Đề tài Hoạt động tín dụng và Tín dụng ngân hàng ở Việt Nam. Thực trạng và giải pháp

Trong phạm vi tiểu luận này, em cũng đã cố gắng đưa ra những vấn đề cơ bản nhất về hoạt động tín dụng Ngân hàng cũng như thực trạng của hoạt động tín dụng Ngân hàng ở Việt Nam hiện nay. Song do khả năng hiểu biết còn hạn chế nên trong bài viết không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong sự đóng góp ý kiến của thầy cô và các bạn để bài viết lần sau của em được hoàn thiện hơn.

doc52 trang | Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1311 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoạt động tín dụng và Tín dụng ngân hàng ở Việt Nam. Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ội lựa chọn đầu tư của các NHTM và các tổ chức tín dụng khác... Có thể nói đây là lực lượng cơ bản tạo ra tăng trưởng dư nợ tín dụng trong nền kinh tế. Việt Nam trong nhiều năm gần đây, mỗi khi có những diễn biến không bình thường của tình hình kinh tế vĩ mô: GDP tăng trưởng chậm, lạm phát thấp hoặc chỉ số CPI âm, lúa gạo hay cà phê khó tiêu thụ, thiên tai xảy ra trên diện rộng... thì trong số các giải pháp quan trọng được bàn đến đó là tín dụng ngân hàng. Từ đầu năm 2000 đến nay, đứng trước tình hình phát triển kinh tế xã hội hiện tại cũng như dự báo ngắn hạn thì hoạt động ngân hàng lạI thu hút được sự quan tâm không nhỏ. Qua những thông tin mới nhất ta sẽ đi vào phân tích thực trạng của hoạt động ngân hàng nước ta hiện nay, đó là: Về nguồn vốn đã có sự tăng trưởng khá (Thái Bình đạt 1519 tỷ đồng, tăng 22,5% so với cuối năm 2000; Nam Định đạt 1517 tỷ đồng, tăng 15%; Ninh Bình đạt 677 tỷ đồng, tăng 12,3%). Trong điều kiện trung lãi suất tiền gửi và lãi suất huy động vốn trong những tháng đầu năm 2001 nhiều lần giảm; cơ chế điều hành lãi suất và điều chỉnh vốn nội bộ trong mỗi hệ thống tổ chức tín dụng, tình hình cạnh tranh ngày càng sôi động hơn nên hầu như ít có sự chênh lệch lãi suất giữa các tổ chức tín dụng, khi tốc độ tăng trưởng vốn nhanh phản ánh hai khía cạnh sau: - Tâm lý tiết kiệm, để dành của ngưòi dân vẫn còn lớn - Cơ cấu kinh tế chưa chuyển đổi mạnh, thị trường nông thôn chưa phát triển , hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp, còn nhiều rủi ro, người có vốn không dám mạnh dạn đầu tư. Tuy nhiên, nhìn trung tín dụng nước ta hiện nay vẫn còn tăng trưởng chậm, ngược với tình hình diễn biến tăng trưởng nguồn vốn huy động. Cụ thể đến hết tháng 6/2001, dư nợ cho vay ở một số tỉnh trong nước tăng trưởng rất chậm so với cuối năm 2000 như TháI Bình dư nợ 1340 tỷ đồng (tăng 8,9%), Nam Định dư nợ 1315 tỷ (tăng 3%), Ninh Bình dư nợ 984 tỷ (tăng 19,1%). Nguyên nhân gây ra sự tăng trưởng chậm của tín dụng có thể khái quát như sau: Các hộ nông dân, hộ kinh doanh, hộ làm các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, các loại hình doanh nghiệp thiếu các dự án khả thi để ngân hàng đầu tư vốn. Sau khi có quyết định 67/ TTg và một số cơ chế tín dụng đã tháo gỡ thông thoáng dư nợ cho vay, nhất là cho vay nông nghiệp và nông thôn tăng trưởng nhanh, nay có dấu hiệu bão hoà, khó mở rộng như trước được. Nếu cứ cố đẩy tín dụng ra, nguy cơ rủi ro là điều khó tránh khỏi.Các địa phương thiếu các dự án kích cầu có đủ điều kiện để ngân hàng đầu tư vốn. Nhiều chương trình kinh tế được đưa ra nhưng chỉ có trên văn bản, còn chưa có các phương án, dự án chi tiết, thiếu giải pháp cụ thể về vốn. Nhiều địa phương chỉ muốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn thông qua chính quyền thôn, xã, tuy nhiên lại không đủ điều kiện đảm bảo tiền vay theo cơ chế hiện hành. Trong khi đó đa số các hợp tác xã được chuyển đổi, thành lập mới chưa đủ điều kiện vay vốn, cũng như dự án đầu tư mới của các doanh nghiệp có rất ít. Việc sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước tiến hành chậm, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh được tạo lập mới không nhiều. Sau đây ta sẽ nghiên cứu thực trạng về một số vấn đề của hoạt động tín dụng của NHTM Việt Nam hiện nay. 1. Huy động vốn của các ngân hàng thương mại trong thời gian qua: Huy động vốn là một trong những nghiệp vụ tạo vốn quan trọng hàng đầu của các NHTM thông qua các nghiệp vụ chủ yếu như: huy động tiền gửi, nghiệp vụ ngoại bảng của NHTM và các nghiệp vụ trung gian khác. Khi chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, NHTM còn nhiều bỡ ngỡ, hiệu quả kinh doanh nhiều mặt bị hạn chế, kể cả mảng huy dộng vốn. Nhưng cùng với lỗ lực của bản thân các NHTM, sự ủng hộ từ nhiều phía tạo môi trường kinh doanh thuận lợi hơn, các NHTM đã quen dần với cơ chế mới, đã đạt được nhiều thành quả nhất định trong kinh doanh. Đến nay chỉ xét riêng mảng huy đọng vốn của hầu hết các NHTM, cả quy mô và chất lượng đều được phát triển. Theo báo cáo của ngân hàng Nhà nước qua mấy năm gần đây, các tổ chức tín dụng trong nước cũng như chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh đều có tốc độ liên tục tăng. Năm 1995, các NHTM quốc doanh huy động được 31,7 nghìn tỷ VND (kể cả ngoại tệ quy đổi) thì năm 1999 đã huy động được 115,508 nghìn tỷ VND (tăng 3,64 lần). Đối với các chi nhánh ngân hàng nước ngoàI và ngân hàng liên doanh, năm 1995 huy dộng được 2,085 nghìn tỷ VND (quy đổi) và đến năm 1999 là 14,413 nghìn tỷ VND quy đổi (tăng gần 7 lần). Riêng trong năm 2000, quán triệt nghiệp vụ ngay từ đầu năm, toàn hệ thống đã tích cực nắm bắt thị trường, tình hình biến động trong nước và thế giới có nhiều giải pháp phù hợp để đẩy mạnh huy động vốn đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế. Đơn cử như giải pháp lãi suất huy động linh hoạt nội và ngoại tệ của các NHTM, phát hành tráI phiếu ngân hàng để nâng cao tỷ trọng vốn trung và dài hạn, huy động vốn bằng vàng... Đến cuối năm 2000, số dư tiền gửi tại các tổ chức tín dụng tăng 30% so với đầu năm, cao hơn nhiều so với mức tăng năm trước và vượt kế hoạch đề ra. So với đầu năm, tính sơ bộ đến hết tháng 6/ 2001, tổng nguồn vốn của các tổ chức tín dụng trong cả nước tăng khoảng 7%, trong đó nguồn vốn huy động từ dân cư tăng xấp xỉ 8%. Bảng so sánh phân tích về huy động vốn 6 tháng đầu năm 2001 của các tổ chức tín dụng: Nhóm các TCTD So sánh Tỷ trọng trong tổng nguồn vốn của các tổ chức tín dụng (%) Tăng so với đầu năm 2001 (%) Tỷ trọng trong tổng nguồn vốn của các tổ chức tín dụng Huy động vốn từ dân cư Các TCTD Nhà nước 75,7 8 10 Các chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân hàng liên doanh 13 1 1 Các TCTD cổ phần 10 