Đề tài Hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu tại ngân hàng Công thương Việt Nam nhằm thúc đẩy hoạt động ngoại thương

Về phía nhà nước, Chính phủ cần có những biện pháp ưu đãi, khuyến khích hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu. Tạo khung pháp lý thuận lợi cho hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu, thành lập quỹ bảo hiểm tiền gửi, hỗ trợ các ngân hàng thương mại tham gia tích cực vào hoạt động này.Trước thực trạng hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu đang có xu hướng chuyển dịch sang các chi nhánh ngân hàng nước ngoài, Nhà nước cần có các biện pháp hỗ trợ về vốn, kinh tế, công nghệ cho các ngân hàng thương mại tham gia tài trợ xuất nhập khẩu để giúp hoạt động này phát triển theo định hướng chính sách đối ngoại của nhà nước. Nhu cầu tài trợ từ các doanh nghiệp là rất lớn trong khi thực lực vốn của các ngân hàng thương mại là có hạn, Chính Phủ cần đóng vai trò mở đường trong việc thu hút các nguồn vốn quốc tế phục vụ cho cấp tín dụng xuất nhập khẩu. Để phù hợp với xu thế chung của các nước trên thế giới, và cũng để tạo dựng một tổ chức thực hiện chức năng chuyên môn hoá về tín dụng xuất nhập khẩu, kết luận đề xuất cho thành lập ngân hàng xuất nhập khẩu Việt nam, một ngân hàng quốc doanh 100% vốn nước ngoài với chức năng chính là hỗ trợ các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam trong quá trình xâm nhập sâu hơn vào thị trường thế giới.

doc107 trang | Chia sẻ: baoanh98 | Lượt xem: 823 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu tại ngân hàng Công thương Việt Nam nhằm thúc đẩy hoạt động ngoại thương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng đó dự kiến nhập khẩu như sau: Nhập khẩu hàng hoá: Tốc độ tăng trưởng bình quân trong thời kỳ 2001-2010 là 14%/năm, trong đó thời kỳ 2001-2005 là 15% và thời kỳ 2006-2010 là 13%. Giá trị kim ngạch tăng từ khoảng 14,5 tỷ USD năm 2000 lên 29,2 tỷ USD năm 2005 (cả thời kỳ 2001-2005 nhập khẩu 112 tỷ USD) và 53,7 tỷ USD vào năm 2010. Tốc độ tăng trưởng nhập khẩu dịch vụ trong thời kỳ 2001-2010 là 11%/năm. Giá trị tăng trưởng từ khoảng 1,3 tỷ USD năm 2000 lên 2,02 tỷ USD năm 2005 và 3,4 tỷ USD năm 2010. Tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ tăng từ khoảng 15,7 tỷ USD năm 2000 lên 31,2 tỷ USD năm 2005 và 57,14 tỷ USD năm 2010. Như vậy trong 5 năm đầu, nhập siêu về hàng hoá giảm dần, mỗi năm bình quân 900 triệu USD và cả thời kỳ là 4,73 tỷ USD, 5 năm sau (2006-2010) nhập siêu tiếp tục giảm. Đến năm 2008 cân bằng xuất nhập khẩu hàng hoá phấn đấu xuất siêu khoảng 1 tỷ USD vào năm 2010. Nếu tính cả xuất khẩu dịch vụ thì tới năm 2002 đã cân bằng xuất nhập khẩu và bắt đầu xuất siêu, năm 2010 xuất siêu 5,5 tỷ USD. Tuy nhiên, như trên đã phân tích, tình hình kinh tế khu vực và thế giới còn ẩn chứa nhiều nhân tố khó lường, do đó cần đề phòng những tình huống bất trắc xảy ra. II. Những phương hướng hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu của ngân hàng Công Thương Việt Nam trong thời gian tới Để thực hiện được yêu cầu, mục tiêu chiến lược của NHCTVN trong giai đoạn 2001-2005: “ phải xây dựng NHCT thành một ngân hàng hiện đại, lành mạnh về tài chính, có công nghệ cao để có thể hoà nhập với ngân hàng trong nước, khu vực và quốc tế”. Để chuẩn bị những điều kiện cho sự hội nhập khu vực và quốc tế, tạo sức mạnh tổng hợp, đảm bảo năng lực cạnh tranh trong hoạt động tài trợ thương mại quốc tế ngay trên thị trường trong nước của NHCT trong những năm tới, NHCT cần hoạch định mục tiêu phấn đấu cụ thể. Phấn đấu từ nay đến năm 2003 hoàn thành cơ bản về cơ sở vật chất và con người cho nghiệp vụ TDXNK và các dịch vụ liên quan cụ thể theo hướng sau: Tỷ trọng tín dụng xuất nhập khẩu đến 2005 đạt 20-25% trên tổng thể tín dụng của NHCTVN (thời kỳ 2001-2003: 20%, thời kỳ 2004-2005: 25%). Tăng trưởng tín dụng xuất nhập khẩu bình quân cả thời kỳ 2001-2010 là 30-40%, cơ cấu tín dụng trung dài hạn đầu tư cho các dự án sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu đạt 25-30% trên tổng thể tín dụng xuất khẩu của NHCTVN. Doanh số thu mua ngoại tệ của NHCT đến năm 2005 chiếm 15% sau năm 2005 chếm 20% thị phần của toàn bộ hệ thống NHCTVN. Sau năm 2003, thị phần kinh doanh đối ngoại của NHCTVN chiếm 18-20% so với toàn bộ hệ thống NHTM Việt Nam và sau năm 2005 tỷ lệ này tăng lên 25%. Thu nhập từ hoạt động kinh doanh đối ngoại của NHCTVN chiếm 30-35% tổng thu nhập của NHCTVN bình quân cả thời kỳ 2001-2010 (thời kỳ 2002 chiếm 10%, năm 2003 chiếm 15%, thời kỳ 2003đên 2005 chiếm 20%, sau năm 2005 chiếm trên 30%). Năm 2005, trình độ, tốc độ xử lý trong hoạt động thanh toán quốc tế ngang bằng với các NHTM trong nước và tiến tới đạt độ hơn hẳn cả về trang bị và quy trình hiện đại, thuận lợi. Thu hút được toàn bộ ngoại tệ của các khách hàng quan hệ tín dụng xuất khẩu với NHCT và từng bước thu hút được những nguồn ngoại tệ vãng lai đảm bảo khả năng cung ứng cho khách hàng nhập khẩu. III. Một số giải pháp phát triển tín dụng xuất nhập khẩu tại NHCTVN A. Giải pháp từ phía nhà nước Tạo môi trường pháp lý thuận lợi thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu Hai pháp luật ngân hàng(1990) và luật ngân hàng(1997) và các văn bản dưới luật khác đã hình thành khung pháp lý cho hoạt động của ngành ngân hàng. Tuy nhiên trong thực tế khi thực hiện còn nảy sinh nhiều vấn đề bất cập gây khó khăn cho cả phía ngân hàng và phía khách hàng. Vì vậy, Nhà nước tiếp tục cần tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện một môi trường pháp lý đẩy đủ, thống nhất, chặt chẽ cho hoạt động của ngân hàng. Về nghiệp vụ bảo lãnh, bộ luật dân sự Việt Nam, luật các tổ chức tín dụng có quy định rõ về quyền và nghĩa vụ các bên trong giao dịch bảo lãnh, các hình thức, phạm vi, nguyên tắc của bảo lãnh...Tuy nhiên quy chế về bảo lãnh chủ yếu dựa theo quyết định số 23 và 196 ban hành từ năm 1994. Đã có một số văn bản bổ sung cho các quy chế bảo lãnh kèm theo hai quyết định trên nhưng trên thực tế sau 5 năm áp dụng đã thể hiện nhiều bất cập. Thủ tục bảo lãnh chưa thuận tiện, các yêu cầu về tài sản thế chấp xin bảo lãnh gây khó khăn trong thực hiện. Nếu theo đúng quy định thì hầu như khó có khách hàng nào có thể đáp ứng được các điều kiện xin bảo lãnh. Ngoài ra phần lớn mới chỉ có các quy định về bảo lãnh đối ngoại còn chưa có các quy định cụ thể về các nghiệp vụ bảo lãnh trong nước, việc ký quỹ của khách hàng, việc trích lập và sử dụng quỹ bảo lãnh chưa khoa học...Vì vậy cần cụ thể hoá các thủ tục trong bảo lãnh, cụ thể các bước thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên. NHNN cần sớm ban hành các quy chế mới về bảo