Trải qua hơn 50 năm xây dựng và trưởng thành, ngân hàng nhà nước Việt Nam đã góp phần xứng đáng vào những thành tựu của cuộc cách mạng Việt Nam qua những chặng đường chói ngời chủ nghĩa anh hùng cách mạng và thắng lợi vẻ vang, góp phần củng cố nền độc lập, tự chủ, phục vụ sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
Trong bối cảnh đất nước hiện nay, hoạt động tín dụng của ngân hàng trung ương vẫn là nhân tố nòng cốt có ảnh hưởng đáng kể đến mục tiêu ổn định và tăng trưởng, cũng như trong công cuộc đổi mới toàn diện nền kinh tế đất nước theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Với ý nghĩa đó, trong thời gian tới hoạt động tín dụng của ngân hàng trung ương cần có những bước đi thích hợp, nhằm đẩy mạnh sự phát triển của nền kinh tế. Từ đó, rút dần khoảng cách về trình độ phát triển của nước ta so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Để hiểu rõ vấn đề trên, trong bài thuyết trình “Hoạt động tín dụng của ngân hàng trung ương và mối quan hệ với tăng trưởng kinh tế - Lý luận và thực tiễn” chúng tôi sẽ đưa ra cái nhìn tổng quan về các hoạt động tín dụng của ngân hàng trung ương và những tác động đến tăng trưởng trong từng thời kỳ.
34 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1640 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoạt động tín dụng của ngân hàng trung ương và mối quan hệ với tăng trưởng kinh tế - Lý luận và thực tiễn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của NHTW tùy thuộc vào giá trị gốc của hợp đồng tín dụng
được ký kết giữa bên cho vay nước ngoài và tổ chức tín dụng trong nước, nhưng
không được vượt quá tổng hạn mức bảo lãnh còn lại đối với tổ chức tín dụng đó.
Tổng hạn mức bảo lãnh còn lại = Tổng hạn mức bảo lãnh áp dụng cho một TCTD
– Dư nợ vay nước ngoài của TCTD đó.
3.4.5. Hình thức bảo lãnh và phí bảo lãnh:
a. Hình thức bảo lãnh:
Bảo lãnh của NHTW được thực hiện dưới hình thức Thư bảo lãnh: là văn bản
cam kết của NHTW đối với người cho vay nước ngoài về việc thực hiện nghĩa vụ trả
nợ thay cho người được bảo lãnh nếu người này thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ trả
nợ theo hợp đồng tín dụng đã ký kết.
b. Phí bảo lãnh:
Phí bảo lãnh là tiền bên được bảo lãnh phải trả cho NHTW
Phí bảo lãnh = Giá trị bảo lãnh x Thời gian tính phí bảo lãnh x Tỷ lệ phí bảo lãnh
3.5. Tạm ứng cho ngân sách:
Với tư cách là ngân hàng của chính phủ, NHTW tiến hành xác lập và thực hiện
quan hệ tín dụng với ngân sách nhà nước. Quan hệ tín dụng này gồm:
Tạm ứng cho ngân sách nhà nước: NHTW chỉ tạm ứng cho ngân sách nhà
nước khi ngân sách nhà nước bị thiếu hụt tạm thời, do các khoản thu chi ngân sách
không khớp nhau. Khoản tạm ứng này phải được hoàn trả trong năm ngân sách hiện
hành, hoặc hoàn trả vào năm kế tiếp với thời hạn không quá một năm.
Cho ngân sách nhà nước vay: bằng cách mua trái phiếu chính phủ có thời hạn
và có lãi suất.
II. Lý luận về mối quan hệ giữa hoạt động tín dụng của Ngân hàng Trung
Ương với tăng trưởng kinh tế:
Trước khi đi vào tìm hiểu nội dung của mối quan hệ giữa hoạt động tín dụng
của NHTW với tăng trưởng kinh tế, chúng tôi sẽ tóm lược một vài điều về tăng
trưởng kinh tế và các yếu tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế.
1. Tăng trưởng kinh tế và các yếu tố của tăng trưởng kinh tế:
a. Tăng trưởng kinh tế:
Ngân hàng thế giới (WB) trong “Báo cáo về phát triển thế giới năm 1991” đã
định nghĩa về tăng trưởng kinh tế như sau: “Tăng trưởng kinh tế chỉ là sự gia tăng về
lượng của những đại lượng chính đặc trưng cho một trạng thái kinh tế, trước hết là
đại lượng tổng sản phẩm xã hội, có tính đến mối liên quan với dân số.” Còn trong tác
phẩm “Kinh tế học của các nước phát triển”, thì nhà kinh tế học E.Wayne Nafziger
cho rằng: “Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng về lượng hoặc sự tăng lên về thu nhập
15
bình quân đầu người của một nước”. Trong khi đó một số quan điểm khác lại cho
rằng “Tăng trưởng kinh tế là sự tăng thêm về qui mô sản lượng của nền kinh tế trong
một thời kỳ nhất định”. Như vậy, mặc dù có nhiều định nghĩa khác nhau về tăng
trưởng kinh tế nhưng có thể khái quát hóa khái niệm tăng trưởng kinh tế như sau:
“Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng về tổng sản phẩm xã hội và tăng thu nhập bình
quân đầu người”.
Sẽ là một thiếu sót lớn khi nhắc đến khái niệm tăng trưởng mà không đề cập
đến tăng trưởng kinh tế bền vững ở đây. Vậy tăng trưởng kinh tế bền vững là gì?
“Tăng trưởng kinh tế bền vững là tăng trưởng kinh tế đạt mức tương đối cao và ổn
định trong thời gian tương đối dài (20-30 năm)”
b. Các yếu tố của tăng trưởng kinh tế:
Vốn: đây là yếu tố rất quan trọng trong tăng trưởng kinh tế.
Con người: là yếu tố cơ bản của tăng trưởng kinh tế bền vững. Đó phải là con
người có sức khỏe, có trí tuệ, có tay nghề cao, có động lực và nhiệt tình lao động
được tổ chức, kỷ luật chặt chẽ.
Kỹ thuật và công nghệ: kỹ thuật hiện đại, công nghệ tiên tiến là yếu tố quyết
định chất lượng của sự tăng trưởng kinh tế. Đặc biệt trong điều kiện kỹ thuật và công
nghệ phát triển mạnh mẽ như hiện nay, thì các nước đang phát triển như Việt Nam
phải đón đầu và ứng dụng mạnh mẽ trong sản xuất nhằm tạo ra năng suất lao động
cao, từ đó tích lũy đầu tư lớn, rút dần khoảng cách với các nước trong khu vực và trên
thế giới.
Cơ cấu kinh tế: xây dựng được cơ cấu kinh tế càng hiện đại thì tăng trưởng
kinh tế càng nhanh và bền vững.
Thể chế chính trị và quản lý nhà nước: thể chế chính trị càng ổn định, tiến bộ,
Nhà nước càng đề ra được các đường lối, chính sách phát triển kinh tế đúng đắn thì
tăng trưởng kinh tế càng ổn định hơn và nhanh hơn.
2. Nội dung mối quan hệ tăng trưởng kinh tế với hoạt động tín dụng của ngân
hàng trung ương:
Trong nền kinh tế, NHTW đóng một vai trò quan trọng trong việc điều tiết thị
trường tài chính cũng như kinh tế của một đất nước. Là cơ quan đặc trách quản lý hệ
thống tiền tệ của quốc gia, NHTW chịu trách nhiệm thi hành chính sách tiền tệ, trong
đó có hoạt tín dụng, để tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của nền kinh tế. Mục đích
hoạt động của NHTW là ổn định giá trị của tiền tệ, ổn định cung tiền, kiểm soát lãi
suất, cứu các NHTM có nguy cơ đổ vỡ. Với mỗi giai đoạn phát triển của nền kinh tế,
hoạt động tín dụng của NHTW sẽ có những phản ứng bằng các chính sách phù hợp.
Qua đó cho thấy mối quan hệ tác động qua lại giữa tình hình nền kinh tế với hoạt
động tín dụng của NHTW qua các giai đoạn, được thể hiện như sau.