5 9 Các TCTD phi ngân hàng 0,3 6 7 Các TCTD hợp tác 1 10 Riêng trong tháng 7/ 2001, vốn huy động của các NHTM tăng 0,5% đối với VND, trong khi lãi suất huy động vốn VND được tăng0,05-0,1%/ tháng tuỳ từng NHTM so với tháng trước; vốn huy động bằng USD tăng 1,2% mặc dù lãi suất huy động ngoại tệ tiếp tục giảm. Nhu cầu vay vốn bằng VND 6 tháng đầu năm 2001 tăng gần 10% và vay bằng ngoại tệ giảm gần 7%. Hỗu hết các doanh nghiệp đều tránh vay vốn bằng ngoại tệ mà chuyển sang vay vốn bằng VND. Các ngân hàng trong nước từ đầu tháng 8/ 2001 thừa ra tới 708 triệu USD phải chuyển sang gửi ở nước ngoài (tăng 127 triệu USD so với đầu năm 2001) do không cho vay ra được. Mặc dù cách huy động vốn và cho vay vốn của các tổ chức tín dụng nói chung và các NHTM nói riêng đều tăng, nhưng mức thấp hơn. Tình hình hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng nói chung hiện nay gặp không ít khó khăn. Các NHTM tiếp tục điều chỉnh lãi suất huy động vốn VND cũng như ngoại tệ. Bên cạnh đó ngân hàng Nhà nước cũng điều chỉnh mức dự trữ bắt buộc, giảm đối với VND và tăng đối với USD, nhằm tạo sự hấp dẫn hơn cho huy động vón bằng VND. Tuy nhiên, các biện pháp này vẫn chưa có tác động tích cực như mong muốn đến việc huy động vốn cũng như cho vay. Nguyên nhân là do: + Theo nguyên tắc kinh doanh, có đầu ra cho vốn (có thể trước mắt hoặc dự kiến cho dài hạn) thì các tổ chức tín dụng mới đẩy mạnh được huy động vốn. Nhìn tổng quát, theo đánh giá chung, mức tăng trưởng tín dụng ngân hàng vẫn còn thấp so với dự kiến do một số nguyên nhân chủ yếu sau: Về phía ngân hàng, chưa chủ động cùng doanh nghiệp và các hộ sản xuất xây dựng các dự án sản xuất kinh doanh có hiệu quả để cho vay. Tình trạng quá tải đối với cán bộ tín dụng của một số ngân hàng (nhất là NHNo & PTNT) chậm được khắc phục. Mạng lưới cho vay chưa vươn tới được một số thôn bản, vùng sâu, vùng xa, ... cho nên nhân dân ở các vùng này chưa tiếp cận được vốn tín dụng ngân hàng. Thủ tục vay vốn cuẩ một số ngân hàng chưa phù hợp với từng đối tượng khách hàng vay, nhất là trong hoàn cảnh ở nước ta, người dân chưa hiểu biết nhiều ngân hàng và mặt bằng dân trí lại khác nhau ở nhiều vùng, ở nhiều đối tượng. Về phía nền kinh tế và các bộ, ngành, địa phương có liên quan: Thị trường tiêu thụ nhiều sản phẩm đang đứng trước những khó khăn lớn, số doanh nghiệp có dự án khả thi ít, số doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn và đã được Chính phủ phê duyệt lại chậm được giải ngân do những bất cập trong quy trình đấu thầu; giải phóng mặt bằng, trình độ, thủ tục thực hiện đầu tư còn quá chậm. Một số doanh nghiệp có nhu cầu vay ngoại tệ nhưng ngại rủi ro về tỷ giá nên ngưng lại chờ đợi chuyển sang nhu cầu vay bằng VND. Các dự án trọng điểm được Chính phủ phê duyệt vay bằng ngoại tệ lại được triển khai rất chậm, nên không giải ngân được. Số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ đang tăng nhanh nhưng phần lớn không đủ điều kiện đảm bảo tiền vay; mặt khác cũng do thiếu cơ chế bảo lãnh cho các loại doanh nghiệp này nên họ khó tiếp cận được vốn vay ngân hàng. Còn nhiều vướng mắc về thế chấp quyền sử dụng đất để vay được vốn ngân hàng. Giá đất do UBND tỉnh, thành phố quy định (giá Nhà nước) để tính giá trị tài sản thế chấp xa so với giá thị trường. Đồng thời các trường hợp nộp tiền thuê đất phổ biến hiện nay dưới 5 năm; đất giao không thu tiền sử dụng đất để sản xuất nông nghiệp, làm muối, nuôi trồng thuỷ sản không được thế chấp quyền sử dụng đất nên số tiền được vay ít. Chậm ban hành các văn bản hướng dẫn Nghị định 178 của Chính phủ từ các bộ, ngành cũng đang gây khó khăn cho khách hàng vay. + Nhìn từ phía huy động vốn của các tổ chức tín dụng, mức tăng trưởng thấp so cùng kỳ do một số nguyên nhân cơ bản sau: Thời gian qua, nền kinh tế thế giới tăng trưởng chậm và lãi suất trên thị trường quốc tế giảm mạnh. Mặt bằng lãi suất trong nước cũng giảm theo đã có tác động làm giảm lượng vốn huy động vào ngân hàng. Thị trường bất động sản nhộn nhịp trở lại đã thu hút một lượng vốn khá vào đây. Bên cạnh đó, tác động của luật doanh nghiệp mới đã hấp dẫn đáng kể vốn đầu tư vào các lĩnh vực kinh doanh, hy vọng hưởng thu nhập cao hơn thay vì gửi vào ngân hàng để hưởng lãi như trước đây. Một số kênh huy động vốn khác ngoài ngân hàng như quỹ tiết kiệm bưu điện, các công ty bảo hiểm, thị trường chứng khoán, ... cũng đã thu hút một lượng vốn đáng kể từ dân cư. Về phía chủ quan từ ngân hàng, thời kỳ qua cũng có nhiều giai đoạn vốn huy động bị ứ đọng do không thể cho vay ra được trong khi vẫn phải chi trả chi phí đầu vào, nên một số đơn vị ngân hàng cũng phải tính toán cầm chừng để đảm bảo hợp lý mối quan hệ giữa đầu vào, đầu ra trong kinh doanh. 2. Cho vay vốn của các ngân hàng thương mại Việt Nam: 2.1. Thực trạng đầu tư tín dụng và nợ quá hạn: Hoạt động tín dụng ngân hàng vẫn còn nhiều yếu kém, bất cập và chưa đáp ứng được nhu cầu, thể hiện ở chất lượng hiệu quả đầu tư tín dụng còn rất thấp, tỷ lệ nợ quá hạn ở mức cao có thể nói là đang ở mức báo động. Ta xem xét tình hình này dựa trên báo cáo của ngân hàng thế giới những năm gần đây. Năm Tổng nợ quá hạn vốn tự có Tổng nợ quá hạn vốn tự có Tổng nợ quá hạn vốn tự có Tổng nợ quá hạn vốn tự có 1991 - - - 7,4 1992 88,1 13,7 6,0 6,8 1993 95,5 11,1 6,6 6,9 1994 85,0 6,0 5,5 6,9 1995 61,9 7,8 4,4 7,1 1996 75,7 9,3 5,5 7,2 1997 62,3 9,5 5,4 7,9 8/ 1998 46,0 10 5,5 11,8 (Nguồn: Báo cáo của Ngân hàng thế giới 17031-VN) Nếu xét riêng từng loại hình NHTM thì mức dư nợ quá hạn cao nhất vẫn là các NHTM cổ phần, sau đó là NHTM quốc doanh. Trên thực tế hiện nay mức nợ quá hạn, khó khăn đòi hỏi là rất lớn, con số lên tới 100.000 đồng, nhiều vụ vay nợ không có khả năng hoàn trả với số tiền lớn tới vài nghìn tỷ như vụ Epco Minh Phụng, vụ Tamexco. Ngoài ra còn rất nhiều khoản nợ quá hạn khó đòi vì lý do không xử lý nổi tài sản thế chấp, một phần do giá cả thị trường bất động sản xuống thấp bán ra không đủ thu hồi vốn, phần lớn là vướng cơ chế chính sách nếu không có chỉ đạocủa Chính phủ và sự phối hợp của các ngành thì không thể giải quyết được. 2.2. Vấn đề tiếp cận thị trường của các ngân hàng thương mại: Hiện nay hoạt động tín dụng của hệ thống NHTM ở nước ta nhìn chung vẫn còn chưa chủ động tiếp cận thị trườngđể đề ra các biện pháp thích ứng với thị trường, đảm bảo hiệu quả và an toàn trong kinh doanh hạn chế rủi ro. Điều này thể hiện trước hết qua việc hầu hết các NHTM chưa có chiến lược kinh doanh cụ thể, tính thụ động còn cao, ngân hàng chờ đợi khách hàng đến với mình là chính mà chưa chủ động đi tìm khách hàng. Nếu có thì nội dung và phương pháp còn nghèo nàn, chủ yếu là tín dụng ứng trước, tín dụng dựa trên các công cụ tài chính như tráI phiếu, thương phiếu, hợp đồng có bảo đảm để hạn chế tín dụng ứng trước chưa được thực hiện. Ngân hàng chưa nắm chắc được khách hàng: về năm lưu tàI chính, khả năng kinh doanh của họ, những mong muốn cũng như những khó khăn của họ ... Điều đó đặt ra cho hệ thống NHTM ở nước ta phải có một chính sách và một chiến lược tiếp cận thị trường khoa học và có hiệu quả. Đây cũng là cơ sở cho sự tồn tại của ngân hàng, đồng thời là nhân tố thúc đẩy phát triển nền kinh tế. 2.3. Vấn đề trích lập quỹ dự phòng rủi ro: Trích lập quỹ dự phòng rủi ro về phương diện vĩ mô là cơ chế phòng ngừa bùng phát khủng hoảng nợ của các tổ chức tín dụng; về phương diện vi mô là nghĩa vụ và quyền lợi của các tổ chức tín dụng. Đúng ra cơ chế trích lập quỹ dự phòng rủi ro phảI ra đời từ khi ra đời pháp lệnh NH T10/1990, tuy nhiên vì nhiều lý do khác nhau nên mãi đến 8/2/1999, Thống đốc ngân hàng Nhà nước mới ban hành quyết định số 48/1999/QĐ-NHNN quy định về việc phân loại tài sản “có”, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động tín dụng ngân hàng. Tuy chậm nhưng nó cũng đã đáp ứng được đòi hỏi hết sức cấp thiết của thực tiễn hoạt động ngân hàng hiện nay. Chính vì vậy, trong thời gian tới, việc thực hiện quyết định 48 cần phảI được đẩy mạnh hơn nữa cả từ phía ngân hàng và các cơ quan chức năng khác, nhằm giải quyết, tháo gỡ những vướng mắc trong quá trình thực hiện và tiến tới một phương án tối ưu nhất về quy chế này. 2.4. Một số nguyên tắc, điều kiện cho vay chưa phù hợp với thực tế thị trường: Đó là chưa có môi trường pháp lý đầy đủ cụ thể cho kinh doanh tín dụng ngân hàng, điều kiện cho vay hiện nay gần như bắt buộc có tài sản thế chấp cầm cố đặc biệt đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, trong khi đó chúng ta chưa có luật về sở hữu nên không có cơ quan nào chịu trách nhiệm cấp chứng thư sở hữu tài sản và quản lý quá trình chuyển dịch sở hữu tài sản Pháp luật cho các doanh nghiệp thế chấp quyền sử dụng đất nhưng lại phải có điều kiện cầm cố tài sản thuộc sở hữu của mình, quy định này khó có thể áp dụng được với doanh nghiệp Nhà nước. Bên cạnh đó pháp luật về giải quyết tranh chấp tố tụng về hợp đồng kinh tế, hợp đồng dân sự, phát mại tài tài sản, bán đấu giá còn chưa rõ ràng, cụ thể gây khó khăn cho ngân hàng trong việc giải quyết tài sản thế chấp cầm cố. 2.5. Tín dụng ngân hàng với một số khách hàng chủ yếu: (đặc biệt là các doanh nghiệp còn gặp nhiều khó khăn vướng mắc) + Tín dụng ngân hàng với doanh nghiệp: Hiện nay tình trạng nhiều ngân hàng cùng cho vay một doanh nghiệp là không đảm bảo an toàn, mặc dù có trung tâm TD CIC, các ngân hàng đã nối mạng những khi cho vay doanh nghiệp vẫn không nắm bắt được thông tin kịp thời, chính xác. Thực tế cho thấy các NHTM không thể hoàn toàn kiểm soát được việc sử dụng vốn vay của các doanh nghiệp. Thứ nhất, cho vay các doanh nghiệp Nhà nước không phải thế chấp tài sản, do đó có doanh nghiệp “ chạy hết ngân hàng này đến ngân hàng khác, ngân hàng nào có lãi suất hạ chút ít thì họ vay nhiều hơn. Quan hệ tín dụng giữa các ngân hàng là hỗn loạn vì mỗi ngân hàng có chính sách thu hút khách hàng khác nhau, ngân hàng nào cũng phải tranh thủ doanh nghiệp đến mức tối đa. Tuy nhiên việc sử dụng 1 bộ chứng từ để đi vay nhiều ngân hàng rất dễ dẫn đến tình trạng lừa đảo làm thất thoát vốn tín dụng. Thứ hai, việc thu hồi vốn cho những khoản cho vay trước đây về đầu tư đổi mới dây truyền công nghệ đối với các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn do việc làm ăn kém hiệu quả của các doanh nghiệp này. Thứ ba, việc gặp khó khăn đối với các doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH về thế chấp tài sản để vay vốn ngân hàng. Thực tế thì các doanh nghiệp này thường năng động trong kinh doanh nên trả nợ tương đối sòng phẳng, tuy nhiên có một vài doanh nghiệp tư nhân đã lừa đảo chiếm đoạt tài sản Nhà nước trong đó đáng chú ý là vụ án Epco Minh Phụng, vụ Tamexco và gần đây là công ty TNHH Thanh Hà (Hải Phòng). Thứ tư, các thủ tục rườm rà, các lệ phí không hợp lý khi vay đã gây cản trở cho hoạt động tín dụng ngân hàng, với doanh nghiệp chẳng hạn khi khách hàng đi vay phải chịu một khoản lệ phí công chứng 0,2% trên mỗi khoản vay là quá cao. + Tín dụng với nông dân nghèo trong việc phát triển nông nghiệp, nông thôn: Đối tượng cho vay là người nghèo nên khả năng bảo đảm vốn vay rất thấp, chỉ mang tính hình thức, kiến thức và kinh nghiệm kinh doanh của họ lại hạn chế, quá trình sản xuất kinh doanh lại bị ảnh hưởng nhiều của thiên tai, khí hậu, phong tục tập quán, việc tổ chức sản xuất kinh doanh của người nghèo chủ yếu mang tính chất kinh tế gia đình cá thể, tự cấp, tự túc, sản phẩm chưa trở thành hàng hoá, do đó tỷ suất lợi nhuận thấp ... Tất cả điều đó làm cho chất lượng tín dụng người nghèo thấp, vốn quay vòng chậm, luôn tiềm ẩn một tỷ lệ rủi ro tín dụng cao, khả năng mở rộng quy mô tín dụng của NHTM bị hạn chế, mặc dù nhu cầu vay vốn của người nghèo trong thời gian qua là rất cao. Bên cạnh đó có thể nhận thấy mô hình tổ chức của các ngân hàng người nghèo hiện nay chỉ phù hợp với giai đoạn đầu thành lập. Nhưng sẽ không phù hợp, không đáp ứng được trong thời gian tới. Về cơ chế chính sách cũng bộc lộ nhiều bất cập: mức vốn cho vay chưa phù hợp, không đảm bảo đủ để chăn nuôi, trồng trọt, thời hạn vay chưa hợp lý, thời hạn vay tối đa phù hợp với từng loại vật nuôi cây trồng vẫn đang là những vấn đề vướng mắc cần giải quyết. Sự khác nhau về lãi suất trên cùng một địa phương với các khoản vốn có cùng tính chất từ nguồn NSNN cho vay hỗ trợ người nghèo đã tạo ra sự không bình đẳng về quyền lợi cũng như các yếu tố tâm lý thắc mắc giữa các người nghèo vay vốn ... Trên đây chúng ta đã nghiên cứu những thực trạng của hoạt động tín dụng NHTM cũng như những nguyên nhân của nó. Thành tựu còn ít mà khó khăn hạn chế thì nhiều giải quyết nó không phải ngày một ngày hai mà cần phải có một chiến lược đúng đắn mang tính khoa học phù hợp với tình hình thực tế của hoạt động tín dụng ngân hàng hiện nay nhằm phát huy hơn nữa vai trò và hiệu quả của nó. 3. Nhiều tổ chức tín dụng cùng cho một khách hàng vay vốn và tình trạng lừa đảo trong lĩnh vực hoạt động tín dụng của Ngân hàng: 3.1. Nhiều tổ chức