- Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính trong lĩnh vực quản lý xuất nhập khẩu. Thường xuyên nâng cao năng lực, tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ quản lý, nhất là lĩnh vực thuế, hải quan. Qui định trách nhiệm cá nhân rõ ràng, cụ thể; có chế độ thưởng phạt nghiêm minh.
- Trong quá trình soạn thảo và xây dựng các văn bản pháp luật, cần tăng cường tham khảo ý kiến của doanh nghiệp. Xây dựng mặt bằng pháp lý chung cho các doanh nghiệp kể cả quốc doanh và ngoài quốc doanh thông qua một Luật doanh nghiệp thống nhất, các luật về hợp đồng, về tín dụng, về giải quyết tranh chấp và nhất là về thuế, tiến tới thực hiện nguyên tắc công bằng về nghĩa vụ thuế giữa người Việt Nam và người nước ngoài, giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Để tuân thủ các nguyên tắc đối xử quốc gia (NT) trong những Hiệp định thương mại đã ký với nước ngoài, cần chủ động từng bước giảm bớt các phân biệt đối xử này.
- Điều chỉnh, bổ sung các cơ chế chính sách nhằm tạo lập được “sân chơi" bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trong việc hỗ trợ vốn ngân sách, trong việc giải quyết vốn tín dụng (hình thức tín chấp), trong việc giải quyết đất đai, hỗ trợ vốn cho nghiên cứu khoa học, cung cấp thông tin. Việc tạo ra môi trường kinh doanh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế phải được thể hiện trên cả văn bản pháp lý và trong tổ chức thực hiện, có như vậy mới có sơ sở đánh giá một cách đúng đắn hiệu quả sản xuất của từng doanh nghiệp và có căn cứ để hoạch định chính sách đầu tư. Chú trọng tới việc khai thác nguồn vốn đầu tư trong nước, tiến tới ban hành một Luật khuyến khích đầu tư duy nhất cho cả đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Tập trung đầu tư vào một số ngành trọng điểm thông qua các dự án có hiệu quả, tạo nhiều việc làm cho người lao động, không nên đầu tư tràn lan, phân tán.
- Đơn giản hoá thủ tục xin cấp ưu đãi đầu tư, công khai hoá các điều kiện ưu đãi, các đối tượng được ưu đãi. Giảm lãi suất vay vốn ưu đãi đầu tư xuống 4-5%/năm. Có chính sách ưu đãi thoả đáng đối với các doanh nghiệp đầu tư công nghệ tiên tiến, công nghệ “sạch”. Mức độ ưu đãi cần đủ sức hấp dẫn như thời gian miễn, giảm thuế dài hơn. Mở rộng và đa dạng hoá các hình thức ưu đãi đầu tư như trợ cấp đầu tư, khấu hao nhanh tài sản cố định, giảm thuế đối với đầu tư nghiên cứu và phát triển, đào tạo và nâng cao tay nghề.
- Cải tiến và đơn giản hoá các thủ tục vay vốn, nghiên cứu, sửa đổi qui định về thế chấp tài sản khi vay vốn cho phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp, đáp ứng yêu cầu vốn sản xuất, kinh doanh phục vụ xuất khẩu.
- Tiếp tục cải cách chính sách thuế theo hướng khuyến khích và tạo điều kiện hơn nữa cho các doanh nghiệp phát triển sản xuất - kinh doanh các sản phẩm xuất khẩu. Xây dựng biểu thuế chi tiết, cụ thể, mã hoá theo tiêu chuẩn quốc tế. Cần chuẩn bị các điều kiện cần thiết để sớm áp dụng giá theo hợp đồng trong tính thuế hải quan.
- Tiến hành điều chỉnh chính sách quản lý ngoại hối cho phù hợp với thực tiễn, tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thể mua ngoại tệ của ngân hàng dễ dàng.
92 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1696 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoạt động xuất khẩu của Hà Nội thời kỳ đổi mới (1986-2000): Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
qua các năm; Mạng lưới cửa hàng, điểm bán của các Hợp tác xã được đầu tư nâng cấp nhằm đáp ứng yêu cầu của việc kinh doanh, một số Hợp tác xã đã tổ chức được các bạn hàng tương đối ổn định. Tuy nhiên, hợp tác xã chưa có vai trò lớn trong xuất khẩu.
Về kinh tế tư nhân :
Kinh tế tư nhân (KTTN) đã nhanh chóng vươn lên làm nhiệm vụ bán buôn và XNK, đóng góp một phần quan trọng vào nguồn thu ngân sách thông qua việc nộp thuế, tạo nguồn thu ngoại tệ cho Thành phố.
Bên cạnh sự gia tăng nhanh chóng về mặt số lượng doanh nghiệp, thì các lĩnh vực, ngành nghề sản xuất kinh doanh cũng được đầu tư một cách đa dạng hơn. Có thể nói khu vực KTTN tham gia hoạt động vào hầu hết các lĩnh vực đặc biệt là đối với lĩnh vực thương mại và dịch vụ. Mặc dù còn có những mặt hạn chế nhất định, song phải khẳng định rằng khu vực KTTN đã có những đóng góp rất quan trọng trong ổn định và phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn.
Kim ngạch xuất khẩu liên tục tăng trưởng từ 1996 - 2000, tạo ra một khối lượng sản phẩm lớn cho xã hội. Nhiều sản phẩm có chất lượng cao đã chiếm lĩnh được thị trường nội địa và tham gia xuất khẩu, tham gia tích cực vào quá trình cân đối quan hệ cung cầu trên địa bàn. Điều này đã góp phần quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Thủ đô, đặc biệt là có vai trò nhất định trong quá trình hình thành và phát triển kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, hình thành những áp lực tích cực đối với các DNNN trong quá trình đổi mới phương thức quản lý, sản xuất - kinh doanh.
Bên cạnh những mặt mạnh mà khu vực KTTN có được, thì hoạt động của khu vực này còn bộc lộ một số hạn chế chủ yếu sau :
- Quy mô của các doanh nghiệp nhỏ, khả năng về mặt tài chính không lớn, quá trình tích tụ và tập trung vốn diễn ra chậm. Vì vậy mà việc đầu tư mở rộng sản xuất - kinh doanh rất ít có khả năng hoặc nếu có thì diễn ra rất chậm.
- Trình độ thiết bị và quy trình công nghệ còn ở mức thấp, hiệu quả và sức cạnh tranh yếu, thiếu chiến lược phát triển một cách bền vững, quá trình sản xuất - kinh doanh còn bị động, phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố thị trường. Do đó dễ bị phương hại trong cơ chế mới. Các doanh nghiệp hầu như hoạt động một cách độc lập, ngại liên kết và hợp tác, không xây dựng được niềm tin lẫn nhau. Do đó không phát huy được những lợi thế của quá trình chuyên môn hoá, hiệp tác hoá đem lại.
- Đa phần các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư nhân chịu tác động và đơn thuần chạy theo sự điều tiết của các quy luật kinh tế thị trường (nhất là quy luật giá trị, quy luật cung cầu và quy luật cạnh tranh) nên dễ vi phạm pháp luật, đi chệch hướng XHCN nhất là: không trung thực trong đăng ký kinh doanh; kinh doanh sai phép, gian lận thương mại, trốn lậu thuế...
- Công tác quản lý sau đăng ký kinh doanh chậm được cụ thể hoá. Thực tế hiện nay cho thấy nhiều cơ quan quản lý nhà nước có chức năng quản lý doanh nghiệp theo lĩnh vực được phân công. Song thiếu cơ quan tổng hợp, cơ quan chịu trách nhiệm chính trước nhà nước trong quản lý khu vực kinh tế này.
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã có tốc độ tăng trưởng cao, thời kỳ 1996 - 2000 đã tăng bình quân 22,16%/năm, với tổng vốn đầu tư là 4,29 tỷ USD. Khu vực này đã đóng góp vào sự tăng trưởng xuất khẩu, tạo việc làm cho hàng ngàn lao động., góp phần tiếp nhận và chuyển giao công nghệ mới, cho tới trước những năm thực thi luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam thì khoảng cách về trình độ khoa học và công nghệ giữa Việt nam với các nước công nghiệp phát triển là rất lớn. Qua hợp tác với nước ngoài, chúng ta đã tiếp cận được với một số công nghệ và kỹ thuật tiến tiến trên thế giới... chính vì vậy mà trình độ thiết bị và tay nghề đã vươn lên ở mức tiên tiến ngang bằng với các nước trong khu vực.
