mở, ghi rõ số chuyến bay và ngày bay, thông báo cho FPT 2.Hoá đơn thương mại có chữ ký của người có thẩm quyền 3.Hai phiếu đóng gói có chữ ký của người có thẩm quyền 4.Giấy chứng nhận xuất xứ của Phòng Thương mại và Công nghiệp nước xuất 5.Một hoá đơn của hãng DHL ghi rõ một bộ hồ sơ gốc gồm B/L, giấy chứng nhận bảo hiểm, phiếu đóng gói, giấy chứng nhận xuất xứ, được gửi thẳng cho FPT Sau khi bộ chứng từ gửi về đến ngân hàng sẽ được ngân hàng mở kiểm tra. Nếu không có sai sót ngân hàng sẽ đề nghị FPT ký chấp nhận thanh toán thì mọi tiến trình diễn ra bình thường . Nếu FPT không đồng ý thì ngân hàng mở L/C từ chối thanh toán và điện sang ngân hàng thông báo đề nghị người bán làm lại bộ chứng từ gửi hàng. Thủ tục phí khi thanh toán L/C trả chậm là 0,2% trị giá hối phiếu, tối thiểu là 10 USD và điện phí thanh toán là 30 USD. 5.4. Những nghiệp vụ liên quan đến vận tải: Thông thường trong giao dịch quốc tế, FPT quy định điều kiện cơ sở giao hàng là EXW thì toàn bộ quá trình sẽ được gồm 3 giai đoạn: Vận chuyển nội địa tại nước người bán, vận chuyển nội địa tại nước người mua và quá trình giao nhận. *Vận chuyển nội địa tại nước người bán: Trong điều kiện EXW do vận chuyển nội địa tại nước người bán nên xuất hiện thêm hệ thống người giao nhận và hệ thống đại lý của họ cùng tham gia vào quá trình vận chuyển. Do đó nhiệm vụ tàu có phức tạp hơn: 1.Công ty FPT với tư cách là người nhận hàng sẽ chỉ định người giao nhận chuyên chở lô hàng của mình với các chi tiết như tên người xếp hàng, địa chỉ và người liên lạc, cước chuyên chở, cảng đi, cảng đến, thời hạn giao hàng. Đồng thời ký kết hợp đồng thuê tàu với cước trả sau tại Hà nội. ở đây, FPT có thể chỉ đạo người giao nhận trong nước hoặc người giao nhận tại nước người bán, tuy nhiên chỉ định người giao nhận tại nước người bán có nhiều bất lợi cho người người nhập khẩu do khoảng cách, thông tin không được đầy đủ. 2.Người giao nhận trong nước thông báo cho đại lý của mình ở nước người bán thông qua hệ thống người giao nhận. Nếu trong bước 1 ở trên FPT chỉ định thẳng người giao nhận ở nước người bán thì có thể bỏ qua bước 2. Cần chú ý rằng hệ thống người giao nhận độc lập với người chuyên chở là người có tàu, tuy nhiên ranh giới phân định chỉ là tuơng đối. 3.Người giao nhận ở nước người bán liên lạc với người xếp hàng để chuẩn bị thủ tục nhận hàng. 4.Người giao nhận tại nước người bán lưu cước tàu với ngày dự tính khởi hành và cước phí phù hợp, nhận vỏ container đến khi người chuyên chở nhận và đóng hàng. Tiến hành khai báo Hải quan, kẹp chì, làm thủ tục nhập khẩu và giao container có hàng cho người chuyên chở. Họ tiếp tục theo dõi đến khi tàu chạy thì phát hành vận đơn phụ giao cho người chuyên chở đồng thời thông báo cho người trong nước và/hoặc người nhận hàng các chi tiết về chuyến tàu. 5.Người chuyên chở xếp hàng lên tàu và thông báo cho đại lý của họ ở Việt nam về tên tàu, cước chuyên chở và một bản fax của vận đơn chính. 6.Đại lý trong nước chuyên chở theo dõi ngày tàu về, gửi giấy báo hàng đến cho người giao nhận, tiến hành thu cước phí của người giao nhận trong nước, đồng thời phát giấy uỷ quyền nhận hàng cho người giao nhận hàng. 7.Khi tàu về, người giao nhận trong nước gửi cho người nhận hàng giấy báo hàng đến, bản fax vận đơn phụ, tiến hành thu cước phí chuyên chở, thu vận đơn gốc có ký hậu của ngân hàng mở L/C hoặc giấy bảo lãnh nhận hàng không vận đơn gốc. Sau đó cấp giấy uỷ quyền nhận hàng của đại lý người chuyên chở và một bản chụp vận đơn chính để người nhận hàng đi nhận hàng. *Vận chuyển nội địa tại nước người mua và quá trình giao nhận: FPT với tư cách là người giao nhận hàng khi được thông báo về lịch xếp hàng từ người giao nhận sẽ đề nghị người bán khi giao hàng phải fax ngay các chứng từ gửi hàng và gửi một bộ đủ qua DHL như quy định trong L/C. Khi chứng từ qua DHL về trước hoặc kịp tàu về, cán bộ phụ trách nhập khẩu sẽ làm công văn xin ký hậu vận đơn gốc lập cùng B/L gốc, Invoice, Packing List gửi đến ngân hàng mở L/C. Ngân hàng sẽ ký hậu vào mặt sau của B/L để FPT mang đến người giao nhận đổi lấy giấy uỷ quyền nhận hàng. Khi có đủ bộ chứng từ gốc, cán bộ nhập khẩu của FPT sẽ kê khai vào tờ khai Hải quan và đem đến đại lý người chuyên chở tại Hà nội, tại Hải phòng để lấy lệnh giao hàng, tiến hành nhận hàng tại cửa khẩu theo các trình tự đã nêu trên. Sau khi nhận hàng, cán bộ nhập khẩu sẽ thuê xe chở container, trả chi phí nâng, hạ container tại cảng, trả phí lưu vỏ container cho đại lý người chuyên chở nếu nhận hàng muộn hơn 5 ngày kể từ ngày tàu về kho của FPT, đồng thời đăng ký kiểm hoá ngoại quan và tiến hành nhập kho. 5.5. Những nghiệp vụ liên quan tới bảo hiểm: Do nhập hàng theo điều kiện EXW nên công ty thường xuyên mua bảo hiểm của các công ty bảo hiểm trong nước như Bảo việt, Bảo minh và PJICO. Mức phí bảo hiểm hiện nay cho mặt hàng máy vi tính giao động từ 0,27-0,3% trị giá bảo hiểm, mức hoa hồng 1,8%-2,2% mức phí bảo hiểm. Tuy nhiên, FPT thường mua bảo hiểm của Bảo việt vì công ty có bề dày trong lĩnh vực bảo hiểm, uy tín và nghiệp vụ chuyên môn cao, phí bảo hiểm khá cạnh tranh ở mức 0,29%. Các bước khi mua bảo hiểm: 1.Sau khi ký hợp đồng và mở L/C, cán bộ xuất nhập khẩu thông báo cho công ty bảo hiểm về số hợp đồng, số L/C, mặt hàng và giá trị bảo hiểm. 2.Cung cấp cho công ty bảo hiểm bản sao B/L, hoá đơn và phiếu đóng gói hàng hoá. Đồng thời, kê đơn yêu cầu theo mẫu của công ty bảo hiểm. 3.Công ty bảo hiểm cấp giấy chứng nhận bảo hiểm và giấy đòi phí bảo hiểm. 4.Trường hợp máy vi tính và phụ kiện máy vi tính có tổn thất dễ thấy, cán bộ nhập khẩu đi nhận hàng phải phát hiện ra để thông báo ngay cho đại diện công ty bảo hiểm tại cửa khẩu để tiến hành kiểm tra số lượng hàng hoá tổn thất. Đồng thời mời cán bộ của Vinacontrol (công ty giám định hàng hoá xuất nhập khẩu Việt nam) để tiến hành kiểm tra chất luợng của hàng hoá tổn thất. 5.Thu thập bộ hồ sơ, chứng từ đòi bồi thường bảo hiểm chuyển sang Bảo việt yêu cầu bồi thường. Ngoài ra, các điều khoản như khiếu nại, bồi thường, bất khả kháng đều được quy định trong hợp đồng. Tuy nhiên, do quan hệ đại lý và bạn hàng truyền thống, dựa trên sự hợp tác lâu dài nên khi có sai lệch hoặc vướng mắc trong quá trình thực hiện hợp đồng, FPT và các đối tác đều phải giải quyết bằng thương lượng. Tất cả các vấn đề liên quan đến nghiệp vụ nhập khẩu trên đều được cán bộ phụ trách nhập khẩu thực hiện khá tốt, bảo đảm uy tín của công ty với đối tác nước ngoài cũng như trong nước. III. Đánh giá chung về hoạt động nhập khẩu máy vi tính và phụ kiện máy vi tính: Lĩnh vực tin học là lĩnh vực khá mới mẻ đối với Việt Nam, 13 năm trưởng thành và phát triển là quãng thời gian không phải là dài đối với một doanh nghiệp lớn của nhà nước nhưng FPT đã là một trong những công ty kinh doanh hàng đầu trong lĩnh vực này tại Việt Nam. Trong đó kinh doanh phần cứng đóng vai trò khá quan trọng cho dù công ty đã rất chú trọng trong lĩnh vực phần mềm. 1. Kết quả đạt được: Trong thời gian qua công ty đã đạt được những kết quả rất đáng chú ý được thể hiện ở bảng sau: Bảng 7: Các chỉ tiêu đạt được của công ty FPT qua các năm 1998-2000 STT Năm Chỉ tiêu 1998 1999 2000 1 Doanh thu (Tỷ đồng): 516 543 833 -Hàng nhập khẩu 322 440 640 -Máy vi tính và phụ kiện máy vi tính 229 380 570 2 Lợi nhuận (Tỷ đồng): 0,90 1,02 1,40 -Hàng nhập khẩu 0,70 0,96 1,30 -Máy vi tính và phụ kiện máy vi tính 0,49 0,83 1,14 3 Nộp ngân sách (Tỷ đồng) 73,00 76,00 120,00 4 Lương bình quân/người (Triệu đồng) 1,50 1,80 2,10 5 Số cán bộ công nhân viên (Người) 420 512 600 Nguồn: FPT 1.1. Doanh thu tăng liên tục qua các năm: Trong bất cứ hoạt động kinh doanh nào người ta cũng đều nhìn vào tình hình doanh thu của công ty qua các năm. Nó phản ánh được quy mô hoạt động, tiềm lực của doanh nghiệp mặc dù không phải chỉ phản ánh hiệu quả kinh doanh. Theo bảng trên ta thấy doanh thu qua các năm tăng khá mặc dù cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ảnh hưởng đến nền kinh tế của các nước trong khu vực nói chung và của Việt nam nói riêng. Tốc độ tăng doanh thu năm 1998 so với năm 1997 là 40% nhưng đến năm 1999 chỉ tăng 5,2% cho