tín dụng cùng cho một khách hàng vay vốn: Theo báo cáo của Trung tâm thông tin tín dụng Ngân hàng Nhà nước (CIC), hiện nay việc nhiều tổ chức tín dụng cùng cho một khách hàng vay vốn là hiện tượng khá phổ biến. Có những khách hàng có quan hệ tín dụng với 9 tổ chức tín dụng. Số khách hàng có quan hệ tín dụng với từ 5 tổ chức tín dụng trở lên có tới vàI chục. Các khách hàng vay vốn nhiều tổ chức tín dụng thường là các doanh nghiệp lớn như các tổng công ty 90, 91; các doanh nghiệp Nhà nước có hoạt động lớn, khi vay vốn không cần phảI thế chấp, cầm cố tàI sản. Nhưng cũng có khách hàng là hợp tác xã vay vốn tạI 5 tổ chức tín dụng. Các thông tin mà CIC nắm được mới chỉ phản ánh được một phần hiện trạng. Thức tế còn không ít trường hợp nhiều tổ chức tín dụng cùng cho vay một khách hàng mà CIC chưa nắm được thông tin do nhiều nguyên nhân khác nhau mà một số tổ chức tín dụng chưa cung cấp, hoặc cung cấp chưa đầy đủ, chưa kịp thời thông tin cho CIC. Như vậy, ngoàI những trường hợp các tổ chức tín dụng cho vay hợp vốn “Quy chế đồng tàI trợ của các tổ chức tín dụng”; hiện tượng nhiều tổ chức tín dụng cùng cho vay một khách hàng khá phổ biến như nói trên cần phảI được lưu tâm xem xét. Vì lợi ích trước mắt, hiện nay các tổ chức tín dụng khó có thể tự giác cùng hợp tác để có chung một hướng hành động nhằm giảm bớt khả năng rủi ro khi cùng cho một khách hàng vay vốn. Thiết nghĩ, đã đến lúc Ngân hàng Nhà nước cần có biện pháp quản lý trước hiện trạng này. 3.2. Lừa đảo trong lĩnh vực hoạt động tín dụng của Ngân hàng: Trong lĩnh vực kinh doanh của Ngân hàng trong tình hình hiện nay là một vấn đề đáng bàn. Nền kinh tế thị trường của chúng ta đã có những tác động làm nảy sinh những vấn đề rủi ro trong kinh doanh của Ngân hàng, rủi ro của Ngân hàng đã được thự tế chứng minh trong thời gian dàI vừa qua và được nhiều nhà khoa học bàn đến như: Rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất, rủi ro tỷ giá, rủi ro thanh khoản,.. . và một “rủi ro” dáng sợ đối với Ngân hàng là bị lừa đảo. Khi Ngân hàng bị lừa đảo dẫn đến một hậu quả khó lường đó là tài sản Nhà nước bị mất, Ngân hàng mất khả năng thanh toán; Ngân hàng bị phá sản ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế, xã hội của một cộng đồng. Tội phậm lừa đảo trong thời kỳ bao cấp chủ yếu lừa đảo tài sản riêng của công dân và một số nhỏ lừa đảo tài sản Nhà nước, nhưng khi nền kinh tế thị trường ra đời và phất triển thì tội lừa đảo bắt đầu xâm nhập vào ngành Ngân hàng ngày một nghiêm trọng hơn, tài sản của Nhà nước bị thất thoát nhiều hơn với một mức độ đáng lo ngại. Chỉ tính từ năm 1993 - 1997 đã xảy ra 724 vụ lừa đảo các Ngân hàng, có vụ lên tới hàng trăm tỷ đồng. Đối tượng lừa đảo những năm trước kia còn mang tính đơn lẻ tự phát, đến any đã trở thành có tổ chức, lừa đảo trên một phạm vi rộng, số lượng tài sản lớn. Đối tượng lừa đảo Ngân hàng chủ yếu là các doanh nghiệp ngoàI quốc doanh và tư nhân, tổng số các vụ lừa đảo có 254 doanh nghiệp ngoài quốc doanh, 460 tư nhân, 10 doanh nghiêp Nhà nước, đối tượng tư nhân lừa đảo chủ yếu là những cán bộ công nhân viên Nhà nước bị thải hồi đã có tiền án tiền sự về kinh tế, khi ra hoạt động tự do trong nền kinh tế thị trường muốn làm giàu cấp tiến, bằng những hình thức lừa đảo Ngân hàng rút tiền của Nhà nước ra là nhanh nhất. Nếu ta nhìn khách quan, phân tích trên phương diện thực tế và khoa học thì thấy rằng: có đối tượng lừa đảo chuyên nghiệp (lừa đảo hết tỉnh này đến tỉnh khác, từ Ngân hàng này đến Ngân hàng khác), đó là một nghề kiếm sống của họ, nhưng cũng có đối tượng dộng cơ mục đích không muốn lừa đảo, nhưng do sự biến động của nền kinh tế thị trường, vay tiền Ngân hàng để kinh doanh, khi làm ăn có lãi thì hoàn trả Ngân hàng đầy đủ , khi biến động kinh tế, làm ăn cầm chừng dần không có lãi thậm chí thua lỗ thì lúc đầu là nợ quá hạn, sau là nợ khó đòi, khi cơ sở mất khả năng thanh toán, nợ không phải chỉ có Ngân hàng, còn nhiều chủ nợ khác nữa dẫn đến lừa đảo Ngân hàng. Có cơ sở, quá trình sản xuất kinh doanh bị đối tượng khác lừa với một tài sản lớn cộng nợ của doanh nghiệp đã lên tới hàng tỷ đồng, từ đó nảy sinh và thực hiện lừa đảo. Nhìn từ góc độ là cơ quan thừa hành pháp luật, các đối tượng thực hiện hành vi lừa đảo được trót lọt, tiền Nhà nước mất đi nếu không có sự “thông đồng móc ngoặc” của một số cán bộ, nhân viên (công chứng, ngân hàng) thì khó thực hiện được. Bởi lẽ những hồ sơ vay tiền, khế ước đều được cán bộ, nhân viên Ngân hàng, công chứng thẩm định những số tài sản mang đi thế chấp (tài sản thế chấp không đúng chủng loại, mượn tài sản của người khác để thế chấp,...). Điều đó cần phải được xem xét lại một cách thận trọng để góp phần hạn chế rủi ro tín dụng trong cơ chế thị trường hiện nay. 4. Sự quá tải đối với cán bộ tín dụng: Trong hoạt động của mỗi NHTM và tổ chức tín dụng có nhiều nghiệp vụ khác nhau: thanh toán, kế toán, cho vay, bảo lãnh, ngoại hối,... Do đó, đội ngũ cán bộ cũng được bố trí theo từng nghiệp vụ cụ thể, những người trực tiếp làm công tác cho vay được gọi là cán bộ tín dụng. Hoạt động tín dụng là hoạt động chủ yếu không thể thiếu được của bất kỳ NHTM và tổ chức tín dụng nào, thu nhập từ hoạt động này chiếm 80 - 90% tổng thu nhập của mỗi tổ chức tín dụng. Tùy theo đặc điểm yêu cầu và trình độ công nghệ của mỗi tổ chức tín dụng mà khối lượng cán bộ tín dụng ở mức độ khác nhau, nhưng thường chiếm từ 15 - 25% tổng số cán bộ, nhân viên của mỗi đơn vị. Đến nay chưa có con số thốn kê chính xác, nhưng toàn bộ hệ thống NHTM và tổ chức tín dụng ở nước ta hiện nay có khoảng trên, dưới 10.000 cán bộ tín dụng. Tùy theo đối tượng khách hàng, quy mô của khoản cho vay và đặc điểm của tổ chức tín dụng, những người làm công tác cho vay, làm tín dụng lại tiếp tục được phân công chi tiết cụ thể khác nhau: Thẩm định dự án, tín dụng I, tín dụng II, ... nhưng nhìn chung, hiện nay cán bộ tín dụng là người trực tiếp phải thực hiện Quyết định số 324/1998/QĐ - NHNN I, ngày 30/9/1998 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng, quy định về đảm bảo tiền vay, quy trình cho vay cụ thể của từng tổ chức tín dụng, trong đó cán bộ tín dụng phải trực tiếp thực hiện các công việc như: - Tiếp nhận giấy đề nghị vay vốn hay đơn xin vay của khách hàng. - Kiểm tra tính sát thực, đầy đủ và phù hợp của hồ sơ xin vay, các điều kiện vay vốn theo quy định. - Thẩm định kiểm tra đối tượng vay vốn và tính khả thi, hiệu quả của dự án xin vay. - Kiểm tra việc sử dụng vốn