Từ những thực tiễn và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với các chương trình dự án sử dụng vốn ODA. Em xin mạnh dạn đưa ra một số những kiến nghị như sau:
Thứ nhất: Nguồn vốn ODA là nguồn vốn chủ yếu phục vụ xây dựng cơ bản và hỗ trợ ngân sách, do đó cần chú ý, đẩy nhanh việc thoả thuận với bên tài trợ nhằm giải ngân nhanh các nguồn vốn đã được cam kết. Việc giải ngân nhanh một số nguồn vốn của các dự án ODA có ý nghĩa quan trọng trong việc đẩy nhanh việc tăng thu ngân sách, giải quyết tốt hơn các vấn đề thuộc cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội đồng thời tiếp tục khẳng định với các nhà tài trợ về tính hiện thực trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam.
Thứ hai: Cần có cách tiếp cận tổng hợp theo ngành hoặc theo chương trình dự án đối với nhu cầu về ODA.
Gần đây các nhà tài trợ có xu hướng tập trung hơn cả về lĩnh vực tài trợ cũng như vùng địa lý và trên cùng một địa bàn lãnh thổ có nhiều nhà tài trợ cùng hoạt động. Tình hình nói trên có mặt tích cực là tập trung được ngồn lực ở trong và ngoài nước để hỗ trợ một cách tổng hợp có hiệu quả cho sự phát triển của một lĩnh vực cụ thể, song bên cạnh đó cũng gây tình trạng trùng lặp các khoản viện trợ, gây lãng phí nguồn lực của Chính phủ cũng như của nhà tài trợ. Giải pháp để khắc phục tình trạng này là cần thay đổi cách tiếp cận đối với các nhu cầu ODA riêng lẻ, chuyển sang hỗ trợ một cách tổng hợp dựa trên các quy hoạch hoặc chương trình phát triển ngành, từ đó sẽ thúc đẩy quy hoạch của Chính phủ trong thời gian tới sẽ góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với các chương trình dự án ODA.
29 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1546 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoạt động thu hút vốn viện trợ nước ngoài và vai trò của nó đối với tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
úng đắn về thu hút ODA và tạo ra một môi trường pháp lí phù hợp, chính phủ Việt Nam chứng tỏ được vai trò quản lí nhà nước của mình trước cộng đồng các nhà tài trợ. Điều này được thể hiện ở chỗ :
1. Về môi trường pháp lí :
Trong thời gian qua bắt đầu tư năm 1993, năm có sự kiện đánh dấu Việt Nam chính thức nối lại quan hệ với cộng đồng tài trợ quốc tế thông qua hội nghị các nhà tài trợ dành cho Việt Nam ( hội nghị Pari 1993), nhằm tạo điều kiện cho việc thu hút, quản lí và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức tại Việt Nam, chính phủ đã không ngừng hoàn thiện khung pháp lí cho việc quản lí nguồn vốn này. Bắt đầu từ nghị định 20/CP ban hành năm 1994, tiếp đó là nghị định 87/CP năm 1997 và hiện nay là nghị định 17/2001/NĐ-CP ban hành năm 2001, chính phủ đã 3 lần ban hành các văn bản khung pháp lí cao nhất cho hoạt động thu hút, quản lí và sử dụng nguồn vốn quan trọng này. Đây cũng chính là 3 lần khuôn khổ pháp lí cơ bản cho hoạt động quản lí nhà nước về nguồn vốn ODA được bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện cho phù hợp với điều kiện biến đổi của thực tế tiếp nhận và quản lí nguồn vốn ODA.
Xét riêng về nghị định sỗ 17/2001/NĐ-CP, đây là văn bản được cộng đồng tài trợ quốc tế đón nhận và ủng hộ mạnh mẽ nhất từ trước đến nay. Sự tiến bộ của nghị định 17 thông qua vieec khác phục các điểm yếu của các văn bản trước đó và bổ sung các điểm mới phản ánh các nguyên tắc, quan điểm hiện đại trong quản lí và tiếp nhận nguồn vốn này như: công khai, minh bạch, tinh thần làm chủ, quan hệ đối tác và hài hòa thủ tục đã đánh dấu 1 bước phát triển về chất so với các văn bản khung trước đây về việc thu hút, quản lí và sử dụng ODA.
Bên cạnh văn bản khung này chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản pháp quy khác nhằm quản lí và hỗ trợ hoạt động quản lí nhà nước ở các khía canh khác nhau trong lĩnh vực sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức. Trong số này có các van bản về quy trình rút vốn ODA, thuế giá trị gia tăng, quy chế chuyên gia nước ngoài áp dụng đối với các dự án sử dụng vốn ODA.
Ngoài ra, do ODA được coi là một nguồn vốn của ngân sách nhà nước,việc sử dụng nguồn vốn ODA cũng phải tuân theo các quy định chung của nhà nước Việt Nam đấu thầu và quản lí đầu tư và xây dựng trong trường hợp các quy định này không trái với các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập.
2. Các hoạt động hỗ trợ trong công tác quẩn lý nhà nước về ODA
Song song với việc kiện toàn về mặt pháp lí,chính phủ Việt Nam cũng đã tiến hành một loạt các hoạt động tích cực, góp phần hỗ trợ công tác quản lý ODA như:
Chính phủ đã có sự phối hợp với các nhà tài trợ tổ chức hội nghị liên quan đến thể chế ODA,các hội nghị kiểm điểm tình hình thực hiện các dự ấn đầu tư sử dụng ODA.Sau hội nghị lầ thứ nhất về quản lý các dự án đầu tư sử dụng vốn ODA nhằm xác định và tháo gỡ các vấn đề vướng mắc trong quá trình thực hiện chương trình dự án ODA tổ chức tại Đồ Sơn, hải phòng ngày 12-tháng 4-2000; tiếp đó ngày 31-8-2001, hội nghị lần thứ hai với nội dung trdax được tổ chức tại Hà Nội nhằm cập nhập và đánh giá tình hình thực hiện các biện pháp đã đề ra để cải tiến quá trình thực hiện vốn ODA.
Nguyên tắc và nội dung của việc phân cấp trong quản lý nguồn vốn ODA ở mọi ngành ,mọi cấp từ TƯ đến địa phương đã được xác định rõ ràng hơn về quyền hạn và trách nhiệm của từng đưn vị tham gia.
- Chính phủ chỉ đạo kịp thời và cụ thể việc thu hút và sử dụng ODA,như đảm bảo vốn đối ứng,vấn đè thuế VAT đối với các chương trình, dự án ODA,nhờ vậy nhiều vướng mắc trong quá trình thực hiện các chương trình ,dự án ODA đã được tháo gỡ.Công tác theo dõi và đánh giá dự án ODA được quan tâm.bộ kế hoạch và đầu tư đã phối hợp với các cơ quan liên quan theo dõi chặt chẽ tình hình thực hiện các dự án ODA,đặc biệt là đối với khoảng 40 dự án ODA có qui mô lớn,nhằm giải quyết kịp thời những khó khăn gây nên sự chậm trễ trong quá trình thực hiện dự án.
- Hệ thống thông tin về ODA đang từng bước hình thành theo hướng chuẩn hóa phục vụ cho công tác phân tích và đánh giá dự án.Theo tinh thần NĐ 17/2001/CP, mỗi cơ quan quản lý, thực hiện các chương trình dự án ODA từ TƯ đến địa phương sẽ phải thành lập đơn vị chuyên trách về theo dõi và đánh giá dự án. Tuy nhiên công tác này mới được triền khai ở một số cơ quan tổng hợp và quản lý dự án, chưa phát triển thành một hệ thống thông tin bao quát được toàn bộ hoạt động tiếp nhận và sử dụng ODA ở Việt Nam.
- Năng lực thực hiện và quản lý các chương trình,dự án ODA đã có các tiến bộ. Bằng nhiều hình thức đào tạo khác nhau và qua thực tế thực hiện dự án, nhiều cán bộ của Việt Nam từ cấp cơ quan quản lý vĩ mô tới các ban quản lý dự án đã làm quen và tích lũy được kinh nghiệm thực hiện và quản lý nguồn vốn ODA.
- Công tác điều phối cũng ngày càng tiến bộ. Để định hướng vào việc thu hút và sử dụng ODA tập trung cho các mục tiêu phát triển ưu tiên của chính phủ, ngoài chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 10 năm 2001-2010, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 1996-2000, chính phủ đã xây dựng các chương trình đầu tư công cộng (PIP), quy hoạch tông thể phát triển công nghiệp và kết cấu hạ tầng thời kì 1996-2010, quy hoạch thu hút và sử dụng ODA phục vụ kế hoạch phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 1996-2000 và định hướng tới năm 2010 và quan trọng gần đây nhất là thực hiện chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo (CPRGS). Hiện nay, một số nhà tài trợ đã bày tỏ mong muốn được coi đây là cơ sở để kế hoạch hóa việc sử dụng nguồn vốn tài trợ của mình liên quan tới xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam.