Trong khuôn khổ bài thuyết trình, chúng tôi phân tích mối quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế với hoạt động tín dụng của ngân hàng trung ương trong 2 thời kỳ điển
hình:
16
a. Trong thời kỳ thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng:
Trong điều kiện nền kinh tế bị suy thoái, thất nghiệp và giảm phát có xu hướng
gia tăng. Khi lạm phát có dấu hiệu chững lại và đặt trong bối cảnh kinh tế thế giới đối
mặt với khủng hoảng tài chính và suy thoái, chính sách tiền tệ phải được điều chỉnh
cho phù hợp. Để nền kinh tế thoát ra tình trạng này, NHTW cần thực thi chính sách
mở rộng tiền tệ, với 2 mục tiêu chính là làm tăng lượng tiền cung ứng của nền kinh tế
và giảm lãi suất, qua đó thúc đẩy đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh… được xem
như liệu pháp phù hợp. Trong đó những hoạt động tín dụng của NHTW đóng vai trò
quan trọng trong việc thực thi những chính sách này như:
Nền kinh tế đang suy thoái, lượng vốn thiếu thốn trên thị trường, các ngân
hàng thiếu vốn để cấp tín dụng cho các doanh nghiệp, các tổ chức sản xuất. Hiện
tượng khát vốn xảy ra trên thị trường tài chính. NHTW sẽ nới rộng các nghiệp vụ tái
cấp vốn và nghiệp vụ chiết khấu các giấy tờ có giá, giảm lãi suất cho vay, lãi suất
chiết khấu bằng các hình thức cầm cố hay không cầm cố. Mở rộng điều kiện cho vay
để cho các ngân hàng thương mại có thể tiếp cận nguồn vốn này. Giảm tỷ lệ dự trữ
bắt buộc nhằm tăng cường lượng tiền mở rộng của các NHTM trong nền kinh tế và
nhiều chính sách khuyến khích khác thúc đẩy việc bơm vốn vào thị trường qua kênh
NHTM.
Ngoài ra, cần tạo sự thông thoáng và tạo điều kiện về nghiệp vụ cho vay thanh
toán cũng như tăng cường sự bảo lãnh trong các nghiệp vụ liên quan với nước ngoài
đối với các NHTW nhằm tăng tính thanh khoản của các ngân hàng, làm cho các
NHTM mạnh dạn hơn khi tham gia thị trường, tăng cường huy động vốn kích thích
nền kinh tế, tăng các nghiệp vụ cho vay nhất là cho vay tiêu dùng, kích cầu. Ngoài
những hoạt động trên, NHTW có thể thực hiện nhiều nghiệp vụ cũng như các hoạt
động khác hỗ trợ để nền kinh tế trở về trạng thái cân bằng.
b. Thời kỳ thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ:
Chính sách thắt chặt tiền tệ được áp dụng trong thời gian nhằm đối phó với
lạm phát ở mức cao, nền kinh tế tăng trưởng quá nóng. Thắt chặt tiền tệ là một hướng
trong chính sách tiền tệ nhằm giảm lượng cung tiền trong lưu thông. Khi lượng cung
tiền vượt quá lượng cầu tiền, sẽ dễ dẫn đến lạm phát. Do đó mục tiêu chính của thắt
chặt tiền tệ nhằm giảm mức lạm phát tạo sự cân bằng trên thị trường. Trong đó, việc
kết hợp các công cụ và các hoạt động tín dụng khác nhau nhằm điều tiết nền kinh tế ở
giai đoạn này cũng mang lại những kết quả khả quan.
Tăng cường các nghiệp vụ rút lượng tiền ra khỏi lưu thông trong nền kinh tế
qua các nghiệp vụ, công cụ khá phổ biến và hiệu quả mà NHTW thường sử dụng
như: tăng cường các lãi suất cho vay cũng như thu hẹp các nghiệp vụ chiết khấu đối
với các NHTM, tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, đòi hỏi các điều khoản cao hơn trong các
nghiệp vụ cho vay thanh toán và các nghiệp vụ bảo lãnh nhằm giảm lượng cho vay
của các NHTM nhất là đối với các nghiệp vụ cho vay tiêu dùng, giảm nhiệt nền kinh
tế, bình ổn thị trường và kiềm chế được lạm phát.
17
Thêm vào đó là các nghiệp vụ hỗ trợ khác, nhằm thực thi chính sách thắt chặt
tiền tệ một cách hiệu quả nhất như các hạn mức tín dụng đối với các khoản cho vay,
các chính sách về hành chính khác.
Như vậy, có thể nói rằng qua các giai đoạn khác nhau, trong việc thực thi
quyền lực của mình, NHTW cần phải dứt khoát tránh hiện tượng trễ của chính sách
tiền tệ. Điều quan trọng là việc xác định tình trạng nền kinh tế trong giai đoạn hiện tại
nhằm đề ra chính sách phù hợp và tạo nên hiệu quả tốt nhất cho hoạt động tín dụng
của NHTW, nhằm thúc đẩy phát triển nền kinh tế, giải quyết hai vấn đề quan trọng là
tình trạng thất nghiệp và lạm phát.
III. Thực tiễn về mối quan hệ giữa hoạt động tín dụng của ngân hàng Trung
Ương với lý thuyết tăng trưởng:
Như đã phân tích ở trên, vốn là một yếu tố rất quan trọng trong tăng trưởng
kinh tế của mỗi quốc gia. Đặc biệt là trong điều kiện nguồn vốn ở các nước đang phát
triển như Việt Nam còn hạn hẹp và khan hiếm, cũng như vấn đề làm thế nào để sử
dụng đồng vốn hiệu quả luôn là một bài toán khó đối với các nước này. Mặc khác,
tăng trưởng GDP (chỉ tiêu cơ bản đo lường tốc độ tăng trưởng kinh tế của một quốc
gia) phụ thuộc nhiều vào mức độ đầu tư đối với nền kinh tế. Trong lĩnh vực này,
NHTW đóng vai trò như một người “cầm lái” để đưa các dòng vốn vào nền kinh tế
thông qua “bàn tay điều tiết vô hình của mình”. Mà trước hết là thông qua các hoạt
động tín dụng của mình, NHTW sẽ quyết định nên hành động và ứng xử như thế nào
đối với từng tình huống cụ thể, trong mỗi giai đoạn phát triển kinh tế và phù hợp với
từng mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đã đặt ra.
Vậy trong những năm vừa qua NHNN Việt Nam đã thể hiện vai trò của mình
trong lĩnh vực này như thế nào thông qua hoạt động tín dụng? Đây không những là
nỗi băn khoăn của nhiều nhà kinh tế mà đó còn là bài toán khó đối với chính các nhà
điều hành hoạt động Ngân hàng. Bằng hoạt động tín dụng của mình, NHTW có thể
thực hiện một chính sách tiền tệ mở rộng bằng việc đưa ra mức lãi suất thấp để kích
thích đầu tư, tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn kinh tế gặp nhiều khó khăn. Nhưng
đi kèm với nó là bài toán lạm phát. Còn nhằm kiềm chế mức tăng trưởng quá nóng và
lạm phát, NHTW sẽ thi hành một chính sách tiền tệ thắt chặt với việc đưa ra mức lãi
suất cơ bản cao. Nhưng đi kèm với nó là bài toán thất nghiệp và nhiều vấn đề hệ lụy
liên quan. Có thể khẳng định, mục tiêu hàng đầu của hoạt động tín dụng NHNN thời
gian qua luôn hướng tới thực hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ là nhằm ổn định
thị trường, tăng trưởng và phát triển kinh tế, hướng đến một nền kinh tế bền vững cả
về cơ cấu, quy mô và chất lượng. Do tính phức tạp của vấn đề, nên trong phạm vi bài
viết này, chúng tôi chỉ đề cập đến một số hoạt động tín dụng của Ngân hàng Trung
Ương có tác động tích cực cũng như tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế nước nhà trong
từng giai đoạn cụ thể, cũng như đưa ra một số kiến nghị của nhóm đối với hoạt động
tín dụng của NHTW. Sau đây chúng tôi điểm qua một số điểm mốc chính trong lịch
sử phát triển kinh tế Việt Nam và vai trò của hoạt động tín dụng NHTW được thể
hiện như thế nào.
18
1. Hoạt động tín dụng của NHTW trước đổi mới 1986- cái nhìn tổng quan về
vai trò đối với tăng trưởng kinh tế:
Đây có thể coi là một giai đoạn đặc biệt trong quá trình ra đời và phát triển của
NHNN Việt Nam. Hoạt động tín dụng của NHNN trong giai đoạn này hầu như không
hiệu quả và chưa phát huy được vai trò của mình đối với sự nghiệp kiến thiết đất
nước sau chiến tranh. Với hệ thống NHNN 1 cấp từ việc thống nhất 2 ngân hàng:
NHQG ở miền Nam, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ở Hà Nội (ngày 2/7/1976), mọi
hoạt động tín dụng cua NHNN được đặt trong một cơ chế thống nhất trên cả nước.
Tuy nhiên, trong bối cảnh đó, NHNN Việt Nam lại phải đối mặt với những tình thế
hết sức khó khăn:
- Thiếu cán bộ quản lý, kể cả nhân viên có trình đô nghiệp vụ Ngân hàng.