vay, đôn đốc việc trả lãi và nợ gốc vốn vay đúng hạn. Do đó, một khi thực hiện xong các khâu công việc trên, thu đủ gốc và lãi thì được coi như đã cơ bản hoàn thành một khoản cho vay. Nếu như món vay càng nhỏ, địa bàn cư trú của người vay càng phân tán, trình độ dân trí càng thấp, số lượng người vay càng đông thì khối lượng công việc mà cán bộ tín dụng thực hiện càng nhiều. Song số lượng công việc chỉ có thể thực hiện được trong giới hạn thời gian làm việc trong ngày và ngày làm việc trong tuần. Do đó , nếu như công việc quá nhiều trong khi số lượng cán bộ có hạn thì sẽ dẫn tới tình trạng quá tải của cán bộ tín dụng, họ hoặc là phải làm thêm ngoài giờ, làm cả buổi tối và ngày lễ, ngày chủ nhật; hoặc là phải nhờ chồng con làm giúp; hoặc là phải bỏ bớt khâu công việc hay thực hiện qua loa, đại khái có tính chất hình thức. Và như vậy không thực hiện đúng quy trình đề ra, vi phạm thể lệ, chế độ cho vay. Hậu quả, hoặc là nợ quá hạn phát sinh, chất lượng tín dụng giảm sút, hoặc là bị khách hàng lừa đảo, mất vốn. Tình trạng trên thực sự đang là vấn đề báo động, là vấn đề rất lớn không chỉ riêng đối với hệ thống Ngân hàng, mà còn đối với cả nền kinh tế. 5. Rủi ro tín dụng: Có rất nhiều lý do làm người ta phải quan tâm đến vấn đề rủi ro trong hoạt động tín dụng. Một trong những lý do sống còn bắt nguồn từ chính bản chất và chức năng Ngân hàng, một tổ chức trung gian tài chính, chuyên huy động vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế để cho các tổ chức và cá nhân có nhu cầu vay lại. Do đó thực chất quyền sở hữu của người đã gửi tiền vào Ngân hàng. Bởi vậy ngăn chặn rủi ro của hoạt động tín dụng không phải chỉ nhằm đảm bảo quyền lợi của Ngân hàng mà còn bảo đảm quyền lợi của người gửi tiền vào Ngân hàng. Vậy thì nếu một khoản cho vay nào đó bị thất thoát, không thu hồi được thì Ngân hàng phải sử dụng các nguồn vốn của mình để trả cho người gửi tiền, nếu không đủ nguồn vốn để trả lại cho người gửi tiền thì Ngân hàng rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán, thậm chí phá sản. NHTƯ của bất kỳ quốc gia nào cũng đều có nhiệm vụ đảm bảo cho hệ thống Ngân hàng hoạt động một cách an toàn và ổn định. Vì rằng nếu có sự thất thoát trong hoạt động tín dụng dù chỉ ở một Ngân hàng, không được đáp ứng kịp thời, có thể gây “phản ứng dây chuyền”, đe dọa đến tính an toàn và ổn định của toàn hệ thống Ngân hàng. Rủi ro tín dụng ở một phạm vi rộng bao gồm cả những thiệt hại trực tiếp trên hợp đồng tín dụng (vốn, lãi không được hoàn trả đầy đủ và đúng hạn) và những thiệt hại mang tính chất chi phí cơ hội và khía cạnh thời gian của tiền. Hiện nay, ở Việt N am tình trạng rủi ro tín dụng vẫn đang là một vấn đề nổi cộm cần phải quan tâm, vì hiện nay tồn tạI rất nhiều loại rủi ro tín dụng như: rủi ro về thời hạn, rủi ro về lãi suất, rủi ro thanh khoản,... Rõ ràng rủi ro hoạt động tín dụng hiện nay rất phức tạp và đa dạng. Song trên phương diện quản lý, rủi ro tín dụng có thể chia làm hai loại, là rủi ro có thể kiểm soát được và rủi ro không thể kiểm soát được. Tình trạng mất khả năng trả nợ của người đi vay tiền có thể do nhiều nguyên nhân, chủ quan và khách quan, trực tiếp và gián tiếp. Nhưng cho dù nguyên nhân nào thì cuối cùng vấn đề là người vay không thực hiện được các cam kết và nghĩa vụ tín dụng; không có khả năng trả nợ do năng lực tài chính suy giảm. Tuy nhiên bên cạnh đó, thực tế hiện nay đã xảy ra một vài tình trạng người vay có khả năng tài chính nhưng chây ỳ, không trả nợ hoặc tìm cách lừa đảo, chiếm đoạt vốn vay Ngân hàng. Chúng ta cần phải có những giải pháp hợp lý để kiểm soát tình trạng rủi ro tín dụng như hiện nay, góp phần hạn chế nó, đưa toàn hệ thông Ngân hàng ngày càng phát triển. Tuy nhiên đây là vấn đề không hẳn dễ dàng. Chương III: GIẢI PHÁP MỞ RỘNG VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM HIỆN NAY. 1. Giải pháp trong vấn đề tiếp cận thị trường: Để góp phần mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng ngân hàng, điều đầu tiên ta cần quan tâm đến đó là làm thế nào để tiếp cận được thị trường một cách tốt nhất. Sau đây là một số giải pháp về vấn đề này: Một là: Hoàn thiện chiến lược thông tin-nghiên cứu, khảo hướng thị trường. Bởi thông tin là rất quan trọng, nó đòi hỏi Ngân hàng phải thiết lập thành hệ thống tổ chức vận hành, kiểm soát và đánh giá kết quả, từ khâu: Thu thập thông tin; phân tích và xử lý thông tin; quyết định lựa chọn nhóm khách hàng phục vụ trên thị trường; phân tích thực lực, đặc thù của Ngân hàng; chủ động đưa ra những quyết định phù hợp, linh hoạt; đánh giá và đúc rút kinh nghiệm, bổ sung thông tin trong quản lý. Trong việc thu thập thông tin, Ngân hàng phải đặc biệt quan tâm dến những thông tin bên trong và bên ngoài, những thông tin tài chính và phi tài chính. Hai là: Hoàn thiện chién lược sản phẩm của Ngân hàng và chiến lược tuyên truyền quảng cáo với mục tiêu nhằm xác định hình ảnh, biểu tượng riêng biệt và tốt đẹp cho NHTM, dưới cái nhìn của công chúng về: loại sản phẩm chỉ NHTM mới có được, chất lượng dịch vụ tốt, phí hợp lý, thực lực đặc trưng cho mỗi Ngân hàng. Ba là: Hoàn thiện chiến lược phân phối. Ngân hàng phải thường xuyên xem xét, đánh giá kênh phân phối và con người trong quá trình phân phối sản phẩm tới khách hàng nhằm cung cấp các sản phẩm dịch vụ Ngân hàng đến với khách hàng thuận lợi, mau chóng tạo uy tín của Ngân hàng và nâng cao quá trình luân chuyển vốn trong nền kinh tế. Bốn là: Hoàn thiện chiến lược hạn chế và phân tán rủi ro trong hoạt động Ngân hàng. Yếu tố an toàn cho Ngân hàng và hệ thống tài chính nói chung là vấn đề hết sức quan trọng, đòi hỏi mỗi NHTM phải luôn luôn hoạch định và thực thi chiến lược hạn chế rủi ro, đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh. Năm là: Đa dạng hóa các loạI sản phẩm, dịch vụ Ngân hàng. Sáu là: Tiếp cận thị trường đảm bảo tính hệ thống, khoa học và nghệ thuật cao. Bẩy là: Hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế quản lý đIũu hành trong hoạt động Ngân hàng. Tám là: Thành lập bộ phận tiếp cận thị trường trong mỗi Ngân hàng (phòng Marketing) Chín là: Đào tạo đội ngũ nhân sự Ngân hàng mau chóng thích ứng với cơ chế thị trường. Mười là: áp dụng khoa học công nghệ mới vào hoạt động Ngân hàng. Để làm tốt những nội dung chủ yếu trên không đơn giản chỉ là cụm vấn đề lý thuyết. Thực tiễn đòi hỏi khả năng vận dụng cho từng loại hình NHTM có khác nhau. 2. Giải pháp nhằm tháo gỡ những vướng mắc trong việc huy động nguồn