Đề tài Hoạt động quản lý Nhà nước đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài

Dưới trạng thái tĩnh, cơ cấu của quản lý Nhà nước gồm các yếu tố: Chủ thể, khách thể, và quan hệ giữa chúng. Trong quá trình quản lý Nhà nước về đầu tư trực tiếp giữa chủ thể quản lý và khách thể quản lý có mối liên hệ qua lại, gắn bó hữu cơ. Hoàn toàn sai lầm khi cho rằng quan hệ quản lý chỉ đơn thuần là tác động một chiều từ chủ thể quản lý lên khác thể quản lý. Quản lý Nhà nước về đầu tư trực tiếp là sự tác động của chủ thể quản lý (các cơ quan quản lý Nhà nước) vào khách thể quản lý (các hoạt động đầu tư trực tiếp) nhằm đạt được những mục tiêu đã định. Từ những phân tích trên đây có thể đưa ra khái niệm: Quản lý Nhà nước về đầu tư nước ngoài là hoạt động chấp hành và điều hành của các cơ quan hành chính Nhà nước Việt Nam được tiến hành trên cơ sở pháp luật và để thi hành pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm khuyến khích và bảo đảm cho các nhà đầu tư nước ngoài tiến hành các hoạt động đầu tư tại Việt Nam trên cơ sở tuân thủ pháp luật và hai bên cùng có lợi.

doc112 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1040 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoạt động quản lý Nhà nước đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1997 quy dịnh những yêu cầu chung về kỹ thuật đối với việc nhập khẩu thiết bị đã qua sử dụng. Việc áp dụng quyết định này đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài gặp phải các vướng mắc sau: - Không có quy định riêng đối với các dự án ĐTNN, đặc biệt là đối với doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài và xuất khẩu toàn bộ sản phẩm. - Quy định việc nhập khẩu thiết bị đã qua sử dụng phải có sự phê duyệt của Bộ, nghành hoặc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là không phù hợp và không thể thực hiện được đối với doanh nghiệp có vốn ĐTNN. - Quy định chất lượng thiết bị còn lại không ít hơn 80% so với nguyên thuỷ và mức tăng tiêu hao nguyên liệu, năng lượng không vượt quá 10% so với nguyên thuỷ cần phải cụ thể hoá mới có thể thực hiện được. - Quy định trong mọi trường hợp khi nhập khẩu thiết bị đã qua sử dụng phải nộp chứng thư giám định chất lượng hàng hoá mà không có bất cứ miễn trừ nào gây phiền hà cho các doanh nghiệp. Quy định phải có văn bản xác nhận tư cách pháp nhân của tổ chức giám định chất lượng do cơ quan chức năng của nước sở tại cấp cho phép hành nghề giám định kỹ thuật chỉ mang tính hình thức và dễ gây bất bình cho nhà đầu tư. - Quy định việc kiểm tra bắt buộc đối với thiết bị, dây chuyền, cxí nghiệp lớn với tổng giá trị hợp đồng mua từ 1tr.USD trở lên làm cho nhiều nhà đầu tư lo ngại. Các doanh nghiệp đề nghị Bộ KHCNMT ra văn bản hướng dẫn chi tiết việc nhập khẩu thiết bị đã qua sử dụng đối với các doanh nghiệp có vốn ĐTNN. Vấn đề này Bộ Kh&ĐT đã có công văn gửi Bộ KHCNMT đề nghị nghiên cứu giải quyết các vấn đề trên. 2.4.4.8. Vấn đề lao động: Hiện còn 2 vấn đề vướng mắc : - Thủ tục tuyển dụng lao động là người nước ngoài quá phức tạp, khó thực hiện. - Chế độ trả lương cho nguời lao động cần được hướng dẫn điều chỉnh phù hợp với tình hình khủng hoảng tài chính, tiền tệ hiện nay. Cụ thể là: - Theo Nghị định 58/CP ngày 3/10/1996, lao động là người nước ngoài muốn được cấp giấy chứng nhận của cơ quan quản lý lao động phải có chứng chỉ chuyên môn (bản chính hoặc bản sao có công chứng) và sơ yếu lý lịch do người nước ngoài mà người đó mang quốc tịch xác nhận. Tuy nhiên, ở các nước không có khái niệm sơ yếu lý lịch được cơ quan Nhà nước xác nhận như ở Việt Nam. - Mức lương tối thiểu đối với lao động giản đơn tại các doanh nghiệp có vốn ĐTNN được quy định theo đô la Mỹ và việc trả lương nói chung ở các doanh nghiệp đều tính trên cơ sở quy đổi đô la Mỹ ra đồng Việt Nam theo tỷ giá tại thời điểm trả lương cho người lao động. Trước đây chưa có biến động về tài chính, tiền tệ, tỷ giá ổn định, việc trả lương bằng đô la Mỹ không gây ảnh hưởng lớn đến tình hình tài chính của doanh nghiệp. Nay do tỷ giá giữa đồng đô la Mỹ và đồng Việt Nam đã lên cao và thường xuyên thay đổi theo thị trường nên nhiều doanh nghiệp đề nghị được trả lương bằng đồng VN theo một tỷ giá ổn định nào đó cho từng thời kỳ (6 tháng hoặc 1 năm). Các doanh nghiệp đề nghị Bộ LĐTB&XH soát xét lại những quy định về việc cấp giấy phép lao động cho người nước ngoài; thực hiện việc phân cấp giấy phép lao động cho cơ quan địa phương và ban hành quy định về việc trả lương cho người lao động bằng đồng VN. 2.4.4.9. Kiểm tra hoạt động của doanh nghiệp có vốn ĐTNN Vướng mắc nổi bật hiện nay là: - Việc kiểm tra doanh nghiệp của cơ quan quản lý Nhà nước còn chồng chéo, nhiều đầu mối; kiểm tra dồn dập một số doanh nghiệp gây ảnh hưởng tới kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. - Việc xử lý kết quả kiểm tra còn chậm chạp, kéo dài, chưa thực sự hỗ trợ cho doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn để ổn định sản xuất kinh doanh. Cụ thể là : - Một số doanh nghiệp cho biết, trong 1 năm họ phải tiếp quá nhiều đoàn kiểm tra. Chỉ riêng Bộ Nội vụ cũng có nhiều đầu mối kiểm tra doanh nghiệp có vốn ĐTNN như An ninh kinh tế, Cảnh sát, Phòng cháy chữa cháy... Viện Kiểm sát tối cao gần đây cũng tổ chức kiểm tra doanh nghiệp. Một số quan hệ kinh tế xã hội còn trong phạm vi giải quyết của nội bộ doanh nghiệp, nhưng một số cơ quan pháp luật như Công an, Viện Kiểm sát đã hình sự hoá vụ việc, gây lo ngại cho doanh nghiệp. Việc khắc phục các tồn tại trong công tác kiển tra trên đã được giải quyết trong Nghị định 10/1998/NĐ-CP của Chính phủ. Trong đó quy định rõ mục tiêu kiểm tra là nhằm hỗ trợ doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn, giải quyết kịp thời những vấn đề phát sinh; quy định các đầu mối xây dựng kế hoạch và chủ trì kiểm tra; cách tổ chức kiểm tra và báo cáo kết quả kiểm tra. 2.5. Phân tích quá trình hoàn thiện công tác quản lý Nhà nước về ĐTNN qua các Luật ĐTNN 2.5.1. Giai đoạn trước khi ban hành Luật ĐTNN 1996 Tháng 12 năm 1987, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật ĐTNN tại Việt Nam, tạo cơ sở pháp lý cơ bản, đầu tiên cho hoạt động ĐTTTNN tại Việt Nam. Luật gồm 4 chương với 42 điều quy định về lĩnh vực khuyến khích đầu tư; về hình thức đầu tư; về quyền lợi va nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân đầu tư nước ngoài; về cơ quan Nhà nước quản lý đầu tư nước ngoài. Luật ĐTNN tại Việt Nam được ban hành trong bối cảnh đất nước mới bước vào thời kỳ đổi mới sau Đại hội lần thứ VI của Đảng, nền kinh tế trong nước về cơ bản vẫn được quản lý theo nguyên tắc kế hoạch hoá tập trung, chưa có những đạo luật về kinh tế theo nguyên tắc của kinh tế thị trường được thông qua, ban hành. Quan hệ đối ngoại, đặc biệt là kinh tế đối ngoại còn nhiều mặt hạn chế, tập trung chủ yếu với khu vực Liên Xô và Đông Âu cũ. Do vậy, Luật đầu tư đã được xây dựng như là đạo luật kết hợp giữa luật khung và luật chuyên ngành, quy định không chỉ những vấn đề có tính nguyên tắc mà còn gồm cả những vấn đề cụ thể liên quan đến việc tổ chức, hoạt động của các doanh nghiệp có vốn ĐTNN trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Tháng 6 năm 1990, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật ĐTNN tại Việt Nam đã sửa đổi, bổ sung 15 trong số 42 điều của Luật năm 1987. Nội dung sửa đổi, bổ sung bao gồm các vấn đề về Bên Việt Nam; về hợp đồng hợp tác kinh doanh; về doanh nghiệp liên doanh (khái niệm, phần góp vốn của Bên hoặc các bên nước ngoài, Hội đồng quản trị, Ban Giám đốc doanh nghiệp, miễn giảm thuế lợi tức) và việc tổ chức kinh tế tư nhân Việt Nam được hợp tác kinh doanh với tổ chức, cá nhân nước ngoài. Như vậy, Luật sửa đổi bổ sung Luật ĐTNN tại Việt Nam lần thứ nhất đã xác định rõ ràng,cụ thể hơn về khái niệm và nội dung quan hệ trong các doanh nghiệp liên doanh; đồng thời xử lý một số vấn đề quan trọng có tính chất nguyên tắc là cho phép các tổ chức kinh tế tư nhân Việt Nam được trực tiếp hợp tác đầu tư với nước ngoài. Trong lần thứ hai sửa đổi bổ sung Luật đầu tư tháng 12 năm 1992 Quốc hội đã thông qua việc sửa đổi, bổ sung các quy định về Bên Việt Nam gồm 1 hoặc nhiều doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế; về khu chế xuất; doanh nghiệp khu chế xuất; về hợp đồng xây dựng- kinh doanh- chuyển giao (BOT); về việc bên Việt Nam góp vốn pháp định bằng các nguồn tài nguyên; về việc thoả thuận tăng dần tỷ trọng góp vốn của Bên Việt Nam trong vốn pháp định của doanh nghệp liên doanh; về thời hạn hoạt động của doanh nghiệp có vốn ĐTNN; về việc mở tài khoản vốn vay tại ngân hàng ở nước ngoài; về nguyên tắc không hồi tố, về nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan Nhà nước quản lý ĐTNN. So với Luật sửa đổi bổ sung lần thứ nhất, Luật sửa đổi bổ sung lần thứ hai đã sửa đổi, bổ sung nhiều nội dung có tính chất cơ bản hơn. Đólà, đã mở ra các biện pháp mới để bảo vệ lợi ích của Bên Việt Nam và Nhà nước Việt Nam, đồng thời cũng có những biện pháp làm an tâm và tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà ĐTNN. Như vậy, sau hai lần bổ sung, sửa đổi Luật ĐTNN vẫn giữ nguyên bố cục gồm 5 chương 42 điều, quy định những nguyên tắc chung và một số nội dung cụ thể liên quan tới hoạt động ĐTTTNN tại Việt Nam. Tuy nhiên, do số chương, điều của Luật năm 1987, 1990 cũng như 1992 chưa đầy đủ và cụ thể các chế định để điều chỉnh việc tổ chức và quản lý các hoạt động ĐTTTNN tại Việt Nam nên sau mỗi lần sửa đổi bổ sung Luật, Chính phủ quy định chi tiết việc thi hành Luật ĐTNN tại Việt Nam. Cho đến trước khi ban hành Luật ĐTNN tại Việt Nam năm 1996, Nghị định có giá trị thi hành là Nghị định 18/CP, ngày 16/04/93 bao gồm 14 chương 105 điều. Căn cứ vào quy định của Luật và Nghị định, các Bộ, ngành và địa phương đã ban hàng các thông tư hướng dẫn hoạt động ĐTTTNN trong phạm vi quản lý cuả mình. Các văn bản pháp luật đã tạo nên một hệ thống tương đối đầy đủ trên nhiều lĩnh vực khác nhau điều chỉnh các hoạt động ĐTTTNN tại Việt Nam. Mặt khác, trong quá trình đổi mới xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước, Quốc hội và Chính phủ đã lần lượt ban hành nhiều văn bản Luật và dưới Luật liên quan đến ĐTTT của nước ngoài như: Luật đất đai, Luật thuế xuất nhập khẩu, Luật thuế doanh thu, Luật thuế tiêu thụ đặc biệt, Luật lao động, Luật công đoàn, Luật bảo vệ phát triển rừng, Luật dầu khí, Luật công ty, Luật doanh nghiệp Nhà nước, Luật doanh nghiệp tư nhân, Luật khuyến khích đầu tư trong nước, Luật phá sản doanh nghiệp, Bộ luật dân sự, Pháp lệnh ngân hàng, Pháp lệnh hải quan, Pháp lệnh bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, Pháp lệnh đo lường, Pháp lệnh về kế toán thống kê, Pháp lệnh về hợp đồng lao động, Pháp lệnh về tài nguyên khoáng sản, Pháo lệnh về quyền và nghĩa vụ của các tổ chức cá nhân nước ngoài đối với quyền sử dụng đất, Quy chế khu chế xuất, Quy chế hợp đồng xây dựng- kinh doanh- chuyển giao (BOT), Quy chế khu công nghiệp... Sau khi Quốc hội hoặc Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua Luật hoặc các pháp lệnh, Chính phủ và các bộ ngành liên quan đều ban hành các Nghị định hoặc các thông tư hướng dẫn thi hành, trong đó có những quy định liên quan đến ĐTTT của nước ngoài. Cho đến trước khi ban hành Luật ĐTNN tại Việt Nam 1996 đã có tổng cộng 110 văn bản Luật và dưới Luật liên quan đến ĐTTT của nước ngoài, tạo môi trường pháp lý tương đối đầy đủ, đồng bộ cho các hoạt động ĐTTT của nước ngoài tại Việt Nam. 2.5.2. Giai đoạn sau khi ban hành Luật ĐTNN 1996 đến nay Ngày 12/11/1996, Quốc hội đã thông qua Luật ĐTNN tại Việt Nam trên cơ sở sửa đổi bổ sung một cách cơ bản Luật đầu tư năm 1987 và các Luật sửa đổi bổ sung năm 1990 và 1992. Luật ĐTNN tại Việt Nam được xây dựng theo hướng tiếp tục tạo môi trường pháp lý hấp dẫn, thể hiện tính nhất quán và liên tục chính sách thu hút ĐTNN của nhà nước ta. Luật ĐTNN 1996 được ban hành trong bối cảnh hệ thống pháp luật về kinh tế ngày càng đầy đủ hơn. Bên cạnh việc ban hành mới nhiều văn bản pháp luật quan trọng như Bộ Luật Thương mại... hệ thống pháp luật hiện hành đang tiếp tục được củng cố và sửa đổi cho phù hợp với thực tiễn. Nhiều đạo luật quan trọng như Luật Công ty, Luật doanh nghiệp tư nhân... đang trong quá trình sửa đổi, bổ sung theo hướng thông thoáng hơn nhằm thu hút tối đa mọi nguồn vốn đầu tư, phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 2.5.2.1. Những sửa đổi bổ sung cơ bản của Luật ĐTNN 1996 Luật ĐTNN tại Việt Nam năm 1996 được kết cấu thành 6 chương với 68 điều với những sửa đổi, bổ sung cơ bản sau đây: (Đã quy định cụ thể về những lĩnh vực và địa bàn khuyến khích ĐTNN, những lĩnh vực không khuyến khích; Đã quy định lại về việc miễn, giảm thuế lợi tức, thuế nhập khẩu, miễn giảm tiền thuê đất, mặt nước...; Đã quy định đa dạng hoá các phương thức đầu tư như cho phép đầu tư theo phương thức BTO, BT; Luật ĐT quy định Nhà nước bảo đảm việc hỗ trợ cân đối ngoại tệ; Khuyến khích người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư về nước; Tăng cường quản lý Nhà nước đối với ĐTNN như giám định, nghiệm thu...; Luật ĐT rút ngắn thời gian thẩm định, cấp giấy phép xuống còn 60 ngày; Luật quy định nhà ĐTNN, doanh nghiệp có vốn ĐTNN, các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh, tổ chức, cá nhân được quyền khiếu nại, khởi kiện đối với các hành vi trái pháp luật gây khó khăn, phiền hà của viên chức, cơ quan Nhà nước). 