2.2.3.Đánh giá chung và bài học kinh nghiệm hoạt động xuất khẩu của trong thời kỳ đổi mới (1986 - 2000)
2.2.3.1. Những thành tựu Hà Nội đã đạt được:
- Thành phố đã có những chuyển biến lớn về các chính sách điều hành xuất khẩu và xúc tiến thương mại.
Những năm qua, Nhà nước Việt Nam nói chung và chính quyền Thành phố Hà Nội nói riêng đã có nhiều cơ chế, chính sách và biện pháp hỗ trợ cụ thể nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu. Về chỉ đạo điều hành, thành phố đã có những chỉ đạo tập trung, hỗ trợ khuyến khích doanh nghiệp dưới nhiều hình thức khác nhau như : hỗ trợ về vốn lưu động cho các doanh nghiệp để có thêm vốn tăng cường hoạt động xuất khẩu, ưu tiên sử dụng quỹ hỗ trợ phát triển để các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh hàng xuất khẩu được vay vốn ưu đãi, tổ chức khen thưởng các doanh nghiệp có thành tích xuất khẩu, hỗ trợ kinh phí cho các công tác xúc tiến thương mại...
- Quy mô và tốc độ xuất khẩu tăng trưởng liên tục đóng góp trực tiếp vào GDP, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế của Thủ đô.
Tính chung thời kỳ 1991 - 2000, xuất khẩu hàng hoá tại Hà Nội tăng liên tục . Năm 2000, kim ngạch xuất khẩu trên địabàn đã tăng gấp 4,6 lần so với 1991. Trong gia đoạn này, nhịp độ tăng trưởng xuất khẩu trên địa bàn đạt 14,9%/năm, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt khoảng 6,5 tỷ USD, góp phần tăng GDP bình quân hàng năm là 11,6%/năm, GDP/người là 446 USD năm 1990 lên 990 USD năm 2000.
- Số lượng mặt hàng xuất khẩu ngày càng được mở rộng , chất lượng xuất khẩu đã được nâng lên.
Hà Nội đã hình thành các nhóm sản phẩm chủ lực có khối lượng tương đối lớn và thị trường khá ổn định như : nhóm hàng may dệt, giày dép, điện điện tử, thủ công mỹ nghệ, nông sản và thuỷ hải sản. Ngoài ra, Hà nội bắt đầu xuất hiện thêm nhiều mặt hàng mới như: cơ kim khí, công nghệ phần mềm, thực phẩm chế biến...
Phương thức kinh doanh phát triển đa dạng; trước đây chủ yếu là bán buôn theo hiệp định và xuất khẩu tại chỗ, nay đã mở rộng nhiều hình thức như tái xuất, chuyển khẩu...
- Cơ cấu mặt hàng đã có sự chuyển dịch theo hưởng tỷ trọng xuất khẩu hàng chế biến ngày càng tăng, giảm tỷ trọng sản phẩm thô. Trước đây, sản phẩm tinh chế chiếm 25- 30% nay đã tăng 50 -55%
- Thị trường xuất khẩu được mở rộng, cơ cáu thị trường xuất khẩu có sự chuyển biến lớn.
Thị trường xuất khẩu của Hà nội trước đây chủ yếu là các nước Đông âu và Liên Xô(cũ) , nay đã mở rộng ra hàng chục nước ở hầu hết các Châu lục trên thế giới với kim ngạch khoảng 80%, kể cả các thị trường khó tính như : Mỹ, Nhật, EU...
- Số lượng doanh nghiệp trực tiếp kinh doanh xuất khẩu ngày càng tăng và có sự chuyển dịch rõ nét trong cơ cấu chủ thể tham gia xuất khẩu
Sau khi Nghị định 57 CP của Chính phủ được ban hành, mọi doanh nghiệp có nhu cầu kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp chỉ cần làm thủ tục hải quan, không cần xin giấy phép, đã nâng số doanh nghiệp đăng ky xuất nhập khẩu lên rất nhiều.
Cơ cấu chủ thể tham gia xuất khẩu cũng dược thay đổi, các doanh nghiệp nhà nước không còn nắm độc quyền mà còn có những doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác tham gia xuất khẩu như : ngoài quốc doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài...
2.2.3.2. Hạn chế trong hoạt động xuất khẩu của Hà Nội:
- Quy mô xuất khẩu còn nhỏ, không tương xứng với tầm vóc và khả năng của Thủ đô. Tỷ trọng xuất khẩu của Hà Nội chiếm khoảng 10 - 11% so với cả nước. Trong khi đó tỷ trọng xuất khẩu của Thành phố Hồ Chí Minh lớn hơn rất nhiều (khoảng 40 - 45% của cả nước). Mặt khác Hà Nội có đội ngũ lao động kỹ thuật cao, có ngành nghề truyền thống, có cơ sở hạ tầng tương đối tốt nhưng chưa được tận dụng.
- Cơ cấu hàng xuất khẩu có sự chuyển dịch nhưng còn rất chậm.
Xuất khẩu hàng thô và sơ chế vẫn là chủ yếu, chiếm tỷ trọng khoảng 60% tổng kim ngạch xuất khẩu. Thực tế cho thấy, một nền sản xuất dựa trên cơ sở hàng thô và sơ chế không đảm bảo có mức tăng trưởng vượt bậc của xuất khẩu.
- Sức cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu trên thị trường quốc tế vẫn còn yếu.
Nguyên nhân của những hạn chế trên là do :
Trong cơ chế chính sách còn nhiều bất cập :
+ Các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập - khẩu vẫn còn gặp những hạn chế, vướng mắc trong cơ chế, chính sách. Hệ thống pháp luật Việt Nam trong nhiều năm qua không ổn định, các chính sách kinh tế liên tục thay đổi, chưa tạo được một "sân chơi" bình đẳng cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau trong hoạt động sản xuất - kinh doanh nói chung và hoạt động xuất - nhập khẩu nói riêng.
+ Công tác chỉ đạo, điều hành của Thành phố và các cấp, ngành còn chưa tập trung cao và thiếu cụ thể... Nhiều chủ trương còn dừng ở phương hướng, thiếu chỉ đạo chặt chẽ công tác triển khai và tổ chức kiểm tra, đôn đốc chưa thường xuyên, kịp thời.
+ Chính sách quản lý ngoại hối vẫn còn nhiều bất cập. Doanh nghiệp phải bán một phần thu nhập ngoại tệ cho ngân hàng, nhưng khi có nhu cầu mua ngoại tệ lại gặp thủ tục phiền phức. Chênh lệch giữa giá bán và giá mua lại ngoại tệ góp phần làm tăng thêm chi phí không đáng có cho doanh nghiệp. Tỷ giá giữa VNĐ và USD biến động hàng ngày gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc kê khai để tính thuế khi làm thủ tục hải quan.
+ Hệ thống văn bản pháp luật về Hải quan còn thiếu đồng bộ, có chỗ chưa sát với thực tế, nhưng chậm được sửa đổi bổ sung cho phù hợp với cơ chế quản lý mới. Có nhiều văn bản quy định về thủ tục hải quan do nhiều cơ quan chức năng khác nhau ban hành, các văn bản còn chồng chéo, gây khó khăn không chỉ đối với các doanh nghiệp mà cho chính các cán bộ hải quan khi thực hiện nhiệm vụ. Quy trình, thủ tục hải quan đã có nhiều tiến bộ song vẫn rườm rà, qua nhiều cửa. Nhiều khâu nghiệp vụ vẫn thực hiện thủ công, mặt bằng làm thủ tục ở một số điểm chật hẹp vừa gây chậm trễ, lãng phí thời gian cho doanh nghiệp, vừa khó khăn cho công tác quản lý.
+ Trong biểu thuế xuất khẩu còn nhiều mức thuế suất, vừa theo mục đích sử dụng, vừa theo tính chất mặt hàng. Biểu thuế đôi khi chưa minh bạch, có mặt hàng có thể áp vào 2, 3 mã số với thuế suất khác nhau. Trong trường hợp này, Hải quan thường áp mã thuế suất với mức cao nhất, gây thiệt thòi cho phía doanh nghiệp, vừa không phù hợp với thông lệ quốc tế (áp mã thấp nhất).