- Phải chịu sức ép nặng nề về nguồn vốn tín dụng đáp ứng cho nhu cầu phát
triển kinh tế.
- Nhu cầu chi ngân sách đột ngột tăng lên, bình quân trong những năm 1976 -
1985 ngân sách bội chi tới 30% một năm.
- Một bộ phận lớn tiền ngân hàng phát hành đã trở thành tiền tài chính.
- Hoạt động tín dụng của NHNN chủ yếu phục vụ cho thành phần kinh tế quốc
dân, trong khi thành phần này lại phát triển không hiệu quả.
Những nguyên nhân trên đã khiến cho bức tranh về khủng hoảng kinh tế cũ
càng trầm trọng hơn: Ngân hàng thì thiếu tiền mặt nghiêm trọng, bên ngoài thì lạm
phát liên tục gia tăng mà đỉnh cao là năm 1986 (774,7%). Rõ ràng, cơ chế hoạt động
tín dụng của NHNN trong giai đoạn này không còn phù hợp với đòi hỏi của nền kinh
tế và phát triển đất nước trong thời bình.
2. Hoạt động tín dụng của NHTW- 20 năm đổi mới cùng đất nước 1986- 2006:
Trong 5 năm sau đổi mới 1986- 1990 là quá trình NHNNVN vừa vận hành,
vừa tìm tòi, thử nghiệm cơ chế hoạt động mới bằng cách tách dần chức năng quản lý
Nhà nước ra khỏi chức năng kinh doanh tiền tệ, tín dụng. Cụ thể:
- Chuyển dần chức năng “cấp phát” sang chức năng hạch toán kinh doanh.
- Tách dần cấp quản lý Nhà nước về Ngân hàng ra khỏi hoạt động kinh doanh.
- Thành lập các Ngân hàng chuyên doanh.
- Những đường nét ban đầu của cơ chế mới về hoạt động Ngân hàng theo 2 cấp
đã dần dần hình thành. Theo đó, NHNN thực thi nhiệm vụ quản lý Nhà nước
về mọi mặt hoạt động kinh doanh tiền tệ, tín dụng, thanh toán, ngoại hối và
điều hoà lưu thông tiền tệ; bước đầu thực thi nhiệm vụ của một NHTW.
Thế nhưng, trước áp lực lạm phát 3 con số vào những năm sau đổi mới: năm
1986: 774,7%; năm 1987 là 323,1%, năm 1988 là 393%. Và từ đây, cụm từ “lạm
phát” được đề cập với mật độ ngày càng dày đặc trên các phương tiện đại chúng. Với
19
mục tiêu kiềm chế lạm phát nhằm ổn định nền kinh tế, tháng 3/1989 NHTW đã nâng
lãi suất tiền gửi lên rất cao, và đây thực sự là một liệu pháp “sốc” của NHTW trong
giai đoạn này. Lãi suất tăng gấp 6 lần so với lãi suất hiện tại. Lãi suất tiền gửi không
kỳ hạn tăng từ 1,5%/tháng lên đến 9%/ tháng, lãi suất tiền gửi tiết kiệm cũng tăng
tương ứng từ 2%/tháng lên 12%/tháng. Việc làm này đã gây xôn xao dư luận trong và
ngoài nước. Mặc dù hành động này của NHTW đã chặn được lạm phát nhưng lại đẩy
nền kinh tế non trẻ vào trạng thái trì trệ. Bên cạnh đó, do kéo dài quá lâu liệu pháp
“sốc” này nên những người gửi tiền từ chỗ bị lỗ, trở thành người “kinh doanh có lãi
trên lưng Ngân hàng” trong khi bản thân Ngân hàng sau khi cho vay vẫn không thu
hồi được đủ và đúng hạn. Ngân hàng trở nên thua lỗ hơn bao giờ hết vào cuối 1990
và cả năm 1991 do hiệu ứng của liệu pháp “sốc” của NHNN kéo quá dài từ 1989. Lý
do đơn giản là người vay không thể tạo đủ lợi nhuận để trả lãi quá cao cho Ngân
hàng. Các doanh nghiệp ồ ạt “chết trước” mức lãi suất cho vay cao ngất ngưởng mà
NHNN quy định, điển hình là các xí nghiệp tư nhân như “Nước Hoa Thanh Hương”,
Công ty Đại Thành và hầu hết các Doanh nghiệp tư nhân khác, kể cả nhiều Xí nghiệp
quốc doanh cũng không khá hơn....đã để lại hậu quả nghiêm trọng đối với nền kinh tế
nói chung, và mục tiêu phát triển kinh tế trong giai đoạn này nói riêng; làm thất thoát
hơn 2.000 tỷ đồng (tương đương với 0,5 tỷ USD = 4,2% GDP của Việt Nam năm
1989) vào năm 1989 - 1991 và kéo dài việc xử lý cho đến một số năm tiếp theo.
Hoạt động cho vay thanh toán và cho vay khôi phục năng lực chi trả của
NHNN đối với các NHTM: hành động này cũng không thể cứu vãn tình trạng mất
khả năng thanh toán hàng loạt. Dư nợ vốn lưu động của hệ thống Ngân hàng chuyên
doanh của Nhà nước cấp cho các đơn vị kinh tế quốc doanh tăng rất mạnh: Cuối năm
1987 con số này là 400 tỷ đồng tăng gấp 3,6 lần so với cuối năm 1986; Năm 1988 là
1.718 tỷ đồng, gấp 4,3 lần (430%) so với cuối năm 1987. Đây cũng là những năm mà
tín dụng tung ra rất mạnh, nhưng tốc độ tăng doanh số thu nợ rất thấp. Các khoản nợ
phải trả đến hạn ngày càng tăng cao trong khi các khoản phải thu hầu như không thu
hồi được đủ và đúng hạn, làm cho các Ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và quỹ tín
dụng đứng trên bờ vực thẳm vì mất khả năng thanh toán.
Hoạt động tạm ứng cho Ngân sách Nhà nước: Cũng trong giai đoạn từ 1986
đến 1988 hầu hết các Hợp tác xã tín dụng nông thôn và các Quĩ tín dụng Đô thị đều
lâm vào tình trạng mất khả năng chi trả, Ngân hàng cổ phần tại thời điểm 1987 cũng
nằm trong tình trạng không có khả năng chi trả, phần lớn bị giải thể, bị đặt trong tình
trạng kiểm soát đặc biệt hoặc buộc phải sáp nhập. Các Ngân hàng thương mại Nhà
nước trong những năm 1986 – 1990 cũng không mấy sáng sủa do bị sức ép của nền
kinh tế “bung ra” nhưng vốn nhỏ, thị trường tài chính hầu như chỉ có các Ngân hàng
Quốc doanh “đứng mũi chịu sào”. Do đó, việc NHNN phát hành trực tiếp để bù đắp
ngân sách nhà nước và cấp gián tiếp cho đầu tư của Nhà nước qua NHTM nhà nước
đến khu vực kinh tế quốc doanh vẫn diễn ra một cách phổ biến. Hậu quả là dư nợ cho
vay tăng rất nhanh và đương nhiên với cơ chế đó thì những khoản nợ không thu hồi
được cũng tăng rất nhanh. Vốn điều lệ bình quân mỗi Ngân hàng thương mại Nhà
nước hồi đó chỉ ở mức 200 tỷ đồng (tương đương 44,5 triệu USD theo tỷ giá bình
20
quân năm 1989: 4.500đ/USD), nguồn huy động không đáp ứng nhu cầu cung ứng
vốn. Một bộ phận không nhỏ nguồn phát hành mặc nhiên trở thành nguồn “cấp phát”
vẫn là hình ảnh quen thuộc của hệ thống Ngân hàng Việt nam từ khi thành lập cho
đến những năm cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90 của thế kỷ 20.
Chính những thử thách khắc nghiệt giữa một bên là lực lượng sản xuất đang
“bung ra”, với một bên là quan hệ sản xuất nói chung – trong đó có nền tiền tệ bao
cấp, mất giá, mất niềm tin...đã dẫn đến tính cấp thiết của việc NHTW cần có những
bước đi mới thích hợp hơn với tình hình mới, đặc biệt là hoạt động tín dụng của
NHTW. Với vai trò là cơ quan của chính phủ và là NHTW, NHNN Việt Nam đã có
những nổ lực nhất định trong 20 năm đổi mới và phát triển đất nước giai đoạn 1986-
2006. Đặc biệt trong lĩnh vực hoạt động tín dụng, NHNN đã thể hiện vai trò quan
trọng trong việc điều hành chính sách tiền tệ quốc gia bằng các công cụ: tái cấp vốn,
chiết khấu và tái chiết khấu chứng từ có giá, cho vay thanh toán, bảo lãnh cho NHTM
và tạm ứng cho NSNN. Những thành quả đạt được trong giai đoạn này có thể điểm
qua những nét cơ bản như sau:
- Trực tiếp góp phần làm cho toàn nền kinh tế khắc phục được nạn khan hiếm phương
tiện thanh toán trong khi vẫn giữ được giá trị sức mua của VND.