lãnh, tái bảo lãnh và ký quỹ bảo lãnh cho cả hai nghiệp vụ bảo lãnh đối nội và đối ngoại tạo điều kiện cho các NHTM thực hiện tốt nghiệp vụ này. Hơn nữa chúng ta chưa có Luật bảo lãnh. Khi bảo lãnh cho các doanh nghiệp vay vốn nước ngoài bên cạnh các quy tắc của Liên hợp quốc hay phòng thương mại quốc tế, các ngân hàng thương mại Việt Nam đôi khi buộc phải dẫn chiếu tới luật nước ngoài có trường hợp gây bất lợi cho ngân hàng. Về lâu dài, Nhà nước cần ban hành luật bảo lãnh. Hoạt động thuê mua cũng đang ở trong một môi trường pháp lý thiếu đồng bộ giữa văn bản luật và văn bản dưới luật. Luật các tổ chức tín dụng cho phép tiến hành cho thuê với cả tư nhân hay hộ gia đình thì trong Nghị định 64 hay thông tư 03 lại không thể đề cập tới vấn đề này. Nếu muốn tiến hành cho thuê với các đối tượng này thì lại không biết phải tiến hành theo thể chế nào. Nghị định 64 không cho phép công ty cho thuê tài chính nhập khẩu trực tiếp tài sản mà phải thông qua uỷ thác làm tăng chi phí của công ty trong khi các tài sản cho thuê chủ yếu là từ nguồn nhập khẩu. Còn một số điểm gây khó khăn cho các công ty cho thuê như về vấn đề mối quan hệ giữa quyền sử dụng và quyền chiếm hữu, vấn đề chuyển quyền sở hữu tài sản sau khi kết thúc hợp đồng thuê mua, đồng tiền áp dụng trong thanh toán hợp đồng thuê mua...Để tín dụng thuê mua phát triển phù hợp với nhu cầu của nền kinh tế, phải có sự điều chỉnh vĩ mô từ phía Nhà nước tạo một cơ chế hoàn thiện cho hoạt động này. Sự ra đời của Quy chế cho vay của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng ban hành kèm theo quyết định 324 của Thống đốc NHNN đã cụ thể hoá Luật các tổ chức tín dụng, đưa ra những quy định chi tiết về hoạt động cho vay của các ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác.Tuy nhiên cho tới nay hoạt động cho vay của các ngân hàng vẫn còn những vướng mắc, đặc biệt là quyết định 217 của Thống đốc không hoàn toàn thích hợp.Việc sử dụng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất làm bảo đảm tiền vay làm ngân hàng lúng túng khi ra quyết định cho vay vì giá trị thật của nó và việc xử lý nếu khoản cho vay không thu hồi được nợ. Theo quy định của Chính Phủ, doanh nghiệp Nhà nước khi làm thủ tục vay vốn ngân hàng không phải thế chấp tài sản. Nhưng khi doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, giải thể hay phá sản thì việc thu hồi vốn cho vay của ngân hàng hết sức khó khăn. Khi doanh nghiệp bị giải thể, chủ nợ đảm bảo được phần tài sản đảm bảo, nhưng vì không thế chấp nên khoản vay ngân hàng được xác định là nợ không có đảm bảo, vì vậy mà thực tế việc xử lý tài sản của doanh nghiệp giải thể để trả nợ ngân hàng rất rắc rối. Vấn đề đảm bảo tiền vay cũng gây nhiều tranh cãi. Nhiều trường hợp việc đảm bảo tiền vay chỉ là hình thức, doanh nghiệp luôn cố tìm mọi cách để có được tài sản làm vật thế chấp, cầm cố. Trước mắt Chính phủ cần ban hành đầy đủ những văn bản pháp lý cho hoạt động cho vay, đặc biệt là ban hành Nghị định đảm bảo tiền vay. Đồng thời bổ sung, sửa chữa những điểm chưa hợp lý của các văn bản hiện hành như điều kiện cho vay, chi tiết về đối tượng không được cho vay, xác định vấn đề đảm bảo nợ gốc đối với các doanh nghiệp Nhà nước, cụ thể trách nhiệm của các bên trong việc thẩm định xét duyệt dự án hay công chứng Nhà nước... Ban hành chính sách cho ra đời tổ chức bảo hiểm tiền gửi Để đảm bảo cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế cần thiết phải có một hệ thống ngân hàng lành mạnh. Qua hơn 10 năm đổi mới, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã lớn mạnh một cách nhanh chóng. Tuy nhiên các ngân hàng Việt Nam kinh nghiệm chưa nhiều lại hoạt động trong một môi trường pháp lý chưa đầy đủ nên còn gặp nhiều rủi ro. Việc cho ra đời một tổ chức bảo hiểm tiền gửi sẽ là tất yếu khách quan cùng với sự phát triển cuả hệ thống ngân hàng. BHTG có vai trò chính là: Bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền tại các ngân hàng từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc huy động vốn từ tầng lớp dân cư của các ngân hàng. Bảo vệ hệ thống ngân hàng nói riêng và bảo vệ nền kinh tế nói chung. BHTG chống lại việc rút tiền ồ ạt khi ở một ngân hàng gặp khó khăn, có thể gây nên sự đổ vỡ dây chuyền trong hệ thống ngân hàng, tác hại đến toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Tăng cường sự giám sát đối với hoạt động ngân hàng. Nhằm ngăn ngừa việc phải bồi thường khi có ngân hàng phá sản, tổ chức BHTG có những biện pháp giám sát chặt chẽ hoạt động của những ngân hàng tham gia bảo hiểm. BHTG có vai trò quan trọng như vậy nên nó luôn là một bộ phận của chính sách tài chính tiền tệ cuả một quốc gia. ở nhiều nước pháp luật quy định cụ thể bắt buộc các ngân hàng và tổ chức tín dụng phải tham gia BHTG. Chúng ta cũng đã nhận thức được tầm quan trọng của BHTG và đã đề cập tới BHTG trong Luật các tổ chức tín dụng công bố ngày 26/12/1997: “Các TCTD có trách nhiệm tham gia tổ chức bảo toàn hoặc bảo hiểm tiền gửi ”. Để đảm bảo sự an toàn lành mạnh của hệ thống ngân hàng và để đảm bảo lòng tin của dân chúng, chính phủ cần sớm có các chính sách để tổ chức tiền gửi ra đời. Hỗ trợ các ngân hàng tham gia tín dụng xuất nhập khẩu Với chính sách mở cửa nền kinh tế Việt Nam đã thu hút được sự quan tâm sâu sắc của khá nhiều các ngân hàng trên thế giới. Bên cạnh những lợi ích thu được nhờ việc mở rộng thị trường tài chính, việc ngân hàng nước ngoài mở chi nhánh hay liên doanh tại Việt Nam đã đặt các ngân hàng trong nước vào thế bị cạnh tranh khốc liệt. Với thế mạnh về vốn, công nghệ cùng kinh nghiệm kinh doanh trên thương trường các ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài đang dần chiếm lĩnh thị trường tín dụng của các ngân hàng trong nước đặc biệt là trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, một lĩnh vực quan trọng với nhu cầu vốn lớn và khả năng cạnh mang lại doanh thu cũng như lợi nhuận cao. Mục tiêu của các ngân hàng naỳ tất nhiên chỉ là lợi nhuận chứ không phải là thực hiện những đường lối chính sách kinh tế đối ngoại của Nhà nước. Nhiệm vụ tài trợ xuất nhập khẩu theo đúng chủ trương đường lối của Đảng thuộc về các ngân hàng nội địa cụ thể là các ngân hàng quốc doanh. Bởi vậy trong một cuộc cạnh tranh không cân sức các ngân hàng quốc doanh rất cần sự hỗ trợ từ phía nhà nước. Nhà nước có thể đưa ra các biện pháp trợ giúp các ngân hàng như câp thêm vốn điều lệ, tăng quy mô vốn cho các ngân hàng, giảm thuế thu nhập trên phần thu từ tài trợ xuất nhập khẩu, trợ giúp về kỹ thuật và công nghệ, đứng ra bảo lãnh cho các ngân hàng vay vốn nước ngoài... Huy động vốn quốc tế phục vụ cho tài trợ xuất nhập khẩu Trong việc