+ Hoạt động của các tổ chức giám định hàng hoá xuất nhập khẩu còn chồng chéo, thiếu thống nhất. Chưa có cơ quan quyết định cuối cùng trong trường hợp các tổ chức giám định đưa ra những kết quả không thống nhất, thậm chí trái ngược nhau. Sự phối hợp giữa Cục Hải quan Hà Nội với Hải quan các địa phương chưa đồng bộ, chưa tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu. Phần lớn lượng hàng xuất khẩu của Thành phố đều phải qua cảng Hải Phòng, nhưng sau khi lô hàng đã được Hải quan Hà Nội làm thủ tục kiểm tra, kẹp chì, xuống đến cảng nhưng vẫn gặp khó khăn về thủ tục vào cảng, lên tàu.
- Cho đến nay, Thành phố Hà Nội chưa có chiến lược quy hoạch đầu tư mặt hàng xuất khẩu. Đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu còn dàn trải, manh mún, hiệu quả thấp. Công tác điều hành, chỉ đạo của Thành phố và các cấp, Ngành còn chưa tập trung cao và thiếu cụ thể... Nhiều chủ trương còn dừng ở phương hướng, thiếu chỉ đạo tập trung, triển khai và tổ chức kiểm tra, đôn đốc. Chưa đầu tư trọng điểm và đầu tư đồng bộ tạo sản phẩm hoàn chỉnh có giá trị cao và hàm lượng chất xám cao.
Các đơn vị còn thiếu chủ động trong việc xây dựng chiến lược sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu lâu dài, có tính phát triển bền vững, nhiều doanh nghiệp còn làm ăn mang tính “đánh quả”
- Thiếu quy hoạch ngành nghề và vùng nguyên liệu
- Chưa biết vận dụng kinh nghiệm một số nước lấy Thủ đô làm trung tâm, hạt nhân cho các địa phương khác trong việc xây dựng cầu nối với quốc tế. Chẳng hạn : các địa phương khác làm vùng nguyên liệu để cung cấp cho Hà Nội xuất khẩu. Thủ đô sẽ đảm nhận khâu chế biến, hướng dẫn kỹ thuật và đầu tư công nghệ, tìm thị trường xuất khẩu...
- Khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu của Hà Nội trên thị trường quốc tế còn yếu do trình độ thiết bị và công nghệ lạc hậu, chi phí cao, trình độ yếu quản lý yếu, năng suất lao động thấp. Đồng thời, công tác tổ chức thông tin giữa các cơ quan quản lý Nhà nước và doanh nghiệp còn chưa tốt, chưa kịp thời. Các cơ quan nhà nước chưa quan tâm và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp phát triển sản xuất, tạo nguồn hàng, hướng dẫn đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại để mở rộng thị trường xuất khẩu.
Hoạt động xúc tiến thương mại được Thành phố quan tâm chỉ đạo đã thành lập Trung tâm xúc tiến thương mại của Thành phố, phục vụ cho công tác xúc tiến thương mại nói chung và xúc tiến xuất khẩu nói riêng của các doanh nghiệp Hà Nội, đã thành lập các cơ sở giới thiệu hàng xuất khẩu tại Hà Nội và Matxcơva (LB Nga), tổ chức một số hoạt động hỗ trợ cho công tác xúc tiến thương mại của doanh nghiệp như giới thiệu bạn hàng, giới thiệu đầu mối chuyển giao công nghệ, thiết bị cho sản xuất hàng xuất khẩu, .... Tuy nhiên, có thể nói, đây là một trong những khâu yếu nhất trong các hoạt động hỗ trợ xuất khẩu của Hà Nội. Tại phần lớn các doanh nghiệp xuất khẩu, công tác tiếp thị, xúc tiến thương mại còn mang tính thụ động, tự phát; khả năng nắm bắt thị trường và xử lý thông tin còn yếu; trình độ, năng lực cán bộ quản lý, kinh doanh xuất nhập khẩu cũng còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được nhu cầu hiện nay. Các doanh nghiệp cũng chưa năng động, chưa biết hợp tác với nhau thành các Hiệp hội buôn bán lớn nhằm tạo điều kiện cho việc bảo vệ lợi ích và nâng cao năng lực cạnh tranh của mình.
2.2.3.3.Bài học kinh nghiệm về hoạt động xuất khẩu của Hà Nội:
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, việc thúc đẩy hoạt động xuất khẩu phải chú trọng khai thác lợi thế so sánh giữa Hà Nội và các Tỉnh. Trên cơ sở lợi thế của Hà Nội mà chọn phát triển ngành nghề và cơ cấu mặt hàng xuất khẩu.
Lựa chọn cơ cấu ngành hàng, mặt hàng xuất khẩu gắn với việc đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu. Đa dạng hoá mặt hàng đồng thời phải chú trọng các mặt hàng chủ lực .
Đa phương hoá thị trường xuất khẩu gắn với xây dựng thị trường trọng điểm. Những năm qua cho thấy, hoạt động xuất khẩu theo hướng đa dạng hoá đa phương hoá thị trường có vai trò rất quan trọng trong chiến lược xuất khẩu của nước ta. đồng thời với việc đa phương hoá thị trường xuất khẩu, cần phải xây dựng thị trường trọng điểm. Thị trường trọng điểm là cơ sở, bàn đạp để đa phương hoá thị trường và ngược lại đa phương hoá thị trường là tiền để để xây dựng thị trường trọng điểm.
Trong điều kiện thị trường phải gắn với xu hướng tự do hoá thương mại, giải quyết tốt hoạt động xuất khẩu cần giải quyết tốt mối quan hệ giữa xuất khẩu và nhập khẩu. Nhập khẩu là điều kiện để xuất khẩu. Không thể tăng mạnh xuất khẩu nếu không nhập khẩu để phục vụ xuất khẩu. Do vậy, nhập khẩu máy móc thiết bị để nâng cấp công nghệ và nguyên liệu càn thiết phục vụ cho sản xuất xuất khẩu.
Phối hợp tốt giữa Hà Nội với các địa phương khác trong công tác xuất khẩu. Mục đích của quá trình hợp tác là:
+ Phát huy vai trò đi đầu của Hà Nội trong hoạt động xuất nhập khẩu của Khu vực Miền Bắc. Trong đó, Hà Nội phải trở thành trung tâm bán buôn và xuất nhập khẩu của các Tỉnh Miền Bắc.
+ Khai thác lợi thế so sánh của Hà Nội và các Tỉnh về vị trí địa lý, đất đai, tài nguyên, vốn, công nghệ, nhân lực, kinh nghiệm quản lý và tổ chức sản xuất kinh doanh... để đẩy mạnh xuất khẩu của Hà Nội và hỗ trợ các Tỉnh trong xuất nhập khẩu nói chung và xuất khẩu nói riêng
Hiện nay, Hà Nội xuất khẩu các mặt hàng nông sản chủ yếu là thu gom từ các Tỉnh Miền Trung và miền Nam, so chế để xuất khẩu. Hà Nội không có lợi thế so với các Tỉnh khác trong khu vực Miền Bắc. Vì vậy, cần tổ chức tốt khâu thu mua, có thể liên kết với các Tỉnh bạn để tạo vùng nguyên liệu và đầu tư xây dựng cơ sở chế biến tại các Tỉnh như: xây dựng khu vực chế biến rau quả, thịt lợn, gia cầm, gia súc, tinh bột sắn, thuỷ hải sản....để phục vụ nội tiêu và xuất khẩu.
Chương 3
Quan điểm và giải pháp chủ yếu thúc đẩy phát triển xuất khẩu của Thành phố Hà Nội
thời kỳ 2001-2010
3.1.Những yếu tố tác động đến hoạt động xuất khẩu của Hà Nội trong thời gian tới :
a.Thuận lợi:
Khoa học và công nghệ phát triển mạnh mẽ và đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp đưa thế giới vào thời kỳ phát triển mới: thời kỳ kinh tế tri thức và xã hội thông tin.
Xu hướng toàn cầu hoá, khuc vực hoá tạo thuận lợi cho ta mở rộng thị trường tiêu thụ.
Châu á - Thái Bình dương đang phục hồi nhanh chóng sau khủng hoảng, tiếp tục một thị trường tiêu thụ rộng lớn và cùng Châu Âu hình thành không gian kinh tế á - Âu tạo ra cho các doanh nghiệp Việt Nam những định hướng thích hợp trong quá trình tìm kiếm và mở rộng thị trường.
Hà Nội đã tích luỹ được một số kinh nghiệm trong hoạt động xuất khẩu của 15 năm đổi mới.
b.Khó khăn:
Xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá sẽ tạo ra sức ép cạnh tranh thị trường trong nước và thị trường ngoài nước cực kỳ gay gắt.