2.5.2.2. Những sửa đổi bổ sung cơ bản của Nghị định 12/CP Sau khi ban hành Luật ĐT, chỉ trong một thời gian ngắn, Chính phủ đã kịp thời ban hành Nghị định 12/CP ngày 18/2/97 để hướng dẫn chi tiết thi hành Luật. Đối với hoạt động xây dựng pháp luật ở Việt Nam, Nghị định 12/CP được đánh giá như một trong những văn bản dưới Luật được ban hành sớm nhất sau khi có Luật, kịp thời cụ thể hoá những quy định của Luật vào thực tiễn hoạt động ĐTNN tại Việt Nam. Tinh thần chung của Nghị định là khuyến khích ĐTNN vào những mục tiêu trọng điểm và ưu tiên của chiến lược phát triển kinh tế- xã hội, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nội dung của Nghị định 12/CP chứa đựng nhiều điểm mới như: (Cụ thể hoá mức thuế lợi tức ưu đãi, Nghị định quy định cụ thể về thời hạn miễn, giảm thuế; Nghị định quy định cụ thể về các thủ tục liên quan đến đất đai, xác định rõ đơn vị, cơ quan có trách nhiệm hoàn thành các thủ tục liên quan đến đất đai; Nghị định cho phép doanh nghiệp được lập kho bảo thuế tại doanh nghiệp có tỷ lệ xuất khẩu từ 50% trở lên; Nghị định cho phép doanh nghiệp có vốn ĐTNN được mở tài khoản vay tại các ngân hàng nước ngoài trong trường hợp Ngân hàng cho vay yêu cầu và được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chấp thuận; Quy định rõ sự phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước về quản lý các hoạt động ĐTNN). 2.5.2.3. Việc thực hiện Nghị định số 10/1998/NĐ-CP của Chính phủ và cải tiến các thủ tục ĐTTTNN Nhằm khuyến khích ĐTNN vào ngày 23/01/98 Chính phủ đã kịp thời ban hành Nghị định số 10/1998/NĐ-CP về một số biện pháp khuyến khích và bảo đảm hoạt động ĐTTTNN tại Việt Nam, cải tiến các thủ tục tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các doanh nghiệp có vốn ĐTNN. Nghị định đã ban hành danh mục các dự án đặc biệt khuyến khích đầu tư; Danh mục các dự án khuyến khích đầu tư; Danh mục lĩnh vực đầu tư có điều kiện; Danh mục các lĩnh vực không cấp giấy phép đầu tư; Danh mục địa bàn khuyến khích đầu tư; Địa bàn có điều kiện kinh tế-xã hội khó khăn; Danh mục máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải được miễn thuế nhập khẩu để tạo tài sản cố định của doanh nghiệp có vốn ĐTNN và các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh; Danh mục các nhóm trang thiết bị miễn thuế nhập khẩu một lần của các doanh nghiệp khách sạn, văn phòng- căn hộ cho thuê, nhà ở, trung tâm thương mại, dịch vụ kỹ thuật, siêu thị, sân Golf, khu du lịch, khu thể thao, khu vui chơi giải trí, cơ sở khám chữa bệnh, đào tạo, văn hoá, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, kiểm toán, dịch vụ tư vấn. 2.5.3. Nhận xét, đánh giá chung về hệ thống pháp luật ĐTNN hiện hành 2.5.3.1. Những mặt tích cực: - Hệ thống pháp luật ĐTNN hiện hành đảm bảo thực hiện được chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực ĐTTT của nước ngoài; bảo vệ được chủ quyền và lợi ích của Nhà nước và các tổ chức kinh tế Việt Nam. - Luật đầu tư hiện hành là thông thoáng, hấp dẫn, về cơ bản phù hợp với thông lệ quốc tế, đựoc các nhà ĐTNN hoan nghênh chấp nhận. - Hệ thống pháp luật đầu tư hiện hành đang trong quá trình hoàn thiện phù hợp với thực tế đất nước, đáp ứng được yêu cầu mở rộng thu hút ĐTTT của nước ngoài. Luật ĐTNN và các văn bản pháp luật có liên quan đến đầu tư đã được ban hành tạo môi trường pháp lý đồng bộ cho các hoạt động ĐTTT của nước ngoài tại Việt nam. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường đang đổi mới, chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước thì việc tạo dựng môi trường pháp lý riêng cho ĐTTT của nước ngoài là tối cần thiết, đảm bảo cho việc thực hiện đường lối mở rộng thu hút ĐTTT của nước ngoài. 2.5.3.2. Những mặt còn hạn chế: - Hệ thống pháp luật về ĐTNN còn thiếu những quy định chặt chẽ để bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật, loại trừ những mâu thuẫn, chồng chéo đặc biệt là trong quy định của các Bộ, ngành và địa phương. - Hệ thống pháp luật về ĐTNN hiện chưa phát huy hết hiệu quả định hướng thu hút đầu tư. - Hình thức tổ chức doanh nghiệp có vốn ĐTNN chưa đa dạng. - Những biện pháp bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của nhà đầu tư trong trường hợp có sự thay đổi chính sách, pháp luật chưa cụ thể, chưa thể hiện sự nhất quán và ổn định của pháp luật, do vậy gây tâm lý thiếu tin tưởng cho các nhà đầu tư. - Các quyền tự do lựa chọn đối tác và cơ hội đầu tư của nhà đầu tư còn nhiều hạn chế. - Sau khi ban hành Luật, những biện pháp ưu đãi đầu tư về tài chính, ngân hàng, ngoại hối... chưa được cụ thể hoá đầy đủ hoặc chưa có quy định rõ ràng làm yên tâm các nhà đầu tư, đặc biệt là những biện pháp ưu đãi đối với những địa bàn và lĩnh vực khuyến khích đầu tư. - Thủ tục đầu tư đã được cải tiến đơn giản và thuận tiện hơn nhưng ở một số khâu như thủ tục liên quan đến đất đai, hải quan, xuất nhập khẩu còn chậm, phức tạp gây phiền hà cho các nhà đầu tư. - Những biện pháp quản lý, kiểm tra còn thiếu cụ thể và chặt chẽ để vừa bảo đảm hiệu lực quản lý nhà nước, vừa tránh phiền hà cho hoạt động của các dự án ĐTNN. - Sự hiểu biết pháp luật, chính sách về ĐTNN của cán bộ các cấp, các ngành còn nhiều hạn chế dẫn đến việc vận dụng tuỳ tiện, thiếu nhất quán trong không ít trường hợp làm giảm tính hấp dẫn và hiệu lực của hệ thống pháp luật về đầu tư. Qua 10 năm xây dựng và thực hiện pháp luật về ĐTNN tại Việt Nam, đội ngũ cán bộ làm về đầu tư ở các Bộ, ngành và địa phương đã có sự trưởng thành đáng kể. Tuy nhiên, trong thực tế vẫn còn nhiều trường hợp vận dụng tuỳ tiện và thiếu nhất quán pháp luật, chính sách về ĐTNN do hạn chế về trình độ của những cán bộ thực hiện pháp luật. Điều này đã làm ảnh hưởng đến môi trường đầu tư ở Việt Nam. Trong những năm vừa qua, thấy rõ được tầm quan trọng và tính quyết định của công tác cán bộ, ta đã chủ động mở nhiều lớp đào tạo, bồi dưỡng ngắn hạn những kiến thức cơ bản về hợp tác đầu tư với nước ngoài nhưng mới chỉ giải quyết được yêu cầu trước mắt, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển lâu dài. * Nhận xét khái quát: Thực tiễn mười năm qua đã chỉ rõ việc thu hút và sử dụng vốn FDI là chủ trương đúng đắn và cần thiết, phù hợp với xu thế chung của thời đại và thực tiễn của nước ta nhằm tranh thủ nguồn vốn, công nghệ, thị trường quốc tế, kinh nghiệm quản lý của nước ngoài phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Với