thâý cuộc khủng hoảng tài chính khu vực ảnh hưởng khá mạnh đến tình hình kinh doanh của công ty. Năm 2000, nền kinh tế các nước nói chung vực dậy và doanh thu của FPT tăng 53% so với năm 1999, một tốc độ tăng kỷ lục với tổng doanh thu 833 tỷ đồng. Đó là do công ty đã cố gắng tìm kiếm nhiều mặt hàng nhập khẩu để đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước, đồng thời có nhiều biện pháp khuyến khích nhằm tăng lượng khách hàng cả phần cứng, phần mềm và các dịch vụ khác. Doanh thu mặt hàng nhập khẩu tăng liên tục qua các năm, năm 1998 là 322 tỷ đồng và năm 2000 tăng gần gấp đôi đạt giá trị 640 tỷ đồng. Cho dù kinh tế gặp khó khăn năm 1999 nhưng tỷ trọng doanh thu của hàng nhập khẩu nói chung và máy vi tính, phụ kiện máy vi tính vẫn cao hơn các năm khác, doanh thu từ hàng nhập là 81% và doanh thu trị giá 440 tỷ đồng. Điều này cho thấy mặt hàng công ty nhập về được người tiêu dùng chấp nhận. Doanh thu hàng nhập khẩu chiếm trung bình 73% tổng doanh thu hàng năm của công ty, trong đó tỷ trọng doanh thu trung bình qua 3 năm gần đây từ hàng máy vi tính và phụ kiện máy vi tính chiếm 81% hàng nhập khẩu và 60% tổng doanh thu toàn công ty với doanh thu trung bình 393 tỷ đồng/năm, chứng tỏ vai trò rất lớn của kinh doanh hàng nhập. Tuy nhiên, tốc độ tăng trung bình từ năm 1998 đến 2000 khoảng 41% và của mặt hàng máy vi tính và phụ kiện là 58% nhưng xu hướng tăng doanh thu từ hai mặt hàng tin học chính đặc biệt là phụ kiện máy vi tính nhanh hơn hàng nhập nói chung. Điều đó cho thấy mặc dù tình trạng chung các mặt hàng tiêu thụ chậm nhưng mặt hàng máy vi tính và phụ kiện của máy vẫn có doanh số tăng cao không chỉ ở giá trị tuyệt đối, nó là mặt hàng có giá trị gia tăng cao và đứng vững trên thị trường. Trong bối cảnh tình hình khó khăn đối với hầu hết các doanh nghiệp và tình trạng thiểu phát xảy ra nhưng công ty vẫn tăng doanh số bán của các mặt hàng nhập về, đây chính là sự nỗ lực của những người liên quan tới quá trình tiêu thụ hàng nhập khẩu. Đạt được doanh thu lớn như vậy đó là do: Thứ nhất, công ty đã tuyển chọn được đội ngũ nhân viên trẻ có trình độ và năng lực, thực hiện tốt chiến lược đề ra với đường lối kinh doanh hiệu quả, công ty tạo được một mạng lưới phân phối và bán lẻ rộng khắp không chỉ ở Hà nội, Thành phố Hồ Chí Minh mà còn ở các tỉnh lân cận khác. Thứ hai, sự tăng trưởng của toàn ngành công nghệ thông tin nói chung và tin học nói riêng cũng tạo đà cho sự tăng trưởng về doanh thu. Với thành tích doanh thu như trên nhưng cần phải xem xét hiệu quả hoạt động nhập khẩu để từ đó đưa ra biện pháp cụ thể nhằm nâng cao hơn nữa kết quả hoạt động kinh doanh phù hợp với khả năng của mình, trong đó chỉ tiêu lợi nhuận là khá quan trọng. 1.2. Lợi nhuận tăng liên tục trong những năm gần đây: Đối với mọi loại hình doanh nghiệp dù là doanh nghiệp tư nhân hay doanh nghiệp nhà nước hay các loại hình doanh nghiệp khác thì lợi nhuận luôn là một trong các mục tiêu căn bản cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Lợi nhuận không phải là lợi nhuận cao của đơn vị hàng hoá cụ thể mà phải là lợi nhuận tối đa, tức lợi nhuận thu được từ việc doanh nghiệp bán được nhiều hàng hoặc thu được từ nhiều nguồn thu khác. Nhìn chung, công ty luôn có bảng lợi nhuận khá lạc quan, đó là việc thực hiện tốt mục tiêu đề ra cho dù có những khó khăn ở thị trường trong nước và kinh tế trong khu vực, được thể hiện qua Bảng 7. Nhìn vào số liệu ta thấy cũng như doanh thu, lợi nhuận tăng qua các năm. Do năm 1999 công ty chủ yếu kinh doanh mặt hàng nhập về còn bộ phận phần mềm rất ít nên tốc độ tăng lợi nhuận toàn công ty chậm 13% với giá trị 1,02 tỷ đồng so với tốc độ tăng lợi nhuận của mặt hàng nhập khẩu nói chung là 37%, giá trị đạt 0,69 tỷ đồng và máy vi tính, phụ kiện máy vi tính là 69% có giá trị là 0,83 tỷ đồng. Tốc độ tăng lợi nhuận của hàng nhập khẩu nói chung và máy vi tính, phụ kiện máy vi tính nói riêng đều lớn vào năm 1999 do công ty tập trung vốn nhập những mặt hàng có chiến lược lâu dài. Sang năm 2000, tốc độ này của toàn công ty tăng nhanh hơn của hàng