- Chủ động kiểm soát được lạm phát, kéo chỉ số lạm phát từ 774,7% trong năm 1986
xuống ở mức 2 con số và xuống 1 con số liên tục 14 năm từ 1992 đến 2006.
- Trong cơ cấu toàn ngành ngân hàng, nổi lên vai trò của các Ngân hàng thương mại
Nhà nước. Tuy chỉ có 4 Ngân hàng (Ngân hàng Công thương Việt Nam, Ngân hàng
Đầu tư và phát triển Việt Nam, Ngân hàng phát triển nhà Đồng bằng Sông Cửu Long,
Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam) nhưng chiếm tới gần 60% thị phần tổng thể các
dịch vụ Ngân hàng thông qua một mạng lưới “dày đặc” các chi nhánh trong cả nước.
- Bắt đầu từ 1992 NHNN đổi mới chính sách lãi suất: (i) Đi từ lãi suất thực âm sang
lãi suất thực dương; (ii) Lãi suất dài hạn lớn hơn lãi hạn ngắn; (iii) Thu hẹp khoảng
cách giữa lãi suất nội tệ và lãi suất ngoại tệ; (iv)Từng bước tự do hoá cơ chế lãi suất
thích ứng với thị trường và phù hợp với thông lệ quốc tế, nhằm đáp ứng nhu cầu hội
nhập kinh tế thế giới.
Đến tháng 6/2002 với sự ra đời của cơ chế lãi suất thoả thuận, lãi suất trên thị
trường tín dụng ở Việt Nam đã hoàn toàn được tự do trên cơ sở lãi suất cơ bản do
NHNN công bố.
Như vậy, sau hơn 20 năm tiến hành đổi mới đất nước, hoạt động tín dụng của
NHTW cũng có những bước tiến nhất định nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của đất
nước và đạt được những kết quả đáng khích lệ trong công cuộc công nghiệp hóa- hiện
đại hóa đất nước. Đây là bước tiến khá quan trọng và là nền tảng cho những giai đoạn
phát triển tiếp theo phù hợp với nhu cầu và mục tiếu phát triển kinh tế mới.
3. Hoạt động tín dụng của NHTW thời kỳ hậu WTO, trước khủng hoảng kinh
tế toàn cầu 2008:
21
Việt Nam gia nhập WTO 2006 có thể xem là một bước tiến trong phát triển
kinh tế nước nhà. Việt Nam sẽ có cơ hội để tiến sâu hơn vào con đường hội nhập và
phát triển bình đẳng với các nước trong cộng đồng WTO, dựa trên các góc độ về nội
dung, chức năng và các nguyên tắc hoạt động của WTO. Nhưng điều đáng lo ngại và
trở thành thách thức hậu WTO đối với Việt Nam là trình độ, vị trí cũng như các mối
quan hệ kinh tế hiện hữu, năng lực điều hành kinh tế vi mô, vĩ mô của các cơ quan
chức năng Việt Nam so với nước bạn.
Để tham gia vào “đấu trường” này, Việt Nam cần nhận thấy một điều, đến lúc
chúng ta phải cạnh tranh gay gắt để đương đầu với khó khăn và tận dụng cơ hội. Và
để đương đầu với thách thức đó là phải tiến hành điều chỉnh một cách tương thích và
đưa ra các chính sách kinh tế – tài chính, đặc biệt là chính sách tài chính- tiền tệ và
hoạt động tín dụng của NHTW sẽ có ảnh hưởng lớn và trực tiếp đến tăng trưởng và
phát triển kinh tế.
4. Hoạt động tín dụng NHTW trong mối quan hệ với tăng trưởng kinh tế hậu
khủng hoảng 2008:
Giai đoạn hậu khủng hoảng, được xem là có nhiều thách thức đối với hầu hết
các quốc gia, trong đó có Việt Nam. Tuy không gánh chịu tác động trực tiếp của
khủng hoảng tài chính toàn cầu, song Việt Nam cũng khó tránh khỏi những ảnh
hưởng tương đối lớn. Thế nhưng, Việt Nam lại là một trong những nước giữ được tốc
độ tăng trưởng kinh tế ấn tượng nhất khu vực Đông Nam Á, ngăn ngừa được lạm
phát, an sinh xã hội được đảm bảo... đã giúp nền kinh tế thoát khỏi suy thoái. Trong
đó có sự đóng góp chủ đạo của NHNN bằng các chính sách và hoạt động thiết thực.
Trong phạm vi bài này, chúng tôi chỉ đề cập đến vai trò của hoạt động tín dụng của
NHTW.
4.1. Ngân hàng Nhà nước đã kịp thời chỉ đạo các ngân hàng thực hiện chương
trình hỗ trợ lãi suất 4% nằm trong gói thích kinh tế của chính phủ, góp phần
vào sự tăng trưởng kinh tế, ngăn ngừa suy giảm, đảm bảo an sinh xã hội.
Gói kích thích kinh tế có tổng giá trị gần 10% GDP, bao gồm 4 khoản: (i) Hỗ
trợ lãi suất vay vốn tín dụng khoảng 17 nghìn tỷ đồng, (ii) Vốn đầu tư phát triển của
Nhà nước khoảng 90,8 nghìn tỷ đồng, (iii) Thực hiện chính sách miễn, giảm thuế
khoảng 28 nghìn tỷ đồng, (iv) Các khoản chi khác nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế
và bảo đảm an sinh xã hội khoảng 9,8 nghìn tỷ đồng. Tuy đây không phải là hoạt
động tín dụng của NHTW, nhưng chính sách này thông qua sự chỉ đạo của NHTW đã
đạt những kết quả nhất định, kinh tế Việt Nam vẫn đạt được tốc độ tăng trưởng cả
năm ở mức ấn tượng, vượt 5,2%. Mặt bằng giá trong năm tương đối ổn định. Lạm
phát cả năm được kiềm chế ở mức 6,8%. Nên trong phạm vi bài này chúng tôi đề cập
đến gói hỗ trợ lãi suất do NHNN Việt Nam chỉ đạo thực hiện như một trong những
hoạt động có tác động lớn đến kinh tế vĩ mô thời gian qua.
22
Biểu đồ 1:Tăng trưởng GDP Việt Nam
Nguồn: Tổng cục thống kê
Vốn ngân hàng đã góp phần vực dậy hàng trăm doanh nghiệp đứng trước bờ
vực phá sản trở lại kinh doanh có hiệu quả, đem lại những đóng góp tích cực cho
ngân sách nhà nước. Bên cạnh đó, ngành cũng hỗ trợ tích cực và góp phần đạt được
những thành tựu nổi bật trong nhiều hoạt động như xoá đói giảm nghèo, cho vay
chương trình phát triển nhà ở Đồng bằng Sông Cửu Long; cho vay khắc phục hậu quả
thiên tai; cho vay ưu đãi về lãi suất khu vực miền núi, hải đảo, vùng sâu vùng xa; lập
quỹ tín dụng đào tạo cho sinh viên, học sinh vay tiền dài hạn 10-15 năm, lãi suất bằng
50% lãi suất thương mại thông thường (trong thời gian đi học không thu lãi. Theo báo
cáo của NHNN Việt Nam, đến ngày 10/12/2009, cả nước đã có tổng dư nợ hỗ trợ lãi
suất hơn 445 nghìn tỷ đồng, trong đó các NHTM và công ty tài chính thực hiện gần
415 nghìn tỉ đồng, Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VIB) 10.400 tỉ đồng, Ngân hàng
chính sách xã hội (NHCSXH) thực hiện gần 20 nghìn tỉ đồng. Nếu phân theo đối
tượng thụ hưởng thì doanh nghiệp nhà nước là hơn 59.800 tỉ đồng, doanh nghiệp
ngoài Nhà nước gần 290 nghìn tỉ đồng và hộ sản xuất gần 65.100 tỉ đồng.
Biểu đồ 2: Dư nợ HTLS phân theo các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ
23
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước
Xuất phát từ hiệu quả kinh tế - xã hội của nhóm giải pháp hỗ trợ lãi suất này và
những vấn đề cụ thể đặt ra trong sự phát huy nội lực của từng lĩnh vực, cộng đồng
trong xu thế tiếp tục hội nhập sâu vào thị trường quốc tế, ngày 11/11/2009, Chính phủ
đã ban hành Nghị quyết số 54/NQ - CP về tiếp tục thực hiện chính sách kinh tế hỗ trợ
lãi suất trên nguyên tắc thu hẹp đối tượng và giảm mức hỗ trợ hợp lý trong năm 2010.