pháp luật, chính sách, quy hoạch hợp lý gắn với việc phát huy nội lực, với sự quản lý điều hành tốt, việc sử dụng FDI không ảnh hưởng đến tính độc lập tự chủ và định hướng phát triển của đất nước; trái lại, góp phần tăng cường sức mạnh nền kinh tế và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Những quy định của pháp luật , chính sách về FDI nhìn chung phù hợp với đường lối đổi mới và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Những thiếu sót và nhược điểm, sơ hở và thua thiệt diễn ra chủ yếu trong khâu chỉ đạo thực hiện ở phạm vi hoạt động vi mô của doanh nghiệp, không phải trên những vấn đề có tính nguyên tắc, chủ trương. Thành tựu đạt được trong thời gian qua là to lớn và đáng khích lệ, đóng góp đáng kể vào thành công của công cuộc đổi mới, tạo dựng được những cơ sở ban đầu rất quan trọng đáp ứng về cơ bản những mục tiêu đặt ra cho sự nghiệp mới mẻ và rất khó khăn là thu hút và sử dụng hiệu quả FDI. Chương III: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện công tác quản lý Nhà nước về Đầu tư nước ngoài 3.1. Dự báo tình hình 3.1.1. Nhu cầu vốn FDI giai đoạn 1996-2000 và sau năm 2000 * Mục tiêu chung đề ra cho giai đoạn 1996-2000 là phải đạt tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 9% đến 10%; GDP bình quân đầu người vào năm 2000 tăng gấp 2 lần năm 1990. Để đạt mục tiêu tăng trưởng nói trên, cần có tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội khoảng 41 đến 42 tỷ USD, gấp hơn 2 lần tổng vốn đầu tư giai đoạn 1991 - 1995. Tỷ lệ đầu tư so với GDP tăng từ 25 lên 30%. Cơ cấu vốn đầu tư dự kiến phân theo các nguồn như sau: Bảng 6: Cơ cấu nguồn vốn đầu tư dự kiến 1996- 2000 Nguồn vốn Cơ cấu vốn đầu tư Sốlượng(tỷ USD) Tỷ trọng(%) Vốn trong nước Trong đó: Đầu tư công cộng Doanh nghiệp nhà nước Tư nhân và hộ gia đình 21,40 8,60 5,90 6,90 51,69 20,77 14,25 16,67 Vốn ngoài nước Trong đó: FDI ODA 20,00 13,00 7,00 48,31 31,40 16,91 Tổng cộng 41,40 100,00 Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư * Tình hình thực hiện vốn đầu tư 1996-1998 - Trong 2 năm 1996-1997, tổng các nguồn vốn huy động mới đạt 15,007 tỷ USD, bằng 36,25% của kế hoạch 5 năm; trong đó, nguồn vốn FDI ròng mới đạt 4,757 tỷ USD, đạt 36,6% kế hoạch 5 năm. Do biến động về kinh tế trong nước và khu vực, nên nguồn vốn đầu tư trong nước rất eo hẹp, nhất là nguồn vốn đầu tư từ ngân sách, khả năng huy động được trong năm 1998 ước chỉ bằng 1997. Trong khi nguồn vốn ODA có thể giải ngân tới 1,1, tỷ USD, tăng 37,5% so với năm 1997 thì nguồn vốn FDI giảm mạnh, ước chỉ đạt 1,735 tỷ USD, giảm 31,88% so với năm 1997. - Tính tổng thể 3 năm 1996-1998, tổng nguồn vốn đầu tư xã hội ước đạt 22,72 tỷ USD, đạt 55% dự kiến kế hoạch 5 năm; trong đó vốn FDI ròng mới đạt 6,5 tỷ USD, bằng 50% so với dự kiến ban đầu. * Nhiệm vụ dầu tư của 2 năm 1999-2000 Để đảm bảo những mục tiêu kế hoạch đã đề ra, vốn đầu tư toàn xã hội trong 2 năm 1999-2000 phải đạt ước khoảng 18,7 tỷ USD. Đây là nhiệm vụ rất khó khăn và việc thực hiện nó phải dựa trên cơ sở tính toán khả năng của từng nguồn vốn đầu tư. - Về đầu tư trong nước: Nhiệm vụ còn lại của 2 năm 1999-2000 là 7,8 tỷ USD. Dự báo tốc độ tăng vốn trong hai năm 1999-2000 đạt từ 9% đến 10% thì vốn đầu tư của 2 năm sẽ ước đạt 10,1 tỷ USD; vượt 2,3 tỷ USD so với nhiệm vụ kế hoạch còn lại trong 2 năm. Bảng 7: Tình hình đầu tư 3 năm 1996-1998 và nhiệm vụ 2 năm 1999-2000 Nguồn vốn Thực hiện năm 1996 Thực hiện năm 1997 Ước thực hiện 1998 Tổng 3 năm 1996 - 1998 Nhiệm vụ 1999 - 2000 1. Vốn trong nước 4 4,8 4,8 13,6 7,8 2. Vốn ngoài nước 2,93 3,35 2,84 9,12 10,88 - FDI 2,21 2,55 1,74 6,5 6,5 - ODA 0,72 0,8 1,1 2,62 4,38 Tổng cộng 6,93 8,15 7,64 22,72 18,68 Nguồn: Bộ Kê hoạch và Đầu tư - Về vốn ODA: Nhiệm vụ còn lại của 2 năm 1999-2000 là 4,38 tỷ USD. Nguồn vốn ODA bị giới hạn và phụ thuộc vào tình hình kinh tế-tài chính và chính sách của các nước và các tổ chức tài trợ. Trong thời gian tới, các nước và các tổ chức tài trợ chính cho ta đều có xu hướng giảm nguồn tài trợ chính cho ta đều có xu hướng giảm nguồn tài trợ ODA hoặc giảm mức độ ưu đãi. Nhật Bản là nước tài trợ lớn cho Việt Nam đã công bố hàng năm sẽ giảm 10% tổng vốn ODA tài trợ cho Việt Nam. Tài trợ của Pháp từ năm 1995 và của Đức từ năm 1997 đã giảm dần. Cam kết vốn ODA cho Việt Nam của các nước trong khu vực bị khủng hoảng đều không có khả năng thực hiện đầy đủ. Nguồn tài trợ của các tổ chức quốc tế bị khó khăn về nguồn vốn nên không có khả năng tăng thêm tài trợ cho Việt Nam, riêng ADB đã đặt vấn đề áp dụng lãi suất cao hơn gần lãi suất vay thương mại với một bộ phận vốn ODA. Tổ chức UNDP giữ nguyên cam kết tổng số tiền tài trợ nhưng kéo dài thời gian tài trợ từ 4 năm thành 5 năm; như vậy thực chất tài trợ giảm 20%. Như vậy, nguồn vốn quan trọng là ODA thời gian tới gặp nhiều khó khăn. Nếu tích cực mở rộng thêm khu vực tài trợ và duy trì được các cam kết cũ thì mới duy trì được tổng vốn ODA bằng mức hiện nay. Do đó, nếu phấn đấu tích cực, vốn ODA giải ngân 2 năm 1999-2000 chỉ đạt 2,2 tỷ USD; bình quân hàng năm bằng mức thu năm 1998 là 1,1 tỷ USD. Như vậy, so với nhiệm vụ còn lại thì vốn ODA sẽ bị hụt 2,2 tỷ USD. - Về vốn FDI: Như phân tích ở trên, trong 2 năm tới, dự kiến sự gia tăng vốn đầu tư trong nước (vượt 2,3 tỷ USD) chỉ bù đắp được phần thiếu hụt dự kiến của nguồn vốn ODA (hụt 2,2 tỷ USD). Do đó, việc có bảo đảm được dự kiến vốn đầu tư toàn xã hội cho 2 năm 1999-2000 hay không tuỳ thuộc vào việc huy động vốn FDI. Hiện nay khủng hoảng khu vực đã tác động mạnh mẽ đến hoạt động FDI của Việt Nam, là nguồn vốn FDI thực hiện năm 1998 suy giảm so với năm 1997 khoảng trên 30%. Theo điều tra của Tạp chí Kinh tế Viễn Đông tháng 2/1998 (đối với 1000 chuyên gia hàng đầu về kinh tế của 10 nước Châu á) thì 88,6% các chuyên gia cho rằng sớm nhất là 2 năm và bình thường là phải 3 đến 5 năm tới cuộc khủng hoảng ở khu vực mới kết thúc. Do đó, khả năng thu hút thêm vốn FDI trong thời gian tới không có triển vọng sáng sủa. Cần phải có những giải pháp cấp bách hữu hiệu để tạo thuận lợi cho các dự án đã được cấp giấy phép đầu tư ở Việt Nam để nhanh chóng triển khai, sớm đi vào sản xuất kinh doanh mới có thể tăng được vốn FDI thực hiện trong 2 năm tới. Trong bối cảnh hiện nay, dự đoán FDI thực hiện năm 1999 ước dạt 2,1 tỷ USD, năm 2000 đạt 2,4 tỷ tổng cộng 2 năm đạt 4,5 tỷ USD. So với nhiệm vụ đặt ra nguồn vốn FDI vẫn còn thiếu hụt 2 tỷ USD. Muốn bù đắp khoảng thiếu hụt này phải có những biện pháp tạo chuyển biến mạnh mẽ các hoạt dộng FDI, đồng thời sớm áp dụng thí diểm các kênh thu hút mới nguồn vốn gián tiếp