huy động vốn, chúng ta luôn chủ trương phải phát huy yếu tố nội lực, khai thác mọi tiềm năng về vốn trong nước. Bên cạnh đó, để bổ sung cho nguồn vốn trong nước hiện chưa đáp ứng đủ nhu cầu vốn lớn cho hoạt động xuất nhập khẩu, việc thu hút các nguồn vốn từ bên ngoài là vô cùng quan cần thiết. Chính phủ có thể thu hút vốn quốc tế từ các nguồn: (1)Tín dụng nhà nước được ký kết bằng các hiệp định giữa các chính phủ, (2) tín dụng từ các tổ chức cho vay dành cho dành cho chính phủ nước đi vay những điều kiện thuận lợi hơn so với tín dụng thương chức quốc tế như Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế(IMF), Ngân hàng phát triển Châu á(ADB)...trong đó các tổ chức này dành cho nước hội viên những điều kiện ưu đãi theo quy định trong quy chế của tổ chức. Thời gian qua chúng ta đã nhận được khối lượng vốn đáng kể từ các nguồn vốn ODA, vay tài chính, thương mại...Trong điều kiện hiện nay, nguồn tài trợ của các tổ chức quốc tế cũng như từ chính phủ các nước phát triển dành cho các nước đang phát triển có xu hướng giảm đi, trong khi số nước nghèo có nhu cầu nhận viện trợ lại tăng lên. Vì vậy mà trong hiện tại cũng như trong tương lai việc huy động vốn quốc tế sẽ gặp khó khăn hơn. Bởi vậy để tăng khả năng thu hút các nguồn vốn từ bên ngoài, chính phủ cần ổn định môi trường kinh tế vĩ mô trong nước, tăng lòng tin cho các nhà tài trợ, xây dựng hệ thống pháp luật và cơ chế chính sách liên quan đầy đủ, đồng bộ thông thoáng và phù hợp với thông lệ quốc tế. Bên cạnh đó cũng cần quan tâm tới việc thực hiện các nguồn cố hỗ trợ sao cho có hiệu quả, vì dù tiếp nhận nguồn vốn này cới những điều kiện ưu đãi nhưng đây vẫn là nguồn đi vay và phải có nghĩa vụ phải trả nợ khi đến hạn. Thành lập ngân hàng xuất nhập khẩu Việt Nam Hiện nay hoạt động xuất nhập khẩu của chúng ta đang gặp nhiều khó khăn. Để đạt được mục tiêu tốc độ tăng trưởng xuất khẩu là14,4% năm và nhập khẩu là 13%/năm trong giai đoạn2001-2010, điều kiện đầu tiên là phải có tiền vốn cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Trong khi vốn tự có của các doanh nghiệp còn quá nhỏ bé (hơn 50% DNNN có quy mô vốn dưới 1 tỷ đồng) thì việc đi vay ngân hàng là điều tất nhiên. Các ngân hàng Việt Nam trong đó có NHCT cũng đã thực hiện cấp vốn, tài trợ cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Tuy nhiên riêng đối với lĩnh vực xuất nhập khẩu đặc biệt nhu cầu về vốn rất lớn và cần có sự ưu đãi từ ngân hàng Nhà nước. Trong khi đó những hoạt động phục vụ xuất nhập khẩu của các ngân hàng chưa thể hiện rõ sự ưu đãi dành cho các doanh nghiệp. Một phần do hạn chế về các nghiệp vụ mặt khác do chức năng của các ngân hàng thương mại là đi vay để cho vay nên bản thân các ngân hàng không thể huy động vốn với lãi suất thị trường rồi cấp tín dụng xuất nhập khẩu với lãi suất ưu đãi. Vì vậy cần thiết phải có một tổ chức của chính phủ thực hiện chức năng chuyên về hỗ trợ cho xuất nhập khẩu. Trước những nhu cầubức xúc như vậy, tháng 9-2000 chính phủ đã ra quyết định số 195/1999/QĐ-TTg thành lập quỹ hỗ trợ xuất khẩu để hỗ trợ, đẩy mạnh việc xuất khẩu hàng Việt Nam ra thị trường thế giới. Mục đích của Quỹ là hỗ trợ lãi suất vay vốn ngân hàng, hỗ trợ tài chính và thưởng xuất khẩu đối với những doanh nghiệp đạt hiệu quả cao. Vì chỉ là quy mô của một ngân quỹ, các mục đích phục vụ xuất khẩu còn hạn chế. Về lâu dài có lẽ phải có một cơ chế thúc đẩy xuất khẩu trên nhiều mặt chứ không thể đơn thuần về mặt tài chính như quỹ hỗ trợ xuất khẩu. Theo kinh nghiệm của các nước để thực hiện các chính sách tài trợ cho xuất nhập khẩu cần thành lập một ngân hàng chuyên biệt cho xuất nhập khẩu. Hầu hết ở các nước đều có ngân hàng xuất nhập khẩu có chung một mục đích là thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu cho quốc gia. Ví dụ Ngân hàng xuất nhập khẩu Mỹ- Eximbank thực hiện bảo lãnh những khoản vay đối với những người đã cung cấp khoản vay thương mại cho các nhà xuất khẩu Mỹ, bảo hiểm tín dụng cho các nhà xuất khẩu Mỹ, bảo lãnh những khoản vay cho những tổ chức tín dụng đã cung cấp tài chính cho những nhà nhập khẩu Mỹ và cho vay trực tiếp đối với nhà nhập khẩu nước ngoài. Việt Nam hiện đã có một EXIMbank, song đây là một ngân hàng cổ phần, hoạt động kinh doanh như các ngân hàng cổ phần khác tuy có chú trọng tới xuất nhập khẩu nhưng các điều kiện cho vay hay bảo lãnh và lãi suất cũng như các ngân hàng khác. Chúng ta cần có một ngân hàng quốc doanh với 100% vốn của nhà nước, một ngân hàng mang tên Ngân hàng xuất nhập khẩu Việt Nam, một ngân hàng chính sách, hoạt động không vì mục đích lợi nhuận mà nhằm thực hiện các chính sách về xuất nhập khẩu của chính phủ. Hoạt động chính của ngân hàng xuất nhập khẩu sẽ bao gồm: Cấp tín dụng ưu đãi cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu (danh mục các lĩnh vực xuất nhập khẩu được ưu đãi sẽ do chính phủ quy định) Các dịch vụ tư vấn cho doanh nghiệp về thị trường, mặt hàng, giá cả, tỷ giá hối đoái... Thực hiện mua bán ngoại tệ với tỷ giá ưu đãi đối với một số mặt hàng lựa chọn. Thực hiện chiết khấu bộ chứng từ hàng xuất cho các doanh nghiệp XNK hay tái chiết khấu đối với các ngân hàng tài trợ. Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu cả những rủi ro kinh tế và chính trị. Trong các hoạt động của Ngân hàng XNK cần chú trọng tới nghiệp vụ bảo hiểm tín dụng, một hình thức đảm bảo an toàn cho các khoản phải thu từ xuất khẩu. Ngoại thương càng phát triển thì những rủi ro các doanh nghiệp gặp phải càng lớn. Trong giai đoạn hiện nay bảo hiểm tín dụng thực sự cần thiết cho các mục tiêu duy trì hay mở rộng thị trường xuất khẩu đặc biệt đối với việc xuất khẩu hàng sang thị trường mà doanh nghiệp Việt Nam thường gặp rủi ro về thanh toán. B. Giải pháp từ phía ngân hàng Giải pháp về cơ chế, chính sách a) Tiếp tục thực hiện có hiệu quả chính sách ưu đãi tín dụng xuất khẩu: ưu đãi về lãi suất cho vay, phí dịch vụ, điều kiện tín dụng và trao quyền chủ động tối đa cho chi nhánh. Đảm bảo không để bất cứ khách hàng nào đang quan hệ tín dụng với NHCTVN bỏ đi quan hệ với NHTM khác vì lý do cơ chế tín dụng và chất lượng phục vụ. Đồng thời thu hút được thêm các khách hàng mới có tiềm năng tín dụng xuất khẩu. Sự hấp dẫn của ngân hàng đối với khách hàng trong hoạt động kinh doanh đối ngoại được định bởi tiện ích mà ngân hàng mang lại cho họ. Trong đó lợi ích là sự lựa chọn cao của phần lớn khách hàng khi tiện ích của các ngân hàng tương đối đồng đều nhau. Do vậy, NHCT cần phải xây dựng chính sách lợi ích tổng thể gồm các yếu tố như: lãi suất cho vay xuất nhập khẩu, phí mở L/C, phí thanh toán, chênh lệch giá mua bán ngoại tệ... gắn liền với từng khách hàng. Nếu khách