Cụ thể là chỉ tiếp tục hỗ trợ lãi suất 2%/năm cho các khoản vay trung, dài hạn
bằng VND cho các tổ chức, cá nhân thuộc một số ngành hàng, lĩnh vực kinh tế với
thời hạn hỗ trợ lãi suất tối đa là 24 tháng, kể từ ngày giải ngân khoản vay trong năm
2010.
Ngày 25/12/2009, NHNN đã ra văn bản số 10220/NHNN - CSTT yêu cầu Chủ
tịch HĐQT, Tổng giám đốc các tổ chức tín dụng có nhiều khách hàng liên quan tới
Quyết định số 54, phải tập trung thực hiện ngay từ ngày đầu năm 2010 này:
- Điều chỉnh giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi VND không kỳ hạn và có kỳ
hạn dưới 12 tháng từ 5% xuống 3% kể từ kỳ dự trữ tháng 3/2009; tiền gửi có kỳ hạn
từ 12 tháng trở lên từ 2% xuống 1% kể từ kỳ dự trữ tháng 1/2009. Đồng thời, điều
chỉnh giảm lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc từ mức 8,5%/năm xuống 1,2%/năm; điều
chỉnh giảm lãi suất tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc bằng đồng ngoại tệ từ mức 1%/năm
xuống 0,1%/năm.
- Cho vay tái cấp vốn để kiểm soát lượng tiền cung ứng, đảm bảo khả năng an toàn
thanh toán cho hệ thống các tổ chức tín dụng và ổn định thị trường tiền tệ.
93.559,62
178.722,38
268.776,17
4.730
305.763,14
11.843
331.984,23
22.178
358.190,86
30.162
0
50.000
100.000
150.000
200.000
250.000
300.000
350.000
400.000
01/02/2009 01/03/2009 01/04/2009 01/05/2009 01/06/2009 01/07/2009
Quyết định 131/QĐ-TTg Quyết định 443/QĐ-TTg Quyết định 497/QĐ-TTg
Tỷ đồng
24
Trong quá trình thực hiện các chương trình hỗ trợ lãi suất đã xuất hiện một số
khó khăn, vướng mắc nhưng đây là một trong những giải pháp kích thích kinh tế tối
ưu với chi phí thấp, phù hợp với điều kiện nước ta, có tác động tích cực giúp nhiều
doanh nghiệp và hộ sản xuất giảm chi phí vay vốn vốn khoảng 30 – 40%, giảm giá
thành từ 2,5 – 6%, duy trì và mở rộng sản xuất - kinh doanh, tạo được việc làm cho người
lao động, có 91% doanh nghiệp nhỏ và vừa duy trì, phát triển sản xuất – kinh doanh, góp
phần bảo đảm an sinh xã hội, ngăn chặn suy giảm kinh tế.
4.2. Ba quý đầu năm 2008- thời kỳ bắt đầu và tăng cường thắt chặt tiền tệ:
Quá trình thực thi CSTT, trong đó có hoạt động tín dụng của NHTW được
nghiên cứu từ năm 2008 đến nay qua 3 thời kỳ:
Biểu đồ 3: Thay đổi chính sách tiền tệ từ năm 2008 đến nay
Q1 Q2, Q3 Q4
Chú thích:
- Quý I/2008 – thời kỳ bắt đầu thắt chặt,
- Quý II và III/2008 – thời kỳ tăng cường thắt chặt
- Quý IV/2008 tới nay – thời kỳ nới lỏng.
Quý I/2008: CSTT bắt đầu thắt chặt. Lãi suất được điều chỉnh tăng nhẹ từ
8,25% lên 8,75% vào tháng 01/2008.
(i) Thông qua các hoạt động tín dụng, NHTW đã rút tiền từ lưu thông nhằm mục tiêu
kiềm chế lạm phát, chủ động kiểm soát tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán và tín
dụng mức ở hợp lý để kiềm chế mức tăng tổng cầu và giá tiêu dùng.
(ii) Đồng thời, đổi mới cơ chế điều hành lãi suất, điều chỉnh tăng hợp lý các mức lãi
suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, tái chiết khấu nhằm tạo hành lang lãi suất phù hợp
008 009
012
014
013
012
011
010
009
007
000
002
004
006
008
010
012
014
016
Lãi suất cơ bản (%)
25
với định hướng kiểm soát tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng và từng bước đảm bảo lãi
suất thực dương cho người gửi tiền.
(iii) Tăng cường hỗ trợ vốn ngắn hạn cho các tổ chức tín dụng (TCTD) thông qua các
công cụ tái cấp vốn khác, tập trung ưu tiên vốn cho phát triển sản xuất, xuất khẩu, các
dự án kinh tế trọng điểm quốc gia và cho phát triển sản xuất nông nghiệp, nông thôn.
Tuy giải pháp này được cho là đúng đắn nhưng chưa thật sự phù hợp về thời
gian và liều lượng. Kết quả là thanh khoản của một số ngân hàng thương mại nhỏ bị
giảm sút nghiêm trọng dẫn đến cuộc đua lãi suất giữa các ngân hàng nổ ra đẩy lãi suất
huy động và cho vay liên tiếp kịch trần, thậm chí lãi suất qua đêm liên tục gia tăng kỷ
lục buộc ngân hàng thương mại phải siết chặt các khoản cho vay ảnh hưởng đến hoạt
động đầu tư và sản xuất kinh doanh.
Biểu đồ 4: Lãi suất liên ngân hàng kỳ hạn qua đêm năm 2008
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Quý II và III/2008: CSTT tăng cường thắt chặt. Lãi suất tiếp tục điều chỉnh tăng
mạnh lên tới 14%- mức cao nhất trong nhiều năm qua.
Biểu đồ 5: Lạm phát giai đoạn 2007- 2009 (%)
Nguồn: Tổng cục thống kê
Tín hiệu xấu từ nền kinh tế vĩ mô trong nước trong 4 tháng đầu năm 2008,
nhất là về thâm hụt thương mại và tỷ lệ lạm phát gia tăng tiếp tục tạo sức ép cho nền
kinh tế. Trước khó khăn đó, Chính phủ đã xác định nhiệm vụ hàng đầu là kiềm chế
lạm phát.
Lãi suất tái cấp vốn tăng gấp hai lần trong khoảng thời gian từ tháng 1 đến
tháng 6 (15%/năm: 10/6/2008). Mức lãi suất chiết khấu so với cuối năm 2007 cũng
0
5
10
15
20
02
/0
1/
20
…
15
/0
1/
20
…
28
/0
1/
20
…
18
/0
2/
20
…
29
/0
2/
20
…
13
/0
3/
20
…
26
/0
3/
20
…
08
/0
4/
20
…
23
/0
4/
20
…
08
/0
5/
20
…
21
/0
5/
20
…
03
/0
6/
20
…
16
/0
6/
20
…
27
/0
6/
20
…
10
/0
7/
20
…
23
/0
7/
20
…
05
/0
8/
20
…
18
/0
8/
20
…
29
/0
8/
20
…
12
/0
9/
20
…
25
/0
9/
20
…
08
/1
0/
20
…
21
/1
0/
20
…
03
/1
1/
20
…
14
/1
1/
20
…
27
/1
1/
20
…
10
/1
2/
20
…
23
/1
2/
20
…
0
5
10
15
20
25
30
26
tăng thêm 8,5%, ở mức 13%/năm từ 10/6. Tới giữa năm, Ngân hàng Nhà nước điều
chỉnh lãi suất cơ bản lên 14%/năm. Với qui chế điều hành cho phép tổ chức tín dụng
ấn định lãi suất kinh doanh không vượt quá 150% lãi suất cơ bản, trần lãi suất cho
vay lên tới 21%/năm. Đặc điểm đáng chú ý nữa của thời gian này là lãi suất huy động
ngắn hạn bằng thậm chí cao hơn lãi suất huy động dài hạn
Thống kê biện pháp điều chỉnh tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước sáu tháng
đầu năm 2008
Ngày Công cụ Mội dung điều chỉnh Văn bản quy định
30/1/2008 Lãi suất tái cấp vốn 7,5%/năm (tăng 1%)
306/2008/QĐ-
NHNN
Lãi suất chiết khấu 6%/năm (tăng 1,5%)
1/2/2008
Tỷ lệ dư nợ
cho vay
chứng khoán
Tổng dư nợ cho vay, chiết khấu
giấy tờ có giá để đầu tư và kinh
doanh chứng khoán không vượt
quá 20% vốn điều lệ của tổ
chức tín dụng
03/2008/QĐ-
NHNN
1/2/2008 Lãi suất cơ bản 8,75% (tăng 0,5%)
305/2008/QĐ-
NHNN
13/2/2008 Tín phiếu bắt buộc
Phát hành 20.300 tỷ đồng tín
phiếu bắt buộc, lãi suất
7,8%/năm. Thực hiện 17/3
346/QĐ-NHNN
10/6/2008 Lãi suất cơ bản 14/%/năm 1317/QĐ-NHNN
10/6/2008 Lãi suất tái cấp vốn 15%/năm 1316/QĐ-NHNN
Lãi suất chiết khấu 13%/năm
26/6/2008 Tín phiếu bắt buộc
Tăng lãi suất tín phiếu bắt buộc
(đã phát hành 17/3) lên
13%/năm (+ 5,5%)
1435/QĐ-NHNN
Nguồn: NHNN Việt Nam
NHNN điều hành thắt chặt tín dụng hạn chế ở mức 30%, đặc biệt giám sát
nghiêm ngặt cho vay chứng khoán và bất động sản theo hạn mức. Từ ngày
25/09/2008, NHNN cho phép các TCTD sử dụng 20.300 tỷ đồng tín phiếu NHNN bắt
buộc để cầm cố vay vốn, chiết khấu tại NHNN.