mới của nước ngoài. Nếu dự đoán trên đây là hiện thực, sẽ có tác động lớn tới việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế- xã hội và tốc độ tăng trưởng kinh tế của thời kỳ 1996-2000. *Tuy nhiên, phương pháp tính toán và dự doán nêu trên chỉ tính luồng FDI thuần tuý yếu tố nước ngoài thực tế đưa vào Việt Nam, không tính phần vốn góp của phía Việt Nam đưa vào các liên doanh. Nếu tính cả phần vốn góp của phía Việt Nam trong các liên doanh thì nguồn vốn FDI thực hiện trong 2 năm 1996, 1997 đạt 5,32 tỷ USD; cộng thêm ước thực hiện 2 tỷ của năm 1998 thì tổng vốn FDI 3 năm 1996-1998 là 7,32 tỷ USD. Như vậy, nếu coi mục tiêu thu hút 13 tỷ vốn FDI thực hiện (tính cả phần vốn góp của Việt Nam) thì nhiệm vụ còn lại của 2 năm 1999-2000 là phải đạt 5,68 tỷ USD (Điều này có thể phấn đấu dạt được). * Theo ước tính sơ bộ để duy trì việc tăng trưởng của nền kinh tế như thời kỳ 1996-2000 thì nhu cầu vốn đầu tư của toàn xã hội phải tăng gấp đôi vào thời kỳ 2001 và đến 2005, ước tính lên tới 90 đến 100 tỷ USD. Muốn đạt được lượng vốn FDI của giai đoạn năm 2001-2005 thì các dự án cấp Giấy phép đầu tư của 2 năm 1999-2000 phải gia tăng nhanh chóng vì đây là các dự án gối đầu cho kế hoạch 5 năm tới, và phải cần đến 5, 6 năm mới thực hiện xong vốn đầu tư. Đây là một nguồn vốn khổng lồ và là vấn đề cực kỳ nan giải trong tình hình hiện nay. Trong 2 năm 1999-2000 cần phải tạo ra sự chuyển biến về chất lượng trong thu hút và sử dụng FDI. 3.1.2. Bối cảnh tình hình liên quan đến FDI 3.1.2.1. Những thuận lợi cơ bản Tình hình kinh tế xã hội tiếp tục ổn định và phát triển. Kế thừa và phát huy những thành tựu đã đạt dược trong những năm đổi mới. Hội nghị Trung Ương IV đã đề ra được những chủ trương và chính sách mới về kinh tế, tạo động lực để phát triển nền kinh tế chung và đẩy mạnh FDI nói riêng. Nghị quyết đã khẳng định tư tưởng chỉ đạo trên cơ sở phát huy nội lực, thực hiện nhất quán lâu dài chính sách thu hút nguồn lực từ bên ngoài, đa dạng hoá hình thức thu hút vốn. Trong quý 1 năm 1998 thực hiện sự chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, các cơ quan Nhà nước đã khẩn trương nghiên cứu, trình Chính phủ ban hành nhiều văn bản quan trọng về đầu tư nước ngoài được cộng đồng quốc tế, các nhà đầu tư hoan nghênh như Nghị dịnh số 10/1998/NĐ-CP (23/01/98) Nghị định 08/1998/NĐ-CP về quy chế thành lập Hiệp hội Doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam. Lần đầu tiên Thủ tướng Chính phủ đã có cuộc gặp đối thoại trực tiếp với trên 800 doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam. Các Bộ, ngành đã thành lập các trung tâm hoặc đường dây nóng hoặc xử lý tháo gỡ kịp thời các khó khăn vướng mắc của các nhà đầu tư nước ngoài. Những biện pháp nêu trên cùng những biện pháp và những chuyển biến tích cực hơn của ngành Hải quan, Tài chính, Thương mại về thủ tục đầu tư đã từng bước lấy lại niềm tin trong cộng đồng các nhà đầu tư nước ngoài. Việc chuyển hướng FDI sang các nước Châu Âu, Bắc Mỹ dã bắt đàu có tác dụng, đặc biệt với việc Mỹ bỏ áp dụng điều luật bổ sung Jackson-Vanik đối với Việt Nam, Việt Nam và Mỹ ký hiệp dịnh cho phép OPIC hoạt động tại Việt Nam... sẽ tạo thuận lợi hơn cho việc thu hút FDI vào Việt Nam trong thời gian tới. 3.1.2.2. Những khó khăn * Về phía chủ quan : Theo dự đoán nền kinh tế Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn mới, tốc độ phát triển chững lại các nhà đầu tư nước ngoài lo ngại thời gian tới nền kinh tế Việt Nam không giữ ổn định như những năm qua, do đó có tâm trạng chờ đợi ngần ngại đầu tư vào Việt Nam vào thời điểm này, các dự án đã đàu tư cũng không triển khai và sản xuất cầm chừng. Các lĩnh vực đầu tư có sức hấp dẫn nhưng ở thời điểm này đã và đang bão hoà (như lĩnh vực khách sạn, văn phòng cho thuê, lắp ráp ô tô,...) Môi trường đầu tư nước ngoài ở Việt Nam còn nhiều rủi ro, chính sách, luật pháp hay thay đổi, độ hiểu biết và vận dụng không thống nhất thậm chí tuỳ tiện. Hệ thống tài chính ngân hàng còn yếu kém, có nhiều khoản nợ khó đòi của các doanh nghiệp nhà nước, không có khả năng cho các doanh nghiệp có vốn FDI và doanh nghiệp tư nhân vay vốn kinh doanh. Không kiểm soát được số lượng lớn tiền trôi nổi. Hàng loạt các vấn đề liên quan đến vấn đề thuế, xuất nhập khẩu, cân đối ngoại tệ còn nhièu vướng mắc, tệ quan liêu nói chung và việc triển khai các thủ tục sau giấy phép đầu tư nói riêng còn nặng nề và gây nhiều phiền hà, xử lý các sự việc phát sinh để tháo gỡ khó khăn cho các nhà đầu tư còn chậm chạp, không rõ đầu mối. * Về phía khách quan Cạnh tranh trong thu hút vốn FDI trên thế giới đặc biệt là giữa các nước đang phát triển tăng mạnh. Nguồn vốn FDI trên thế giới hàng năm khoảng 350 tỷ USD, trong đó khoảng 70% là đầu tư lẫn nhau giữa các nước phát triển, còn lại 30% là đầu tư vào các nước đang phát triển. Nhu cầu vốn đầu tư của các nước đang phát triển là rất lớn nên cạnh tranh giữa các nước này ngày càng trở nên gay gắt. Trong khu vực có nhiều thị trường thu hút vốn FDI lớn như Trung Quốc, ấn Độ và một số thị trường mới nổi như Malaysia, Mianma, Pakistan. Các nước này đều cải thiện ráo riết môi trường thu hút vốn FDI, trở thành những đối tác cạnh tranh mạnh mẽ với Việt Nam. Dòng vốn đầu tư FDI vào các nước đang phát triển trước đây phần lớn đổ vào khu vực Đông á và Đông Nam á nay lại có chiều hướng gia tăng đầu tư vào Mỹ La Tinh, Trung và Đông Âu, Nam Phi. Trước những biến động về khủng hoảng kinh tế khu vực, đầu tháng 4/1998, Chính phủ Nhật đã phát động tiến trình cải tổ tài chính, theo đó sẽ cho phép vốn liếng được tự do luân chuyển giữa trong và ngoài nước, mở cửa thị trường hối đoái, thả nổi giá cả dịch vụ tài chính, cho phép nước ngoài tự do cạnh tranh không phân biệt đối xử trên thị trường nội địa. Hàn Quốc cũng đã có chủ trương mở cửa, tự do hoá thị trường tài chính. Việc Nhật và Hàn Quốc quan tâm và mở cửa để thu hút FDI sẽ làm gia tăng mức cạnh tranh trên thị trường vốn FDI, đặc biệt là nguồn vốn FDI từ Mỹ và Tây Âu. Gần đây có chiều hướng các nhà đầu tư nước ngoài quay trở lại đầu tư vào các nước đang khủng hoảng để mua lại các doanh nghiệp bị phá sản hay làm ăn thua lỗ với giá rẻ tính theo USD, kể cả việc tranh thủ mua lại các doanh nghiệp thuộc những lĩnh vực trước đây còn đóng cửa đối với các nhà đầu tư nước ngoài để thâm nhập chiếm lĩnh thị trường. Khủng hoảng tài chính-tiền tệ trong khu vực đã có tác động ngày càng rõ nét đến hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, không chỉ làm suy giảm nguồn vốn FDI mà còn gây khó khăn cho các dự án đang triển khai. Biểu hiện trên các mặt sau: + Việc