Tuy vậy công tác quản lý và sử dụng ODA ở Việt Nam còn có những mặt yếu kém và đứng trước những khó khăn, thách thức, nhất là các khâu chuẩn bị, tổ chức thực hiện, theo dõi và đánh giá dự án. Để cải thiện tình hình ở các khâu yếu nói trên, trong thời gian tới chính phủ dự kiến triển khai các công tác sau:
- Sớm xúc tiến xây dựng để trình ban hành một nghị định mới về tái định cư và giải phóng mặt bằng, nhằm giải quyết cơ bản những vướng mắc về vấn đề này đối với các dự án ODA có xây dựng cơ bản.
- Ban hành Thông tư liên tịch Bộ kế hoạch và đầu tư – Bộ tài chính hướng dẫn thực hiện nghị định 17/2001/NĐ-CP ngày 4/5/2001 về những nội dung liên quan tới tài chính của các chương trình, dự án ODA.
- Chính phủ Việt Nam mong muốn tiếp tục tiến trình làm hài hòa thủ tục tiếp nhận và thực hiện các chương trình, dự án ODA giữa Việt Nam và các nhà tài trợ.Năm vừa qua, nhóm 6 nhà tài trợ song phương châu Âu bao gồm Hà Lan, vương quốc Anh, Na Uy, Thụy Điển, Thụy Sĩ và Phần Lan đã có sáng kiến nghiên cứu và hài hòa thủ tục giữa các nước này với thủ tục của chính phủ Việt Nam. Bên cạnh đó, ngân hàng thế giới (WB), ngân hàng phát triển châu á (ADB) và JBIC đã và đang làm việc với chính phủ Việt Nam về hài hòa thủ tục nhằm mục đích tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình thực hiện dự án. Trên cơ sở mong muốn tăng cường hiệu quả sử dụng nguồn vốn ODA, giảm bớt các chi phí giao dịch trong việc thực hiện nguồn vốn này cũng như làm giảm nhẹ gánh nặng hành chính cho chính phủ nước tiếp nhận chính phủ, hài hòa thủ tục trong thời gian gần đây đã thu hút sự quan tâm ngày càng lớn của các nhà tài trợ ở Việt Nam.
- Kiện toàn hệ thống theo dõi và đánh giá dự án từ các bộ, ngành TƯ tới địa phương nhằm thúc đẩy quá trình thực hiện và sử dụng hiệu quả nguồn vốn ODA, đưa công nghệ thông tin vào phục vụ công tác quản lý và theo dõi dự án. Trước mắt, trong khuôn khổ dự án hỗ trợ kĩ thuật: ”Tăng cương năng lực theo dõi và đánh giá dự án Việt Nam-Oxtrâylia” do Oxtrâylia tài trợ sẽ hình thành hệ thống thông tin quản lý (MIS) cấp quốc gia và sẽ triển khai thí điểm tại một số bộ và địa phương trong việc thu nhập và đánh giá các thông tin theo dõi dự án.
Chính phủ tin tưởng rằng với sự hợp tác chặt chẽ giữa chính phủ và các nhà hợp tác tài trợ sẽ tiếp tục được củng cố và phát triển nhằm thực hiện được mục tiêu chung, cải thiện và nâng cao hiệu quả và chất lượng sử dụng ODA phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội và đấu tranh chống lại đói nghèo ở Việt Nam.
III. THỰC TRẠNG CỦA VIỆN TRỢ VÀO VIỆT NAM THỜI GIAN QUA:
1.Tình hình thu hút vốn
Năm 1993 Việt Nam chính thức nối lại quan hệ vay mượn với cộng đồng các nhà tài trợ ODA song phương (chính phủ các nước) và đa phương (ADB,WB…) sau nhiều năm gián đoạn. Từ đó đến nay Việt Nam đã nhận được sự ủng hộ tích cực của cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế đối với công cuộc phát triển kinh tế xã hội. Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA đóng vai trò quan trọng, góp phần giúp Việt Nam đạt được tăng trưởng kinh tế, xóa đói giảm nghèo, cải thiện đời sống nhân dân.
Trong bối cảnh tình hình hiện nay khi nguồn ODA có khả năng gia tăng trong khi nhu cầu phát triển đòi hỏi nguồn lực này rất lớn, chính phủ Việt Nam cam kết hợp tác chặt chẽ với các nhà tài trợ nâng cao hiệu quả sử dụng ODA.
Tính đến năm 2001 Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ quan hệ hợp tác với 25 nhà tài trợ song phương: Nhật bản, Canada, Phần Lan, Hà Lan… 19 đối tác đa phương: Italy, Bỉ, úc… và hơn 350 tổ chức phi chính phủ nước ngoài (NGO). Giai đoạn 1993-2005 tổng số vốn cam kết mà các nhà tài trợ dành cho Việt Nam là 32,49 tỷ USD, năm sau cao hơn năm trước và luôn luôn tạo ra những “kỉ lục”, chẳng hạn: cam kết ODA 2005 đạt 3,4 tỷ là kỉ lục từ trước tới năm 2004; cam kết ODA 2006 đạt 3,74 tỷ USD cũng là con số kỉ lục từ trước tới năm 2005… Tuy nhiên trong 2 năm 1997-1998 con số “kỉ lục” lại đi theo chiều ngược lại- âm. Nhưng đây mới chỉ là con số cam kết, vì vậy kỉ lục “dương” hay kỉ lục ”âm” chưa nói đến được mục tiêu mà Việt Nam muốn vươn tới, đó là quyết tâm hợp thức hóa số vốn cam kết bằng các hiệp định vay và giải ngân có hiệu quả.
Bảng 1
Tổng số vốn mà các nhà tài trợ song phương và đa phương cam kết dành cho Việt Nam năm 2006 thông qua con đương hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) là 3,74 tỉ USD.
2. Tình hình hợp thức hóa và giải ngân
Tổng số vốn cam kết đã được hợp thức hóa bằng các văn bản pháp lí (hiệp định vay) giữa chính phủ Việt Nam và cộng đồng các nhà tài trợ ODA giai đoạn 1993-2003 đạt khoảng 19,5 tỉ USD/25,35 tỉ USD, chiếm 77% tổng vốn cam kết. Dựa trên con số thống kê này có thể ước tính chung tổng số vốn cam kết đã được kí kết cho cả giai đoạn 1993-2005 vào khoảng 26 tỉ USD. Như vậy khoảng cách giữa cam kết và hợp thức hóa luôn có chênh lệch : trong giai đoạn 1993-2005 là trên 6,5 tỉ USD (32,49 tỉ USD- 26 tỉ USD) và nếu tính bình quân cho cả giai đoạn thì mức chênh lệch hàng năm vào khoảng 540 triệu USD/năm. Đây là con số không nhỏ khi mà nhu cầu huy động vốn ở Việt Nam đối với thị trường vốn quốc tế thông qua con đường hỗ trợ phát triển chính thức ngày càng lớn thì hiện tượng “thừa vốn” dưới dạng cam kết vẫn luôn xuất hiện. Điều này càng rõ nét hợ khi so sánh giữa số vốn cam kết với số vốn đã thực tế giải ngân.
Bảng thống kê cho thấy tỉ trọng giữa số vốn ODA đã được giải ngân so với số vốn đã cam kết dành cho Việt Nam giai đoạn 1993-2005 chỉ đạt bình quân 50%. Như vậy cần phải nhận thấy rằng tỉ lệ giải ngân vốn ODA ở nước ta thời gian qua còn ở mức thấp, nhất là ở các dự án sử dụng vốn vay ưu đãi. Cụ thể tính chung trong giai đoạn từ 1993-2003 mức giải ngân vốn ODA đạt khoảng 12,5 tỉ USD, bằng khoảng 49,3% tổng lượng ODA cam kết. Còn nếu tính riêng giai đoạn 2001-2005, thì mức giải ngân ODA đạt khoảng 7,6 tỉ USD, bằng khoảng 56,1% tổng lượng ODA cam kết giai đoạn này.