vốn: Để tháo gỡ những vướng mắc, khơI thông dòng chảy của vốn nhằm giải bài toán hóc búa về huy động vốn của nền kinh tế nói chung và của NHTM nói riêng, cần phảI có nhiều giảI pháp đồng bộ. Trước tiên là giải pháp để giải quyết được mâu thuẫn giữa nhu cầu vốn rất lớn, nhưng sức hấp thụ vốn lại quá thấp như hiện nay trong nền kinh tế. Cần có nhiều biện pháp khả thi hơn về tìm kiếm thị trường ổn định cho việc tiêu thụ sản phẩm; giảm bớt rủi ro tronh kinh doanh để tăng niềm tin cho nhà đầu tư; triển khai tốt luật doanh nghiệp để mở ra những hướng kinh doanh mới nhằm có nhiều dự án khả thi hấp thụ vốn có hiệu quả, có cơ chế bảo lãnh phù hợp với các doanh nghiệp vừa và nhỏ để họ tiếp cận được vốn vay Ngân hàng. Chính phủ và Uỷ ban nhân dân các cấp giải quyết kịp thời các vướng mắc về thế chấp quyền sử dụng đất và giá đất để tạo điều kiện cho vốn của Ngân hàng đến được với người có nhu cầu vay; các Bộ, ngành có liên quan sớm ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện Nghị định 178 của Chính phủ. Về phía NHNN, phát huy hơn nữa vai trò và thế mạnh của mình trong điều hành vĩ mô, điều hành hợp lý hơn chính sách tiền tệ tín dụng đóng góp vao sự ổn định và phát triển của nền kinh tế. Xúc tiến nhanh việc tiếp tục ban hành các văn bản còn thiếu liên quan đến việc thực thi hai bộ luật về Ngân hàng Đối với các NHTM, cần chủ động tìm kiếm khách hàng, cùng khách hàng tìm và lập các dự án khả thi trong các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, dịch vụ để có được đầu ra an toàn cho vốn tín dụng. Riêng trong hoạt động huy động vốn, cần có các biện pháp đồng bộ để thực hiện tốt hơn việc đa dạng hóa các loại tiền gửi nhằm thu hút vốn tạm thời nhàn rỗi vào Ngân hàng. Cải tiến và tìm thêm các phương thức huy động phù hợp với từng thời kỳ như các loại trái phiếu, kỳ phiếu Ngân hàng bằng nội tệ và ngoại tệ có lãi suất hợp lý và có khả năng chuyển nhượng ... Chủ động khai thác các loại vốn nhàn rỗi tạm thời từ các doanh nghiệp và tổ chức kinh tế; tận dụng vốn trong quá trình thực hiện các dịch vụ vì lợi ích khách hàng, củng cố lòng tin của khách hàng, nhất là qua khâu thanh toán, giao dịch; cảI tiến thủ tục, hướng dẫn khách hàng chu đáo, bố trí hợp lý giờ công tác để tăng giờ giao dịch của Ngân hàng ngoài giờ hành chính trong khâu huy động vốn. Tìm nhiều biện pháp phù hợp để hoạt động Ngân hàng được mở rộng và đến gần dân hơn qua các hình thức tiếp thị, quảng cáo, tuyên truyền ... Tích cực tranh thủ tìm kiếm thu hút các nguồn vốn rẻ và dài hạn ngoài nước để đón đầu đáp ứng nhu cầu kinh tế trong nước thời gian tới. 3. Giải pháp nâng cao chất lượng thông tin tín dụng: Để khắc phục tình trạng của hoạt động tín dụng Ngân hàng hiện nay và không ngừng nâng cao chất lượng thông tin tín dụng phù hợp với yêu cầu thực tế đòi hỏi, với nhịp độ phát triển ngày càng cao của công nghệ thông tin, đáp ứng yêu cầu của công tác thông tin tín dụng nhằm mục đích góp phần hạn chế những rủi ro tín dụng, cần thực hiện một số biện pháp sau: Các tổ chức tín dụng thành viên cần thực hiện đúng vai trò, trách nhiệm của mình khi tham gia vào trung tâm thông tin tín dụng của NHNN theo đúng quy chế, nội dung của Quyết định 120/ QĐ NH14 ngày 24/5/1995, theo đó: - Cung cấp đầy đủ số liệu số dư (tiền gửi, tiền vay) của khách hàng, đáp ứng yêu cầu thông tin đầy đủ. - Cung cấp thường xuyên, kịp thời biến động dư nợ của khách hàng về Trung tâm, đáp ứng yêu cầu thông tin cập nhật, chính xác - Cung cấp hồ sơ kinh tế doanh nghiệp đầy đủ, thường xuyên và định kỳ qúy, 6 tháng, năm với các chỉ tiêu đầy đủ, đảm bảo cho phép có thể phân tích dược tình hình tàI chính của doanh nghiệp, đánh giá năng lực hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp có quan hệ tín dụng. Mở rộng thành viên của Trung tâm, bao gồm cả các doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế lớn, từ đó có được thông tin về quan hệ kinh tế thương mại, thông tin hoạt động sản xuất kinh doanh làm cơ sở cho việc Marketing Ngân hàng, mở rộng tín dụng có hiệu quả. Đa dạng hóa thông tin đầu ra, thực hiện các nghiệp vụ phân tích, đánh giá tình hình tài sản doanh nghiệp, các thông tin về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, về tài sản thế chấp. Đánh giá phân loại khách hàng theo các chỉ tiêu dư nợ, về quan hệ tín dụng, từ đó có được các thông tin đầu ra chất lượng, phục vụ tích cực cho nghiệp vụ tín dụng của các tổ chức tín dụng thành viên, góp phần thực hiện mục tiêu nâng cao chất lượng tín dụng, tăng trưởng dư nợ trong các kỳ kế hoạch. Từng bước hoàn thiện mô hình hoạt động của Trung tâm thông tin tín dụng, có quy chế hoạt động phù hợp, thống nhất, đảm bảo thực hiện có hiệu quả vai trò, chức năng và nhiệm vụ của Trung tâm. Sử dụng đòn bẩy kinh tế trong việc trao đổi thông tin trong thời đại hiện nay. Cùng với các biện pháp đó, biện pháp mang tính nghiệp vụ “kỹ thuật” để thu thập, lưu trữ, sử lý thông tin cần đặc biệt chú trọng, không ngừng cải tiến công nghệ, đổi mới và nâng cao chất lượng chương trình, các phần mềm ứng dụng nhằm đáp ứng được yêu cầu của công tác thông tin tín dụng hiện nay. 4. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng, đảm bảo hiệu quả an toàn vốn vay của các NHTM: Như chúng ta đã biết hiện nay chất lượng, hiệu quả đầu tư tín dụng nước ta còn thấp, tỷ lệ nợ quá hạn đang ở mức cao (chiếm gần 10% tổng dư nợ), trong đó đại bộ phận nợ quá hạn khó đòi trên 1 năm, quá trình khắc phục những yếu kém trong hoạt động tín dụng, xử lý nợ quá hạn đã phát sinh nhiều tranh chấp giữa Ngân hàng và khách hàng ... Điều đó nói lên chất lượng tín dụng nước ta còn yếu kém và cần phải giải quyết nhanh chóng. Sau đây có một vài giải pháp cho vấn đề này: Trước hết, cần tập trung xử lý nợ quá hạn, nợ khó đòi nhằm lành mạnh hóa tình hình tài chính của các NHTM. Chỉnh sửa và ban hành một số cơ chế về tín dụng, bảo lãnh phù hợp với môi trường pháp lý và hành chính ở nước ta hiện nay. Trong thời gian dài hoạt động ở thời kỳ bao cấp, các doanh nghiệp Nhà nước làm ăn kém hiệu quả, vốn tự có ngày càng nhỏ đi, nay chuyển sang cơ chế thị trường đã thiếu cơ bản vốn kinh doanh. Do đó Nhà nước cần bổ sung vốn tự có cho các doanh nghiệp Nhà nước, tối thiểu bằng vốn pháp định để đáp ứng nhu cầu hoạt động bình thường. Nâng cao chất lượng thẩm định dự án vốn vay. Muốn có chất lượng tín dụng cao, phải có dự án tốt, mà dự án tốt chỉ có ở những khách hàng kinh doanh giỏi. Vậy muốn nâng cao được chất lượng tín dụng