nhập khẩu và bằng tốc độ của máy vi tính và phụ kiện máy vi tính khoảng 37% với tổng trị giá là 1,4 tỷ đồng. Dễ nhận thấy công ty kinh doanh có hiệu quả đối với những mặt hàng nhập khẩu, có nghĩa giảm được chi phí đặc biệt trong thời gian khủng hoảng tài chính khu vực . Tỷ trọng lợi nhuận của hàng nhập khẩu so với tổng lợi nhuận chung của công ty trung bình trong ba năm gần đây là 88% còn của hai mặt hàng chính là máy vi tính và phụ kiện máy vi tính khoảng 72%, cho thấy vai trò và tính hiệu quả trong việc lựa chọn mặt hàng kinh doanh cũng như phương pháp kinh doanh. Năm 2000 tri giá lợi nhuận tăng so với năm 1998 là 2,3 lần tức từ 0,49 tỷ đồng lên 1,14 tỷ đồng. Đạt được giá trị tuyệt đối cao như vậy vì hàng máy vi tính và phụ kiện chiếm trên 70%, tốc độ tăng nhanh do nhu cầu lớn và chắc chắn đó là nỗ lực cố gắng của tất cả những người làm công tác nhập khẩu cũng như tiêu thụ hàng. Tuy nhiên cũng cần phải lưu ý tốc độ tăng lợi nhuận mặt hàng nhập khẩu cũng như của máy vi tính năm 2000 đều chậm hơn so với năm 1999 trong khi giá trị tuyệt đối như vậy không phải là quá lớn chỉ cần tăng 1% thì trị giá tuyệt đối tăng lên hàng tỉ. 1.3. Thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước: Nộp ngân sách là nghĩa vụ đối với Nhà nước của tất cả các doanh nghiệp. Nộp ngân sách bao gồm các loại thuế như thuế doanh thu, VAT, thuế thu nhập,...và các loại lệ phí. Do là doanh nghiệp nhập khẩu nên các khoản nộp cho ngân sách Nhà nước nhiều hơn các doanh nghiệp thuộc các loại hình kinh doanh khác vì nộp thêm thuế và lệ phí như thuế nhập khẩu, lệ phí Hải quan, lệ phí cầu đường,...và giá trị nộp ngân sách cũng tăng lên. Tốc độ tăng trung bình qua 3 năm 1998-2000 là 34%. Hàng năm tổng nộp ngân sách của công ty khá lớn năm 1998 đạt 73 tỷ đồng nhưng đến năm 2000 lên tới 120 tỷ đồng. Nghĩa vụ đối với nhà nước hàng năm công ty luôn thực hiện đủ tuy đến cuối năm vẫn còn nợ khoảng 120 triệu. Do đó, FPT cần phải có những biện pháp để khắc phục tránh tình trạng nợ đọng. 1.4. Giải quyết việc làm ngày càng nhiều và làm tăng thu nhập cho cán bộ công nhân viên: Vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động luôn được chú ý không phải chỉ ở tầm vĩ mô mà cả ở tầm vi mô như các doanh nghiệp. Hoạt động kinh doanh liên tục có lãi đã giúp cho công giải quyết được công ăn việc làm cho nhiều người lao động trong công ty. Số cán bộ công nhân viên hàng năm vẫn tăng đều đặn mặc dù nền kinh tế trong nước thực sự gặp khó khăn. Năm 1998 giải quyết cho 420 người có công ăn việc làm ổn định và năm 2000 con số này đã tăng lên 600 người. Do hiệu quả hoạt động kinh doanh tốt nên lương của cán bộ công nhân viên của công ty liên tục tăng qua các năm. Lương trung bình tăng 22%/năm trong 3 năm gần đây nhất từ 1,5 triệu đồng năm 1998 lên 2,1 triệu đồng vào năm 2000. (Xem bảng 7). Tiền lương của nhân viên thể hiện sự chăm lo đời sống của công ty đối với người lao động và FPT đã thực hiện đúng là mong muốn cải thiện đời sống vật chất cũng như tinh thần cho anh em được ghi trong điều lệ hoạt động của FPT. 1.5. Đáp ứng nhu cầu trong nước với thị phần lớn: Căn cứ theo số liệu về tổng giá trị thị trường tin học Việt nam của công ty dữ liệu IDC và doanh số tin học của FPT thì thị phần của FPT chiếm khoảng 9% thị trường tin học Việt nam. Nếu xét tổng giá trị thị trường tin học chỉ tính phần giá trị có thông qua các doanh nghiệp tin học Việt nam thì FPT đạt khoảng 16%, riêng phần cứng đạt 30% thị phần cả nước do làm đại lý cho các hãng lớn trên thế giới và khách hàng chủ yếu là dự án (70%). Hiện tại FPT có 350 đại lý lớn ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Các đại lý này kinh doanh các sản phẩm của nhiều hãng khác nhau thậm chí cả những sản phẩm cạnh tranh với FPT, vì vậy công ty đã dùng nhiều biện pháp khác nhau như tín dụng ưu đãi, giao hàng đúng hạn, hỗ trợ kỹ thuật hay khuyến mãi vào các dịp bán hàng quan trọng trong năm. Thị trường tin học Việt nam đầy tiềm năng, khả năng đáp ứng trong các năm trước đây chỉ có hạn nên các công ty hoạt động trong lĩnh vực này