Nếu xét riêng từng nhà tài trợ mức giải ngân nguồn vốn ODA của mỗi nhà tài trợ cũng rất khác nhau va biến động qua từng năm tài chính, ví như, việc giải ngân các khoản vay của chính phủ Nhật Bản tài khóa 2001 là 9,8%, tài khóa 2002 là 7,2% và khoảng 12% trong năm tài khóa 2003 (tỉ lệ giải ngân này thấp hơn so với tỉ lệ giải ngân trung bình 15%/1 năm ở các nước tiếp nhận khác). Đối với vốn ODA vay ưu đãi của ngân hàng Thế giới (WB), tỉ lệ giải ngân năm 2003 đạt 14,3%, tăng so với mức 12,1% của các năm trước đó, nhưng vẫn thấp hơn mức trung bình 18% của khu vực. Tình hình giải ngân của các dự án sử dụng vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ khác như : Ngân hàng phát triển châu á (ADB), cơ quan phát triển Pháp (AFD), ngân hàng tái thiết Đức (KFW) cũng chưa đạt được mức mong muốn. Nguyên nhân của tình trạng trên là do đâu? Để tra lời câu hỏi này cần phải có một cái nhìn toàn cục về những nhân tố có ảnh hưởng trực tiếp cũng như gián tiếp tới việc giải ngân nguồn vốn ODA.
Về phía các nhà tài trợ: vấn đề nổi cộm làm cho tiến độ giải ngân vốn của các nước tiếp nhận bị chậm chễ, đó là sự khác biệt về quy trình, thủ tục dự án của các nhà tài trợ; điều kiện cho vay của các nhà tài trợ quá khắt khe; thủ tục của các nhà tài trợ phức tạp, việc phê duyệt phải qua nhiều bước; văn phòng đại diện của các nhà tài trợ tại Việt Nam có ít thẩm quyền, phải thường xuyên xin ý kiến của các cơ quan cấp trên ở nước ngoài; việc nhà tài trợ chậm phê duyệt tài liệu đấu thầu, đòi hỏi nhiều loại giấy tờ, hay một số trường hợp không có sự nhất quán trong các điều kiện đấu thầu cũng gây ra sự chậm trễ trong triển khai thực hiện. Ngoài ra có những dự án do nhiều nhà tài trợ đồng cung cấp vốn, lên thủ tục thường chồng chéo, gây khó khăn cho chủ dự án trong quá trình triển khai…
Về phía Việt Nam : Với tư cách là nước tiếp nhận thì việc giải ngân nguồn vốn ODA chậm, thường chịu ảnh hưởng của các nhân tố như lượng ODA cam kết tăng đều qua các năm, trong khi đó việc chuẩn bị chương trình dự án chưa diễn ra một cách tương xứng, đồng thời chưa có những hiểu biết đầy đủ về quy chế và thủ tục cung cấp ODA của các nhà tài trợ; các điều kiện tiếp thu và sử dụng ODA trong nước còn nhiều bất cập như các quy trình, thủ tục ODA trong nước, cơ chế tài chính, nguồn vốn đối ứng, chính sách đền bù, di dân, giải phóng mặt bằng, quy chế đấu thầu; quy trình và thủ tục hiện hành của nhà nước ta trong việc sử dụng vốn ODA, kể cả quy trình và thủ tục giải ngân còn nhiều tầng nấc, nhiều khâu; chế độ chính sách hiện hành ở trong nước thiếu đồng bộ, nhiều điểm không phù hợp với thông lệ quốc tế;việc thay đổi thiết kế quy trình kĩ thuật khâu tổ chức đấu thầu, đàm phán bị kéo dài cũng làm cho tiến độ rút vốn bị ảnh hưởng; có nhiều trường hợp phía Việt Nam còn lúng túng trong thủ tục thanh toán, dẫn đến việc thiếu các chứng từ hoặc nội dung cần thiết…
Như vậy có thể nói là có khá nhiều những nhân tố ảnh hưởng tới việc giải ngân vốn ODA. Tuy nhiên nếu xuất phát từ việc nghiên cứu tình hình giải ngân vốn ODA ở nước ta thời gian qua và qua phân tích điều kiện thực tế của các đơn vị được thụ hưởng nguồn vốn ODA, chúng tôi cho rằng phần lớn nguyên nhân làm cho việc giải ngân ODA chậm là do phía Việt Nam. Nó chủ yếu tập trung ở những điểm sau :
Thứ nhất : Bước sang giai đoạn 2001-2005, nhiều dự án đầu tư quy mô lớn đang thực hiện ở giai đoạn cuối nên lượng vốn giải ngân là không lớn. Trong khi đó có khá nhiều dự án đầu tư quy mô lớn ( như dự án cầu Thanh Trì, dự án cầu Cần Thơ, cầu Bãi Cháy…) hiện lại đang ở giai ở giai đọan đầu với các công việc chuẩn bị là chủ yếu ( như giải phóng mặt bằng, chuẩn bị tài liệu đấu thầu và tổ chức đấu thầu…). Do đó đã không tạo được bước đột phá trong việc giải ngân vốn ODA trong năm 2004 như mục tiêu đã đề ra.
Thứ hai : Thời gian qua, hầu hết các dự án ODA đều gặp vướng mắc về di dân, giải phóng mặt bằng.
Thứ ba : Thủ tục phê duyệt thiết kế chi tiết, tổng dự toán, nội dung đấu thầu ở phía Việt Nam thường chậm trễ, không chính xác.
Thứ tư : Năng lực của đội ngũ cán bộ quản lí dự án chưa đáp ứng được yêu cầu do thiếu về số lượng, yếu về năng lực, thiếu tính chuyên nghiệp và chủ yếu làm kiêm nhiệm, tình trạng này đặc biệt phổ biến ở các địa phương.
Thứ năm : Vấn đề tư vấn chưa được coi trọng đúng mức.
Những yếu tố trên tác động rất lớn đến tiến độ giải ngân vốn ODA trong thời gian qua. Tuy nhiên một câu hỏi đặt ra là tại sao trong khi chỉ sử dụng hết 1/2 số vốn ODA cam kết hàng năm nhưng các nhà tài trợ ODA vẫn tiếp tục cam kết dành cho Việt Nam cao hơn so với nhu cầu thực tế mà chúng ta cân? Phải chăng các nhà tài trợ ODA thể hiện sự đồng thuận của mình đối với quá trình phát triển kinh tế ở Việt Nam, hay họ tiếp tục cam kết làm ăn đến cùng với Việt Nam thông qua đầu tư vốn ODA để gián tiếp tạo cầu nôi cho các hoạt động đầu tư khác trong thời gian tới, đặc biệt là khi Việt Nam gia nhập WTO. Có thể có 2 cách lí giải cơ bản sau :
- Một là : Trong quá trình đổi mới, Việt Nam đã dành được những thành tựu to lớn về phương diện kinh tế. Bên canh đó, chỉ số tín nhiệm quốc gia ở Việt Nam không ngừng được cải thiện, nên việc đầu tư vốn ODA vào Việt Nam so với các nước đang phát triển ở khu vực châu á, châu Phi, Mĩ Latinh… sẽ mang tính khả thi hơn bởi đặc tính ổn định và khả năng sử dụng vốn ODA của Việt Nam thời gian gần đây tương đối hiệu qua. Số vốn ODA cam kết hàng năm, đặc biệt là từ các nhà tài trợ ODA song phương không ngừng tăng cao hơn so với các nhà tài trợ ODA đa phương càng minh chứng rõ nét hơn về điều này. Năm 2006 xuất hiện nhân tố tài trợ song phương mới, đó là Trung Quốc, mặc dù nước này chưa nằm trong khối các nước thường xuyên cung cấp ODA cho Thế giới (OECD). Nhân tố cung cấp ODA mới này góp phần làm cho tổng số vốn ODA cam kết hàng năm mà Việt Nam nhận được từ các nhà tài trợ tăng lên.
- Hai là : Việt Nam vẫn là tiềm năng cho các nhà cung cấp ODA mở rộng các hoạt động đầu tư gián tiếp của mình đằng sau đầu tư vốn ODA. Tức là đi kèm vốn ODA, các nhà cung cấp ODA có thể cung cấp (bán) thiết bị, kĩ thuật, công nghệ,tư vấn… với “giá cao” cho các nước tiếp nhận ODA trong khuôn khổ các chương trình/dự án ODA đã được các bên hợp thức hóa bằng Hiệp định vay. Ngẫm sâu hơn có thể hiểu rằng : đây chính là một trong những hình thức thu hồi vốn hay bù đắp chi phí của các nhà cung cấp vốn ODA dành cho các nước tiếp nhận ODA một khi họ cho vay nguồn vốn này với lãi suất thấp . Như vậy , hoạt động cung cấp ODA tăng vì các hoạt động cung cấp (bán hàng hóa và dịch vụ) bổ trợ đi kèm như công nghệ , thiết bị , kĩ thuật, tư vấn… với giá cao cũng tăng theo,đây cũng là một trong những nguyên nhân góp phần làm cho số vốn cam kết hàng năm tăng .