Kinh tế thế giới và khu vực, đặc biệt là tình hình tài chính tiền tệ, tỷ giá, giá sản phẩm, nhất là giá nông sản, nhiên liệu còn chứa đựng nhiều nhân tố không ổn định, khó dự báo.
Năng suất lao động của Việt Nam còn thấp, giá thành cao, công nghệ lạc hậu nên chất lượng sản phẩm khó có khả năng cạnh tranh với các nước.
3.2. Mục tiêu phát triển xuất khẩu Hà Nội giai đoạn 2001 - 2010.
Tạo một nhịp độ phát triển xuất khẩu cao và bền vững, phấn đấu đưa xuất khẩu trở thành lĩnh vực quan trọng của kinh tế Hà Nội phải là mục tiêu chủ yếu của hoạt động ngoại thương của Thủ đô trong 10 năm tới.
Để định ra các chỉ tiêu xuất nhập khẩu phải căn cứ vào chỉ tiêu phát triển kinh tế xã hội chung của Thành phố Hà Nội. Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ XIII Đảng bộ thành phố Hà Nội và Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội đã đề ra các chỉ tiêu phát triển kinh tế- xã hội chủ yếu của thành phố Hà Nội giai đoạn 2001- 2010 (thể hiện qua bảng 3.1 dưới đây)
Bảng 3.1 Một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội chung
của Thành phố Hà Nội
2001-2005
2006-2010
2001-2010
Tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm
10- 11%
11%
10,5%
Tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp bình quân hàng năm
14- 15%
14,5%
14%
Tốc độ tăng giá trị sản xuất nông, lâm, thuỷ sản bình quân hàng năm
2,5- 3%
3,0%
3,0%
Tốc độ tăng giá trị sản xuất của ngành dịch vụ bình quân hàng năm
9-10,5%
10%
10%
Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu bình quân hàng năm
16-18%
15-16%
16-17%
Nguồn: Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội Hà Nội giai đoạn 2001-2010.
Ngoài ra, một nhân tố rất quan trọng ảnh hưởng đến việc xác định các chỉ tiêu xuất khẩu là tình hình thị trường thế giới. Trong thế giới hiện đại ngày nay, cùng với việc tăng cường toàn cầu hoá và tính liên thông giữa kinh tế các nước, những biến động thăng trầm về phát triển kinh tế của một nước hay một số nước sẽ có ảnh hưởng rất mạnh đến thị trường thế giới nói chung. Vì vậy, trong khi các quốc gia trên thế giới với nền kinh tế thị trường vẫn còn chịu tác động của những chu kỳ phát triển (các chu kỳ này rất khó được dự đoán cả về độ dài chu kỳ, mức độ tăng trưởng hay suy thoái cũng như mức độ ảnh hưởng của nó), hoạt động xuất khẩu của Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng cũng sẽ phải chịu sự chi phối của những tác động ấy.
3.3.Quan điểm phát triển xuất khẩu Hà Nội giai đoạn 2001 - 2010.
Quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Nghị quyết 15/NQ-TW của Bộ chính trị về Thủ đô Hà Nội, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ XIII và Chiến lược xuất khẩu toàn quốc, có thể xây dựng một hệ thống các quan điểm chỉ đạo hoạt động xuất khẩu của Thành phố Hà Nội trong 10 năm tới như sau:
-Hà Nội phải là một trong những địa phương dẫn đầu cả nước về phát triển kinh tế - xã hội nói chung và tăng trưởng xuất khẩu nói riêng, xứng đáng với vai trò “là trái tim của cả nước, đầu não chính trị - hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn hoá, khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế (10). Để thực hiện được trách nhiệm nặng nề này, Hà Nội cần đảm nhiệm tốt vai trò đầu tàu trong việc hướng dẫn mở rộng thị trường, hướng dẫn đầu tư sản xuất phục vụ xuất khẩu và trợ giúp các địa phương về các hoạt động giao dịch ngoại thương trong giai đoạn tới.
- Ưu tiên cao cho phát triển xuất khẩu: Cần nhất quán coi xuất khẩu là hướng ưu tiên trọng điểm hàng đầu của hoạt động kinh tế đối ngoại Thủ đô để đạt được sự tăng trưởng bền vững. Hướng về xuất khẩu sẽ chính là công cụ hữu hiệu để phát huy lợi thế so sánh và lợi thế cạnh tranh của sản xuất trong nước (tất nhiên là với điều kiện chọn lựa được đúng các lĩnh vực đầu tư phát triển). Tiếp tục kiên trì chủ trương đẩy mạnh xuất khẩu như một hướng ưu tiên có vị trí cực kỳ quan trọng để tăng trưởng GDP, phát triển sản xuất, thu hút lao động, tạo nguồn vốn để nhập khẩu, tranh thủ công nghệ; chủ động hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Xây dựng Hà Nội thành đầu mối bán buôn xuất- nhập khẩu và phát luồng hàng lớn của khu vực.
- Quan điểm về thị trường: Gắn kết thị trường trong nước với thị trường ngoài nước; gắn thị trường với sản xuất và sản xuất với thị trường xuất khẩu, vừa chú trọng thị trường trong nước, vừa ra sức mở rộng và đa dạng hóa thị trường bên ngoài, sản xuất hàng xuất khẩu phù hợp với nhu cầu của thị trường thế giới chứ không chỉ căn cứ vào năng lực sản xuất sẵn có; đặt hiệu quả kinh doanh xuất khẩu trong hiệu quả kinh tế - xã hội chung.
Đa phương hoá quan hệ thương mại, đa dạng hoá thị trường xuất khẩu, tập trung phát triển thị trường đã có, xây dựng thị trường xuất khẩu trọng điểm kết hợp với thâm nhập và khai thác các thị trường mới. Kết hợp phát triển thị trường khu vực với thị trường các châu lục. Tiếp cận hiệu quả, vững chắc các thị trường lớn của các nước công nghiệp phát triển.
- Quan điểm về mặt hàng: Thành phố Hà Nội cần coi trọng các mặt hàng, sản phẩm xuất khẩu truyền thống đồng thời cần tích cực mở rộng các mặt hàng, sản phẩm mới theo yêu cầu của thị trường và phát huy lợi thế so sánh, hướng đến những sản phẩm xuất khẩu có tỷ lệ giá trị gia tăng cao, chế biến sâu, có hàm lượng công nghệ và tri thức cao, giảm dần tỷ trọng hàng thô và sơ chế, đa dạng hoá chủng loại hàng xuất khẩu. Tạo dựng những mặt hàng xuất khẩu chủ lực, nhưng không giới hạn vào những mặt hàng cố định mà linh hoạt đáp ứng nhu cầu thị trường và biến động giá cả. Cần tập trung đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng mà Hà Nội đang có thế mạnh, có lợi thế so sánh như: công nghiệp nhẹ (hàng dệt may, da giày), cơ kim khí, điện - điện tử (cả lắp ráp và sản xuất linh kiện), hàng nông - lâm - thuỷ sản (một số mặt hàng đặc sản cao cấp hoặc đã qua chế biến), hàng thủ công mỹ nghệ và có quy hoạch đầu tư xuất khẩu phần mềm tin học. Từng bước tăng dần khối lượng sản xuất hàng xuất khẩu trực tiếp thay thế hình thức gia công cho nước ngoài. Quan tâm xây dựng thương hiệu cho sản phẩm xuất khẩu thành một số sản phẩm có tên tuổi trên thế giới.
Chú trọng phát triển xuất khẩu lao động và xuất khẩu dịch vụ, nhất là dịch vụ du lịch quốc tế và các dịch vụ trình độ cao, chất lượng cao thu ngoại tệ tại chỗ.
-Đa dạng hóa các chủ thể tham gia hoạt động xuất khẩu, hoàn thiện các thiết chế thị trường phục vụ phát triển xuất khẩu: Kiên trì chủ trương đa dạng hóa thành phần kinh tế tham gia hoạt động xuất khẩu trên địa bàn Hà Nội, trong đó có cả các DNNN trung ương và địa phương, doanh nghiệp ngoài quốc doanh, doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Đặc biệt, coi trọng phát triển mạng lưới và các tổ chức kinh doanh xuất nhập khẩu để chúng không chỉ là người cung cấp và tiêu thụ sản phẩm cho các doanh nghiệp sản xuất, mà còn đảm đương tốt vai trò định hướng, điều chỉnh và hỗ trợ sản xuất, và trở thành bộ phận quan trọng trong cơ chế điều chỉnh sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Thành phố theo đúng tín hiệu và nhu cầu thị trường trong nước và quốc tế.