khá thành công, do đó rất nhiều doanh nghiệp nhảy vào kinh doanh. Tuy nhiên, với vị trí là một công ty lớn của nhà nước đã có uy tín từ lâu nên khách hàng thường là những dự án, thông thường dịch vụ đi kèm gồm lắp đặt hệ thống máy tính cũng như cài đặt phần mềm. Những cơ quan lớn thì hệ thống máy tính là không thể thiếu, nhu cầu ngày một tăng cao, có nhiều công ty hoạt động nhưng chỉ có được phần cứng hoặc phần mềm và rõ ràng FPT đều có ưu thế trong cả hai lĩnh vực này, việc trúng thầu đã giúp công ty mở rộng uy tín và nâng cao thị phần. Lượng máy bán cho các cơ quan và doanh nghiệp nhà nước chiếm 67%, đây là lượng khách hàng chính của công ty, doanh nghiệp tư nhân và các tổ chức nước ngoài chiếm 19%, còn lại là cá nhân và hộ gia đình. Đối với nhóm khách hàng tư nhân và tổ chức nước ngoài (chủ yếu là văn phòng đại diện) nhu cầu chưa cao và ở tầm vừa và nhỏ nên có khá nhiều công ty khác cạnh tranh với FPT. Tuy vậy, với chính sách thu hút đầu tư của nước ta ngày càng thông thoáng thì triển vọng cho đối tượng này sẽ tăng. Phần lớn doanh số qua các năm của công ty đều thông qua nghiệp vụ bán buôn, đây là thị trường ổn định chiếm tới 80% dưới hai hình thức là bán chuyển thẳng và bán qua kho. Riêng phụ kiện hình thức bán chủ yếu là bán buôn và số lượng bán cũng tăng khá cao, phần này ít làm theo dự án trừ cài cạc mạng. Nhu cầu sử dụng loại máy PC tăng nên những năm trở lại đây công ty nhập nhiều chiếm 78%, tập trung của những hãng lớn. FPT thường xuyên tổ chức các khoá đào tạo, các kỳ kiểm tra sát hạch gắt gao để khuyến khích, bắt buộc nhân viên trau dồi kiến thức và bản lĩnh kinh doanh. Các hoạt động này đã giúp cho FPT có được đội ngũ kỹ thuật và làm kinh doanh giỏi, tạo cho công ty có nhiều khả năng mở rộng thị trường. Bên cạnh đó, công ty rất chú trọng đến hệ thống kênh phân phối gồm nhiều đại lý và các cửa hàng bán với những dịch vụ về bảo hành và sửa chữa tốt tạo điều kiện cho khách hàng đến với mình. FPT cũng xác định rõ thị trường tin học ở Việt nam đủ rộng với hàng trăm doanh nghiệp tin học, là thị trường “chưa lành mạnh” mà thể hiện rõ nhất là việc cần hay không cần hoá đơn khi giao dịch. Do đó, nắm được tâm lý khách hàng nên có chính sách rõ ràng, nhất quán, xác định đâu là nhà phân phối chính cho mình, đâu là đại lý cấp hai, đâu là người tiêu dùng để có thể thực hiện hiệu quả kênh phân phối. Nhằm tăng cường kết quả bán hàng cũng như tiếp tục giữ vững tiếng tăm trên thị trường. Hoạt động quảng cáo, xúc tiến được công ty tiến hành với các quảng cáo định kỳ trên báo và tạp chí chuyên nghành như: PC World, tin học và đời sống, Hà nội mới,...Thường xuyên mở các đợt khuyến mại, quay số trao thưởng và tham gia hội chợ triển lãm về tin học-CNTT trên cả nước. Cũng như tất cả các doanh nghiệp khác, cho dù kinh doanh vẫn phát triển, lợi nhuận hàng năm vẫn tăng nhưng không thể khẳng định rằng không có bất cứ nhược điểm hay những khó khăn đang tồn tại trong công ty. Mọi cái đều cần phải nghiên cứu kỹ và đưa ra các biện pháp để giải quyết nhằm giảm thiểu những khó khăn đồng thời giữ uy tín trên thị trường ngày một cạnh tranh khốc liệt. 2. Những tồn tại và nguyên nhân: Qua 13 năm hoạt động nhưng chính thức là doanh nghiệp nhà nuớc được 8 năm, công ty FPT không ngừng nỗ lực phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ nhà nước giao trong lĩnh vực phát triển công nghệ mới cho nước nhà cũng như việc thực hiện đúng mục tiêu ghi trong điều lệ công ty. Tuy nhiên, những khó khăn không phải là không có, đặc biệt trong tình hình kinh tế đầy biến động hiện nay, các nguyên nhân gồm cả khách quan và chủ quan, cần phải phân biệt được và giải quyết kịp thời nhằm ngăn chặn những tác động xấu. 2.1. Những tồn tại: 2.1.1. Khả năng cạnh tranh của công ty ngày càng bị gay gắt: Thực tế đối với Việt nam, lĩnh vực tin học còn khá mới, việc kinh doanh trong lĩnh vực này cũng vậy. Trong các năm 1997-1998, tin học bắt đầu phát triển mạnh tại Việt nam, đặc biệt phần cứng, sự bùng nổ này đã đem lại lợi nhuận khổng lồ cho những doanh nghiệp kinh doanh mặt hàng