chúng ta cần có khả năng tốt trên cơ sở xác định chiến lược về khách hàng, chính sách khách hàng phù hợp. Về vấn đề này, NHTM cần xây dựng riêng một quy chế về chính sách khách hàng, một mặt đa dạng hóa, đa phương hóa khách hàng; mặt khác ưu tiên cho những khách hàng làm ăn có hiệu quả, quan hệ tốt với Ngân hàng. Cần bố trí đội ngũ kiểm tra viên có trình độ nghiệp vụ chuyên sâu, am hiểu pháp luật và có phẩm chất đạo đức tốt, tâm huyết với nghề nghiệp, mặt khác phải có chế độ, điều kiện làm việc và đãi ngộ đúng đắn để đẩy mạnh hoạt động công tác kiểm tra kiểm soát. Kiểm tra, phát hiện và phối hợp với các cơ quan chính quyền, cơ quan pháp luật xử lý có hiệu quả, kịp thời một số trường hợp khách hàng sử dụng vốn sai mục đích, mất khả năng thanh toán, nhất là các đối tượng có hành vi cố ý hoặc có dấu hiệu lừa đảo rất cần sự trừng trị của pháp luật. 5. Một số giải pháp nhìn từ phía Ngân hàng thương mại: Hiệu quả kinh doanh tín dụng ngân hàng góp phần quan trọng thúc đẩy kinh tế, xã hội tiến bộ, tăng công ăn, việc làm, tăng thu nhập của người lao động, thúc đẩy dân giầu nước mạnh. Vì vậy, việc đưa ra những giải pháp hợp lý, kịp thời sẽ mang lại cho hoạt động tín dụng ngân hàng luồng sinh khí mới để đáp ứng ngày một tốt hơn yêu ccầu của một nền kinh tế đang trên đà phát triển như Việt Nam hiện nay. Sau đây là một số giải pháp: 5.1. Trong quá trình kinh doanh: Trong kinh doanh chúng ta cần thực hiện một số giải pháp sau: Gĩư vững các khách hàng truyền thống, trước hết là các tổng công ty lớn, chủ động lựa chọn các khách hàng tốt, các dự án tốt để đầu tư, tích cực nghiên cứu để xác định những lĩnh vực trọng điểm, các khu vực kinh tế trọng điểm để tiếp tục mở rộng khách hàng, nâng thị phần. Đẩy mạnh thị phần, mở rộng thị trường bằng đổi mới và nâng cao chất lượng sản phẩm truyền thống, đáp ứng cao nhất nhu cầu về vốn, dịch vụ ngân hàng cho khách hàng thuộc mọi thành phần kinh tế; tích cực thâm nhập vào thị trường vốn trong nước, thông qua việc đúc rút kinh nghiệm và phát triển các giải pháp đã có để tăng cường huy động vốn trung và dài hạn, đi đôi với việc giữ vững và phát triển được nguồn vốn ngắn hạn hiện có. Có bước chuyển mạnh mẽ tín dụng đầu tư phát triển theo cơ chế thị trường trong khuôn khổ quy định của pháp luật, đảm bảo cho vay thu được lợi nhuận (gốc và lãi) đúng hạn, không để phát sinh nợ quá hạn mới. Mở rông kinh doanh tiền tệ trên thị trường liên ngân hàng trong nước và tích cực tham gia thị trường vốn trung và dài hạn trong nước. 5.2. Đảm bảo dự trữ bắt buộc và vốn thanh khoản hiện hành: Tỷ lệ dự trữ bắt buộc do NHTM quy định là công cụ điều chỉnh lượng cung ứng tiền tệ. Các NHTM có trách nhiệm pháp quy phải thực hiện đầy đủ và kịp thời lượng dự trữ bắt buộc ký gửi tại NHTƯ, dự trữ bắt buộc tăng làm giảm lượng vốn tiền tệ khả dụng nhưng nó là pháp lệnh không thể thoái thác, với mục đích là để đảm bảo khả năng thanh khoản, bất kỳ ngân hàng nào cũng phải dùng vốn thanh khoản hiện hành từ vốn tiền tệ khả dụng để đáp ứng nhu cầu thanh toán trước mắt cho người gửi tiền. Việc này đòi hỏi phải xác định thêm cả tỷ lệ dự trữ vượt mức một cách hợp lý, khoa học kết hợp với việc xử lý nhạy bén kịp thời. 5.3. Thực hiện nghiêm cơ chế trích lập quỹ dự phòng xử lý rủi ro: Thực hiện trích lập dự phòng rủi ro theo số dư bình quân của toàn bộ tài sản có của hoạt động tín dụng bằng một tỷ lệ nhất định dựa vào nguyên tắc: chi phí dự phòng rủi ro phải có nguồn tài chính bù đắp, tức là chi phí này được bù đắp bằng nguồn thu từ hoạt đọng tín dụng và nằm trong khoảng chênh lệch lãi suất mà NHTM có thể khai thác được. Có như vậy thì việc trích lập quỹ dự phòng rủi ro mới không đẩy các NHTM vào tình trạng thâm thủng tài chính và quỹ dự phòng rủi ro mới được đảm bảo bằng các giá trị đích thực có khả năng thanh toán. Việc trich lập dự phòng rủi ro phải liên tục đến một thời hạn nhất định để chủ động xử lý những rủi ro bất ngờ có thể xảy ra bất cứ lúc nào.Để bù đắp chi phí trích lập dự phòng rủi ro, các NHTM phải tích cực theo dõi đôn đốc thu hồi các tài sản có đã xử lý bằng dự phòng rủi ro để hoàn thu nhập tăng lợi nhuận. 5.4. Nhanh chóng xử lý và hạn chế nợ khó đòi: Để xử lý nợ quá hạn, nợ khó đòi làm lành mạnh hoá tình hình tài chính các NHTM phải tiến hành đánh giá, phân loại, phân tích nợ quá hạn, đồng htời phân tích hiệu quả kinh tế của từng món vay và tình hình tài chính của khách hàng có nợ quá hạn ngân hàng, trên cơ sở đó đề ra biện pháp cụ thể để thu hồi vốn. Đối với nợ quá hạn mà ngân hàng đã xuất nợ bằng tài sản, những tài sản đó đã có đủ hồ sơ pháp lý hợp pháp thì việc thực hiện phát mại hoặc đưa sang trung tâm bán đấu giá tài sản thu hồi vốn vay. Trong trường hợp không có thị trường tiêu thụ hoặc tiêu thụ chậm, NHTM được phép khai thác bằng các hình thức cho thuê hoặc sử dụng vào phục vụ hoạt động kinh doanh tại nguồn thu bù đắp phần lỗ do phải trả lãi vốn huy động. Sau khi phân tích nợ, phải đôn đốc khách hàng trả nợ và xử lý phát mại tài sản thế chấp nếu vẫn không còn khả năng thu, thì đề nghị Nhà nước cho phép hạch toán vào rủi ro và được phân bổ cho những năm sau. 5.5. Về lãi suất tín dụng: Các NHTM phải thực hiện lãi suất cho vay nằm trong lãi suất trần của NHTƯ, không được vận dụng tăng lãi vượt trần này. Đó là đặc thù ở nước ta, khác với tập quán quốc tế, nơi mà NHTM được vận dụng quy định lãi suất cho vay cao hơn bằng cách cộng thêm vào lãi suất cơ bản, mức độ gia tăng và phụ phí đối với các khoản cho vay đối với nhưng khách hàng do họ lựa chọn. Trái lại ở nước ta NHTM chưa có điều kiện vận dụng thông lệ này nên ngân hàng rất thận trọng trong việc lựa chọn người xin vay và phải chịu rủi ro hơn. Các NHTM phải cân đối được lãi suất huy động và lãi suất cho vay để vừa đảm bảo lãi suất trần, vừa đảm bảo lợi nhuận ngân hàng, vừa đản bảo mục tiêu tăng trưởng quy mô tín dụng. 5.6. Về thời hạn cho vay: Việc tính toán và xác định thời hạn cho vay là rất quan trọng, nó ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn thu lợi nhuận của ngân hàng. Ngân hàng phải tính toán sao cho thời hạn vay phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh tạo điều kiện cho bên vay trả nợ đúng hạn. Mặt khác ngân hàng phải tính toán, bố trí thời hạn cho vay của nhiều khoản tín dụng phải được liên tục hài hoà, hạn chế thời gian chết, vốn khả dụng không sinh lời. Việc bố trí lịch cho vay và thu hồi nợ liên tục hợp lý là biện pháp làm tăng thu nhập, lợi nhuận ngân hàng, tăng hiệu