hàng thực hiện dịch vụ trọn gói thì có mức phí thấp nhất cho từng nghiệp vụ, nhưng cộng lại thì ngân hàng vẫn có lợi. b) Cho phép các chi nhánh thực hiện nghiệp vụ chiết khấu chứng từ hàng xuất đã hướng dẫn trong quy trình nghiệp vụ TTQT, ban hành kèm theo quyết định 138/QĐ-HĐBT ngày 20/10/1999 của tổng giám đốc NHCTVN. Chúng ta đã chỉ ra được bất cập trong sự phối hợp giữa các bộ phận chức năng trong việc thực hiện nghiệp vụ kinh doanh đối ngoại của NHCT. Do vậy việc xây dựng một quy trình nghiệp vụ khép kín cho sự phối kết hợp các nghiệp vụ trong hoạt động kinh doanh đối ngoại đối ngoại cũng cần đặt ra trong thời gian tới. c) Có cơ chế khuyến khích đối với chi nhánh và cán bộ hoàn thành tốt công tác kinh doanh đối ngoại, cụ thể: Có cơ chế khen thưởng đối với các chi nhánh phát triển tốt nghiệp vụ kinh doanh đối ngoại, tạo nhiều nguồn thu ngoại tệ cho NHCT. Có cơ chế về tiền lương, tiền thưởng khuyến khích đối với cán bộ làm công tác kinh doanh đối ngoại thống nhất trong từng hệ thống. Có cơ chế tiền lương khuyến khích đảm bảo động lực để thu hút những chuyên gia giỏi trong hoạt động thanh toán quốc tế. d) Giải quyết tốt việc hỗ trợ tài chính của Trung Ương cho chi nhánh khi thực hiện ưu đãi xuất khẩu cũng như mua ngoại tệ: giảm lãi suất điều hoà vay vốn nội bộ, hỗ trợ tài chính bằng biện pháp trực tiếp cho từng trường hợp cụ thể nhằm duy trì, thu hút khách hàng mà tạm thời khả năng tài chính của chi nhánh không đáp ứng được. e) Đa dạng hoá các phương thức tài trợ Như đã phân tích ở chương II, các phương thức tài trợ của NHCT nói riêng và của các ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung còn đơn giản. Trên cơ sở nguồn vốn huy động được, trong thời gian tới cùng với sự phát triển của nền kinh tế, NHCT nên mở rộng các hình thức tài trợ cho xuất nhập khẩu. - Phát triển các nghiệp vụ hiện hành. Ví dụ như cho thuê tài chính, nhu cầu đầu tư cho máy móc thiết bị của các doanh nghiệp là rất lớn nhưng ngân hàng không đáp ứng được nhu cầu này. Công ty cho thuê tài chính của ngân hàng cần nghiên cứu các biện pháp để đẩy mạnh hơn nữa hoạt động cho thuê tài chính đối với các doanh nghiệp. Một trong những giải pháp quan trọng là hạ bớt giá cho thuê. Bởi theo các doanh nghiệp thì lãi suất cho thuê tài sản hiện nay là quá cao-cao hơn nhiều so với cho thuê vay dài hạn, doanh nghiệp chỉ xem đi thuê là cứu cánh cuối cùng nếu không được vay dài hạn. Công ty cho thuê tài chính cần hạ mức lãi suất cho thuê xuống ở mức cao hơn một chút so với mức lãi suất cho vay dài hạn để các doanh nghiệp cảm thấy có lợi khi chuyển sang phương thức thuê mua hơn là đi vay với nhiều thủ tục và điều kiện phức tạp. Công ty cho thuê tài chính nên tạo điều kiện để các doanh nghiệp áp dụng phương thức bán và tái thuê, về phía doanh nghiệp vừa có vốn vừa có tài sản để sử dụng, về phía ngân hàng vẫn là nghiệp vụ thuê mua được vận dụng một cách linh hoạt. Phương thức bán và tái thuê sẽ là rất phù hợp với thực trạng nền kinh tế Việt Nam với trên 85% doanh nghiệp là vừa và nhỏ, luôn gặp khó khăn về vốn lưu động cho kinh doanh và đặc biệt là vốn dành cho đầu tư công nghệ. - Phối hợp các nghiệp vụ ngân hàng tạo thành một chu trình tài trợ khép kín. Để làm điều này NHCT có thể quy định trong các quy chế của ngân hàng về điều kiện nhận tài trợ. Ví dụ quy định chỉ cho vay thực hiện hợp đồng xuất khẩu nếu khách hàng cam kết tiến hành thanh toán qua NHCT, quy định L/C hàng xuất chỉ có giá trị thanh toán, chiết khấu tại ngân hàng thông báo, ưu tiên mua bán ngoại tệ cho khách hàng thanh toán xuất nhập khẩu thường xuyên tại ngân hàng. Nếu tạo được một chu trình khép kín, NHCT sẽ thu hút khách hàng trọn vẹn về phía mình nhưng ngân hàng sẽ chỉ thành công nếu dành cho họ những lợi ích cụ thể, NHCT phải đưa ra một số ưu đãi hơn ngân hàng khác để thắng trong các cuộc cạnh tranh như ưu đãi về tín dụng, đơn giản hoá các thủ tục ngân hàng, hạ biểu phí dịch vụ, giảm thời gian thẩm định hồ sơ xin tài trợ... - Cùng các ngân hàng khác tìm kiếm và đồng tài trợ cho các dự án lớn. Hiện nay trước các nhiệm vụ nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu dần thay đổi cơ cấu xuất khẩu giữa hàng thô và hàng tinh chế, các doanh nghiệp xuất khẩu có nhu cầu về vốn rất lớn. Trong khi đó ngân hàng lại đọng vốn mà không dám cho vay vì sợ rủi ro và vì luật các tổ chức tín dụng không cho phép ngân hàng cho một khách hàng vay quá 15% vốn tự có và bảo lãnh cũng bị giới hạn theo một tỷ lệ nhất định so với vốn tự có của ngân hàng. Trước tình hình như vậy việc đồng tài trợ cho doanh nghiệp chính là giải pháp cho các ngân hàng thương mại. 2) Giải pháp về chính sách khách hàng Lựa chọn khách hàng để ưu đãi tín dụng xuất khẩu Về nguyên tắc, phải đặt ra các tiêu chuẩn trong từng thời kỳ về khả năng tài chính, ngành hàng xuất khẩu, kim ngạch xuất khẩu, thị trường xuất khẩu theo hướng sau: Khách hàng có khả năng tài chính lành mạnh, có uy tín trong quan hệ tín dụng, thanh toán và đặc biệt ưu đãi nhiều hơn đối với khách hàng chỉ quan hệ tín dụng duy nhất với NHCTVN, có kim ngạch xuất khẩu cao. Ngành hàng xuất khẩu có lợi thế so sánh và khả năng cạnh tranh mạnh trên thị trường quốc tế như: dầu khí, thu mua và chế biến nông sản, thuỷ sản.. Chú trọng khách hàng có đầu tư công nghệ cao, hiện đại để sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu và chủ yếu xuất khẩu hàng hoá đã qua chế biến, có giá trị gia tăng cao. Trong từng thời kỳ, NHCTTƯ và các chi nhánh (đơn vị thành viên) cần nghiên cứu và có chiến lược đầu tư tín dụng xuất nhập khẩu đối với ngành từng ngành hàng, từng địa phương, từng doanh nghiệp cụ thể. Tuy nhiên, trong thời gian trước mắt, do mất cân đối lớn về ngoại tệ mua bán trong hệ thống NHCTVN, có thể mở rộng ưu đãi tín dụng xuất khẩu cho mọi khách hàng sản xuất kinh doanh xuất khẩu, mọi ngành hàng và thị trường. Trước hết, lựa chọn một số khách hàng xuất khẩu lớn và có uy tín để thực hiện ưu đãi, tài trợ toàn diện. Tạo cơ sở mở rộng TDXK, tăng thu dịch vụ và thu hút ngoại tệ. ứng dụng marketting trong ngân hàng Ngày nay khi nền kinh tế trong nước đã tương đối phát triển, việc ứng dụng Marketing trở nên phổ biến trong mọi ngành kinh doanh và không loại trừ ngành kinh doanh tiền tệ là ngân hàng. Trong điều kiện phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt của các ngân hàng đặc biệt là các ngân hàng nước ngoài như hiện nay, vấn đề vận dụng Marketing là cần thiết đối với ngân hàng Công thương. Trong hoạt động Marketing ngân hàng, việc tìm hiểu và nghiên cứu thị trường có một ý nghĩa hết sức quan trọng. NHCT phải biết thị trường đang cần những sản phẩm gì và làm thế nào để đáp ứng tốt