thu hút nguồn vốn FDI từ các nước trong khu vực bị giảm. + Hiện nay, đầu tư của các nước Châu á vào Việt Nam chiếm 70% tổng vốn đầu tư, trong đó các nước ASEAN chiếm 24,8%. Khủng hoảng kinh tế đã làm hàng loạt doanh nghiệp và ngân hàng phá sản, thua lỗ nên việc thu hút vốn cho vay vốn đầu tư vào Việt Nam bị khó khăn, lãi suất ngân hàng tăng. + Để khôi phục nền kinh tế và do bị ràng buộc bởi các điều kiện ngặt nghèo của IMF, các nước bị khủng hoảng trong khu vực có chính sách hạn chế chuyển vốn ra nước ngoài, dành vốn đầu tư trong nước. + Đầu tư ra nước ngoài cần phải có nguồn ngoại tệ mạnh. Nếu các nước bị khủng hoảng đầu tư sang Việt Nam bằng USD thì nhu cầu vốn đầu tư tăng 20%-30%, dự án khó khả thi . Do tỷ giá đồng VN lên giá so với các đồng trong khu vực, làm chi phí đầu tư ở VN đắt, tương tự như ở Malaysia hay Thái Lan. Lợi thế so sánh về giá lao động rẻ ở VN bị mất, trong khi điều kiện về cơ sở hạ tầng về đội ngũ lao động có tay nghề ,công nghệ và kỹ thuật, của các nước tốt hơn VN. + Do khủng hoảng kinh tế mức sống trong các nước khu vực giảm sút, nên việc đi du lịch, tìm hiểu cơ hội đầu tư nước ngoài giảm rõ rệt. Các dự án được cấp giấy phép triển khai chậm.Nhiều dự án xin dừng hoặc giãn tiến độ triển khai xây dựng do các nguyên nhân sau: + Công ty mẹ bị phá sản hoặc mất khả năng thanh toán. + Các ngân hàng bị phá sản không có khả năng cho vay, một số ngân hàng khác không cho vay vốn vì khả năng thu hồi vốn khó, hiệu quả thấp. + Sức tiêu thụ của thị trường VN giảm, sức mua thấp cùng với tình hình làm ăn thua lỗ, gặp khó khăn của gần 2/3 số doanh nghiệp nước ngoài đang kinh doanh ở VN làm cho các nhà ĐTNN ngần ngại bỏ tiếp vốn vào các công trình mà đầu ra không có gì sáng sủa. Các dự án triển khai gặp nhiều khó khăn vì doanh nghiệp bị thua lỗ do tác động của khủng hoảng tài chính khu vực. + Các dự án sản xuất hàng xuất khẩu đang phải sản xuất cầm chừng vì phần lới xuất khẩu sang thị trường khu vực như Nhật, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Singapore.. . mà các thị trường này đang bị thu hẹp do các cuộc khủng hoảng trong khi khả năng cạnh tranh của hàng hóa VN ở các thị trường bị giảm sút. + Các dự án sản xuất hàng thay thế nhập khẩu ở VN gặp khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm vì sức mua thị trường trong nước giảm. Do tỷ giá đồng VN so với USD bị sụt giá khoảng 10% làm các chi phí đầu vào tăng, nguyên liệu sản xuất nhập bằng USD nhưng sản phẩm bán thu bằng tiền VN, do đó nhiều doanh nghiệp bị thua lỗ lớn, càng mở rộng sản xuất lỗ càng lớn. + Nhiều doanh nghiệp lo ngại về triển vọng kinh tế ở VN trong thời gian tới và biến động tỷ giá hối đoái thời gian tới nên sản xuất cầm chừng + Việc Hồng Kông về Trung Quốc và chiến lược chính trị đối ngoại mới của Trung Quốc đối với Đài Loan đã thu hút mạnh mẽ vốn FDI của hai đối tác này, làm cho hai đối tác này đứng vị trí nhất nhì trong các nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Trung Quốc Theo đánh giá của Hội Nghị thượng đỉnh Âu- á ( ASEM II) đầu tháng 4/1998, kinh tế Nhật Bản đang bị đình trệ ở mức chưa từng thấy từ 25 năm qua, đồng Yên sụt giá nhanh chóng ở mức kỷ lục từ 7 năm trỏ lại đây đã làm cho kinh tế Nhật Bản đứng trước bờ vực thẳm, có nguy có gây hậu quả dây chuyền trong khu vực. Tình hình trên không chỉ làm cho ĐTTT ra nước ngoài của Nhật suy giảm, làm tăng thêm nhu cầu đầu tư trong nước mà còn làm giảm khả năng tài trợ vốn cho các dự án FDI đang triển khai ở nước ngoài. Ngoài ra, theo Thủ tướng Nhật, cuộc cách mạng tài chính đang bắt đầu triển khai sẽ làm chấn động nước Nhật, với cái giá phải trả là hàng trăm công ty, ngân hàng bảo hiểm.. . sẽ bị đổ vỡ, phá sản. Điều đó cũng làm cho xu hướng đầu tư của Nhật vào VN thời gian tới sẽ tiếp tục giảm sút. 3.2. Các giải pháp hoàn thiện công tác quản lý Nhà nước để thúc đẩy ĐTNN trong thời gian tới 3.2.1. Thống nhất quan điểm nhận thức chung về FDI : Cần thống nhất quan điểm nhận thức chung về FDI, đặc biệt là sự cần thiết, vai trò của FDI đối với nền kinh tế Việt Nam, mối quan hệ giữa phát huy nội lực và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, quan hệ giữa thu hút vốn FDI và bảo vệ độc lập, chủ quyền an ninh xã hội... Chỉ trên cơ sở thống nhất các quan điểm cơ bản mới tạo nên sự ổn định nhất quán trong xây dựng luật pháp, cơ sở chủ đạo điều hành hoạt động FDI. 3.2.2. Đa dạng hoá các hình thức thu hút vốn nước ngoài Nghiên cứu đa dạng hoá các hình thức thu hút vốn ĐTNN với các bước đi và điều kiện thích hợp nhằm mở thêm các kênh mới thu hút nguồn vốn nước ngoài. - Thí điểm việc cho các nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của các nhà đầu tư trong nước hoặc cùng với doanh nghiệp trong nước thành lập công ty cổ phần với tỷ lệ cổ phần khống chế nhất định. - Nghiên cưú và sửa đổi cơ chế cho phép doanh nghiệp có vốn ĐTNN phát hành cổ phiếu, trái phiếu để thu hút vốn, mở rộng quy mô đầu tư. - Sớm ban hành các quy định về cầm cố, thế chấp, bảo lãnh để đẩy nhanh việc giải ngân vốn vay của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, có quy định cụ thể về hoạtt động của các quỹ đầu tư. 3.2.3. Hoàn thiện luật pháp, chính sách 3.2.3.1. Tạo cơ sở pháp lý cho việc tiến tới xây dựng một Luật đầu tư chung - Hoàn chỉnh hệ thống pháp lý chung về kinh tế tạo lập môi trường kinh doanh hoàn thiện, sớm ban hành các Luật về Ngân hàng, Hải quan, Luật cạnh tranh và chống độc quyền... - Nghiên cứu xoá bỏ dần sự phân biệt về chính sách đầu tư có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ giữa các nhà đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, tiến tới thực hiện chính sách thống nhất giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Trước mắt rà soát lại tất cả các loại dịch vụ, lệ phí để có sự điều chỉnh hợp lý để thu hẹp khoảng cách giữa giá trong nước và giá ngoài nước, giữa giá đối với nhà đầu tư trong nước và các nhà đầu tư nước ngoài. 3.2.3.2. Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung luật pháp, chính sách thủ tục tạo thuận lợi cho hoạt động FDI - Nghiên cứu ban hành các văn bản pháp luật cho phép tư nhân đầu tư. Trước mắt thí điểm cho phép các nhà đầu tư trong nước sau khi được giao đất có quyền góp vốn. - Nghiên cứu trình Quốc hội xem xét, điều chỉnh các quy định về thuế như: Thuế thu nhập cao, thuế chuyển lợi tức về nước, xây dựng chính sách thuế khuyến khích nội địa hoá và đẩy mạnh sản xuất ở Việt Nam. - Rà soát và hệ thống hoá toàn bộ các văn bản pháp luật liên quan đến ĐTNN làm cơ sở mạnh và tuyên truyền luật pháp, chính sách sâu rộng cho các doanh nghiệp ở các địa bàn vận động đầu tư, đồng thời phát hiện những mâu thuẫn chồng chéo để điều chỉnh kịp thời, bãi bỏ những quy định không cần thiết đẻ ra các thủ tục phiền hà cản trở các hoạt động đầu tư. 3.2.4. Cải cách thủ tục hành chính Việc thay đổi liên tục mô hình tổ chức quản lý như trên là những tìm tòi ra mô hình tối ưu và phù hợp nhất với hệ thống quản lý hiện nay trong tiến trình thực hiện cải cách hành chính. Tuy nhiên hầu như mọi thứ liên quan đến vấn đề triển khai hoạt động của dự án đều được phó mặc theo kiểu khoán trắng, gắn với trách nhiệm của cơ quan quản lý về đầu tư làm cho cơ quan này vừa quá tải bởi gánh nặng trách nhiệm nhưng hiệu quả xỷ lý lại thấp, không nắm vững và theo sát được diễn biến triển khai của dự án, trong khi các cơ quan chức năng khác lại không thực hiện đúng nhiệm vụ của mình, hoặc là bàng quang đứng ngoài cuộc. Về vấn đề này, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII đã nhấn mạnh: “Xây dựng quy chế và xác định rõ trách nhiệm của cơ quan hành chính các cấp trong việc kiểm tra thực hiện các dự án đã được cấp phép, giải quyết các trở ngại đối với việc thực hiện dự án, kiểm soát các doanh nghiệp đã đi vào hoạt động”. Đứng trước tình hình trên, ta thấy, trong những năm tới để mô hình tổ chức quản lý đầu tư trực tiếp phù hợp với tiến trình cải cách hành chính cần phải thực hiện theo các hướng: - ở Trung ương, ổn định bộ máy tổ chức của cơ quan được giao nhiệm vụ làm đầu mối giúp Chính phủ thực hiện quản lý Nhà nước về đầu tư nước ngoài. Cơ quan này cần tập trung vào hoạch định chính sách thu hút vốn phù hợp với tình hình thực tiễn từng giai đoạn, kiến nghị các ưu đãi dành cho nhà đầu tư, phân tích đánh giá hiệu quả hoạt động đầu tư trực tiếp để kịp thời có những điều chỉnh, bổ sung các quy định hiện hành hoặc ban hành các quy định mới để hướng hoạt động đầu tư đúng mục tiêu đã định. Cơ quan này có một chức năng rất quan trọng là giám sát, kiểm tra hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. - Đặc biệt quan tâm đến phương thức tổ chức thực hiện hoạt động quản lý. Trong điều kiện cụ thể hiện nay, khi số lượng dự án ngày càng gia tăng, số vốn thu hút càng lớn. Theo logic quản lý Nhà nước hiện nay, doanh nghiệp có vốn đầu tư tương tự như các doanh nghiệp Nhà nước, đồng thời phải chịu sự quản lý của nhiều cơ quan theo ngành kinh tế kỹ thuật và theo địa bàn. Kinh nghiệm chỉ cho chúng ta là thời gian đã có lúc quan niệm rất đơn giảm về vấn đề này. Về ý tưởng, về chủ trương, tập trung mọi vấn đề liên quan đến đầu tư trực tiếp thông qua duy nhất một cơ quan giải quyết. Không buộc các nhà đầu tư phải suy nghĩ với quá nhiều đầu mối trong một quy trình cực kỳ phức tạp là điều lý tưởng nhưng chỉ có thể được thực hiện với một cơ quan tập trung nhiều quyền lực và được sự ủng hộ tạo điều kiện của các cơ quan khác. ở Việt Nam, việc đó không thể làm được trong tình hình chúng ta còn duy trì bộ máy quản lý Nhà nước chia nhỏ theo nhiều lĩnh vực như hiện nay. Nhưng chúng ta có thể làm được thực hiện những cơ chế này ở riêng từng khâu của dự án, điều mà chúng ta đã làm, hiện đang làm cần triệt để hơn. - Để hỗ trợ đắc lực cho cơ quan Trung ương làm đầu mối giúp Chính phủ thực hiện được quản lý Nhà nước, cần gấp rút hoàn thành và củng cố hệ thống các cơ quan đầu mối, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh ở các địa phưong thực hiện chức năng quản lý đầu tư nước ngoài trên địa bàn lãnh thổ. Các cơ quan này cần được chỉ đạo theo cơ chế song trùng, chiều ngang trực thuộc quản lý trực tiếp của UBND cấp tỉnh, chịu trách nhiệm trước UBND về mọi hoạt động liên quan đến đầu tư diễn ra trên địa bàn, đồng thời chiều dọc chịu sự hướng dẫn về nghiệp vụ của cơ quan quản lý Nhà nước ở TW, có trách nhiệm duy trì chế độ báo cáo hoạt động với cơ quan này. Về lâu dài cần nghiên cứu để thành lập hệ thống cơ quan một số địa bàn quan trọng. Các cơ quan này chịu sự chỉ đạo song trùng, chỉ có điều mối quan hệ với các cơ quan quản lý Nhà nước thuộc chi nhánh trực thuộc cơ quan quản lý Nhà nước nằm ở TW. Thực hiện được việc này tức là đảm bảo được nguyên tắc vừa tập trung vừa dân chủ. Các nước Inđonesia, Thái Lan ... đã áp dụng mô hình này một cách thành công trong nhiều năm qua và hiện nay vẫn duy trì. 3.2.5. Nâng cao hiệu quả quản lý và năng lực điều hành hoạt động FDI 3.2.5.1. Đổi mới công tác vận động xúc tiến đầu tư Đẩy mạnh vận động đầu tư một cách chủ động theo các chương trình, dự án trọng điểm, hướng mạnh vào các đối tác Châu Âu, Bắc Âu, Bắc Mỹ, Nga, chú trọng vào các tập đoàn có tiềm lực về vốn và công nghệ. Phối hợp chặt chẽ giữa Bộ Ngoại giao, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Thương Mại để thương xuyên trao đổi thông tin, tiến hành các hoạt động xúc tiến đầu tư và thương mại từ bên ngoài vào thông qua các cơ quan đại diện ngoại giao và thương mại ở nước ngoài để nâng cao hiệu quả và đảm bảo tiết kiệm. Tranh thủ hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau với các tổ chức xúc tiến đầu tư quốc tế, trước hết là hợp tác trong khuôn khổ của ASEAN, APEC, hợp tác ASEAN - Âu, hợp tác cơ quan xúc tiến đầu tư của Nhật, Mỹ, các nước EU và các tổ chức quốc tế khác. Tạo điều kiện thuận lợi cho việc thành lập Hiệp hội hoặc câu lạc bộ các doanh nghiệp có vốn FDI tại Việt Nam, tăng cường phối hợp với các cơ quan xúc tiến đầu tư thương mại ở Việt Nam để giới thiệu luật pháp, chính sách, quảng cáo các chương trình, dự án đầu tư. Tổ chức định kỳ các cuộc gặp gỡ cộng đồng đầu tư nước ngoài tại Việt Nam để tìm hiểu tình hình, tháo gỡ khó khăn và hỗ trợ cho các doanh nghiệp FDI đang đầu tư tại Việt Nam. 3.2.5.2. Nâng cao chất lượng quy hoạch, kế hoạch liên quan quan đến FDI Xây dựng qui hoạch ngành và các sản phẩm chủ yếu để xác định rõ phạm vi về hoạt động của FDI và của cơ sở đầu tư trong nước làm cơ sở cho việc định kỳ công bố các danh mục dự án kêu gọi đầu tư đăặc biệt là các ngành như điện, điện tử, xi măng, sắt thép, rượu bia, nước giải khát, sữa, chất tẩy rửa .... Nghiên cứu đánh giá để có quy hoạch phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất, đặc khu kinh tế mang tính khả thi, phù hợp với qui hoạch phát triển kinh tế xã hội của địa phương và vùng lãnh thổ và quy hoạch phát triển ngành kinh tế kỹ thuật. Trước mắt tập trung vào các giải pháp xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - kỹ thuật - xã hội và thu hút đầu tư để lấp đầy các khu công nghiệp đã phê duyệt. 