ODA là món nợ của mọi thế hệ.
Về lý thuyết , phần ODA cho không này còn gọi là viện trợ không hoàn lại,hay hỗ trợ kĩ thuật chỉ chiếm tối đa từ 1-10% so với tổng vốn ODA mà cộng đồng các nhà tài trợ dành cho các nước tiếp nhận viện trợ (chủ yếu là các nước kém và đang phát triển ). Vậy ở Việt Nam , tỷ lệ này là bao nhiêu ? Cho đến nay chưa có con số thống kê cụ thể nào được báo cáo nhưng qua phân tích và theo dõi hàng năm thì tối đa cũng chỉ vào khoảng 5% . Như vậy , 95% tổng vốn ODA vay hàng năm là nợ mà chính phủ Việt Nam phải trả cho các nhà tài trợ trong hàng thập kỉ tới . Điều đó cũng đồng nghĩa với việc món nợ ODA luôn được truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác . Giả thiết chúng ta chấm dứt vay ODA vào năm 2007 thì món nợ ODA mà Việt Nam vay từ năm 2005 sẽ kéo dài tới năm 2045 (Do thời hạn vay ODA thường trên 40 năm) . Như vậy số vốn ODA cam kết hôm nay càng cao thì số nợ mà thế hệ mai sau phải gánh vác càng lớn bấy nhiêu.
3. Một số vấn đề cần thay đổi :
Chúng ta phải làm gì để ODA phát triển hiệu quả , thế hệ con cháu đỡ vất vả với món nợ dài hơi này ? Có lẽ đã đến lúc chúng ta phải thay đổi cách nghĩ , cách huy động và cách sử dụng đối với nguồn vốn có nhiều mặt phải và mặt trái này . Từ năm 1993 đến nay Việt Nam đã đưa ra hàng loạt giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng vốn , thậm chí liên tục thay đổi các nghị định về quản lý và sử dụng ODA . Tuy nhiên trên thực tế những phát sinh làm giảm hiệu quả quản lý và sử dụng vốn ODA vẫn liên tục xảy ra . Nguyên nhân có rất nhiều , nhưng có một sô nguyên nhân nghe ra hết sức đơn giản , nhưng lại là cái gốc cản trở và làm giảm hiệu quả đối với quá trình huy động , quản lý và sử dụng vốn ODA , đó là : Nhận thức về ODA của các cấp chưa đầy đủ , việc xây dựng kế hoạch chưa đồng bộ … đã khiến cho giữa cam kết với giải ngân luôn có những kẽ hở. Theo chúng tôi để cải thiện tình hình , cần thực hiện những giải pháp sau :
Một là : Phải thống nhất về nhận thức đối với nguồn vốn ODA :nguồn vốn ODA là vốn vay-vay dài hạn có ưu đãi như : ưu đãi về lãi suất (dao động từ 0.75-2% /năm) ,ưu đãi về thời gian ân hạn (8-10 năm) , ưu đãi về lộ trình trả nợ (30-40 năm) … nhưng cái giá khá đắt phải trả cho những ưu đãi này chính là các rằng buộc về mua sắm hàng hóa và dịch vụ tư vấn trong khuôn khổ các chương trình/dự án ODA , mà suy cho cùng các ưu đãi về lãi suất , thời gian ân hạn , lộ trình trả nợ bằng với giá mua sắm hàng hóa và dịch vụ tư vấn .Từ công thức này có thể suy ra : Vốn ODA cũng giống như vốn thông thường ,cuối cùng vốn vay vẫn là vốn vay,có vay thì có trả . Chúng ta phải nhận thức một cách đầy đủ về ODA từ cấp cơ sở đến cấp hoạch định chính sách , qua đó đề ra kế hoạch tuyên truyền giáo dục đối với các cấp tham gia sử dụng vốn ODA , để mọi người hiểu được rằng ODA là nợ chứ không phải “cho không” . Nhận thức đúng về nguồn vốn ODA sẽ góp phần làm cho người sử dụng vốn ODA (người vay) nâng cao được trách nhiệm của mình đối với quá trình sử dụng và hoàn trả nợ cho nhà nước.
Hai là : Để hợp thức hóa tối đa số vốn đã cam kết thành vốn vay (bằng các hiệp định vay và giải ngân ) ở mức tương ứng nhau , tức là số vốn cam kết (số kế hoạch) gần bằng với số vốn giải ngân (số thực hiện) nhằm tận dụng tối đa các ưu đãi mà nguồn vốn ODA có thể mang lại, vấn đề đặt ra là :
+ Đối với cấp xây dựng dự án : Dự án vay vốn ODA phải sát với yêu cầu đặt ra và phải nằm trong tổng thể kế hoạch vay nợ hàng năm của chính phủ .Các dự án vay vốn phải khả thi về mặt thực hiện và trả nợ;
+ Đối với cấp hoạch định chính sách phải thẩm tra kỹ dự án xin vay vốn ODA trên các mặt kĩ thuật và tài chính,trong đó yếu tố tạo nguồn trả nợ từ chính vốn vay phải được đặt lên hàng đầu.
Muốn vậy, Bộ Tài Chính và Bộ Kế hoạch Đầu tư cần xem xét , hướng tới giảm dần vay vốn ODA đối với những dự án không sinh lời, những dự án cấp phát ngân sách (cấp phát lại) 100% sau khi vay vốn, và tăng dần các dự án có khả năng sinh lời (các dự án xin vay lại) để góp phần tạo nguồn trả nợ. Kiên quyết loại bỏ các dự án chạy theo phong trào do nhận thức sai về ODA,coi ODA là “cho không” , nên cố gắng xin “vay” rồi tính sau, hoặc chuyển thô từ vốn vay sang cấp phát (cho không) sau khi dự án thực hiện không thành…
Sẽ còn rất nhiều giải pháp khác,nhưng theo chúng tôi hãy đi từ những cái đơn giản, từ nhận thức đến gần trách nhiệm vay- trả giữa các cấp khi tiếp cận với nguồn vốn ODA. Như vậy việc tiến hành lắp ghép con số cam kết với con số giải ngân sẽ khả thi hơn.
IV. TÌNH HÌNH SỬ DỤNG NGUỒN VỐN VIỆN TRỢ
1.Tình hình sử dụng
Đi đôi với việc thu hút vốn viện trở thì chính phủ ta cũng ngày càng chủ trọng tới việc sử dụng có hiệu quả nguồn vốn viện trợ. Tình hình sử dụng nguồn vốn ODA đã có bước phát triển khá,năm sau cao hơn năm trước
FNguồn vốn ODA đã được tập trung hỗ trợ cho các lĩnh vực phát triển kinh tế,xã hội ưu tiên của chính phủ : đó là năng lượng điện (18,57%) ngành giao thông (22,42%), phát triển nông nghiệp, nông thôn bao gồm cả thủy sản, nông nghiệp, thủy lợi (14,37%), ngành cấp thoát nước (9,98%), các ngành kinh tế, xã hội, giáo dục và đào tạo, khoa học công nghệ môi trường (10,73%)
FNgoài ra ODA còn hỗ trợ đáng kể cho ngân sách chính phủ để thực hiện điều chỉnh cơ cấu kinh tế và thực hiện chính sách cải cách kinh tế (các khoản tín dụng điều hành cơ cấu kinh tế, điều chỉnh cơ cấu kinh tế mở rộng, quỹ Miyazawa, PRGF và PRSC).
FTrong những năm qua, nhiều dự án đầu tư bằng ODA đã hoàn thành và được đưa vào sử dụng góp phần tăng trưởng kinh tế, xóa đói giảm nghèo như nhà máy nhiệt điện Phú Mỹ 2-1, nhà máy thủy điện sông Hinh. Một số dự án giao thông quan trọng như quốc lộ 5, quốc lộ 1A (đoạn Hà Nội –Vinh, đoạn đường thành phố Hồ Chí Minh – Cần Thơ, Hồ Chí Minh –Nha Trang), cầu Mỹ Thuận ,cầu Sông Gianh, dự án thủy lợi Cửa Đạt –Thanh Hóa ,… nhiều trường đại học đã được xây dựng mới,cải tạo tại hầu hết các tỉnh,một số bệnh viện ở các thành phố, thị xã như bệnh viện Bạch Mai (Hà Nội),bệnh viện Chợ Rậy(Thành phố Hồ Chí Minh),nhiều trạm y tế đã được cải tạo hoặc xây mới. Các hệ thống cấp nước sinh hoạt ở nhiều tỉnh, thành phố cũng như nông thôn vùng núi .Các chương trình dân số và phát triển, chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em, tiêm chủng mở rộng đã được thực hiện một cách có hiệu quả. Các dự án phủ xanh đất trống đồi núi trọc, các dự án trồng rừng phòng hộ đầu nguồn, dự án nước sạch miền núi …. Ngoài ra còn có hàng loạt các công trình mới đầu tư bằng nguồn vốn ODA sẽ được đưa vào hoạt động trong tương lai.