27
Ngay sau khi NHNN hủy bỏ trần lãi suất huy động 12%/năm và thay bằng trần
lãi suất cho vay 18%/năm (150% của lãi suất cơ bản vừa được nâng lên 12%/năm),
tất cả các NHTM, kể cả các NHTM quốc doanh, đều đồng loạt liên tiếp tăng lãi suất
huy động và tăng cường vay mượn trên thị trường liên ngân hàng (có lúc lên tới
20%/năm) để đối phó với tình trạng khó khăn về thanh khoản. Lãi suất cho vay cũng
tăng đến mức kỷ lục 21%/năm gây chi phí vốn cao cản trở các doanh nghiệp tiếp cận
nguồn vốn. Thêm vào đó, chi phí nguyên vật liệu đầu vào tăng mạnh khiến một số
doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thua lỗ, đình đốn, nợ xấu gia tăng. Tuy nhiên, tình
hình phát triển nóng của nền kinh tế với tỷ lệ lạm phát trên 20% đã được kiểm soát.
4.3. Lãi suất cơ bản giữ nguyên trong 10 tháng đầu năm 2009 nhằm đối phó và
vượt qua khủng hoảng, từ đó ổn định và phát triển nền kinh tế vĩ mô:
Thực hiện Nghị quyết của Chính phủ về ngăn chặn suy giảm kinh tế, ổn định
kinh tế vĩ mô, kích cầu đầu tư, tiêu dùng, đẩy mạnh xuất khẩu, tạo đà cho tăng trưởng
GDP chủ động phòng ngừa lạm phát và đảm bảo an toàn hệ thống, Ngân hàng Nhà
nước đã điều hành chính sách tiền tệ, tỷ giá, theo hướng nới lỏng thận trọng, trong đó
các mặt hoạt động tín dụng của NHTW đã hỗ trợ thanh khoản, tạo điều kiện cho các
tổ chức tín dụng mở rộng tín dụng hiệu quả. Với mục tiêu đó, NHNN đã điều chỉnh
giảm các mức lãi suất điều hành để vừa giảm mặt bằng lãi suất cho vay, vừa tăng
cường nguồn vốn huy động, đáp ứng nhu cầu mở rộng tín dụng của nền kinh tế.
Biểu đồ 6: Diễn biến lãi suất huy động, cho vay bằng VND từ 2008-2009
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Ngân hàng Nhà nước đã điều chỉnh giảm và duy trì ổn định các mức lãi suất
điều hành ở mức hợp lý từ tháng 2/2009 để giảm mặt bằng lãi suất cho vay, đáp ứng
nhu cầu mở rộng tín dụng của nền kinh tế. Theo đó, lãi suất cơ bản bằng đồng Việt
Nam được điều chỉnh giảm từ 8,5%/năm xuống 7%/năm, lãi suất tái cấp vốn giảm từ
9,5%/năm xuống 7%/năm, lãi suất tái chiết khấu giảm từ 7,5%/năm xuống 5%/năm.
Các mức lãi suất này được giữ nguyên cho đến hết tháng 11/2009. Như vậy khi ngân
hàng trung ương giảm lãi suất chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn đã làm tăng lượng
CÁC MỨC LÃI SUẤT CHỦ ĐẠO VÀ LÃI SUẤT THỊ TRƯỜNG TỪ THÁNG 5/2008 - 7/2009
0
5
10
15
20
25
Tháng
5/2008
Tháng
6/2008
Tháng
7/2008
Tháng
8/2008
Tháng
9/2008
Tháng
10/2008
Tháng
11/2008
Tháng
12/2008
Tháng
1/2009
Tháng
2/2009
Tháng
3/2009
Tháng
4/2009
Tháng
5/2009
Tháng
6/2009
Tháng
7/2009
Lãi suất
tái cấp vốn
28
cung tiền của hệ thống ngân hàng trung gian, tức là tăng lượng cung tiền trong toàn
bộ nền kinh tế và ngược lại.
4.4. Hoạt động tín dụng của NHTW có những thay đổi thích hợp với đà tăng
trưởng trở lại của nền kinh tế vào cuối năm 2009:
Tăng trưởng kinh tế chậm lại hai quý liên tiếp (quý IV/2008 tăng 5,5%, quý
I/2009 tăng 3,1%). Thế nhưng, càng về những tháng cuối năm 2009, đà tăng trưởng
đã trở lại với nền kinh tế trong nước: (i) kinh tế nội lực đã tăng trưởng và tiếp tục tăng
trưởng; (ii) vốn đầu tư nước ngoài vẫn tiếp tục được duy trì 5 tháng đầu năm, vốn
FDI đã lên đến 6,8 tỉ USD; (iii) nhà máy lọc dầu Dung Quất đã cho ra sản phẩm
trong năm 2009, đưa vào hoạt động 15 nhà máy điện và nhiều công trình cơ sở hạ
tầng kinh tế xã hội khác, (iv) CPI tăng chậm; (v) VN- Index đang phục hồi ở mức >
450 điểm, (vi) giảm áp lực thất nghiệp giảm; (vii) nông nghiệp ổn định và tăng
trưởng; (viii) các gói kích hoạt kinh tế đang dần đi vào hiệu lực; (ix) an sinh xã hội
được bảo đảm; (x) điều hành kinh tế vĩ mô luôn được điều chỉnh thích ứng với khủng
hoảng toàn cầu; (xi) kinh tế toàn cầu đã vượt qua thời kỳ khó khăn nhất, Việt Nam
nằm trong 22 nước có tăng trưởng dương mặc dù thâm hụt ngân sách có thể lên 8%.
Trước tình hình đó, từ cuối tháng 11/2009, để phù hợp với diễn biến mới của
nền kinh tế và trên cơ sở xem xét mối quan hệ giữa tỷ giá, lãi suất, chỉ số giá tiêu
dùng và cán cân thanh toán quốc tế, NHNN đã quyết định điều chỉnh lãi suất cơ bản
tăng từ 7%/năm lên 8%/năm, tăng lãi suất tái cấp vốn tăng từ 7%/năm lên 8%/năm,
lãi suất chiết khấu tăng từ 5%/năm lên 6%/năm áp dụng từ 01/12/2009. Những động
thái này gây quan ngại cho một số nhà đầu tư trong nước. Họ cho rằng đây là dấu
hiệu của CSTT thắt chặt sẽ được thực thi trong năm 2010, do đó có thể ảnh hưởng
hạn chế tốc độ tăng trưởng trở lại của nền kinh tế. Tuy nhiên, nếu xét từ diễn biến
thực tế trên thị trường cho thấy việc thay đổi lãi suất cơ bản và tỷ giá cuối tháng 11
thực hiện đồng bộ cùng các biện pháp bình ổn tỷ giá và lãi suất thị trường là một giải
pháp thận trọng cần thiết, và phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế giai đoạn sau
khủng hoảng. Xuất phát từ những nguyên nhân sau:
Thứ nhất, việc thực hiện tăng lãi suất tái cấp vốn là việc làm cần thiết để
kiểm soát chặt chẽ quy mô và chất lượng tín dụng, phù hợp với mục tiêu kinh tế vĩ
mô của Chính phủ.