Phát triển xuất khẩu phải gắn liền với việc xây dựng và phát triển đồng bộ các thiết chế, các dịch vụ và hệ thống thị trường, trong đó có thị trường hàng hoá - dịch vụ, thị trường lao động, thị trường vốn, thị trường bất động sản, thị trường công nghệ để tạo thuận lợi cho phát triển kinh tế đối ngoại và hội nhập quốc tế. Đổi mới cơ chế kinh doanh xuất nhập khẩu, có cơ chế đặc thù khuyến khích xuất khẩu và ổn định qua nhiều năm.
- Tập trung đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao và nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu: Cần xây dựng đội ngũ thương nhân, đào tạo cán bộ quản lý và nguồn lao động có tay nghề cao phục vụ cho hoạt động xuất khẩu của Hà Nội. Chú trọng việc nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp và sản phẩm xuất khẩu cả về giá cả, chất lượng, phương thức giao hàng, thanh toán, dịch vụ hậu mãi, ...
3.4. Một số giải pháp phát triển xuất khẩu của Hà Nội :
Để phát triển xuất khẩu của Hà Nội với tốc độ cao như mục tiêu đề ra cần một hệ thống giải pháp đồng bộ và có tính bứt phá ở những khâu quan trọng. Dưới đây là một số giải pháp chủ yếu có tính chiến lược cho cả thời kỳ 2001-2010. Trên cơ sở đó cần cụ thể hoá các giải pháp này thành các việc làm, các dự án và hoạt động cụ thể:
3.4.1. Giải pháp phát triển sản xuất và tạo nguồn hàng, sản phẩm xuất khẩu
Đây là giải pháp quan trọng nhất, có ý nghĩa lâu dài và cần được triển khai với sự tính toán tỉ mỉ, sự cân nhắc và lựa chon hợp lý.
Mở rộng năng lực sản xuất sản phẩm xuất khẩu thông qua các hoạt động đầu tư và mở rộng nguồn vốn:
- Thành phố chủ động chi Ngân sách Nhà nước để tăng cường các hoạt động nghiên cứu, hiểu biết đầy đủ, sâu sắc và cập nhật các tình hình, xu hướng phát triển của thị trường vốn đầu tư trên thế giới, chính sách đầu tư của các khối, các nước, các tập đoàn công ty lớn, từ đó sớm có đối sách thích hợp đối với hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài và để xúc tiến vận động đầu tư nhằm thực hiện chủ trương đa phương hoá các đối tác đầu tư nước ngoài, tạo thế chủ động trong mọi tình huống. Lập các dự án đầu tư có tính khả thi cao để kêu gọi các nguồn vốn đầu tư nước ngoài và cả vốn đầu tư trong nước vào phát triển sản xuất hàng hóa xuất khẩu.
- Thông qua thị trường vốn và các quỹ hỗ trợ đầu tư thích hợp để tập trung các nguồn vốn cho các dự án sản xuất hàng xuất khẩu quy mô lớn. Dành ưu tiên cao cho các ngành sản xuất hàng xuất khẩu. Trong đầu tư tránh tình trạng dàn trải mà tập trung vào các ngành hàng chủ lực, các dự án nâng cao cấp độ chế biến để nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa và đầu tư cho một số doanh nghiệp lớn, có tiềm năng.
- Đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá, bán, khoán kinh doanh và cho thuê theo Nghị định số 103/1999/NĐ-CP của Chính phủ. Cụ thể hóa và tổ chức thực hiện việc bán, khoán kinh doanh, cho thuê các DNNN, theo đó những DNNN có vốn trên sổ sách dưới 1 tỷ đồng do Chủ tịch UBND Thành phố quyết định; Những DN có vốn Nhà nước trên sổ sách kế toán từ 1 tỷ đến dưới 5 tỷ đồng thì UBND Thành phố trình Thủ tướng Chính phủ xét.
- Thành phố nghiên cứu việc tổ chức lại các doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu để có thể tích tụ vốn, tích tụ năng lực sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu.
- Đối với các doanh nghiệp nhà nước địa phương sản xuất những mặt hàng nằm trong danh mục mặt hàng xuất khẩu chủ lực cần tập trung ưu tiên đầu tư phát triển. Thành phố có chính sách ưu tiên bổ sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh xuất khẩu có hiệu quả.
- Có chính sách ưu đãi đầu tư trong một số lĩnh vực sản xuất xuất khẩu để gọi vốn đầu tư nước ngoài đầu tư vào các ngành hàng đòi hỏi vốn đầu tư cao như: ngành dệt, sản xuất giày da, và các ngành sản xuất nguyên phụ liệu cho ngành dệt-may và da giày. Đối với việc sản xuất các nguyên phụ liệu, cần kết hợp với các doanh nghiệp trung ương có sức mạnh kinh tế - kỹ thuật, lựa chọn thiết bị- công nghệ với bước đi mạnh bạo, kết hợp khai thác tiềm lực trong nước kết hợp với tham gia vào phân công lao động quốc tế để đạt hiệu quả cụ thể.
- Thành phố đẩy nhanh việc xây dựng và hoàn thiện hạ tầng kỹ thuật các KCN, cụm công nghiệp Hà Nội. Khuyến khích các chủ đầu tư trong và ngoài nước đầu tư vào các cụm và KCN này để sản xuất hàng xuất khẩu. Chuẩn bị các điều kiện để tiến tới thành lập "Khu công nghiệp xuất khẩu tập trung" của Thành phố.
- Đẩy mạnh việc hỗ trợ đầu tư như cung cấp thông tin, dự báo về đầu tư, xây dựng kết cấu hạ tầng các khu công nghiệp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ thuê (công khai các thủ tục; giảm giá thuê đất, tăng thời gian cho thuê đất; đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng trong và ngoài hàng rào; hỗ trợ về vốn để doanh nghiệp thuê đất và hoạt động sản xuất, kinh doanh...).
- Tiếp tục hoàn thiện và nhân rộng mô hình sản xuất nông nghiệp kiểu mới cho các hộ gia đình nông thôn ngoại thành và cả các hộ kinh tế khác có điều kiện làm nông nghiệp. Tạo điều kiện cho nông dân chuyển đổi ruộng đất, tích tụ ruộng đất cùng với việc mở rộng phát triển sản xuất các sản phẩm nông nghiệp đặc sản chất lượng cao phục vụ xuất khẩu. Hình thành và phát triển các vùng sản xuất chuyên canh phù hợp với nhu cầu của thị trường xuất khẩu.
Nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu:
Việc nâng cao sức cạnh tranh có ý nghĩa then chốt và được thực hiện thông qua nhiều biện pháp khác nhau, cả về kỹ thuật- công nghệ, về kinh tế và tổ chức, cũng như các biện pháp về tổ chức lưu thông, xúc tiến thị trường, được thực hiện một cách đồng bộ bởi các cơ quan chức năng và cộng đồng doanh nghiệp. Về phía Thành phố, cần chú trọng một số khía cạnh sau đây:
- Thành phố chú trọng đầu tư đổi mới công nghệ (với các biện pháp ưu đãi nhất định) cho các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu có hiệu quả; khuyến khích các doanh nghiệp khấu hao nhanh để tái đầu tư nhằm đổi mới thiết bị, nâng cao chất lượng sản phẩm. Đối với thiết bị, nhà xưởng không sử dụng hoặc sử dụng kém hiệu quả thuộc sở hữu Nhà nước thì khuyến khích chuyển quyền sở hữu thông qua hình thức bán đấu thầu để tạo nguồn vốn tái đầu tư.
- Thành phố khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp tham gia vào hệ thống tiêu chuẩn chất lượng ISO, đăng ký chất lượng, nhãn mác, in mã số, mã vạch sản phẩm.
- Các cơ quan quản lý Nhà nước có liên quan của Thành phố triệt để và nhất quán thi hành các hình thức ưu đãi dành cho sản xuất hàng xuất khẩu đã được đề cập trong Luật khuyến khích đầu tư trong nước sửa đổi để giúp các doanh nghiệp giảm chi phí sản xuất và xuất khẩu sản phẩm.
- Khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng khoa học - công nghệ và các phương pháp quản lý tiên tiến như là một phần của chiến lược cạnh tranh của mình nhằm hợp lý hoá sản xuất và giảm giá thành sản phẩm.
- Rà soát các khâu liên quan đến các yếu tố đầu vào của doanh nghiệp, đặc biệt là các dịch vụ phục vụ chung cho các ngành như vận tải, bưu điện, điện nước, ngân hàng... tạo điều kiện giảm chi phí và tăng nhanh chu kỳ sản xuất sản phẩm xuất khẩu.