Nhìn chung việc sử dụng nguồn vốn ODA trong thời gian qua là có hiệu quả ,hỗ trợ tích cực cho quá trình phát triển kinh tế, xã hội ở nước ta.
2. Nguyên nhân
Sở dĩ có những thành tích trên là bởi những nguyên nhân chủ yếu sau :
F Chính phủ luôn coi trọng việc hoàn thiện môi trường pháp lý để quản lý và sử dụng hiệu quả nguồn vốn ODA. Tiếp theo nghị định 20/CP của chính phủ ban hành năm 1993, nghị định 87/CP ban hành năm 1997 về quản lý và sử dụng ODA. Ngày 4/5/2001 chính phủ đã ban hành nghị định số 17/2001/NĐ-CP (thay thế nghị định 87/CP). Bên cạnh đó nhiều văn bản pháp quy khác cũng được ban hành nhằm quản lý và tạo điều kiện thực hiện nguồn vốn ODA như nghị định số 90/1998/NĐ-CP ngày 7/11/1998 về quy chế vay và trả nợ nước ngoài ,quyết định 223/1999/QĐ -TT ngày 31/10/1998 về quy chế chuyên gia đối với các dự án ODA
F Việc chỉ đạo thực hiện ODA của chính phủ kịp thời và cụ thể như đảm bảo vốn đối xứng, vấn đề thuế VAT đối với các chương trình, dự án ODA, như vậy nhiều vướng mắc trong quá trình thực hiện các dự án ODA đã được tháo gỡ.
F Công tác theo dõi và đánh giá dự án đánh giá dự án ODA đã đạt nhiều tiến bộ. Nghị định 17/2001/NĐ-CP đã tạo khuôn khổ phát triển,tổ chức hệ thống theo dõi và đánh giá chương trình dự án ODA từ các bộ, ngành, trung ương tới địa phương và các ban quản lý dự án. Trong năm 2000 và đầu năm 2001 chính phủ đã giao liên bộ tài chính, bộ kế hoạch và đầu tư và các cơ quan có liên quan tiến hành kiểm tra và đánh giá tình hình sử dụng vốn vay đối với một số chương trình và dự án ODA. Kết quả kiểm tra và đánh giá cho thấy về cơ bản các dự án ODA vốn vay là có hiệu quả. Tuy nhiên cũng đã phát hiện ra một số mặt yếu kém nhất là trong công tác tổ chức thực hiện các chương trình dự án ODA.
FChính phủ đã phối hợp chặt chẽ với các nhà đầu tư nhằm tăng cường quản lý ODA, làm hài hòa thủ tục giữa Việt Nam và các nhà tài trợ để thúc đẩy tiến trình thực hiện các chương trình dự án ODA. Đi đôi với nó là bằng nhiều hình thức đào tạo khác nhau và qua thực tế thực hiện dự án, nhiều cán bộ Việt Nam từ cấp quản lý vĩ mô tới các ban quản lý dự án đã làm quen và tích lũy được nhiều kinh nghiệm thực hiện và quản lý nguồn vốn ODA.
3. Biện pháp khắc phục
Bên cạnh những thành tựu đạt được thì công tác quản lý và sử dụng ODA cũng còn nhiều mặt yếu kém và đứng trước những khó khăn thách thức, nhất là ở các khâu chuẩn bị, tổ chức thực hiện, theo dõi và đánh giá dự án. Để cải thiện tình hình ở các khâu yếu ở trên thì trong thời gian tới, chính phủ dự kíên triển khai các công tác sau:
FBan hành thông tư liên tịch bộ kế hoạch và đầu tư –bộ tài chính hướng dẫn thực hiện nghị định 17/2001/NĐ -CP ngày 4/5/2001 về các nội dung liên quan đến tới tài chính của các chương trình dự án ODA
FTiếp tục tiến hành làm hài hòa thủ tục tiếp nhận và thực hiện các chương trình dự án ODA giữa Việt Nam và các nhà tài trợ .
FThông qua nhiều phương thức và quy mô đào tạo và các hình thức hỗ trợ nhằm tăng cường năng lực quản lý và thực hiện ODA ở các cấp .
FKiện toàn hệ thống theo dõi và đánh giá dự án từ các bộ, nghành trung ương tới các phòng ban địa phương nhằm thúc đẩy quá trình thực hiện và sử dụng hiệu quả nguồn vốn ODA, đưa công nghệ thông tin vào phục vụ công tác quản lý và theo dõi dự án
Chương III
VAI TRÒ CỦA NGUỒN VỐN ODA
ĐỐI VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM
Đối với tất cả các nước tiến hành công nghiệp hóa đất nước, vốn là một yếu tố, một điều kiện không thể thiếu. Nhất là trong điều kiện ngày nay, với những thành tựu mới của khoa học và công nghệ cho phép các nước tiến hành công nghiệp hóa có thể rút ngắn”lịch sử” phát triển kinh tế, khắc phục tình trạng tụt hậu và tận dụng tối đa lợi thế của nước đi sau. Nhưng để làm được điều đó, nhu cầu về vốn là vô cùng lớn. Trong khi đó ở giai đoạn đầu của thời kỳ công nghiệp hóa, tất cả các nước đều phải dựa vào nguồn vốn bên ngoài, mà chủ yếu là vốn ODA và FDI. FDI là loại vốn được đầu tư với mục đích thu lợi nhuận cao và ở một khía cạnh nào đó nó có nhiều lợi thế cho nước nhận đầu tư hơn các loại vốn khác. Vì vậy nó là luồng vốn mà nhiều quốc gia mong muốn nhận được trong chiến lược phát triển kinh tế của mình. Nhưng do số lượng có hạn và với những yêu cầu nhất định bảo đảm cho khả năng sinh lợi của mỗi dòng vốn được đầu tư, để thu hút được lượng vốn này không phải là điều dễ. Ngược lại, ODA lại là nguồn vốn của các chính phủ, các quốc gia phát triển, các tổ chức quốc tế và các tổ chức phi chính phủ hoạt động với mục tiêu trợ giúp cho chiến lược phát triển của các nước đang phát triển. Do vậy, nguồn vốn nay có những ưu đãi nhất định. Với những ưu đãi này, trong giai đoạn đầu của công cuộc công nghiệp hóa, các nước đang phát triển thường coi ODA như là một “giải pháp cứu cánh” để vừa khắc phục tình trạng thiếu vốn đầu tư trong nước, vừa tạo cơ sở vật chất ban đầu nhằm tạo dựng một môi trường đầu tư thuận lợi để kêu gọi nguồn vốn đầu tư trực tiếp FDI đồng thời tạo điều kiện thúc đẩy đầu tư trong nước phát triển.
Như vậy có thể nói, nguồn vốn ODA có vai trò quan trọng với tăng trưởng kinh tế của các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng.
Để biết rõ thêm về vai trò quan trọng của nguồn vốn ODA chúng ta hãy xem vai trò đó được thể hiện rõ nét ở những khía cạnh nào.
1. ODA có vai trò bổ sung cho nguồn vốn trong nước
Đối với Việt Nam- một nước đang phát triển, cac khoản viện trợ và cho vay theo điều kiện ODA là nguồn tài chính quan trọng giữ vai trò bổ sung vốn cho quá trình phát triển.
Hầu hết các nước Đông Nam á, sau khi giành được độc lập, đều ở trong tình trạng nghèo nàn và lạc hậu. Và Việt Nam cũng là một trong những nước đó.
Để phát triển cơ sở hạ tầng, đảm bảo tiền đề vật chất ban đầu cho phát triển kinh tế, đòi hỏi phải có nhiều vốn, nhưng khả năng thu hút vốn ở lĩnh vực này rất chậm. Để giải quyết vấn đề này Việt Nam phải sử dụng nguồn vốn ODA.