này. Các doanh nghiệp gặp ít sự cạnh tranh, hàng hoá hầu như không bao giờ có tình trạng tồn kho. Nhưng sang đến năm 1999, tình hình đã khác. Rất nhiều doanh nghiệp kinh doanh mặt hàng này, sự cạnh tranh bắt đầu rõ rệt. Những nhà sản xuất máy vi tính tìm thị trường và Việt nam nằm trong tầm ngắm của họ, đại lý mọc lên ở khắp nơi tập trung ở hai thành phố chính là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. FPT chủ yếu kinh doanh máy vi tính và phụ kiện máy vi tính của hai hãng nổi tiếng thế giới là Compaq và IBM. Sản phẩm của hãng giá khá cao, so với túi tiền của người dân bình thường Việt nam như vậy là không phù hợp. Bên cạnh đó các hãng máy tính Đông Nam á có giá vừa phải, chất lượng khá tốt, được người tiêu dùng chấp nhận. Do đó trong mấy năm trở lại đây lượng khách hàng là hộ gia đình không tăng cho dù có rất nhiều chương trình khuyến mãi. 2.1.2. Khó khăn về mặt hàng nhập khẩu: Mặt hàng máy vi tính là loại sản phẩm công nghệ cao, không phải nước nào cũng sản xuất được, những loại máy tính có khi chỉ có Mỹ sản xuất, vì mục đích chính trị mà không cho những nước chẳng hạn như Việt nam được phép nhập. Mặc dù rất muốn nhập những loại supercomputer này, nhưng FPT đành chịu. Nếu nói là với mục đích kinh doanh sản phẩm độc chiêu thì không thể. 2.1.3. Thụ động trong khâu kí kết hợp đồng: Do chủ yếu nhập trực tiếp với tư cách là đại lý nên FPT trong tình trạng thụ động khi muốn mở rộng mặt hàng kinh doanh, do đó hợp đồng bị huỷ bỏ và trong đó có một phần trách nhiệm của công ty. 2.1.4. Số ngày tồn kho bình quân vẫn cao: Bảng 8 : Số ngày tồn kho bình quân trong các năm 1997-2000 Đơn vị: ngày Năm 1997 1998 1999 2000 Số ngày tồn 30 25 25 24 Nguồn: FPT Nhìn vào bảng trên ta thấy số ngày tồn kho hàng nhập về của FPT giảm từ 30 ngày vào năm 1997 xuống còn 24 ngày vào năm 2000 nhưng chậm, con số 24 vẫn còn khá cao và sản phẩm máy vi tính nằm trong số đó. Các phụ kiện cũng vậy, hình dáng, tính năng liên tục thay đổi và giá thì cũng ngày càng giảm, tồn kho ngày nào là ảnh hưởng hiệu quả kinh doanh của công ty ngày đó. Máy vi tính thay tốc độ xử lý rất nhanh, cứ 18 tháng tốc độ lại tăng lên gấp đôi đồng thời giá giảm khoảng 30%, tình hình này giữ liên tục trong 30 năm qua trên thị trường thế giới. Có nghĩa rằng tình trạng tồn kho đối với loại sản phẩm này là khá nguy hiểm. 2.1.5. Công tác nghiên cứu thị trường còn bị hạn chế: Kết quả kinh doanh hàng nhập khẩu là vô cùng quan trọng đối với hoạt động hàng nhập khẩu. Qua các năm nhìn chung kinh doanh hai mặt hàng trên phát triển nhưng bắt đầu có xu hướng tăng chậm lại, không thể nói là không đáng quan tâm khi tốc độ tăng qua các năm ở mức 30%. Thị trường miền Trung và các vùng khác hầu như công ty còn bỏ ngỏ, công tác nghiên cứu thị trường chưa được thực hiện tốt, điều này cũng làm cho cơ hội mở rộng thị trường chững lại. Những đại lý ở xa vẫn chưa có được sự ưu đãi hơn trong thời hạn thanh toán và giảm giá, việc đòi hỏi thanh toán ngay đối với các đại lý trừ những đại lý lớn hoặc có mối quan hệ đặc biệt đã làm ảnh hưởng tới công tác bán hàng của FPT. Công ty đã có hệ thống kênh phân phối rất tốt và đa dạng, song hiện nay mặc dù đã lập kế hoạch phân phối nhưng vẫn còn trong tình trạng sơ lược, chưa lên được kế hoạch phân phối cụ thể. 2.1.6. Thông tin liên quan đến các kênh phân phối chưa được cập nhật: Với kênh phân phối của công ty hiện nay đòi hỏi phải có thông tin có tính chính xác cao về các đại lý nhưng nhìn chung thông tin và danh sách các đại lý có khi không cập nhật. Nhiều đại lý đã rút khỏi thị trường nhưng danh sách vẫn còn tên và ngược lại. Hiện nay công ty luôn có những bảng báo giá hàng tuần, hàng tháng cho khách hàng nhưng nhiều khi chúng đến tay họ chậm hoặc không đến. Cạnh tranh quyết liệt trong phân phối, nhiều đối thủ cạnh tranh khác cũng tiến hành nhập hàng trực tiếp, họ lợi dụng sơ hở của FPT trong thời gian trễ giữa hai lô hàng để tung ra bán, vào thời điểm đó có thể bán với giá cao hơn của FPT. 2.1.7. Chi phí vận chuyển còn cao, cán bộ thực hiện công tác nhập khẩu còn mỏng: Trong vấn đề nhập khẩu, chi phí vận chuyển khá quan trọng, đó là phần chi phí ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Hiện nay, FPT chủ yếu nhập khẩu máy vi tính từ Singapo nhưng phụ kiện một số phải nhập từ Mĩ chuyên chở bằng đường hàng không, chi phí khá đắt, vận chuyển của công ty gồm cả hàng không và đường biển, điều này đòi hỏi cán bộ phụ trách mảng này phải có kinh nghiệm và nghiệp vụ khá vững trong khi số lượng phụ trách phần này còn khá mỏng và nghiệp vụ không phải tất cả đều cao. 2.1.8. Khó khăn về đồng tiền thanh toán: Thực tế, FPT chủ yếu kinh doanh mặt hàng nhập khẩu trong đó đa phần là những mặt hàng liên quan đến tin học như máy vi tính và phụ kiện máy vi tính đòi hỏi thanh toán bằng USD trong khi khoản thu ngoại tệ từ xuất khẩu phần mềm rất ít mà khách hàng thanh toán cho công ty lại là đồng Việt nam. Rõ ràng rằng lượng phí trả cho chuyển đổi ngoại tệ quả là không nhỏ khi mà đồng USD vẫn khá cao so với VND. 2.1.9. Chính sách thuế của nhà nước đối với phụ kiện máy vi tính còn cao: Theo quy định mới thì thuế nhập khẩu đánh vào máy vi tính toàn bộ là 5%, trong khi phụ kiện là 10%, nhu cầu trong nước về phụ kiện máy vi tính tăng nhưng không được ưu đãi về thuế làm ảnh hưởng tới lợi nhuận kinh doanh mặt hàng này. Nguyên nhân của những tồn tại trên thì có nhiều nhưng chủ yếu là các nguyên nhân sau: 2.2. Nguyên nhân của những tồn tại: 2.2.1. Các doanh nghiệp kinh doanh máy vi tính ngày càng nhiều với các chiến lược khá cạnh tranh: Theo dự đoán của IDC thị trường tin học của Việt Nam là rất lớn, cùng với việc nới rộng chính sách xuất nhập khẩu cho tất cả các doanh nghiệp của Việt Nam, hàng loạt doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực này mọc lên với đa dạng chủng loại và chất lượng tạo sự tự do lựa chọn cho khách hàng. Hiện nay, một số công ty trong đó cạnh tranh với sản phẩm của FPT, nếu không kể đến hàng loạt các công ty tin học nhỏ tuy tiếng tăm chưa nhiều nhưng lại có bộ máy gọn nhẹ, mặt hàng phong phú và thường xuyên thay đổi sách lược cạnh tranh như giá cả, tiếp thị. Mấy năm trở lại đây FPT còn có những đối thủ kinh doanh không kém lớn mạnh khác trong lĩnh vực tin học như: Công ty máy tính SEATIC có trụ sở tại thành phố Hồ Chí Minh, hoạt động khá mạnh mẽ trong lĩnh vực phần cứng với đội ngũ kỹ sư giỏi. Công ty nước ngoài THAKRAL với rất nhiều đại lý cấp hai. Họ chấp nhận bán lẻ với điều kiện thanh toán ngay, chính sách tín dụng 30 đến 45 ngày cho các đối tác có quan hệ làm ăn lâu dài. Ngoài ra, những công ty lớn khác có tiềm năng về vốn và kỹ thuật như Tổng công ty điện tử tin học Việt Nam, Công ty máy tính Việt Nam 2, công ty TNHH Hồng Quang,...đều là những đối thủ cạnh tranh không thể coi thường. Điều này đã làm cho thị phần mặt hàng máy tính của FPT trên thị trường bị thu hẹp hơn. 2.2.2. Nghị định 37/CP năm 1999 làm cho giá trị nhập khẩu uỷ thác của công ty giảm đáng kể: Mặc dù tỷ trọng nhập khẩu uỷ thác trong tổng nhập khẩu hàng năm của công ty nhỏ nhưng nó cũng đóng góp một phần doanh thu và lợi nhuận, ngoài ra làm giảm lượng khách hàng. 2.2.3. Công tác nghiên cứu thị trường và hoạt động maketing chưa thực sự có tổ chức: Trong cơ cấu của FPT, nghiên cứu thị trường chủ yếu do tổ trợ lý Tổng giám đốc và Phòng kế hoạch kinh doanh thực hiện. Đây chính là các đầu mối thu thập thông tin trên thị trường từ giá cả, tâm lý khách hàng,...Tuy nhiên, ở hai bộ phận này hoạt động nghiên cứu thị trường không phải là công việc chính do đó hiệu quả kinh tế có thể bị sụt giảm. Hoạt động maketing vô cùng quan trọng đối với các doanh nghiệp bán trực tiếp sản phẩm và bán buôn, cần phải chú trọng để nâng uy tín và thị phần sản phẩm của công ty. Thực chất hoạt động maketing của công ty đã có nhưng chưa thực sự có tổ chức. Các hoạt động mới chỉ diễn ra ở khâu bán hàng. Mặc dù có tổ chức các cuộc hội thảo, hội nghị khách hàng nhưng hoạt động này chưa thực sự đều đặn làm cho công tác thu thập thông tin giảm hiệu quả. 2.2.4. Sự biến động của tỷ giá hối đoái: Tỷ giá hối đoái ảnh hưởng tới tất cả các doanh nghiệp nhập khẩu, trong thời gian 2 năm qua tỷ giá của đồng Việt Nam tăng, gây khó khăn đối với việc có được USD khan hiếm trong thời gian khủng hoảng tài chính khu vực, đã làm cho tốc độ tăng lợi nhuận giảm xuống năm 2000. 