nhất nhu cầu thị trường.Thị trường là đối tượng đồng thời cũng là nhân tố quyết định sự thành công của ngân hàng. Muốn thành công cán bộ phòng Marketing của NHCT có thể áp dụng chiến lược bao gồm việc nghiên cứu 4 yếu tố sau: Thông tin về thị trường: Đối tượng của việc điều tra, tìm hiểu, thu thập thông tin là các khách hàng và các ngân hàng đối thủ. Cán bộ Marketing phải trực tiếp và chủ động tìm khách hàng chứ không thụ động ngồi chờ khách hàng đến giao dịch. Thực tế cho thấy những khách hàng có tiềm lực kinh tế, kinh doanh có hiệu quả thường được các ngân hàng mời chào.Vì vậy muốn khách hàng đến với mình đội ngũ Marketing phải đến tìm hiểu nhu cầu cụ thể của khách hàng cũng như tìm hiểu việc cung ứng sản phẩm dịch vụ của các ngân hàng cạnh tranh. Trên cơ sở đó điều chỉnh và đưa ra những sản phẩm ngân hàng thích hợp. Cán bộ Marketing không những phải tìm biện pháp duy trì khách hàng cũ có uy tín mà luôn luôn phải tìm kiếm khách hàng mới, không ngừng mở rộng khối lượng khách hàng. Đồng thời phòng Marketing phải tiến hành phân loại khách hàng thành các nhóm để từ đó cùng các phòng nghiệp vụ khác áp dụng những chính sách ưu đãi linh hoạt đối với từng nhóm khách hàng. Ví dụ nhóm khách hàng có uy tín giao dịch thường xuyên, khách hàng truyền thống với các giao dịch vay nợ, thanh toán, mua bán ngoại tệ, tiền gửi tại ngân hàng có trị giá lớn, có số dư bình quân cao thì được hưởng giảm lãi suất tiền vay, tăng lãi suất tiền gửi, miễn giảm mức ký quỹ mở L/C...Hay những khách hàng thanh toán hàng xuất thường xuyên qua NHCT sẽ được hưởng phí dịch vụ thấp, trừ tiền mua bán chuyển đổi ngoại tệ theo nhu cầu khi ngoại tệ khan hiếm...Hoặc tuỳ theo mức độ cụ thể mà có thể cung cấp các hình thức ưu đãi như cấp hạn mức tín dụng, tăng hạn mức cho vay, nối mạng vi tính với khách hàng... Sản phẩm của ngân hàng : mang tính đặc trưng là phi vật chất và gắn liền với yếu tố thời gian. Các khách hàng chỉ có thể đánh giá chất lượng những sản phẩm của ngân hàng sau khi sử dụng chứ không phải sở hữu các sản phẩm đó. Khách hàng đánh giá sản phẩm của ngân hàng trên giác độ tổng thể các dịch vụ cung ứng, chính vì thế nhiệm vụ của cán bộ Marketing là phải xem xét sản phẩm của ngân hàng được khách hàng sử dụng như thế nào, họ sử dụng theo nhu cầu thoả mãn hay bắt buộc...Song song với quá trình đó, cán bộ Marketing phải phân tích những thông tin thu thập từ phía khách hàng để từ đó đưa ra những sản phẩm tốt nhất bằng cách cải tiến sản phẩm hiện có hoặc đưa ra ra những sản phẩm mới phù hợp với nhu cầu khách hàng. Đây chính là việc đa dạng hoá các dịch vụ ngân hàng. Trong công việc này cần lưu ý các dịch vụ bổ sung, những dịch vụ có thể không phải là hoạt động sinh lời của ngân hàng nhưng lại có tác động thu hút khách hàng, làm tăng sự trung thành của khách hàng như dịch vụ tư vấn, cung cấp hay bảo mật thông tin...Đi kèm với sản phẩm ngân hàng là yếu tố tỷ giá. Thực ra giá của sản phẩm ngân hàng (lãi tiền gửi, lãi cho vay, phí dịch vụ...) là bộ phận được quy định chặt chẽ và ít có chênh lệch lớn giữa các ngân hàng. Như đã đề cập ở trên vấn đề là áp dụng mức giá với từng đối tượng, từng nhóm khách hàng trên từng địa bàn sao cho phù hợp. Các kênh phân phối : Trong Marketing phân phối nghĩa là làm sao để sản phẩm đến với khách hàng một cách nhanh chóng nhất, thuận tiện nhất. Bộ phận Marketing phải tìm hiểu kịp thời nắm bắt nhu cầu thị trường để đề xuất với ban lãnh đạo lập địa điểm giao dịch tại những địa bàn thích hợp cho hoạt động của ngân hàng. Việc lựa chọn địa điểm cần tính đến các yếu tố như: + Tiềm năng phát triển kinh tế trên địa bàn + Số lượngvà cơ cấu các doanh nghiệp trên địa bàn + Số lượng và thành phần dân cư sống và làm việc trong khu vực dự kiến đặt phòng giao dịch hay trụ sở ngân hàng + Các điều kiện giao thông + Số lượng và tiềm năng các ngân hàng đã hoạt động trong khu vực đó + Việc sắp xếp, bố trí bên trong ngân hàng + Giờ mở cửa làm việc và thời gian cần người trực ngoài giờ Nghệ thuật giao tiếp: Để sản phẩm của ngân hàng có thể được tiếp nhận tốt cán bộ Marketing cũng như cán bộ các phòng nghiệp vụ và nói chung là toàn bộ đội ngũ cán bộ ngân hàng cần chú ý đặc biệt đến nghệ thuật giao tiếp. Thực tế cho thấy không chỉ nhờ hình thức quảng cáo trên báo chí về quy mô vế sức mạnh của ngân hàng mà chính thái độ, phong cách giao tiếp của nhân viên cũng là một cách quảng cáo hiệu nghiệm nhất cho ngân hàng mà chi phí của hình thức này lại là thấp nhất. Người ta đã khẳng định rằng dưới con mắt khách hàng, “ nhân viên là hình ảnh của ngân hàng”. Bởi vậy mọi nhân viên phải luôn tạo cho khách hàng một hình ảnh đẹp về NHCT. Hình ảnh này không chỉ đơn giản bao gồm vẻ bên ngoài lịch sự, nhã nhặn, niềm nở của các nhân viên mà quan trọng hơn phải được thể hiện qua sự tự tin, nắm chắc chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ trong từng công việc. Toàn hệ thống cần xây dựng “một phong cách Incombank” thống nhất trong lòng mọi khách hàng đến giao dịch. Điều này chắc chắn sẽ đem lại những lợi ích có thể là chưa nhận thấy ngay được nhưng sẽ là rất to lớn cho NHCT. Có thể nói Marketing ngân hàng là nhân tố không thể thiếu được đối với sự thành công của bất kỳ ngân hàng nào. NHCT cần phát huy tính hiệu quả của hoạt động này nếu vẫn muốn giữ vị trí là ngân hàng thương mại hàng đầu của Việt Nam. Ngoài ra, NHCT còn cần tăng cường mạnh mẽ công tác tiếp thị. Từ trung ương đến từng chi nhánh phải coi đây là một công việc quan trọng trong hoạt động kinh doanh, duy trì được khách hàng đang quan hệ và thu hút được nhiều khách hàng mới. Trong từng thời kỳ, có kế hoạch cụ thể tìm kiếm và tiếp cận với các khách hàng mới có tiềm năng đáp ứng được yêu cầu của khách hàng. Toàn hệ thống và từng chi nhánh NHCT cần xây dựng chiến lược hệ thống khách hàng, có kế hoạch cụ thể từng năm thu hút được bao nhiêu khách hàng, từng loại, từng khu vực và thị trường. Trước mắt, cần tập trung tiếp thị thu hút các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu lớn ở các bộ, các ngành, các Tổng công ty 90, 91 và các đơn vị thành viên thuộc Tổng công ty, các doanh nghiệp địa phương, các doanh nghiệp trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các tổ chức chính trị, xã hội có hoạt động chuyển tiền, thanh toán quốc tế. Đó là những khách hàng tiềm năng rất lớn mà NHCT cần quan tâm. Phòng phát triển sản phẩm và Quan hệ đại lý nghiên cứu và sớm trình Ban lãnh đạo kế hoạch tiếp thị, đảm bảo doanh nghiệp trong và ngoài nước, đặc biệt là các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu biết được về chức năng, khả năng thực hiện các nghiệp vụ thanh toán quốc tế, tài trợ xuất nhập khẩu. Nghiên