Cải tiến cơ cấu hàng nhập khẩu, tăng cường nhập khẩu vật tư - thiết bị phù hợp cho sản xuất hàng xuất khẩu:
- Ưu tiên nhập khẩu vật tư, thiết bị và công nghệ tiên tiến phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá Thủ đô, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá sản xuất trong nước, đẩy mạnh xuất khẩu.
- Chú ý tạo điều kiện thuận lợi trong việc nhập khẩu có lựa chọn các loại vật tư, thiết bị chủ yếu để đảm bảo cho sản xuất hàng hoá xuất khẩu của các doanh nghiệp trên địa bàn, đặc biệt là tạo nguồn cung cấp có chất lượng. Nhập khẩu thiết bị phải chú ý đến chất lượng của công nghệ đó, có sự giám định về chất lượng về hiệu suất của thiết bị.
- Hà Nội cần mạnh dạn đầu tư NSNN để xây dựng Trung tâm dịch vụ tư vấn, thẩm định và chuyển giao công nghệ, hoặc hỗ trợ phát triển các đơn vị hiện có chức năng tương tự tại Hà Nội để giúp các nhà quản lý và đối tác Việt Nam trên địa bàn và khu vực phía Bắc thực hiện việc giám định chất lượng và giá cả để tránh tình trạng nhập khẩu hoặc chuyển giao thiết bị, máy móc lạc hậu với giá cả cao.
- Cần chú ý hạn chế những sản phẩm, những nguyên vật liệu trong nước đã sản xuất được và sản xuất có chất lượng, đạt tiêu chuẩn quốc gia, quốc tế để tiết kiệm ngoại tệ; hạn chế tối đa việc nhập khẩu hàng tiêu dùng.
3.4.2. Giải pháp về tổ chức xúc tiến thị trường và phát triển một số thị trường trọng điểm
Về phía các doanh nghiệp:
- Tích cực chủ động tìm hiểu nắm bắt thông tin về thị trường, liên hệ với các tổ chức xúc tiến thương mại của Nhà nước để có thêm nguồn thông tin. Đặc biệt, phát huy tối đa quan hệ với các văn phòng đại diện thương mại, đầu tư và tư vấn của nước ngoài tại Việt Nam để thành lập liên doanh, tìm kiếm sự giúp đỡ để giới thiệu và tiếp thị hàng ra nước ngoài.
- Tăng cường tiếp xúc với thị trường ngoài thông qua nhiều hình thức như tổ chức đi nghiên cứu thị trường, tham gia triển lãm trong và ngoài nước, tham dự các hội thảo, chương trình đào tạo ở nước ngoài,... Để những hoạt động này đem lại hiệu quả cao nhất, doanh nghiệp phải có sự chuẩn bị hết sức chu đáo, kỹ lưỡng đối với từng hoạt động, tránh việc tham gia hời hợt, theo phong trào.
- Từng doanh nghiệp cần chủ động xây dựng chiến lược kinh doanh và chiến lược thị trường phù hợp với lộ trình hội nhập của quốc gia, chủ động đối mặt với môi trường cạnh tranh gay gắt hơn trên cả thị trường trong và ngoài nước. Cốt lõi của chiến lược kinh doanh, chiến lược thị trường chủ động trong tầm nhìn dài hạn sẽ phải thông qua việc hợp lý hóa quy trình sản xuất và quản lý để giảm chi phí sản xuất bình quân, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm. Cần tránh việc ỷ lại, trông chờ vào hỗ trợ trực tiếp của Nhà nước.
- Chú trọng cập nhật những thay đổi trong phương thức kinh doanh, phương thức tiếp cận thị trường và khách hàng trên thế giới để có thể vận dụng trong điều kiện cho phép, đặc biệt là trong lĩnh vực thương mại điện tử, các nghiệp vụ tự bảo hiểm tại các sở giao dịch kỳ hạn, kinh doanh chứng khoán, ... Coi trọng việc giữ gìn chữ tín trong kinh doanh.
Về phía chính quyền Thành phố:
- Kiện toàn hoạt động của Trung tâm xúc tiến thương mại Hà Nội để hỗ trợ có hiệu quả hơn cho các doanh nghiệp trong công tác xúc tiến thị trường.
- Mở Văn phòng đại diện thương mại hoặc Trung tâm thương mại của Hà Nội tại một số nước có tiềm năng phát triển thương mại lớn: Singapore, Liên bang Nga, Pháp, Đức, Mỹ ... bằng nguồn vốn ban đầu do Ngân sách Thành phố cấp và sử dụng vốn huy động, đóng góp của các doanh nghiệp. Tăng cường đầu tư cho quảng bá du lịch Hà Nội.
- Tạo điều kiện thường xuyên tổ chức các đoàn doanh nghiệp Hà Nội để khảo sát thị trường theo các chuyên đề cụ thể, chuẩn bị kỹ nội dung chương trình làm việc tại các nước, tạo mọi điều kiện để giúp các doanh nghiệp tìm được đối tác thích hợp trong các chuyến khảo sát thị trường.
- Tiếp tục hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu và trang web chính thức của Hà Nội, chú trọng kết hợp các nội dung tiếp thị sản phẩm hàng hóa và dịch vụ của các doanh nghiệp Hà Nội trên trang web này. Nâng cao hiệu quả hoạt động trong lĩnh vực thông tin kinh tế - thương mại trên địa bàn Thành phố.
- Định kỳ tổ chức Hội thảo về tìm kiếm các thông tin thị trường thông qua mạng Internet, giúp các doanh nghiệp nắm bắt các thông tin về thị trường khu vực và thế giới để tìm kiếm đối tác một cách nhanh nhất.
- Thường xuyên duy trì các hình thức ưu đãi, khuyến khích, khen thưởng các doanh nghiệp trên địa bàn có kim ngạch xuất khẩu lớn, phát triển được thị trường mới, tìm thêm được đối tác lớn...
3.4.3. Giải pháp phát triển nguồn nhân lực phục vụ đẩy mạnh xuất khẩu.
Coi công tác đào tạo cán bộ, đào tạo các doanh nhân và người lao động có trình độ là một trong những nhân tố quyết định thành công đối với sự phát triển kinh tế của Hà Nội, của đất nước. Xây dựng kế hoạch đào tạo thường xuyên để nâng cao trình độ giám đốc, cán bộ và công nhân của các doanh nghiệp làm xuất nhập khẩu:
- Tổ chức những lớp đào tạo và bồi dưỡng giám đốc để dần dần hình thành một đội ngũ doanh nhân có năng lực, có khả năng xử lý linh hoạt trong cơ chế thị trường. Đồng thời cần phải có chính sách, cơ chế khuyến khích doanh nhân giỏi (cơ chế ưu đãi về lương, ưu đãi về nhà ở, chế độ thưởng).
- Lập đề án đào tạo mới và đào tạo lại các cán bộ nghiệp vụ hoạt động tiếp thị, xúc tiến thương mại, cán bộ kỹ thuật ở các doanh nghiệp xuất nhập khẩu.
- Thành phố đầu tư nâng cấp và xây dựng mới một số trung tâm đào tạo nghề chất lượng cao phù hợp với định hướng phát triển các ngành, sản phẩm chủ lực nhằm cung cấp lao động có nghề cho các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu trên địa bàn Thành phố và cho xuất khẩu lao động. Tranh thủ viện trợ đào tạo và chuyên gia nước ngoài giảng dạy tại các trung tâm này.
3.3.4. Phối hợp của Hà Nội đối với các doanh nghiệp Trung ương và các Tỉnh Thành khác
- Phối hợp các dự án đầu tư lớn sản xuất hàng xuất khẩu của Hà Nội với các doanh nghiệp Trung ương, các Tổng công ty có liên quan, đặc biệt trong việc đầu tư nâng cao tỷ lệ nội địa hoá các nguyên, phụ liệu đối với các ngành công nghiệp gia công, chế biến. Để sản phẩm của Hà Nội có đủ sức cạnh tranh trên thị trường nước ngoài, Thành phố cần hình thành cơ cấu có hiệu quả giữa kinh tế Trung ương với kinh tế địa phương (thông qua phương thức công ty cổ phần với sự góp vốn của Trung ương và địa phương, kể cả tư nhân; hoặc phương thức Trung ương nghiêng về trợ giúp công nghệ, vốn,thị trường cho Thành phố; hay phương thức các công ty Thành phố phát triển theo kiểu vệ tinh của các công ty Trung ương, đặc biệt nghiên cứu xây dựng mô hình kinh doanh theo phương thức Trung ương xây dựng nhà máy chế biến và chịu trách nhiệm thị trường tiêu thụ, còn Hà Nội và một số Tỉnh lân cận đóng vai trò cung cấp nguyên vật liệu...