ở Việt Nam, nguồn vốn ODA giúp chính phủ có thêm nguồn lực chủ động đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế- xã hội. Cơ sở hạ tầng là điều kiện quan trọng để phát triển kinh tế- xã hội của một nước, trong đó quan trọng nhất là phát triển cơ sở hạ tầng giao thông vận tải. Muốn vậy chúng ta cần có một khối lượng vốn khổng lồ nhưng trong khi nguồn vốn trong nước không đủ khả năng đáp ứng nhu cầu phát triển. Trong giai đoạn từ 1993-2000 trong số vốn đầu tư cho hạ tầng giao thông khoảng 3 tỷ USD thì có tới 52% vốn đầu tư là ODA, Ngân sách nhà nước tham gia khoảng 46%. Còn lại là vốn huy động từ các hình thức khác. Giai đoạn từ 2001-2010 dự báo nhu cầu đầu tư cho giao thông là 16 tỷ USD trong đó ODA huy động được khoảng 56%.
Rõ ràng khi nền kinh tế càng phát triển thì nhu cầu về vốn đầu tư cho giao thông càng lớn trong đó ODA giữ 1 vị trí quan trọng. Tuy nhiên để sử dụng một cách thực sự hiệu quả nguồn vốn ODA có được ngoài các giải pháp có tính vĩ mô như tạo ra một môi trường pháp lý ổn định và thống nhất, cơ chế chính sách thông thoáng đi đôi với việc tăng cường quản lý một cách chặt chẽ các chương trình ,dự án sử dụng ODA.
Nếu tính tổng thể từ năm 1993, sau khi Mỹ bỏ cấm vận đối với Việt Nam đến nay thì nguồn vốn này được các tổ chức quốc tế cam kết tại các hội nghị các nhà tài trợ cho Việt Nam vào khoảng 15550 triệu USD, riêng năm 1999 các nhà tài trợ cam kết sẽ tài trợ cho Việt Nam 2200 triệu USD và tài trợ thêm 500 triệu USD cho chương trình đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế. Số tiền 500 triệu USD này sẽ được giải ngân nhanh để hỗ trợ cho cải cách xí nghiệp quốc doanh, tự do hóa thương mại và cải cách hệ thống ngân hàng. Đây là nhân tố giúp Việt Nam sớm hoàn thiện cơ cấu nền kinh tế.
2. ODA dưới dạng viện trợ không hoàn lại giúp các nước nhận viện trợ tiếp thu những thành tựu khoa học, công nghệ hiện đại và phát triển nguồn nhân lực.
Những lợi ích quan trọng mà ODA mang lại cho các nước nhận tài trợ là công nghệ, kỹ thuật hiện đại, kỹ xảo chuyên môn và trình độ quản lý tiên tiến. Đồng thời, bằng nguồn vốn ODA các nhà tài trợ còn ưu tiên đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực, vì họ biết rằng việc phát triển của một quốc gia có quan hệ mật thiết với việc phát triển nguồn nhân lực. Việt Nam là một nước đang phát triển, còn nghèo nàn lạc hậu, nguồn nhân lực tuy dồi dào nhưng trình độ còn thấp, đòi hỏi phải được đào tạo, đầu tư thêm nữa. Nguồn vốn ODA sẽ giúp Việt Nam giải quyết được việc phát triển nguồn nhân lực, nâng cao công nghệ kỹ thuật hiện đại và kỹ xảo chuyên môn cũng như trình độ quản lý. Đây mới chính là những lợi ích căn bản, lâu dài mà ODA đem lại cho các nước nhận tài trợ.
3. ODA giúp hoàn thiện cơ cấu kinh tế
Đối với Việt Nam, khó khăn kinh tế là điều không tránh khỏi, trong đó nợ nước ngoài và thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế ngày một gia tăng. Để giải quyết vấn đề này Việt Nam phải cố gắng hoàn thiện cơ cấu kinh tế bằng cách phối hợp với Ngân hàng thế giới, Quỹ tiền tệ quốc tế và các tổ chức quốc tế khác để tiến hành chính sách điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chuyển chính sách kinh tế nhà nước đóng vai trò trung tâm sang chính sách khuyến khích nền kinh tế phát triển theo định hướng phát triển khu vực kinh tế tư nhân. Nhưng muốn thực hiện được việc điều chỉnh này phải có một lượng vốn lớn, do vậy chính phủ lại phải dựa vào nguồn hỗ trợ ODA.
4. ODA tăng khả năng thu hút vốn FDI và tạo điều kiện để mở rộng đầu tư phát triển trong nước
Như đã biết, để có thể thu hút được các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài bỏ vốn đầu tư vào một lĩnh vực nào đó, các quốc gia phải bảo đảm cho họ có được môi trường đầu tư tốt. Muốn vậy, đầu tư của nhà nước phải được tập trung vào việc nâng cấp, cải thiện và xây dựng mới cơ sở hạ tầng, hệ thống tài chính ngân hàng ... Nguồn vốn để nhà nước có thể giải quyết những đầu tư này là phải dựa vào nguồn vốn ODA giúp bổ sung cho vốn đầu tư hạn hẹp từ ngân sách nhà nước. Khi môi trường đầu tư được cải thiện sẽ thu hút được nguồn vốn đầu tư lớn dẫn đến sự phát triển bền vững của nền kinh tế. Mặt khác, việc sử dụng nguồn vốn ODA để đầu tư cải thiện cơ sở hạ tần sẽ tạo điều kiện cho các nhà đầu tư trong nước tập trung đầu tư vào các chương trình sản xuất kinh doanh có khả năng mang lại lợi nhuận.
Rõ ràng là hỗ trợ phát triển chính thức, ngoài việc bản thân nó là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho Việt Nam nói riêng và các nước đang phát triển nói chung, nó còn có tác dụng tăng khả năng thu hút vốn từ nguồn đầu tư trực tiếp và tạo điều kiện để mở rộng đầu tư phát triển trong nước.
5. Xét về mặt tổng thể, ODA là những công cụ quan trọng hỗ trợ Việt Nam thực hiện chiến lược xóa đói, giảm nghèo.
Các nước nghèo có thể coi nguồn viện trợ ODA là một cơ hội để nâng cao chất lượng cuộc sống của những người nghèo. Trong giai đoạn từ nay đến năm 2015, mục tiêu của viện trợ ODA là giảm một nửa tỷ lệ người cực nghèo, giảm 2,3 lần tỷ lệ chết ở trẻ sơ sinh và trẻ dưới 5 tuổi, giảm 3/4tỷ lệ chết của sản phụ và mọi trẻ em đều được đến trường...
Ví dụ ADB với dự án “Tăng cường năng lực xóa đói giảm nghèo” và “hỗ trợ kỹ thuật chuẩn bị dự án giảm nghèo khu vực miền Trung” với tổng số vốn là 16 triệu USD; Đan Mạch đã giành 4,4 triệu USD để hỗ trợ cải cách kinh tế ở Việt Nam năm 2001; Đức giành 3,36 triệu USD cho dự án hỗ trợ dạy nghề tại tỉnh Hà Tĩnh ... Những dự án này được thực hiền đã góp phần đáng kể vào việc cải thiện đời sống nhân dân, giúp những người nghèo có thuần lợi phát triển kinh tế gia đình nhất là ở những vùng núi, vùng sâu , vùng xa nơi mà ngân sách nhà nước ít chú ý tới nên không có điều kiện phát triển. Nhờ có nguồn viện trợ ODA mà người dân được học cách làm kinh tế và được hỗ trợ nguồn vốn làm ăn , từ đó mà xóa đói giảm nghèo, người dân được chăm sóc về sức khỏe, tỷ lệ trẻ em được đến lớp ngày càng lớn. Ngoài ra người dân còn được học nghề phụ để nâng cao mức sống.
Tóm lại, trong chiến lược phát triển kinh tế của Việt Nam, chiến lược hướng ngoại và nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức có vai trò đặc biệt quan trọng. Nó là nguồn vốn bổ sung cho công cuộc phát triển của nước ta, hỗ trợ đắc lực cho việc tiếp thu những thành tựu khoa học – công nghệ tiên tiến góp phần to lớn vào việc phát triển nguồn nhân lực, giúp nước ta hoàn thiện cơ cấu kinh tế, tăng khả năng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và tạo điều kiện để mở rộng đầu tư phát triển trong nước. Tuy nhiên nó chỉ là nguồn vốn đóng vai trò quan trọng hỗ trợ cho các nước vươn lên, chứ không có vai trò quyết định cho sự thành công của một quốc gia trên con đường phát triển.
Chương IV
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CÒN TỒN TẠI VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THU HÚT VÀ SỬ DỤNG VỐN ODA
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CÒN TỒN TẠI TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ VIỆC THU HÚT VÀ SỬ DỤNG VỐN ODA.