2.2.5. Giá cả nhập khảu máy vi tính của công ty còn khó cạnh tranh: Công ty với chiến lược chỉ kinh doanh những sản phẩm “hàng hiệu”, sản phẩm có khả năng cao về chất lượng nhưng giá cả lại khó cạnh tranh trên thị trường hiện tại ở Việt Nam so với những hãng Đông Nam á đang được các công ty tin học nhập về ngày càng nhiều. 2.2.6. Xu hướng bão hoà về mặt hàng máy vi tính trên thị trường Việt nam: Lượng hàng máy vi tính trong các doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp nhà nước đã được trang bị nhiều, nhu cầu có xu hướng chững lại nên tỷ trọng hàng nhập khẩu của máy vi tính giảm. Lượng cung máy vi tính trên thị trường Việt nam đang đi tới tình trạng bão hoà. 2.2.7. Thủ tục nhập khẩu còn rườm rà: Thủ tục Hải quan mặc dù đã giảm những giấy phép rườm rà nhưng sự nhũng nhiễu của cán bộ Hải quan vẫn đang còn, làm cản trở công tác nhận hàng nhập khẩu, gây thiệt hại không đáng có. 2.2.8. Hệ thống kế toán mới chưa hoàn hảo: FPT đã áp dụng hệ thống Kế toán SOLOMON, hệ thống kế toán hiện đại nhưng thực tế vẫn có những lỗi nhỏ như sau khi nhập hàng, số liệu nhập vào không cộng trực tiếp được do hệ thống vẫn chưa triển khai một cách hoàn hảo. Cho dù thị trường tin học ở Việt nam đang phát triển khá nhanh và FPT là một trong những công ty tin học lớn ở Việt nam, nhu cầu về mặt hàng máy vi tính và phụ kiện máy vi tính lớn nhưng không phải vì thế mà công ty không có những khó khăn, có những khó khăn chung của tất cả các doanh nghiệp kinh doanh về lĩnh vực này, có những khó khăn riêng của FPT. Vì vậy cần phải có những chiến lược cụ thể để xác định mục tiêu trong cả ngắn hạn và dài hạn. Muốn vậy phải xác định thông qua các cơ sở chung cũng như riêng, vạch rõ kế hoạch từ công tác nghiên cứu thị trường cho đến thu tiền hàng. Kết luận Trong những năm qua, đất nước đang chuyển mình trong công cuộc CNH-HĐH theo đường lối của Đảng Cộng Sản Việt nam, Việt nam mở rộng cửa đón chào các nhà đầu tư nước ngoài để học hỏi những kinh nghiệm quản lý, tiếp thu những công nghệ mới, các công ty liên doanh thậm chí 100% vốn nước ngoài đang trở thành những hình mẫu về sự bài bản trong quản lý và năng động trong kinh doanh. Trước sự cạnh tranh quyết liệt trên thương trường cùng hệ thống và kinh doanh lỗi thời, hàng loạt các công ty trong nước đặc biệt là các công ty quốc doanh đang lao đao trên thị trường. Trong bối cảnh đó, một công ty quốc doanh Việt nam như FPT, đứng vững trong thử thách, khẳng định được mình qua 13 năm phát triển với doanh số tăng, kim ngạch xuất nhập khẩu tăng, số lượng nhân viên tăng cả về chất và lượng, khẳng định được sự thích nghi của mình trong thời kỳ đổi mới. So với các doanh nghiệp khác, điểm đặc thù của FPT là các hoạt động trong lĩnh vực công nghệ cao, công ty đã tiếp thu thành công nhiều công nghệ mới trên thế giới trong các lĩnh vực tin học, CGCN tiên tiến vào Việt nam, góp phần đưa đất nước phát triển vững mạnh hơn trong kỷ nguyên mới. Máy vi tính và phụ kiện máy vi tính luôn chiếm tỷ trọng lớn trong giá trị nhập khẩu, doanh thu cũng như lợi nhuận. Hoạt động nhập khẩu khá phức tạp do đó cần xác định những mặt tích cực hoặc mình có lợi thế để phát huy và hạn chế đến mức thấp nhất những tác động xấu nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của FPT. Với năng lực và tầm nhìn chiến lược của các nhà lãnh đạo công ty, đội ngũ nhân viên nhiệt tình, sáng tạo và có kiến thức tốt cùng sự trợ giúp của hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001 phiên bản 2000, phiên bản mới nhất hiện nay, có thể tin rằng FPT sẽ hoàn thiện được bộ máy quản lý, phát triển mạnh mẽ hoạt động kinh doanh không chỉ phần cứng mà cả ở lĩnh vực phần mềm, giữ vị trí hàng đầu tại Việt nam và từng bước trở thành một công ty có tầm cỡ khu vực và thế giới.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc2346.doc
Tài liệu liên quan