Thứ hai, việc nâng lãi suất tái cấp vốn vá lãi suất tái chiết khấu đã tạo ra sự ổn
định, đưa lãi suất thị trường trở lại theo quy luật cung - cầu, tránh sức ép, tiêu cực cho
hệ thống tài chính - ngân hàng và nền kinh tế.
Thứ ba, việc tăng các loại lãi suất này đã làm cho các NHTM đồng loạt điều
chỉnh tăng lãi suất huy động lên mức cao (10,5 % giảm xuống 10,499 %). Lãi suất
cho vay có kỳ hạn đều tăng trần lên mức 12%. Từ đó, làm tăng chi phí cho việc nhập
khẩu. Qua đó giúp nhập khẩu giảm, kích thích xuất khẩu nhằm hạn chế tình trạng
nhập siêu cao và kích thích sản xuất - tiêu dùng hàng hóa trong nước.
29
IV. Các nhóm giải pháp và kiến nghị nhằm tăng cường tính hiệu quả của hoạt
đông tín dụng Ngân hàng Trung ương đối với tăng trưởng kinh tế
1. Các nhóm giải pháp:
Triển khai đồng bộ các giải pháp để điều hành tín dụng nhằm khuyến khích
sản xuất và xuất khẩu, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô và an sinh xã hội, như :
Chỉ đạo các tổ chức tín dụng thực hiện các giải pháp về tín dụng để vừa chia sẻ
khó khăn với doanh nghiệp, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vừa bảo đảm an toàn hoạt
động của ngành và ngăn ngừa nguy cơ tái lạm phát: (i) Xem xét, cơ cấu lại thời hạn
trả nợ, điều chỉnh giảm lãi suất đối với các hợp đồng đã ký trước đây về mức lãi suất
cho vay hiện hành (ii) Mở rộng và cân đối nguồn tín dụng đối với nền kinh tế phù
hợp với mục tiêu tăng trưởng kinh tế và định hướng tăng trưởng tín dụng của Ngành;
đồng thời, điều chỉnh cơ cấu tín dụng để tập trung vốn cho sản xuất và xuất khẩu.
Tiếp tục thực hiện cơ chế cho vay ưu đãi lãi suất theo Nghị quyết số
30a/2008/NQ-CP của Chính phủ về chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền
vững đối với 61 huyện nghèo; quy định chi tiết việc cho vay đối với đối tượng mua,
thuê mua nhà ở có thu nhập thấp tại khu vực đô thị; phối hợp với Bộ Tài chính trình
Thủ tướng ban hành quy chế bảo lãnh của Ngân hàng Phát triển cho doanh nghiệp.
Tăng cường công tác thanh tra, giám sát đối với các tổ chức tín dụng và thị
trường tiền tệ để kịp thời nắm bắt diễn biến hoạt động ngân hàng và có biện pháp xử
lý kịp thời những rủi ro, vướng mắc, sai phạm.
Tăng cường theo dõi, phân tích, dự báo thị trường tiền tệ, cung – cầu vốn, lãi
suất để chủ động áp dụng các hoạt động tín dụng của NHTW một cách phù hợp.
Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền về các chủ trương, chính sách, diễn
biến tiền tệ và hoạt động tín dụng của NHTW nhằm giúp cho NHTM hiểu đúng và
thực hiện tốt hơn các quy định pháp luật về những chính sách trên.
Đối với hoạt động tái cấp vốn:
NHTW cần khắc phục những nhược điểm đang tồn tại của loại hình hoạt
đông tín dụng này trong thời gian qua:
Thứ nhất: Thuật ngữ “tái cấp vốn” được hiểu là NHNN bổ sung vốn hoạt
động cho các ngân hàng, nhất là các NHTM thuộc sở hữu Nhà nước. Trong khi thực
tế, hoạt động tái cấp vốn của NHNN chỉ hỗ trợ tạm thời sự thiếu hụt về nguồn vốn
trong hoạt động kinh doanh của các NH và quan hệ tái cấp vốn ngày là quan hệ vay
trả có thời hạn. Điều này làm giảm tính minh bạch trong hoạt động tái cấp vốn của
NHNN.
Thứ hai: thời gian hoàn thành một đề nghị cho vay cầm cố giấy tờ cấp vốn
(GTCG) của NHNN còn dài. Đối với đề nghị vay vốn của các ngân hàng có trụ sở
chính tại Hà Nội thì thời gian thực hiện từ khi nhận đủ hồ sơ đến khi vay vốn thường
không quá 2 ngày làm việc, nhưng đối với các ngân hàng không có trụ sở chính tại
30
Hà Nội thì thời gian này thường bị kéo dài ra, có khi lên tới 5 ngày làm việc. Đây là
một trong những hạn chế cơ bản của công cụ này, làm giảm tính chất hỗ trợ khẩn cấp
của công cụ tái cấp vốn để bổ sung dự trữ của các ngân hàng.
Thứ ba: sự quan tâm và hiểu biết của hệ thống NHTM tới các nghiệp vụ tái
cấp vốn không đồng đều và nhìn chung chưa cao. Các ngân hàng thường xuyên tiếp
cận vốn với nguồn vốn này chỉ là 4 NHTM Nhà nước có trụ sở tại Hà Nội.
Thứ tư: năm 2009, tổng hạn mức chiết khấu đã phân bổ cho các ngân hàng chỉ
đạt 60-80% tổng hạn mức được phép sử dụng trong quý. Điều này thể hiện sự thiếu
quan tâm của các ngân hàng đối với hình thực tái cấp vốn này.
Thứ năm: về cơ bản, không có nhiều khác biệt giữa hình thức chiết khấu có
thời hạn và hình thức cầm cố GTCG có thời hạn. Tuy nhiên lãi suất áp dụng lại khác
nhau. Mặt khác, hình thức chiết khấu GTCG của NHNN trên thị trường mở. Điều này
dẫn tới sự khác biệt không cần thiết trong việc tiếp cận các công cụ của NHNN.
Vì vậy cần có những giải pháp nhằm phổ biến và phát huy vai trò của hoạt động
tín dụng tái cấp vốn như là:
NHNN cần hiện đại hoá hệ thống thông tin, hệ thống vi tính và công nghệ. Tổ
chức đăng ký giao dịch và xử lý, giải quyết các yêu cầu của NHTM qua hệ thống
mạng vi tính. NHNN cũng cần đẩy mạnh tuyên truyền về công cụ tái cấp vốn đối với
tất cả các NHTM, nhất là các NHTM cổ phần, chi nhánh Ngân hàng nước ngoài
mạnh dạn sử dụng công cụ này. Ngoài ra NHNN cũng nên bãi bỏ hạn mức tín dụng,
mà cần căn cứ vào nhu cầu thực tế của NHTM và giấy tờ có giá của NHTM để quyết
định cho vay. Cuối cùng là, NHNN cũng cần đa dạng hơn nữa các giấy tờ có giá giao
dịch trên thị trường mở, giao dịch tái cấp vốn. Tăng cường đào tạo và đào tạo lại cán
bộ làm nghiệp vụ cho vay tái cấp vốn tại NHNN là hết sức cần thiết và có tính cấp
bách trong việc nâng cao hiệu quả và hoàn thiện công cụ này.
2. Một số kiến nghị nhằm tăng cường tính hiệu quả của hoạt đông tín dụng
Ngân hàng Trung ương đối với tăng trưởng kinh tế
- Tăng cường tính mềm dẻo, linh hoạt và kịp thời của chính sách tiền tệ, trong đó
có các mặt hoạt động tín dụng của NHTW:
Trong việc thực thi các nghiệp vụ tín dụng trong các thời kỳ khác nhau đòi hỏi
phải có sự mềm dẻo, linh hoạt nhằm tăng tính hiệu quả của hoạt động này đối với các
tình huống khác nhau phù hợp với mục tiêu tăng trưởng kinh tế, giữ vững ổn định
kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, trong đó kiềm chế lạm phát là mục tiêu ưu tiên
hàng đầu.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ động, linh hoạt trong việc sử dụng các
công cụ chính sách tiền tệ, trong đó có hoạt đông tín dụng, theo nguyên tắc thị
trường, kiểm soát chặt chẽ tổng phương tiện thanh toán và tổng dư nợ tín dụng nhưng
phải bảo đảm tính thanh khoản của nền kinh tế và hoạt động của các ngân hàng, tổ
31
chức tín dụng. Sử dụng linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ để giảm dần lãi suất
huy động theo hướng thực hiện chính sách lãi suất thực dương.
Việc thực thi chính sách tín dụng không chỉ nằm ở lượng tín dụng mà quan
trọng hơn là làm thế nào để phân bổ tín dụng một cách đúng đắng- tức là đưa tín dụng
đến những đối tượng có thể sử dụng chúng một cách hiệu quả, tạo ra giá trị gia tăng,
việc làm và kim ngạch xuất khẩu cao nhất cho nền kinh tế.