- Hà Nội cần phối hợp với các Tỉnh khu vực Miền Bắc để hợp tác tạo vùng nguyên liệu cung cấp cho xuất khẩu(Trong đó Hà Nội sẽ là đầu mối xuất khẩu); trao đổi thông tin về doanh nghiệp và sản phẩm xuất khẩu, các thông tin về tình hình thị trường trong và ngoài nước, thông tin liên quan đến hội nhập kinh tế quốc tế và Hiệp định thương mại Việt - Mỹ; Phối hợp tổ chức các cuộc họi nghị, hội thảo, tập huấn liên quan đến xuất khẩu; phối hợp tổ chức các hoạt động xúc tiến thương mại như : khảo sát thị trường, hội chợ trong nước và quốc tế, mở các phòng trưng bày giới thiệu sản phẩm ở Hà Nội và các địa phương....
3.4.5. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách đẩy mạnh xuất khẩu
- Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính trong lĩnh vực quản lý xuất nhập khẩu. Thường xuyên nâng cao năng lực, tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ quản lý, nhất là lĩnh vực thuế, hải quan. Qui định trách nhiệm cá nhân rõ ràng, cụ thể; có chế độ thưởng phạt nghiêm minh.
- Trong quá trình soạn thảo và xây dựng các văn bản pháp luật, cần tăng cường tham khảo ý kiến của doanh nghiệp. Xây dựng mặt bằng pháp lý chung cho các doanh nghiệp kể cả quốc doanh và ngoài quốc doanh thông qua một Luật doanh nghiệp thống nhất, các luật về hợp đồng, về tín dụng, về giải quyết tranh chấp và nhất là về thuế, tiến tới thực hiện nguyên tắc công bằng về nghĩa vụ thuế giữa người Việt Nam và người nước ngoài, giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Để tuân thủ các nguyên tắc đối xử quốc gia (NT) trong những Hiệp định thương mại đã ký với nước ngoài, cần chủ động từng bước giảm bớt các phân biệt đối xử này.
- Điều chỉnh, bổ sung các cơ chế chính sách nhằm tạo lập được “sân chơi" bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trong việc hỗ trợ vốn ngân sách, trong việc giải quyết vốn tín dụng (hình thức tín chấp), trong việc giải quyết đất đai, hỗ trợ vốn cho nghiên cứu khoa học, cung cấp thông tin.... Việc tạo ra môi trường kinh doanh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế phải được thể hiện trên cả văn bản pháp lý và trong tổ chức thực hiện, có như vậy mới có sơ sở đánh giá một cách đúng đắn hiệu quả sản xuất của từng doanh nghiệp và có căn cứ để hoạch định chính sách đầu tư. Chú trọng tới việc khai thác nguồn vốn đầu tư trong nước, tiến tới ban hành một Luật khuyến khích đầu tư duy nhất cho cả đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Tập trung đầu tư vào một số ngành trọng điểm thông qua các dự án có hiệu quả, tạo nhiều việc làm cho người lao động, không nên đầu tư tràn lan, phân tán.
- Đơn giản hoá thủ tục xin cấp ưu đãi đầu tư, công khai hoá các điều kiện ưu đãi, các đối tượng được ưu đãi. Giảm lãi suất vay vốn ưu đãi đầu tư xuống 4-5%/năm. Có chính sách ưu đãi thoả đáng đối với các doanh nghiệp đầu tư công nghệ tiên tiến, công nghệ “sạch”. Mức độ ưu đãi cần đủ sức hấp dẫn như thời gian miễn, giảm thuế dài hơn.... Mở rộng và đa dạng hoá các hình thức ưu đãi đầu tư như trợ cấp đầu tư, khấu hao nhanh tài sản cố định, giảm thuế đối với đầu tư nghiên cứu và phát triển, đào tạo và nâng cao tay nghề.
- Cải tiến và đơn giản hoá các thủ tục vay vốn, nghiên cứu, sửa đổi qui định về thế chấp tài sản khi vay vốn cho phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp, đáp ứng yêu cầu vốn sản xuất, kinh doanh phục vụ xuất khẩu.
- Tiếp tục cải cách chính sách thuế theo hướng khuyến khích và tạo điều kiện hơn nữa cho các doanh nghiệp phát triển sản xuất - kinh doanh các sản phẩm xuất khẩu. Xây dựng biểu thuế chi tiết, cụ thể, mã hoá theo tiêu chuẩn quốc tế. Cần chuẩn bị các điều kiện cần thiết để sớm áp dụng giá theo hợp đồng trong tính thuế hải quan.
- Tiến hành điều chỉnh chính sách quản lý ngoại hối cho phù hợp với thực tiễn, tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thể mua ngoại tệ của ngân hàng dễ dàng.
- Lưu ý mở rộng việc hình thành và củng cố vai trò của các hiệp hội ngành hàng để tăng cường tính tổ chức và tính tập thể trong môi trường cạnh tranh. Khuyến khích các Hiệp hội tự thành lập quỹ phòng ngừa rủi ro và tham gia các hiệp hội ngành hàng quốc tế để phối hợp hành động, ổn định giá cả...
- Hoàn thiện Quỹ hỗ trợ tín dụng xuất khẩu theo đúng các tiêu chí của Luật khuyến khích đầu tư trong nước (1998) để trợ giúp các doanh nghiệp có tiềm năng thông qua việc cấp tín dụng với lãi suất ưu đãi, bảo lãnh tiền vay và cấp tín dụng xuất khẩu cho người mua nước ngoài, tiến tới thành lập Ngân hàng xuất nhập khẩu. Nghiên cứu thành lập Quỹ hay Công ty bảo hiểm xuất nhập khẩu để bảo hiểm rủi ro thanh toán khi tiếp cận các thị trường mới. Khuyến khích các Hiệp hội ngành hàng tự hình thành các quỹ bảo hiểm đề phòng rủi ro, kể cả trong trường hợp giá thị trường thế giới biến động.
- Các Bộ, Ngành phối hợp với Thành phố Hà Nội và tạo mọi điều kiện để sớm đưa Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội vào hoạt động. Thúc đẩy việc phát triển các loại công cụ tài chính cần thiết, tạo hàng hoá (cổ phiếu, trái phiếu công trình, trái phiếu Chính phủ) qua Trung tâm này để đáp ứng nhu cầu về vốn cho các nhà đầu tư.
3.5. Một số kiến nghị:
Kiến nghị với Trung ương:
- Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính trong lĩnh vực quản lý xuất nhập khẩu. Thường xuyên nâng cao năng lực, tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ quản lý, nhất là lĩnh vực thuế, hải quan. Qui định trách nhiệm cá nhân rõ ràng, cụ thể; có chế độ thưởng phạt nghiêm minh.
- Trong quá trình soạn thảo và xây dựng các văn bản pháp luật, cần tăng cường tham khảo ý kiến của doanh nghiệp. Xây dựng mặt bằng pháp lý chung cho các doanh nghiệp kể cả quốc doanh và ngoài quốc doanh thông qua một Luật doanh nghiệp thống nhất, các luật về hợp đồng, về tín dụng, về giải quyết tranh chấp và nhất là về thuế, tiến tới thực hiện nguyên tắc công bằng về nghĩa vụ thuế giữa người Việt Nam và người nước ngoài, giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Để tuân thủ các nguyên tắc đối xử quốc gia (NT) trong những Hiệp định thương mại đã ký với nước ngoài, cần chủ động từng bước giảm bớt các phân biệt đối xử này.
- Điều chỉnh, bổ sung các cơ chế chính sách nhằm tạo lập được “sân chơi" bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trong việc hỗ trợ vốn ngân sách, trong việc giải quyết vốn tín dụng (hình thức tín chấp), trong việc giải quyết đất đai, hỗ trợ vốn cho nghiên cứu khoa học, cung cấp thông tin.... Việc tạo ra môi trường kinh doanh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế phải được thể hiện trên cả văn bản pháp lý và trong tổ chức thực hiện, có như vậy mới có sơ sở đánh giá một cách đúng đắn hiệu quả sản xuất của từng doanh nghiệp và có căn cứ để hoạch định chính sách đầu tư. Chú trọng tới việc khai thác nguồn vốn đầu tư trong nước, tiến tới ban hành một Luật khuyến khích đầu tư duy nhất cho cả đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Tập trung đầu tư vào một số ngành trọng điểm thông qua các dự án có hiệu quả, tạo nhiều việc làm cho người lao động, không nên đầu tư tràn lan, phân tán.