3.2.5.3. Xử lý kịp thời những vướng mắc của các nhà đầu tư để thúc đẩy nhanh quá trình xem xét cấp giấy phép đầu tư và quá trình triển khai các dự án. Nghiên cứu xác lập các chủ trương rõ ràng về các vấn đề có tính nguyên tắc làm cơ sở cho việc xử lý đúng đắn các trường hợp cụ thể như các vấn đề : bảo hộ sản xuất trong nước, các lĩnh vực trong nước tự làm, về tư nhân hợp tác với nước ngoài, về nợ của các khu vực FDI, về sử dụng các thiết bị máy móc đã qua sử dụng, về hình thức 100% vốn nước ngoài và tỷ lệ góp vốn của Việt Nam trong các liên doanh. Việc bảo hộ trong nước phải được đặt trong bối cảnh Việt Nam tham gia vào ASEAN, AFTA và chuẩn bị tham gia vào WTO nghĩa là sẽ phải chấp nhận cạnh tranh ác liệt do xu thế tự do hóa đầu tư và thương mại mang đến. Do đó, bảo hộ sản xuất không chỉ bảo hộ riêng cho doanh nghiệp VN mà cả doanh nghiệp FDI trên lãnh thổ Việt Nam và nó là bộ phận hữu cơ của nền kinh tế Việt Nam, là pháp nhân Việt Nam, không chỉ bảo hộ cho người sản xuất mà phải bảo vệ cả quyền lợi cho người tiêu dùng đước quyền sử dụng các sản phẩm có chất lượng cao, giá cả hợp lý. Bảo hộ sản xuất phải có điều kiện và có thời gian để doanh nghiệp có điều kiện đổi mới công nghệ thiết bị nhằm tạo ra sản phẩm có chất lượng cao, giá rẻ hơn giá nhập khẩu, không bảo hộ những cung cách làm ăn không hiệu quả, lạc hậu, cản bước tiến của công nghiệp hóa hiện đại hóa. Rà soát lại tất cả các danh mục, các dự án đang chuẩn bị đầu tư để xử lý các vướng mắc, thúc đẩy dự án sớm hoàn thiện hồ sơ cấp giấy phép như các dự án xây dựng nhà máy điện Quảng ninh, Phú Mỹ 2-2, nhà máy điện Sóc Trăng ..., sản xuất Methanol, nhựa đường, xi măng, các hợp đồng viễn thông, các nhà máy cấp nước ở Hà Nội, TP HCM, các dự án của Daewoo, Mitsui ... Phần lớn các dự án này vướng mắc về giá cả của các yếu tố đầu vào và đầu ra của dự án, liên quan đến những doanh nghiệp của VN. Nguyên tắc xử lý chung phải đứng trên lợi ích tổng thể của quốc gia, hiệu quả đích thực của dự án để điều hòa lợi ích giữa các đối tác tham gia dự án. Đặt trọng tâm của công tác quản lý FDI vào tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc của các dự án đang triển khai ở VN. Nghiên cứu đề xuất các biện pháp miễn giảm thuế và các hỗ trợ khác để các doanh nghiệp FDI vượt qua tình trạng khó khăn, chấp nhận các donh nghiệp giãn tiến độ, nợ thuế. Xử lý sớm các dự án đang gặp khó khăn trong quá trình thực hiện như công ty liên doanh Coca - Cola, công ty nước giải khát quốc tế IBC, cảng quốc tế Vũng Tàu, công ty xi măng Hà Phòng... Rà soát củng cố lại các công cụ tài chính kế toán để tăng cường hoạt động giám sát tài chính doanh nghiệp FDI nhằm khắc phục các cơ sở gây thiệt hại đến lợi ích ở VN. 3.2.5.4. Tăng cường quản lý Nhà nước với hoạt động FDI Nâng cao hiệu quả và hiệu lực quản lý Nhà nước đối với hoạt động FDI trên cơ sở tổ chức hợp lý hóa từ TW đến địa phương, mạnh dạn phân cấp, ủy quyền cho các địa phương trong việc quản lý hoạt động của các doanh nghiệp có vốn FDI trên điạ bàn để đơn giản hóa thủ tục, xử lý kịp thời các vấn đề phát sinh. Rà soát và cải tiến mạnh mẽ hơn nữa tất cả các thủ tục liên quan đến ĐTNN theo hướng tinh giảm đầu mối, công khai quy định thời hạn và người có trách nhiệm xử lý. 3.2.6. Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ Sự nghiệp ĐTNN là sự nghiệp mới mẻ của toàn Đảng, toàn dân. Hầu hết các cán bộ đang tham gia hoạt động ĐTTT dù tại các cơ quan quản lý hay trực tiếp trong các doanh nghiệp có vốn FDI của nước ngoài đều còn rất bỡ ngỡ với các công tác này. Để góp phần làm cho hoạt động đầu tư của cả nước đạt được một số kết quả đáng khích lệ như ngày hôm nay, đội ngũ này đã lấy nhiệt tình với bản lĩnh công tác đã được hun đúc và tạo lập trong quá trình trước đây, vừa làm vừa học, để bù đắp cho những kiến thức đầu tư. Quá trình tự đào tạo một số đã vươn lên đáp ứng đước yêu cầu của công ty mới. Tuy nhiên so dự gia tăng về quy mô về tính phức tạp của hoạt động đầu tu, do yêu cầu phải quản lý hữu hiệu vốn ĐTTT ở cấp vĩ mô, đội ngũ này phải được đào tạo lại, trang bị thêm những kiến thức về kinh tế, chính trị để bắt kịp với yêu cầu của thời đại, vừa tinh thông về chuyên môn, vừa vững vàng về phẩm chất. Bên cạnh đó phải tính đến việc đào tạo một cách có bài bản, đào tạo chính quy cho lực lượng kế tục. Do đó, trong những năm tới cần khẩn trương tiến hành những giải pháp sau : - Tổ chức bồi dưỡng nâng cao trình độ về luật pháp, chính sách, chuyên môn đối với cán bộ làm hợp tác đầu tư với nước ngoài. - Thí điểm hình thức thi tuyển hoặc có cơ chế bổ nhiệm các chức vụ quan trọng trongliên doanh. Rà soát để sàng lọc để nâng cao chất lượng cán bộ. - Phối hợp với Bộ Lao động thương binh và xã hội và các doanh nghiệp nước ngoài tổ chức tốt việc nâng cao tay nghề cho người lao động. Kết luận Trong 10 năm qua, đầu tư nước ngoài đã đạt được thành tựu rất đáng khích lệ, đóng góp có ý nghĩa vào thành tựu chung của nền kinh tế Việt Nam. Bên cạnh các thành tựu đạt được do nỗ lực từ hai phía Chính phủ và các doanh nghiệp, còn nhiều vấn đề, nhiều khó khăn phải giải quyết, không phải chỉ ở phía Chính phủ, mà đòi hỏi các doanh nghiệp nước ngoài cũng phải thể hiện thiện chí để thực hiện cam kết khi vào đầu tư và kinh doanh ở Việt Nam. Trong bối cảnh cuộc khủng hoảng Tài chính - Tiền tệ trong khu vực hiện nay, Chính phủ Việt Nam hiểu rõ phải tiếp tục hoàn thiện môi trường đầu tư, nâng cao sức cạnh tranh của thị trường đầu tư ở Việt Nam. Với thiện chí, quyết tâm của mình, Chính phủ Việt Nam sẽ làm tất cả những gì làm được để đảm bảo sự phát triển của đất nước. Trong đó có sự phát triển, thành đạt của các công ty nước ngoài đã đến đầu tư và kinh doanh ở Việt Nam. Việt Nam có câu tục ngữ "đất lành chim đậu", chúng ta mong rằng các nhà ĐTNN sẽ cùng chúng ta vun xới cho mảnh đất Việt Nam thêm tốt lành, là nơi đậu an toàn cho các đàn chim từ khắp bốn biển 5 châu. Và chính vì vậy chúng ta ngày càng phải hoàn thiện hơn hoạt động quản lý Nhà nước đối với ĐTNN để tăng thêm sức hấp dẫn với các nhà ĐTNN. Tài liệu tham khảo 1. Giáo trình Đầu tư nước ngoài - Đại học Ngoại thương - Hà Nội 2. Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Luật ĐTNN -Vụ PL ĐTNN 3. Báo cáo "Tình hình và phương hướng đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam" - Bộ Kế hoạch và Đầu tư 4. Một số ý kiến về tình hình Đầu tư của Bộ Kế hoạch và Đầu tư 5. Tập hợp các tài liệu liên quan đến buổi gặp của Thủ tướng Chính phủ với đại diện của một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ngày 4/2/1998 - Bộ Kế hoạch và Đầu tư 6. Nghị định 12/CP, Nghị định 10/CP - Bộ Kế hoạch và Đầu tư 7. Luật Đầu tư nước ngoài mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc3475.doc
Tài liệu liên quan