cứu chuẩn bị các điều kiện đến năm 2003 có thể mở được 1 đến 2 văn phòng đại diện của NHCTVN tại một số nước có kim ngạch xuất nhập khẩu và thanh toán tốt với Việt Nam. Nghiên cứu trình Ban lãnh đạo xem xét để nới lỏng thêm các ngân hàng đại lý nước ngoài để bổ sung nội dung hợp tác hỗ trợ thực sự có hiệu quả hơn trong thời gian tới. Phối hợp với Bộ thương mại, thông qua hệ thống các ngân hàng nước ngoài có quan hệ đại lý với NHCT, thông qua tham tán thương mại tại các nước, để giới thiệu về hoạt động và địa vị của NHCT đến khách hàng ở các nước. Tạo điều kiện thuận lợi cho những khách hàng đến ngân hàng gửi tiền Ngân hàng có thể mở thêm những phòng giao dịch ở những nơi đông dân cư đồng thời sắp xếp giờ làm việc của ngân hàng thuận tiện cho khách hàng đến gửi tiền. Hiện nay nhiều khách hàng phàn nàn về thời gian làm việc của ngân hàng quá ngắn. NHCT nên có những điểm giao dịch phục vụ cả ngày nghỉ hay ngoài giờ hành chính. Vì sự tiện lợi cho khách hàng, ngân hàng nên áp dụng các phương thức rút tiền và thanh toán lãi một cách linh hoạt, NHCT nên cho phép khách hàng gửi tiền ở một nơi nhưng có thể rút ở nhiều nơi trong hệ thống phòng giao dịch của ngân hàng chứ không nhất thiết là gửi ở đâu thì chỉ được đến đó rút. Khách hàng gửi tiền với nhiều mục đích, ngân hàng sẽ trả lãi sao cho phù hợp với mục đích của khách hàng như trả lãi trước, trả lãi giữa kỳ, ghép lãi. Đặc biệt khi khách hàng muốn rút tiền trước thời hạn, hay chỉ rút một phần tiền gửi trước hạn, ngân hàng cần tính lãi suất hợp lý để khách hàng không bị thiệt hoặc không chuyển sang cách gửi tiền kỳ hạn ngắn hơn. Ngân hàng có thể trả lãi theo lãi suất có kỳ hạn của kỳ hạn cao nhất, số lẻ còn lại tính theo lãi suất không kỳ hạn. Với số tiền rút sớm cũng vậy và số tiếp tục gửi sẽ vẫn tiếp tục được tính mà không bị gián đoạn hay bỏ phí thời hạn gửi trước đó. Tất nhiên những việc này sẽ gây khó khăn cho ngân hàng nhưng một khi đã kinh doanh thì phải luôn coi khách hàng là thượng đế thì mới có thể thành đạt. Mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt. Làm tốt công tác thanh toán không dùng tiền mặt là điểm quan trọng dẫn đến thành công trong việc thu hút tiền tệ vào ngân hàng. Ngân hàng công thương cần áp dụng các tiến bộ về công nghệ ngân hàng, mở rộng các hình thức mở tài khoản cá nhân, phát triển các nghiệp vụ thanh toán bằng thẻ tín dụng, sớm mở rộng dịch vụ gửi tiền và rút tiền qua máy rút tiền tự động ATM, vừa có ý nghĩa mở rộng dịch vụ ngân hàng vừa đẩy mạnh việc thu hút các nguồn vốn nhàn rỗi từ mọi tầng lớp nhân dân vào quỹ ngân hàng. Phát hành trái phiếu Incombank để tăng vốn huy động trung và dài hạn. Với đặc tính có thể chuyển nhượng, trái phiếu là một công cụ huy động vốn rât linh hoạt. Ngân hàng luôn đảm bảo có vốn trong thời hạn của trái phiếu. Về phía người nắm giữ trái phiếu, khi cần thu hồi vốn có thể dễ dàng bán trái phiếu trên thị trường hay mang trái phiếu đến cầm cố vay vốn tại ngân hàng. Phát hành trái phiếu còn tạo tiền đề cho NHCT tham gia vào thị trường chứng khoán. Để tăng hiệu quả thu hút vốn, NHCT có thể phát hành trái phiếu trong nước cũng như ngoài nước. Củng cố quan hệ truyền thống với các ngân hàng đại lý nước ngoài. NHCT cần không ngừng khai thác lợi thế này để tranh thủ vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý tiên tiến từ bên ngoài phục vụ cho nhu cầu trong nước. NHCT cần thắt chặt quan hệ với ngân hàng bạn tiến tới ký kết các hiệp định tín dụng và hiệp định tài chính vay vốn nước ngoài đáp ứng nhu cầu nhập khẩu và đầu tư cho xuất khẩu. Bên cạnh đó, cần chấn chỉnh tác phong giao dịch lịch sự, văn minh, chất lượng phục vụ tốt, có ý nghĩa quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Do vậy, từ ban lãnh đạo cho đến các phòng ban phải thường xuyên được quán triệt và giáo dục, nếu cán bộ nào không thực hiện được điều này thì chuyền công tác khác. Cần có các quy đinh chuẩn mực cụ thể buộc tất cả các cán bộ phải chấp hành và thực hiện nghiêm túc khi giao dịch với khách hàng cũng như làm việc tại công sở. Đặc biệt đối với những khách hàng có nhu cầu tín dụng và thanh toán XNK lớn, cần bố trí cán bộ giỏi về nghiệp vụ, ngoại ngữ đồng thời phải có kinh nghiệm, khả năng giao dịch tốt để phục vụ và tư vấn cho khách hàng. Thực hiện đơn giản hoá thủ tục hành chính. Từ Hội Sở Chính đến từng chi nhánh rà soát lại toàn bộ thủ tục hành chính, hồ sơ đối với khách hàng. Đề ra các biện pháp cụ thể để thực hiện đơn giản hoá các thủ tục hành chính, hồ sơ khách hàng. Đảm bảo phục vụ khách hàng nhanh chóng, thuận tiện và an toàn. 4) Đẩy mạnh công nghệ tin học, hiện đại hoá hoạt động ngân hàng Công nghệ tin học có thể được coi là chiếc chìa khoá dẫn đến thành công của hoạt động ngân hàng, việc hiện đại hoá hoạt động ngân hàng vì vậy mà không thể tách rời công nghệ tin học. Trong một kỷ nguyên tin học như ngày nay, NHCT càng cần thiết phải mạnh dạn đầu tư cho việc phát triển công nghệ tin học ngân hàng bao gồm trang thiết bị hiện đại, đồng bộ trên toàn hệ thống, hiện đại hoá các phần mềm ứng dụng và đào tạo đội ngũ cán bộ tin học thích ứng với công nghệ mới. Trong tương lai song song với công nghệ tin học sẽ là việc tự động hoá các quầy giao dịch, phòng giao dịch tạo thuận lợi và giảm bớt thời gian cho khách hàng và cả ngân hàng. Hiện đại hoá hoạt động ngân hàng không chỉ nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ mới mà còn giảm chi phí lao động, tăng sức cạnh tranh và giảm độ rủi ro cho ngân hàng. Việc hiện đại hóa hoạt động ngân hàng cũng là cơ sở, điều kiện để NHCT hoà nhập với cộng đồng ngân hàng quốc tế. Trước mắt, NHCT cần thực hiện các hoạt động sau: Nhanh chóng đầu tư, đổi mới công nghệ thanh toán Việc đầu tư, đổi mới công nghệ thanh toán là rất cần thiết và cấp bách hiện nay của NHCTVN để mở rộng và hoàn thiện mạng lưới TTQT của NHCTVN, hiện đại hoá công nghệ thanh toán, rút ngắn tối đa thời gian thanh toán, tiện ích, nhanh chóng và an toàn, cạnh tranh được với các NHTM khác. Để đổi mới, nâng cao chất lượng công nghệ thanh toán cần phải thực hiện: Thay đổi chương trình phần mềm thanh toán: Do chương trình IBS đang sử dụng(NHCT tự thiết kế) đã tỏ ra có nhiều bất cập, không đáp ứng được yêu cầu của hoạt động TTQT. Nếu nâng cấp chương trình này sẽ mất nhiều thời gian và không thể đạt được trình độ hiện đại, quốc tế. Do vậy, cần phải tìm kiếm đối tác để mua chương trình phần mềm thanh toán của nước ngoài, thay thế phần mềm IBS đang sử dụng. Phần mềm mua phải tương thích, phù hợp với công nghệ thanh toán theo tiêu chuẩn quốc tế. Cần có sự nghiên cứu và khảo sát chu đáo, đòi hỏi chuyên gia hỗ trợ, có phương án triển khai cụ thể. Việc mua chương trình phần mềm thanh toán của nước ngoài, có những ưu điểm sau: + Đạt trình độ hiện đại, tốc độ xử lý cao, đồng bộ, có thể khai thác nhiều chức năng mới. Đảm bảo đáp ứng được các nhu cầu phục vụ khách hàng tiện lợi nhất. Đảm bảo an toàn giao dịch cao, tính liên kết giao dịch và rút báo cáo phục vụ cho công tác quản lý điều hành nhanh, chính xác. + Tận dụng lợi thế của người đi sau, tiết kiệm thời gian và chi phí. Qua đó, có thể học tập, nâng cao trình độ cán bộ và cải tiến quy trình TTQT của mình cho phù hợp với thông lệ quốc tế. + Có khả năng liên kết, thích ứng cao với một số dịch vụ hiện đại mới như ATM, Thẻ... (nếu chương trình trong nước, thì từng dịch vụ phải có chương trình riêng. Do vậy các chương trình này không đồng bộ với nhau hoặc mức liên kết kém). Đặc biệt chương trình mới có khả năng liên kết với các chương trình của các NHTM khác. + Tránh được trường hợp: cán bộ thiết kế chương trình bỏ đi cơ quan khác( như vừa qua ở NHCT) gây khó khăn cho hoạt động TTQT. Tuy nhiên, trước mắt từ nay đến khi vận hành được chương trình mua về, cần phải tiếp tục nâng cấp mạng IBS để đảm bảo công việc hàng ngày. b) Đầu tư và nâng cấp máy móc thiết bị mạng cục bộ và hệ thống truyền thông + Đầu tư thêm thiết bị hiện đại, đủ công suất đảm bảo xử lý thông tin thông suốt ngay cả trong tình huống cao điểm. + Chuyển mạng cục bộ(LAN) của các chi nhánh có hoạt động TTQT lớn từ cấu hình BUS sang cấu hình STAR. NHCT cần có ngay kế hoạch đánh giá hiện trạng chi nhánh đã chuyển và số chi nhánh chưa chuyển mạng LAN sang cấu hình STAR, để dự trù kinh phí triển khai. + Giao cho trung tâm công nghệ TTQT khảo sát, tìm kiếm, đưa ra các giải pháp tối ưu giải quyết vấn đề ách tắc mạng truyền thông tin trong toàn hệ thống, đảm bảo thông suốt trong quá trình làm việc. c) Cần nghiên cứu sớm để đưa ứng dụng một số dịch vụ ngân hàng hiện đại, có ý nghĩa thúc đẩy phát triển kinh doanh đối ngoại (như dịch vụ uỷ thác, ATM, mạng ngân hàng trực tuyến ...), trước mắt chưa triển khai rộng thì đề nghị cho thực hiện thí điểm và có lộ trình triển khai tiếp các dịch vụ đó. d) Để phục vụ tốt công tác thống kê, báo cáo và quản lý, khẩn trương thiết kế phần mềm tin học liên quan đến: đối tượng khách hàng, ngành hàng xuất nhập khẩu, thị trường xuất nhập khẩu, kim ngạch xuất nhập khẩu của từng khách hàng của NHCT. e) Thực hiện nối mạng giao dịch với khách hàng, trước mắt là các khách hàng lớn nhằm đáp ứng các thông tin sớm nhất về tình hình tài chính, tiền tệ cũng như các nhu cầu dịch vụ phục vụ của khách hàng, nhằm phục vụ khách hàng nhanh nhất, tốt nhất. 5) Giải pháp về cán bộ và đào tạo Con người luôn là nhân tố có ý nghĩa quyết định tới sự phát triển và thành công của mọi hoạt động kinh tế cũng như xã hội. Để phát huy hết nguồn tài sản vô giá này, NHCT cần xây dựng một chiến lược phát triển nguồn nhân lực một cách toàn diện. Các cán bộ ngân hàng cần có một lượng kiến thức đầy đủ, không chỉ về nghiệp vụ ngân hàng mà còn về ngoại ngữ, về các nghiệp vụ ngoại thương, về luật và tập quán quốc tế...để có khả năng ứng xử các tình huống bất ngờ phát sinh trong các quy trình nghiệp vụ cũng như tư vấn giúp khách hàng trong việc ký kết và thực hiện các hợp đồng xuất nhập khẩu. Ngoài ra tư cách đạo đức của cán bộ ngân hàng cũng cần phải được rèn luyện hơn nữa, đã có không ít trường hợp cán bộ ngân hàng vì tham lợi mà vi phạm các quy định của ngành hay ngược lại sợ rủi ro, sợ trách nhiệm mà làm ảnh hưởng đến uy tín và hiệu quả hoạt động của NHCT. Để có được đội ngũ cán bộ đủ mạnh, NHCT có thể có các biện pháp cụ thể như: Sử dụng cán bộ: NHCTTW và từng chi nhánh hoạch định, tiêu chuẩn hoá cán bộ làm công tác tín dụng xuất nhập khẩu và thanh toán quốc tế, từng bước rà soát, sắp xếp lại cán bộ. Đảm bảo đến đầu 2003 lãnh đạo phụ trách kinh doanh đối ngoại và tất cả cán bộ làm công tác tín dụng xuất khẩu và cán bộ thanh toán quốc tế phải có đủ các tiêu chuẩn sau: Có trình độ đại học chuyên ngành ngân hàng, kinh tế. Ngoại ngữ( tiếng Anh) thông thạo. Đã được đào tạo, bồi dưỡng về nghiệp vụ kinh doanh XNK, thanh toán quốc tế và luật quốc tế( phải đạt trình độ đại học). Được đào tạo về tin học, vận hành và sử dụng thành thạo máy vi tính. b. Tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ: - Tuyển dụng: Tính hết năm nay, các chi nhánh và HSC có nhu cầu sẽ tiến hành lựa chọn, tuyển dụng ngay cán bộ, đáp ứng được các tiêu chuẩn trên cho lĩnh vực kinh doanh đối ngoại. - Đào tạo và bồi dưỡng: Cần có một đợt tổng kiểm tra, sát hạch thật chính xác tất cả cán bộ đang làm ở các nghiệp vụ liên quan đến hoạt động tài trợ thương mại quốc tế, từ đó có kế hoạch đào tạo hoặc chuyển đổi sang vị trí khác, tuyển dụng bổ sung cán bộ mới. c. Hình thành bộ phận tư vấn và môi giới cho khách hàng về nghiệp vụ tín dụng XNK. Bố trí các cán bộ tư vấn có trình độ hiểu biết sâu rộng để tư vấn, môi giới cho khách hàng. Khách hàng có nhu cầu sẽ được cung cấp cập nhật về tỷ giá, lãi suất, các phân tích chuyên sâu về xu hướng biến động của thị trường, các hướng dẫn cụ thể về áp dụng các công cụ phòng ngừa rủi ro tín dụng cũng như việc thực hiện các văn bản pháp quy của nhà nước về quản lý ngoại hối, tư vấn cho khách hàng trong việc lựa chọn ngân hàng mở thư tín dụng, ngân hàng phải thanh toán, dạng L/C được mở...Thậm chí cán bộ ngân hàng có thể tham dự cùng khách hàng khi được yêu cầu đàm phán ký kết hợp đồng thương mại nhằm thoã thuận để đạt được điều khoản thanh toán có lợi nhất, tư vấn giúp khách hàng kiểm tra, hoàn chỉnh bộ chứng từ XNK, lập chứng từ đòi tiền. d) Các phòng chức năng cần thành lập một bộ phận để nghiên cứu, tổng kết, đánh giá từng hoạt động, cố vấn và tham mưu cho ban lãnh đạo để có kế hoạch điều chỉnh hoạt động kinh doanh trong từng thời kỳ. Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng: để mở rộng TDXNK đòi hỏi NHCT phải thực hiện đồng bộ hàng loạt các biện pháp. Tuy nhiên, chúng ta không thể dàn trải thực hiện tất cả các biện pháp cùng một lúc, mà phải lựa chọn những giải pháp chiến lược, có tính đột phá như đã trình bày ở trên. Kết luận Kể từ khi nước ta mở cửa nền kinh tế, ngoại thương Việt nam đã có những bước tiến bộ vượt bậc. Đó là nhờ vào những chính sách ngoại thương đúng đắn của nhà nước, ngoài ra cần phải kể đến vai trò của hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu từ các ngân hàng thương mại trong việc góp phần thúc đẩy ngoại thương phát triển. Trong điều kiện Việt nam đang trên đường hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới như hiện nay, các hoạt động xuất nhập khẩu diễn ra trong một môi trường rộng, đa dạng với quy mô ngày càng lớn, tính chất của nó ngày càng trở nên phức tạp và tiềm ẩn nhiều khó khăn. Trong điều kiện đó, tín dụng xuất nhập khẩu luôn phát huy vai trò của mình đối với không chỉ các doanh nghiệp, các ngân hàng thương mại mà còn đối với toàn bộ nền kinh tế. Hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu tại NHCTVN hiện nay chủ yếu tập trung vào các hình thức như cho vay thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu, chiết khấu hối phiếu và bộ chứng từ, mở L/C thanh toán hàng nhập khẩu, bảo lãnh cho doanh nghiệp vay vốn nước ngoài. Bên cạnh đó còn một số hình thức khác như cho vay thấu chi, mua bán ngoại tệ có kỳ hạn tuy nhiên những hình thức này không phổ biến như những hình thức kể trên. Với nguồn vốn, kinh nghiệm lâu năm, uy tín và quan hệ đối ngoại trên trường quốc tế, hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu của NHCTVN đã đáp ứng được phần nào nhu cầu được tài trợ trong quá trình sản xuất và kinh doanh của các doanh nghiệp. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu tại NHCTVN còn một số điểm tồn tại. Có những tồn tại do nguyên nhân khách quan và cũng có những tồn tại do nguyên nhân chủ quan về phía ngân hàng. Một tồn tại đáng lưu tâm không chỉ tại NHCTVN mà còn ở các ngân hàng thương mại khác trong nước là thực trạng các nghiệp vụ tín dụng xuất nhập khẩu còn đơn điệu, chủ yếu dưới hình thức cổ điển, các hình thức tài trợ tiến tiến khác chưa được áp dụng. Đối tượng được cấp tín dụng của NHCTVN chủ yếu là các doanh nghiệp quốc doanh, việc mở rộng thị trường cho các doanh nghiệp còn hạn chế, cơ cấu chủ yếu còn tập trung vào các hình thức tín dụng ngắn hạn, các hình thức tài trợ dài hạn còn chiếm tỷ trọng thấp. Hơn nữa, một thực trạng rất bức xúc tại NHCTVN là tính mất cân đối trong việc sử dụng vốn và huy động vốn. Tốc độ tăng trưởng vốn huy động trong thời gian qua luôn lớn hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng, điều này dẫn đến tình trạng ứ thừa vốn trong ngân hàng. Nợ quá hạn cả trong lĩnh vực tín dụng xuất nhập khẩu lẫn bảo lãnh vẫn còn là điểm nóng tại NHCTVN, gây ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Có nhiều nguyên nhân dẫn tới những tồn tại nêu trên. Thứ nhất là nguyên nhân thuộc về bản thân nền kinh tế. Nền kinh tế VN đang trong giai đoạn phát triển và còn khá yếu ớt, kinh doanh xuất nhập khẩu không ổn định nên sức hấp thụ vốn của nền kinh tế giảm dẫn đến nhu cầu tài trợ vốn từ ngân hàng giảm. Thứ hai, hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam trong hoạt động xuất nhập khẩu trình độ còn non nớt, nhiều khi gây rủi ro cho ngân hàng tài trợ. Ngoài ra có nhiều doanh nghiệp có tính lừa đảo, gây thiệt hại cho NHCT. Bên cạnh nguyên nhân khách quan, còn có nguyên nhân chủ quan: trình độ nhân viên hoạt động trong lĩnhvực xuất nhập khẩu chưa cao và thực sự cũng còn nhiều thiếu sót trong quá trình hoạt động, đặc biệt là sự không tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định trong văn bản pháp lý do NHNN ban hành cũng như những quy định của hệ thống NHCT dẫn đến nhiều tồn tại trong hoạt động tài trợ và cũng làm ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng. Sau khi đã tìm hiểu thực trạng hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu tại NHCTVN, kết luận trình bày một số giải pháp nhằm phát triển hơn nữa hoạt động này tại ngân hàng Công Thương Việt Nam. Về phía nhà nước, Chính phủ cần có những biện pháp ưu đãi, khuyến khích hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu. Tạo khung pháp lý thuận lợi cho hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu, thành lập quỹ bảo hiểm tiền gửi, hỗ trợ các ngân hàng thương mại tham gia tích cực vào hoạt động này.Trước thực trạng hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu đang có xu hướng chuyển dịch sang các chi nhánh ngân hàng nước ngoài, Nhà nước cần có các biện pháp hỗ trợ về vốn, kinh tế, công nghệ cho các ngân hàng thương mại tham gia tài trợ xuất nhập khẩu để giúp hoạt động này phát triển theo định hướng chính sách đối ngoại của nhà nước. Nhu cầu tài trợ từ các doanh nghiệp là rất lớn trong khi thực lực vốn của các ngân hàng thương mại là có hạn, Chính Phủ cần đóng vai trò mở đường trong việc thu hút các nguồn vốn quốc tế phục vụ cho cấp tín dụng xuất nhập khẩu. Để phù hợp với xu thế chung của các nước trên thế giới, và cũng để tạo dựng một tổ chức thực hiện chức năng chuyên môn hoá về tín dụng xuất nhập khẩu, kết luận đề xuất cho thành lập ngân hàng xuất nhập khẩu Việt nam, một ngân hàng quốc doanh 100% vốn nước ngoài với chức năng chính là hỗ trợ các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam trong quá trình xâm nhập sâu hơn vào thị trường thế giới. Về phía ngân hàng, ngân hàng cần tập trung vào các giải pháp về cơ chế chính sách, về đội ngũ cán bộ cũng như các nhân viên hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu mà đã trình bày cụ thể trong chương 3. Nói tóm lại, NHCTVN luôn phải xác định tín dụng xuất nhập khẩu là nhiệm vụ chiến lược của toàn hệ thống. Trong tương lai, NHCT dự tính phát triển hình thức này theo hướng đa dạng hoá các hình thức tài trợ. Trước nhu cầu của nền kinh tế cùng với những đòi hỏi khách quan của quá trình hội nhập kinh tế, hy vọng NHCTVN cũng như các ngân hàng thương mại khác sẽ luôn đổi mới, phát huy vai trò là người đỡ đầu cho sự thành công của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, đưa ngoại thương Việt nam đạt tới những chỉ tiêu chung của thế giới về một nền ngoại thương phát triển. Tài liệu tham khảo Giáo trình “Thanh toán quốc tế trong ngoại thương”-PGS Đinh Xuân Trình- Nhà xuất bản Bộ Giáo Dục-Trường Đại Học Ngoại Thương-1998. Giáo trình “Kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương”-GS Vũ Hữu Tửu-1997. Giáo trình “Thanh toán và tín dụng quốc tế” PGS Phạm Quang Duệ-Khoa Ngân hàng Trường Đại học kinh tế quốc dân. Tài chính ngoại thương-Herbert J.Kessler- Trần Mậu dịch-Nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật-HN 1993. Nghiệp vụ ngân hàng quốc tế-PTS Lê Văn Tề- Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh-1994. Tạp chí Ngân hàng các số 2001, 2002. Tạp chí tài chính tiền tệ Tạp chí thương mại số ra ngày 23/7/2002 Các văn bản pháp lý của Ngân hàng Nhà nước. Báo cáo thường niên của Ngân hàng Công thương Năm 2001 Báo cáo sơ kết hoạt động kinh doanh 6 tháng đầu năm Ngân hàng Công thương Việt nam. Báo cáo tín dụng của Ngân hàng Công thương Việt Nam các năm 2000, 2001. Các văn bản nghiệp vụ tín dụng, bảo lãnh, tài trợ xuất nhập khẩu của Ngân hàng Công thương Việt Nam.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • dockhoa luan tot nghiep.doc
Tài liệu liên quan