Trong quá trình quản lý Nhà nước đối với các chương trình dự án sử dụng vốn ODA, chúng ta đã đạt được những thành tựu nhất định trong quá trình phát triển kinh tế xã hội đất nước, ban đầu đã tạo dựng được sự tin tưởng đối với các nhà tài trợ, cung cấp nguồn vốn ODA. Tuy nhiên trong quá trình quản lý còn bộc lộ nhiều điểm hạn chế làm cho việc huy động và sử dụng nguồn vốn ODA kém hiệu quả không đúng tiến độ và kế hoạch đã đề ra, cụ thể là:
Thứ nhất: Việt Nam chưa có kinh nghiệm trong việc tiếp nhận vốn ODA, nhất là việc thực hiện các thủ tục có liên quan đến đấu thầu, thanh toán, chế độ báo cáo định kỳ, bố trí vốn đối ứng kịp thời. Và mặc dù đã có những cải cách về các vấn đề lập pháp, hành pháp, thủ tục hành chính...nhưng vẫn có những ách tắc, đặc biệt là ở cấp cơ sở như việc đền bù, giải phóng mặt bằng... đã làm ảnh hưởng rất nhiều đến khả năng có thể đẩy nhanh quá trình giải ngân nguồn vốn ODA.
Thứ hai: Công tác quản lý vốn ODA còn bị chồng chéo, chưa tách bạch rõ trách nhiệm của các cấp, làm giảm hiệu lực quản lý vốn ODA. Chẳng hạn một số dự án thuộc ngành cấp nước như: dự án cấp nước 6 thị xã (vốn của ADB), dự án cấp nước 7 thị xã (ADB), dự án cấp nước 6 thị xã (Úc)... do chủ dự án thuộc Bộ xây dựng đồng thời chịu sự quản lý của các Uỷ ban nhân dân tỉnh được thụ hưởng như các dự án cấp nước này cũng dẫn đến những hạn chế trong công tác quản lý và điều hành dự án.
Thứ ba: Đối với các nhà tài trợ lại có quy định riêng và hầu như rất chưa hài hoà với quy định của Việt Nam. Nhìn chung, các bước triển khai đều phải trình phía đối tác của từng giai đoạn mất nhiều thời gian, phụ thuộc vào tiến độ giải quyết của phía đối tác.
Thứ tư: Trong những năm gần đây nước ta thường xuyên phải gánh chịu nhiều thiên tai nặng nề, gây nên những cảnh úng ngập, hạn hán ở nhiều nơi đã ảnh hưởng tới tiến độ thi công các công trình xây dựng của các dự án thuộc ngành giao thông, năng lượng, nông nghiệp - thuỷ lợi...
Thứ năm: Công tác quản lý ODA còn bị hạn chế rất nhiều, nhất là cấp quản lý của các địa phương, họ chưa hiểu hết về các công tác thực hiện, sử dụng nguồn vốn ODA, chẳng hạn công tác thẩm định còn sơ sài, chưa thực hiện tính toán thật chặt chẽ đến các khía cạnh hiệu quả kinh tế xã hội của các chương trình dự án, chưa có tính chủ động trong công tác quản lý vốn ODA, nhiều dự án khi tiến hành nghiên cứu khả thi đã không xác định rõ mục tiêu đầu tư, hạng mục đầu tư và tính đồng bộ giữa các khâu của quá trình đầu tư do đó làm cho việc quản lý thiếu chặt chẽ .
Thứ sáu: Về phía các nhà tài trợ, quy trình, thủ tục giải ngân của họ khá phức tạp, đòi hỏi phải có nhiều thời gian chuẩn bị, bình quân không dưới 24 - 27 tháng cho một dự án. Hơn nữa nhiều trường hợp các quy định của họ không rõ ràng, không nhất quán, họ thường đưa ra một số điều kiện có ảnh hưởng đến chính trị- văn hoá của Việt Nam. Do đó làm cho việc quản lý nguồn vốn ODA của phía Việt Nam bị bó hẹp trong phạm vi nhỏ không đúng với yêu cầu và quy định của nước ta.
Ngoài ra còn một số tồn tại khác như kinh nghiệm quản lý, trình độ ngoại ngữ của các nhà quản lý còn hạn chế do đó trong quá trình phân tích, đàm phán, ký kết các hợp đồng mua sắm, xây lắp, nhiều trường hợp phải điều chỉnh hồ sơ thanh toán. Công tác quản lý tài chính ODA của Chính phủ chưa tập trung vào một đầu mối, do đó dẫn đến trách nhiệm chưa rõ ràng trong việc theo dõi, quản lý và tổng hợp đánh giá hiệu quả sử dụng vốn vay ODA.
II. NHỮNG GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ ĐỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ VIỆC THU HÚT VÀ SỬ DỤNG NGUỒN VỐN ODA.
1. Một số giải pháp để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong việc thu hút và sử dụng vốn ODA.
Để khắc phục được những mặt tồn tại trong quá trình quản lý nhà nước đối với các chương trình dự án sử dụng nguồn vốn ODA xin trình bày một số giải pháp như sau:
1.1 Trước mắt cần chú trọng đến công tác đào tạo và nâng cao năng lực cán bộ, bồi dưỡng cho thông thạo chuyên môn nghiệp vụ, pháp luật, ngoại ngữ để nâng cao chất lượng đàm phán nhằm đạt được những yêu cầu tối thiểu, về lãi suất, thời hạn vay, thẩm định giá, định mức chi tiêu, phí tư vấn, chính sách đối với các chuyên gia trên cơ sở bình đẳng đôi bên cùng có lợi.
1.2 Tất cả các chương trình dự án sử dụng vốn ODA đều phải thực hiện tốt các khâu của quy trình dự án đầu tư, thực hiện đúng các quy định về đầu tư xây dựng trong nước và phù hợp với thông lệ quốc tế, đặc biệt là khâu lựa chọn dự án, đấu thầu xây lắp và mua sắm vật tư thiết bị, tư vấn,...
1.3 Đơn giản hoá và nâng cao chất lượng khâu thẩm định dự án, tổ chức đấu thầu, xét chọn thầu, đàm phán các hợp đồng vay đảm bảo tuân thủ đúng pháp luật trong nước và thông lệ quốc tế; công khai hoá các quy trình, thủ tục, thời hạn, trách nhiệm xử lý trong quá trình triển khai dự án.
1.4 Phân tích cụ thể các điều kiện vay, các diều kiện ràng buộc để bố trí sử dụng vốn hiệu quả, chấm dứt tình trạng sắp xếp nhà tài trợ rồi mới xây dựng dự án, kiên quyết loại bỏ dự án không có luận chứng kinh tế kỹ thuật khả thi, chủ động lựa chọn danh mục các dự án sử dụng vốn ODA theo mục tiêu đã định trước khi huy động vốn, khắc phục tình trạng bố trí sử dụng vốn dàn trải.
1.5 Nghiên cứu đồng bộ và có khoa học các biện pháp chuyển đổi các chương trình dự án ODA thành đầu tư trong nước, có biện pháp xin xoá nợ, mua bán nợ, tăng khả năng thanh toán trả nợ bằng hàng hoá trong nước sản xuất ra,... nhằm tạo ra khả năng trả nợ hoặc làm giảm nghĩa vụ trả nợ trong tương lai.
1.6 Các ngành, địa phương và các đơn vị xin sử dụng vốn ODA cần tính toán hiệu quả và xác định đầy đủ nghĩa vụ trả nợ, chịu trách nhiệm chính trong quá trình sử dụng vốn và đặt lợi ích quốc gia lên hàng đầu. Đối với một số lĩnh vực sử dụng vốn ODA với quy mô lớn cần phải nghiên cứu chính sách huy động và hoàn trả nợ trong từng giai đoạn, đảm bảo đầu tư sinh lời và có phương án thu một phần lệ phí để hoàn trả nợ nước ngoài.
1.7 Nhà nước thực hiện tốt chức năng định hướng trong quản lý kinh tế là điều kiện tiên quyết để nâng cao chất lượng và hiệu quả sử dụng nguồn vốn ODA. Đặc biệt chú trọng về chất lượng quy hoạch tổng thể các nguồn vốn đầu tư sao cho phù hợp và gắn liền với quy hoạch ngành, lãnh thổ, lĩnh vực ưu tiên, mặt hàng sản xuất chủ lực,... Từ đó sẽ lựa chọn dự án khả thi, dự án ưu tiên đầu tư từ nguồn vốn vay ODA.