quả của tín dụng. 5.7. Về công nghệ: Đẩy mạnh ứng dụng theo xu hướng thực tiễn và chủ động hội nhập công nghệ hiện đại, tập trung giải quyết dứt điểm mạng truyền thông hệ thống, các chương trình ứng dụng song song với sự đổi mới trang thiết bị để nâng cao hiệu quả kinh doanh. Ưu tiên phát triển công nghệ dể tạo ra một số sản phẩm mới có sức cạnh tranh để phục vụ khách hàng, phục vụ lĩnh vực thanh toán trong nước và quốc tế. Nâng cao năng lực thu nhập và xử lý thông tín phục vụ cho thẩm định, đánh giá khả năng vay trả, an toàn tín dụng và thông tin quản trị hệ thống; đảm bảo yêu cầu đổi mới công nghệ đề phòng rủi ro. 5.8. Tăng cường đào tạo và quản lý đối với cán bộ ngân hàng: Tăng cường công tác đào tạo dài hạn, ngắn hạn và tập huấn nghiệp vụ theo từng chuyên đề, không ngừng nâng cao chấy lượng đội ngũ cán bộ và đào tạo các nhà quản lý giỏi, các chuyên gia đầu đàn đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững. Chú trọng tăng cường bồi dưỡng đào tạo năng lực cán bộ để tiếp thu và vận hành công nghệ mới, nâng tầm để sáng tạo trong thực thi nhiệm vụ của cán bộ tín dụng vừa đáp ứng yêu cầu trước mắt, vừa chuẩn bị hội nhập từng bước. Sử dụng mô hình thực hành tay nghề tín dụng, tạo thói quen cho cán bộ tín dụng trong cơ chế thị trường, điều mà hiện nay cán bộ tín dụng còn nhiều bỡ ngỡ. Thường xuyên thực hiện việc kiểm tra, kiểm soát; luân phiên cán bộ tín dụng Ngân hàng trong quản lý khách hàng vay vốn nhằm loại bỏ việc móc ngoặc, thông đồng giữa khách hàng với cán bộ tín dụng, xem nhẹ quy chế cho vay. Thường xuyên phân tích đánh giá kết quả đầu tư, rút ra những bài học cần thiết; qua đó tăng cường giám sát, nâng cao trình đọ thực tế trong đầu tư Đồng thời phải thường xuyên trau dồi đạo đức, tác phong làm việc cho đội ngũ cán bộ tín dụng Ngân hàng về tính liêm khiết, trong sáng về tài chính, kinh tế; chịu trách nhiệm đến cùng về kết quả đầu tư vốn của từng cán bộ tín dụng, nhóm cán bộ thẩm định khi cho vay (cả cán bộ lãnh đạo). Có quy chế, quy trình làm việc đối với cán bộ tín dụng sát hợp với thực tế, điều hành theo cơ chế và kiểm tra, giám sát, xử lý theo quy chế, quy trình. Khen thưởng và xử phạt nghiêm minh, kịp thời, tạo cho cán bộ tín dụng luôn gắn trách nhiệm với quyền lợi. Ngoài ra cần có các biện pháp bổ trợ khác như: Các cơ chế văn bản pháp quy, chính sách về tín dụng của các cơ quan quản lý cần thiết kế sát hợp với thực tế, môi trường, điều kiện cụ thể ở Việt Nam, tránh dập khuôn máy móc theo mẫu của nước ngoài, tránh chung chung. KẾT LUẬN Như vậy, khi nghiên cứu về hoạt động tín dụng - Ngân hàng ta thấy rằng hoạt động kinh doanh của Ngân hàng là một loại hình kinh doanh đặc biệt trong đó sản phẩm mà Ngân hàng kinh doanh là “ tín dụng” và chỉ kinh doanh loại sản phẩm này là chủ yếu. Có thể nói Ngân hàng là “người buôn nợ”, đầu vào là đi vay, đầu ra là cho vay nợ. Vì thế hoạt động kinh doanh của Ngân hàng là một hoạt động kinh tế khó nhất, có nhiều khả năng rủi ro nhất so với các lĩnh vực hoạt động kinh doanh khác. Tín dụng Ngân hàng có vai trò đặc biệt quan trọng đối với nền kinh tế một quốc gia. Bất kỳ một quốc gia nào, hệ thống Ngân hàng luôn là trung tâm thần kinh, mạch máu chủ yếu của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Vậy mà trong thời đại ngày nay hoạt động tín dụng Ngân hàng Việt Nam vẫn đang là vấn đề nhức nhối, chất lượng tín dụng còn thấp, rủi ro cao, mức độ an toàn luôn trong tình trạng bị đe dọa. Mặc dù đã có nhiều giải pháp được đưa ra, song vẫn chưa được thực hiện một cách nghiêm túc. Điều đó đòi hỏi trong thời gian tới hệ thống Ngân hàng Việt Nam cần phải có những chính sách hợp lý, khả thi. Trong phạm vi tiểu luận này, em cũng đã cố gắng đưa ra những vấn đề cơ bản nhất về hoạt động tín dụng Ngân hàng cũng như thực trạng của hoạt động tín dụng Ngân hàng ở Việt Nam hiện nay. Song do khả năng hiểu biết còn hạn chế nên trong bài viết không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong sự đóng góp ý kiến của thầy cô và các bạn để bài viết lần sau của em được hoàn thiện hơn. Xin cảm ơn!... TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.Tài liệu giảng dậy môn Lý thuyết tiền tệ Ngân hàng Hệ ĐH chính quy - Học viện Ngân hàng- Khoa tiền tệ và thị trường vốn (Bộ môn tiền tệ) 2. Frederic S.Mishkin : Tiền tệ, Ngân hàng và Thị trường Tài chính. NXB Khoa học và Kỹ thuật Hà nội 1994, 3. Tạp chí Ngân hàng số 11 (6-1999) 4. Tạp chí Ngân hàng số 15 (1999) 5. Tạp chí Ngân hàng số 17 (1999) 6. Tạp chí Ngân hàng số 4 (2000). 7. Tạp chí Ngân hàng số 10 (2000) 8. Tạp chí Ngân hàng số 8 (2001) 9. Tạp chí khoa học và đào tạo Ngân hàng số 6 (11+12/2000) MỤC LỤC Trang: Lời nói đầu. 1 Chương I: KHÁI QUÁT VỀ TÍN DỤNG VÀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG. Cơ sở lý luận về tín dụng 3 Lịch sử ra đời và phát triển của tín dụng. 3 Sự cần thiết, chức năng và vai trò của tín dụng 5 Các hình thức tín dụng 7 Những vấn đề lý luận về tín dụng Ngân hàng.-------------------------------- 10 Khái niệm và bản chất tín dụng Ngân hàng 10 Đặc điểm của tín dụng Ngân hàng 11 Chức năng của tín dụng Ngân hàng 11 Vai trò của tín dụng Ngân hàng 12 Các nguyên tắc của tín dụng Ngân hàng 12 Chương II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM HIỆN NAY 14 Huy động vốn của các NHTM trong thời gian qua 16 Cho vay vốn của các NHTM Việt Nam 19 Đầu tư tín dụng và nợ quá hạn.----------------------------- 19 Vấn đề tiếp cận thị trường của các Ngân hàng thương mại 19 Vấn đề trích lập qũy dự phòng rủi ro 20 Một số nguyên tắc, điều kiện cho vay chưa phù hợp với thực tế thị trường 20 Tín dụng Ngân hàng với một số khách hàng chủ yếu 20 Nhiều tổ chức tín dụng cùng cho một khách hàng vay vốn và tình trạng lừa đảo trong lĩnh vực hoạt động của Ngân hàng 22 Nhiều tổ chức tín dụng cùng cho một khách hàng vay vốn 22 Lừa đảo trong lĩnh vực hoạt động của Ngân hàng 22 Sự quá tải đối với cán bộ tín dụng.--------------------------------------------- 25 Rủi ro tín dụng.------------------------------------------------------------------- 26 Chương III: GIẢI PHÁP MỞ RỘNG VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM HIỆN NAY.------------------------------------------------- 28 Kết luận.-------------------------------------------------------------------------------- 36 Tài liệu tham khảo.-------------------------------------------------------------------- 37

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0895.doc
Tài liệu liên quan