- Cải tiến và đơn giản hoá các thủ tục vay vốn, nghiên cứu, sửa đổi qui định về thế chấp tài sản khi vay vốn cho phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp, đáp ứng yêu cầu vốn sản xuất, kinh doanh phục vụ xuất khẩu.
- Tiếp tục cải cách chính sách thuế theo hướng khuyến khích và tạo điều kiện hơn nữa cho các doanh nghiệp phát triển sản xuất - kinh doanh các sản phẩm xuất khẩu. Xây dựng biểu thuế chi tiết, cụ thể, mã hoá theo tiêu chuẩn quốc tế. Cần chuẩn bị các điều kiện cần thiết để sớm áp dụng giá theo hợp đồng trong tính thuế hải quan.
- Lưu ý mở rộng việc hình thành và củng cố vai trò của các hiệp hội ngành hàng để tăng cường tính tổ chức và tính tập thể trong môi trường cạnh tranh. Khuyến khích các Hiệp hội tự thành lập quỹ phòng ngừa rủi ro và tham gia các hiệp hội ngành hàng quốc tế để phối hợp hành động, ổn định giá cả...
- Hoàn thiện Quỹ hỗ trợ tín dụng xuất khẩu theo đúng các tiêu chí của Luật khuyến khích đầu tư trong nước (1998) để trợ giúp các doanh nghiệp có tiềm năng thông qua việc cấp tín dụng với lãi suất ưu đãi, bảo lãnh tiền vay và cấp tín dụng xuất khẩu cho người mua nước ngoài, tiến tới thành lập Ngân hàng xuất nhập khẩu. Nghiên cứu thành lập Quỹ hay Công ty bảo hiểm xuất nhập khẩu để bảo hiểm rủi ro thanh toán khi tiếp cận các thị trường mới. Khuyến khích các Hiệp hội ngành hàng tự hình thành các quỹ bảo hiểm đề phòng rủi ro, kể cả trong trường hợp giá thị trường thế giới biến động.
Kiến nghị với Thành phố:
- Thành phố cần có một số chính sách, cơ chế đặc thù để đẩy mạnh xuất khẩu như : hỗ trợ vốn, tín dụng cho các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, hỗ trợ thuế, mặt bằng, đào tạo,các hoạt động xúc tiến thương mại...
- Thành phố cần rà soát lại quy hoạch và chiến lược phát triển các sản phẩm xuất khẩu chủ lực của Hà Nội, đánh giá lại năng lực của các doanh nghiệp , từng ngành hàng.. để xây dựng đề án ngành nghề cụ thể, có phương án đầu tư, hỗ trợ cho những mặt hàng có thị trường tiêu thụ và khả năng xuất khẩu lớn.
- Thành phố nên tổ chức các cuộc toạ đàm định kỳ với các doanh nghiệp để trao đổi những khó khăn, vướng mắc của doanh nghiệp trong sản xuất và kinh doanh để có những tháo gỡ kịp thời.
- Thành phố nên thành lập Ban quản lý và điều hành chương trình xuất nhập khẩu; Bộ phận đầu mối cho các hoạt động của chương trình Hội nhập kinh tế quốc tế của Thành phố.
Kết luận
Hà Nội là thủ đô, là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá của cả nước. Hoạt động kinh tế đối ngoại nói chung và xuất khẩu nói riêng có vị trí quan trọng và có tác động mạnh mẽ đến sự phát triển kinh tế xã hội của Thủ đô. Đẩy mạnh xuất khẩu vừa là mục tiêu quan trọng, vừa là động lực thúc đẩy hoạt động kinh tế của Thủ đô.
Với mục đích nghiên cứu một cách hệ thống quá trình phát triển hoạt động xuất khẩu của Thủ đô trong thời kỳ đổi mới kinh tế (1986 - 2001), luận văn đã hoàn thành các công việc chủ yếu sau:
1.Luận văn đã hệ thống hoá các vấn đề lý luận, các quan điểm về thương mại quốc tế, trong đó đặc biệt nhấn mạnh vai trò của xuất khẩu đối với sự phát triển kinh tế. Xuất khẩu đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia: xuất khẩu thúc đẩy phân công lao động và hợp tác hai bên cùng có lợi, tạo điều kiện mở rộng khả năng sản xuất và tiêu dùng của mỗi quốc gia; xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ công nghiệp hoá hiện đại hoá; xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển, xuất khẩu tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm;xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại.
Để làm rõ những vấn đề lý luận, luận văn đưa ra một sô mô hình phát triển xuất khẩu của một số Thành phố trong nước và nước ngoài. Từ chiến lược phát triển xuất khẩu của các Thành phố này có thể rút ra những bài học kinh nghiệm để có những giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu của Thành phố Hà Nội.
2.Luận văn đã đi sâu phân tích và đánh giá thực trạng hoạt động xuất khẩu của Hà Nội trong thời kỳ đổi mới.
Giai đoạn 1986 - 1990 : hoạt động xuất khẩu đã đạt được những thành tích nhất định. Xuất khẩu đã đạt được tốc độ tăng trưởng đáng kể với sự đa dạng hoá các loại hình, đa phương hoá thị trường xuất khẩu, các chính sách ngoại thương đã thông thoáng và thu hút các thành phần kinh tế tham gia xuất khẩu. Tuy nhiên, cơ cấu hàng xuất khẩu chưa có sự chuyển biến lớn, chủ yếu vẫn là hàng thô và sơ chế, thị trường chưa đa dạng.
Giai đoạn : 1991 -2000: thực hiện chủ trương đa dạng hoá, đa phương hoá kinh tế đối ngoại, cơ chế, chính sách ngoại thương tiếp tục có sự thay đỏi tác động trực tiếp đến hoạt động xuất khẩu. Do vậy, quy mô, tốc độ tăng trưởng, cơ cấu mặt hàng xuất khẩu, cơ cấu thị trưỡng xuất khẩu đã có những thay đổi tích cực.
Trên cơ sở đánh giá thực trạng hoạt động xuất khẩu, luận văn đã rút ra các bài học kinh nghiệm như: phải chú trọng khai thác lợi thế so sánh giữa Hà Nội và các Tỉnh để lựa chọn phát triển ngành nghề và cơ cấu mặt hàng xuất khẩu; Đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu đồng thời chú trọng xây dựng các mặt hàng chủ lực; Đa dạng hoá thị trường xuất khẩu song chú ý xây dựng thị trường trọng điểm; giải quyết tốt mối quan hệ giữa xuất khẩu và nhập khẩu; tăng cường vai trò điều hành, quản lý Nhà nước hoạt động xuất khẩu...
3. Để xây dựng chiến lược xuất khẩu cuả hà Nội trong thời gian tới, Luận văn đưa ra các quan điểm phát triển xuất khẩu như sau: Hà Nội phải là một trong những địa phương dẫn đầu cả nước về phát triển kinh tế - xã hội nói chung và tăng trưởng xuất khẩu nói riêng; ưu tiên cao cho phát triển xuất khẩu; quan điểm về mặt hàng và thị trường xuất khẩu; quan điểm về đa dạng hoá các chủ thể tham gia xuất khẩu, hoàn thiện các thiết chế thị trường phục vụ phát triển xuất khẩu; nâng cao sức cạnh tranh cho hàng hoá xuất khẩu.
Trên cơ sở xác định các mục tiêu phát triển xuất khẩu Hà Nội giai đoạn từ 2001 - 2010; định hướng hàng hoá và thị trường xuất khẩu; Luận văn đã đề xuất một số giải pháp chủ yếu để đẩy mạnh xuất khẩu của Thủ đô như sau: Phát triển sản xuất và tạo nguồn hàng, sản phẩm xuất khẩu;nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm xuất khẩu chủ lực (May dệt, giày dép, thủ công mỹ nghệ, nông lâm thuỷ hải sản; điện - điện tử); cải tiến cơ cấu hàng nhập khẩu, tăng cường nhập khẩu vật tư - thiết bị phục vụ sản xuất xuất khẩu;tổ chức xúc tiến thị trường ;phát triển nguồn nhân lực; hoàn thiện các cơ chế chính sách đẩy mạnh xuất khẩu.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28638.doc