1.8 Công tác vận động vốn ODA cần được đổi mới cơ bản về nội dung và phương thức thực hiện, chú trọng khâu soạn thảo điều khoản đề cương nghiên cứu khả thi (Terms of Reference - TOR), giao việc cho tư vấn cần mạnh dạn chối bỏ các nguồn vốn không đáp ứng yêu cầu, định hướng và hiệu quả đầu tư của nhà nước, nâng cao tính chủ động của phía Việt Nam với bên nước ngoài.
1.9 Luật hoá các hoạt động đầu tư gián tiếp nước ngoài, trong đó có việc quản lý và sử dụng hiệu quả nguồn vốn ODA. Bởi lẽ, hiện tại chúng ta đã có khá nhiều văn bản pháp lý dưới luật trong lĩnh vực này, nhưng thực tế việc quản lý lại không đạt hiệu qủa vừa gây nên tình trạng quản lý chồng chéo giữa các cơ quan trong bộ máy Nhà nước vừa chưa tạo được hành lang pháp lý thống nhất để điều tiết có hiệu quả các hoạt động vay nợ nước ngoài.
1.10 Để có cơ sở phân định rõ trách nhiệm quyền hạn giữa các cơ quan hữu trách trong việc ra quyết định và quản lý nguồn vốn cũng như đơn giản hoá thủ tục hành chính cần thiết phải hoàn thiện thể chế để có một cơ quan chịu trách nhiệm toàn diện từ khâu chuẩn bị dự án đến khâu thực hiện và vận hành khai thác dự án. Có thể nghiên cứu thành lập cơ quan liên ngành (như Uỷ ban quốc gia về quản lý nợ) làm nhiệm vụ trả nợ tổng hợp, phân tích thông tin, đánh giá tình hình, xem xét trong mối quan hệ không tách rời với các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô như tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP), kim ngạch xuất nhập khẩu, cán cân thanh toán, bội chi ngân sách,... Để đề xuất chiến lược vay và trả nợ nước ngoài. Trong đó có việc vay và trả nợ vốn ODA.
2. Một số kiến nghị để thực hiện tốt các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước với việc thu hút và sử dụng vốn ODA.
Từ những thực tiễn và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với các chương trình dự án sử dụng vốn ODA. Em xin mạnh dạn đưa ra một số những kiến nghị như sau:
Thứ nhất: Nguồn vốn ODA là nguồn vốn chủ yếu phục vụ xây dựng cơ bản và hỗ trợ ngân sách, do đó cần chú ý, đẩy nhanh việc thoả thuận với bên tài trợ nhằm giải ngân nhanh các nguồn vốn đã được cam kết. Việc giải ngân nhanh một số nguồn vốn của các dự án ODA có ý nghĩa quan trọng trong việc đẩy nhanh việc tăng thu ngân sách, giải quyết tốt hơn các vấn đề thuộc cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội đồng thời tiếp tục khẳng định với các nhà tài trợ về tính hiện thực trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam.
Thứ hai: Cần có cách tiếp cận tổng hợp theo ngành hoặc theo chương trình dự án đối với nhu cầu về ODA.
Gần đây các nhà tài trợ có xu hướng tập trung hơn cả về lĩnh vực tài trợ cũng như vùng địa lý và trên cùng một địa bàn lãnh thổ có nhiều nhà tài trợ cùng hoạt động. Tình hình nói trên có mặt tích cực là tập trung được ngồn lực ở trong và ngoài nước để hỗ trợ một cách tổng hợp có hiệu quả cho sự phát triển của một lĩnh vực cụ thể, song bên cạnh đó cũng gây tình trạng trùng lặp các khoản viện trợ, gây lãng phí nguồn lực của Chính phủ cũng như của nhà tài trợ. Giải pháp để khắc phục tình trạng này là cần thay đổi cách tiếp cận đối với các nhu cầu ODA riêng lẻ, chuyển sang hỗ trợ một cách tổng hợp dựa trên các quy hoạch hoặc chương trình phát triển ngành, từ đó sẽ thúc đẩy quy hoạch của Chính phủ trong thời gian tới sẽ góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với các chương trình dự án ODA.
Thứ ba: Trong phát triển quan hệ đối tác cần đề cao và tạo điều kiện cho phía Việt Nam phát huy vai trò làm chủ trong quá trình tiếp nhận ODA. Bởi vì các nhà tài trợ thường nhấn mạnh vai trò làm chủ của nước tiếp nhận viện trợ, coi đó như là “người cầm lái con thuyền phát triển“. Vai trò làm chủ của bên thụ hưởng viện trợ cần được đề cao ngay cả từ khâu đề xuất nhu cầu viện trợ, hình thành và thiết kế dự án, cần tổ chức thực hiện và theo dõi kết quả.
Thứ tư: Cải thiện và chia sẻ thông tin, đây là cơ sở quan trọng làm cho quan hệ đối tác trở nên thiết thực hơn. Chúng ta cần trao đổi thông tin với các nhà tài trợ, cũng như giữa các nhà tài trợ đã thực hiện viện trợ, để giúp các bên hiểu biết lẫn nhau hơn, sự phối hợp nhờ đó sẽ làm cho việc quản lý ODA có hiệu quả hơn, thiết thực hơn. Từ đó chúng ta cùng phân tích và đánh giá tình hình phát triển của Việt Nam nói chung cũng như trên một số lĩnh vực cụ thể.
Thứ năm: Cần tăng cường năng lực cán bộ ở các cấp vì đây là nhu cầu cấp thiết là điều kiện quan trọng để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với các chương trính dự án có sử dụng vốn ODA.
KẾT LUẬN
Là một nước có nền nông nghiệp lạc hậu, đời sống dân cư thấp, cơ sở hạ tầng nghèo nàn, do đó việc huy động và sử dụng nguồn vốn nước ngoài có một ý nghĩa quyết định cho sự phát triển kinh tế xã hội nước ta trong giai đoạn đầu của sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá, trong đó nguồn vốn ODA có vai trò rất quan trọng. Nhận thức được tầm quan trọng đó trong thời gian qua Đảng và Nhà nước ta đã và đang thực hiện đường lối mở cửa, đưa ra những chính sách, chiến lược nhằm thu hút những nguồn lực bên ngoài (trong đó thu hút nguồn vốn ODA là mục tiêu hàng đầu), đặc biệt là chính sách nâng cao quản lý nhà nước đối với các chương trình dự án sử dụng vốn ODA. Chính vì thế mà từ năm 1993 đến nay các tổ chức viện trợ quốc tế đã cam kết cho Việt Nam vay 17,9 tỷ USD, số vốn được giải ngân qua các năm tăng lên rõ rệt, tính đến hết tháng 6/ 2000 đã giải ngân được 7,346 tỷ USD, do đó đã góp phần vào tăng trưởng kinh tế đạt tỷ lệ cao, cơ sở vật chất được hiện đại hoá và đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện. Song do một số những nguyên nhân khách quan và chủ quan nên tình hình giải ngân vốn ODA còn chậm, cơ chế chính sách còn nhiều bất hợp lý, cán bộ quản lý còn nhiều hạn chế về trình độ, kinh nghiệm cũng như chưa ý thức được vấn đề về nguồn vốn ODA. Chính vì vậy cần phải có cơ chế chính sách hợp lý, quán triệt đến tất cả các cấp bộ, ngành, địa phương để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với các chương trình dự án sử dụng vốn ODA, từ đó góp phần tích cực vào việc thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho việc trả nợ vốn vay nước ngoài và đạt tỷ lệ cao trong tích luỹ nguồn vốn trong nước vì sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Kinh tế Đầu tư - Đại học Kinh tế Quốc dân.
Giáo trình Kinh tế Phát triển - Đại học Kinh tế Quốc dân.
Sách kinh tế học các nước thế giới thứ ba.
Tạp chí thông tin Tài chính số 4, 17/ 1997; 11/ 1999.
Tạp chí Tài chính số 4, 6, 8/ 1997; 11/ 1999.
Tạp chí Phát triển kinh tế số 102/ 1999.
Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 2/ 2000; 10+ 11/ 2000.
Tạp chí Ngân hàng số 2/ 1999.
Kinh tế châu Á- Thái Bình Dương số 3/ 1999; 2/ 2000.
Quy chế quản lý Đầu tư và Xây dựng ban hành kèm theo Nghị định 52/ 1999/ CP ngày 08/07/1999 của Thủ tướng Chính phủ.
Quy chế quản lý và sử dụng nguồn vốn viện trợ phát triển chính thức ODA kèm theo Nghị định 78/ CP ngày 05/08/1997 của Thủ tướng Chính phủ.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28100.doc