Linh hoạt có nghĩa là có thể thay đổi, nhưng việc thay đổi phải dựa vào các
yếu tố khách quan, do yêu cầu của tình hình kinh tế, đồng thời đáp ứng mục tiêu của
Chính phủ.
- Kết hợp đồng bộ giữa hoạt động tín dụng và các hoạt đông khác của NHTW,
cũng như các chính sách hỗ trợ khác:
Chẳng hạn như các chính sách tài khoá, các hoạt động thị trường mở, tỷ giá,
các chủ trương chính sách Nhà Nước và các hoạt động của các bộ ngành khác nhau.
Như thế mới nâng cao được tính hiệu lực cũng như hiệu quả tốt nhất của hoạt động
tín dụng NHTW, đưa nền kinh tế trở lại thế ổn định. Một thực tế điển hình khi
NHTW quyết định hạ nhanh và mạnh lãi suất thì phải điều chỉnh tỷ giá kèm theo. Khi
thực thi các hoạt động tín dụng nhằm để chống lạm phát có hiệu quả, bên cạnh giải
pháp tiền tệ, trong đầu tư công, nên giảm những dự án chưa cần thiết và tránh thất
thoát, lãng phí.
- Hoạt động tín dụng của ngân hàng trung ương cần phát huy vai trò chủ đạo,
điều hành tín dụng đối với các NHTM:
Cần phát huy vai trò chỉ đạo, điều hành đối với các NHTM và các tổ chức tín
dụng nhằm thực hiện các giải pháp về tín dụng và lãi suất để kích thích sản xuất và
xuất khẩu nhằm đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô và an sinh xã hội ngăn ngừa quy cơ
tái lạm phát một cách đồng bộ trong hệ thống NHTM của nền kinh tế. Chính sách mở
rộng tín dụng đối với nền kinh tế và định hướng tăng trưởng kinh tế của ngành ngân
hàng, đảm bảo tỷ lệ an toàn và tăng cường kiểm soát chất lượng tại các NHTM, đồng
thời điều chỉnh cơ cấu tín dụng để tập trung vốn cho sản xuất và cân đối nguồn vốn
cho các lĩnh vực khác.
- Cần có sự phù hợp một cách tương đối trong hoạt động tín dụng của NHTW đối
với từng vùng miền khác nhau.
Trong giai đoạn hiện nay, NHTW cần linh hoạt trong việc áp dụng các chính
sách tiền tệ để phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị xã hội của từng vùng miền
khác nhau. Trong giai đoạn thực thi chính sách thắt chặt, NHTW nên hạn chế việc
cấp tín dụng cho việc xây dựng cơ sở vật chất cũng như các dự án có quy mô lớn mà
khó thu hồi vốn. Tuy nhiên, NHTW vẫn phải tiếp tục cấp tín dụng trong phát triển cơ
sở hạ tầng, các nghiệp vụ tín dụng hỗ trợ hoạt động sản xuất kinh doanh ở nông thôn,
tăng trưởng sản lượng nền kinh tế, góp phần giải quyết lao động nhàn rỗi ở nông
thôn. Vì vậy, khi thực hiện các hoạt động tín dụng của NHTW cần chú trọng một
cách nghiêm túc vấn đề vùng miền.
32
- Tăng cường tính độc lập tương đối trong hoạt động tín dụng của NHTW với các
chính sách và mục tiêu chính phủ
Tính độc lập của NHTW được xem như là nền tảng của những cải cách về mặt
thể chế để giảm sự can thiệp bất hợp lý của chính trị đến quá trình xây dựng và điều
hành chính sách tiền tệ (CSTT) nhằm đạt được mục tiêu ổn định giá cả. Tính độc lập
của NHTW được thể hiện thông qua việc xác định rõ cơ chế hoạch định CSTT là như
thế nào, NHTW có được toàn quyền quyết định việc sử dụng các công cụ để thực thi
CSTT hay không cũng như nêu rõ trách nhiệm của NHTW nói chung và Thống đốc
nói riêng trong trường hợp mục tiêu không đạt được như đã đặt ra.
NHTW có tính độc lập càng cao thì mục tiêu ổn định giá càng có khả năng
thực hiện, nhờ đó mà hoạt động tín dụng của NHTW mới góp phần vào tăng trưởng
kinh tế bền vững trong dài hạn. Ở đây, Chính phủ có thể xác định cho NHTW những
mục tiêu cụ thể, nhất quán với những hiểu biết đúng đắn về vai trò của hoạt động tín
dụng. Bên cạnh đó, Chính phủ có thể trao cho NHTW những công cụ thực hiện mục
tiêu đó mà không cần can thiệp bằng cách ấn định những chỉ số cơ bản như yêu cầu
về tăng giảm lãi suất tái chiết khấu hay lượng tiền cung ứng.
- Nâng cao tính hiệu quả của hoạt động thanh tra, giám sát:
NHTW nên thực hiện các biện pháp hành chính như thanh tra, giám sát việc
chấp hành pháp luật trong lĩnh vực ngân hàng, thông tin tuyên truyền giúp công
chúng hiểu đúng chủ trương chính sách của nhà nước về tiền tệ và ngân hàng. Tăng
cường kiểm soát và giám sát chặt chẽ hoạt động của các ngân hàng thương mại để
bảo đảm việc tuân thủ đúng các quy định về huy động, cho vay và chất lượng tín
dụng. Kịp thời phát hiện, xử lý các vi phạm theo đúng quy định của pháp luật để giảm
thiểu rủi ro trong hoạt động ngân hàng.
- NHTW cần xác định rõ mục tiêu chính cần theo đuổi và mục đích của hoạt động
tín dụng là gì:
Trong từng giai đoạn, khi mục tiêu của NHTW có xung đột với các mục tiêu
kinh tế vĩ mô khác, NHTW cần xác định rõ mục tiêu chính cần theo đuổi.Chẳng hạn
trong hai năm 2007-2008, do lạm phát cao nên NHTW cần hướng mục tiêu vào giảm
lạm phát chứ không phải là tăng trưởng kinh tế. Không nên cố gắng cân bằng hai mục
tiêu theo công thức lạm phát < tăng trửơng thực như NHNW đang làm hiện nay.
- Xem xét và rà soát hoạt động tạm ứng cho NSNN:
Hiện nay, mức thâm hụt ngân sách của Việt Nam đã ở rất cao. Do vậy, trong
hoạt đông này, NHTW cần xem xét, thẩm định để đảm bảo tính hiệu quả và khả thi
của dự án. Tạm ứng cho ngân sách nhà nước phải phù hợp với mục tiêu tăng trưởng
kinh tế trong từng thời kỳ.
33
KẾT LUẬN
Không thể phủ nhận vai trò quan trọng của hoạt động tín dụng của Ngân hàng
Trung Ương đối với tăng trưởng kinh tế. Tuy không trực tiếp cung ứng vốn cho nền
kinh tế, nhưng thông qua các mặt hoạt động : tái cấp vốn, chiết khấu và tái chiết khấu
chứng từ có giá, cho vay thanh toán, bảo lãnh cho các ngân hàng thương mại và tạm
ứng cho ngân sách nhà nước, ngân hàng trung ương đã giữ quyền quyết định và chi
phối tổng lượng tín dụng mà hệ thống ngân hàng cung ứng cho nền kinh tế - một
trong những yếu tố cơ bản thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Trong xu hướng nền kinh tế đầy biến động như hiện nay, hoạt động tín dụng
của ngân hàng trung ương càng trở nên quan trọng với nhiệm vụ hàng đầu là hướng
đến việc thực hiện các mục tiêu của chính sách tài chính tiền tệ, chủ động điều chỉnh
khối lượng tín dụng theo diễn biến của thị trường vì lợi ích chung của nền kinh tế-xã
hội.
34
Danh mục tài liệu tham khảo
Giáo trình Nghiệp vụ Ngân hàng Trung Ương, PGS- TS. Nguyễn Đăng Dờn, Năm
2009
Tài liệu kinh tế Fullbright, năm 2009
Thời báo Ngân hàng, số 35, Ngày 1- 3- 2010
Tạp chí thông tin Tài chính, số 1+ 2/2010
Thời báo kinh tế
www.sbv.org.vn
www.tailieu.vn
www.wikimedia.com.vn
www.saga.vn
www.tuoitre.com.vn
www.vnepress.net
www.vneconomy.vn
www.kienthuctaichinh.com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- HO7840T 2727896NG TN D7908NG C7910A NGN HNG.pdf