Đề tài Hoạt động xuất khẩu than của Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam, thực trạng và giải pháp

MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU Chương 1: TỔNG QUAN VỀ TẬP ĐOÀN CÔNG NGHIỆP THAN – KHOÁNG SẢN VIỆT NAM 4 I. BỐI CẢNH HÌNH THÀNH CÁC TẬP ĐOÀN KINH TẾ Ở VIỆT NAM 4 1. Nhận thức chung về tập đoàn kinh tế 4 2. Tập đoàn kinh tế ở Việt Nam 6 II. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ TẬP ĐOÀN CÔNG NGHIỆP THAN – KHOÁNG SẢN VIỆT NAM (TKV) 9 1. Quá trình hình thành và phát triển 9 2. Chức năng nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức 12 2.1 Chức năng nhiệm vụ 12 2.2. Cơ cấu tổ chức 14 3. Các ngành nghề kinh doanh 17 II. KHÁI QUÁT VỀ TÌNH HÌNH SẢN XUẤT KINH DOANH THAN CỦA TKV NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY 18 III. ĐÁNH GIÁ VỀ MẶT MẠNH VÀ MẶT YẾU CỦA TẬP ĐOÀN 24 1. Mặt mạnh 24 2. Mặt yếu 27 Chương 2: THƯC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU THAN CỦA TẬP ĐOÀN CÔNG NGHIỆP THAN – KHOÁNG SẢN VIỆT NAM 30 I. THỊ TRƯỜNG THAN THẾ GIỚI 30 1. Phân bổ trữ lượng than trên thị trường thế giới 30 2. Đặc điểm thị trường than thế giới hiện nay 33 II. MẶT HÀNG THAN TRONG CƠ CẤU HÀNG XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM 35 III. HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU THAN CỦA TẬP ĐOÀN CÔNG NGHIỆP THAN – KHOÁNG SẢN VIỆT NAM 37 1. Kim ngạch xuất khẩu và thị trường xuất khẩu 37 1.1 Kim ngạch xuất khẩu 37 1.2 Thị trường xuất khẩu 39 2. Giá cả than xuất khẩu 42 2.1 Tình hình giá than xuất khẩu thời gian gần đây 42 2.2 Chính sách giá than của Tập đoàn 43 2.3 Giá than nhìn từ góc độ sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên và phát triển bền vững . 45 3. Doanh thu từ hoạt động xuất khẩu 48 V. NHỮNG THÀNH CÔNG VÀ HẠN CHẾ TRONG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU THAN CỦA TKV 49 1. Thành công 49 1.1 Về chất lượng, chủng loại than xuất khẩu 49 1.2 Về giá than xuất khẩu 52 1.3 Về kim ngạch xuất khẩu 52 1.4 Về mặt phương thức xuất khẩu 53 1.5 Về thị trường xuất khẩu 54 1.6 Về hiệu quả xuất khẩu 54 1.7 Xúc tiến thương mại trong hoạt động bán hàng 56 2. Hạn chế cần khắc phục 57 2.1 Về chất lượng than xuất khẩu 57 2.2 Về giá than xuất khẩu 58 2.3 Về phương thức xuất khẩu 58 2.4 Về mặt đảm bảo an toàn cho người lao động 58 Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHO HOẠT XUẤT KHẨU THAN CỦA TẬP ĐOÀN CÔNG NGHIỆP THAN – KHOÁNG SẢN VIỆT NAM 60 I. DỰ BÁO TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU THAN CỦA TKV 60 1. Chính sách hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực của Việt Nam 60 2. Xu hướng thị trường than thế giới trong thời gian tới 63 II. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA TKV TRONG THỜI GIAN TỚI 64 1. Những thách thức chính đối với ngành than trong thời gian tới 64 2. Quan điểm phát triển và mục tiêu phát triển bền vững 66 2.1 Quan điểm phát triển 66 2.2 Mục tiêu phát triển 67 3. Định hướng chiến lược phát triển của Tập đoàn đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2050 69 3.1 Về thị trường 70 3.2 Về đầu tư 70 3.3 Về khoa học công nghệ 71 3.4 Về môi trường 71 3.5 Về huy động vốn 71 3.6 Về hội nhập quốc tế 71 3.7 Về phát triển các nguồn nhân lực 71 3.8 Về thương hiệu và truyền thống văn hoá 72 3.9 Về kế hoạch xuất khẩu 72 III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CỤ THỂ TRONG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU THAN CỦA TKV TRONG THỜI GIAN TỚI 72 1. Giải pháp nhằm hạn chế xuất khẩu than của Tập đoàn trong tương lai 72 2. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất và xuất khẩu than của Tập đoàn trong thời gian tới và vì mục tiêu phát triển bền vững 75 2.1 Đổi mới công nghệ, hiện đại hoá máy móc thiết bị phụ tùng 75 2.2 Đầu tư trong sản xuất than 77 2.3 Phát triển nguồn nhân lực 78 2.4 Bảo vệ tốt môi trường, đảm bảo hiệu quả khai thác than 80 2.5 Tăng cường hoạt động phân phối và xúc tiến thương mại 83 IV. KIẾN NGHỊ VỚI NHÀ NƯỚC 85 1. Giải pháp của Nhà nước nhằm hạn chế xuất khẩu than thông qua thuế xuất khẩu than 85 2. Các biện pháp và chính sách khác của Nhà nước 87 KẾT LUẬN 90 TÀI LIỆU THAM KHẢO 92

doc97 trang | Chia sẻ: banmai | Lượt xem: 2090 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoạt động xuất khẩu than của Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam, thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n theo cách truyền thống gây ô nhiễm, hiệu quả thấp trong khi công nghệ chế biến than hầu như chưa phát triển Thứ tư, để tăng sản lượng đòi hỏi vốn đầu tư cao trong khi nguồn vốn tự có của Tập đoàn hạn hẹp và giá bán than trong nước vẫn còn thấp hơn giá thành; từ năm 2007 bắt đầu điều chỉnh theo giá thị trường. Thứ năm, ngành than cũng sẽ gặp khó khăn của một nước lâu nay xuất khẩu than sắp tới phải nhập khẩu than. Đặc biệt là các doanh nghiệp sử dụng than phải đối mặt với việc sử dụng than theo giá thị trường thay cho thói quen dùng giá thấp trong nhiều năm qua. Tóm lại, các thách thức trên là đa chiều, đa diện đối với tập đoàn. Nguồn “vàng đen” của nước ta là hạn chế, lẽ ra đó là nguồn nhiên liệu quý giá dành để phục vụ cho nhu cầu sử dụng của các ngành kinh tế quốc dân nhưng do giá than trong nước thấp nên phải xuất khẩu một phần để đảm bảo cân đối tài chính cho ngành than; lẽ ra phần lợi nhuận thu được từ xuất khẩu than dùng để đầu tư tếp tục tìm kiếm, thăm dò tài nguyên, mở rộng sản xuất, đảm bảo an toàn lao động, bảo vệ môi trường và phát triển nguồn nhân lực nhằm phát triển bền vững ngành than thì lại đem bù lỗ cho một số ngành sử dụng than trong nước. Do đó, những giải pháp thích hợp là điều mà Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam cùng như cả ngành than rất cần lúc này. 2. Quan điểm phát triển và mục tiêu phát triển bền vững 2.1 Quan điểm phát triển Ngành than đã đưa ra phương châm phát triển như sau: “Phát triển ngành than bền vững theo các mục tiêu gia tăng sản lượng đáp ứng tối đa nhu cầu của nền kinh tế, hài hoà với sự phát triển kinh tế - xã hội của cộng đồng, thân thiện với môi trường và không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của người lao động”. Trên cơ sở quan điểm nêu trên, phương châm phát triển của Tập đoàn là: Tăng cường đổi mới, hiện đại hoá công nghệ, thiết bị trong tất cả các khâu của quá trình sản xuất, chế biến than theo hướng sản xuất sạch hơn và đảm bảo an toàn cho người lao động. Việc gia tăng sản lượng than phải đi đôi với nâng cao tối đa hệ số thu hồi tài nguyên và bảo vệ môi trường trong quá trình sản xuất than. Sử dụng than hợp lý, tiết kiệm gắn liền với tăng cường chế biến than để đa dạng hoá sản phẩm, tạo ra các sản phẩm sạch, nâng cao giá trị và giá trị sử dụng của than. Phát triển Tập đoàn trên cơ sở phát huy tối đa các nguồn lực bên trong kết hợp với tăng cường kêu gọi đầu tư và các nguồn vốn từ nước ngoài. 2.2 Mục tiêu phát triển Phát triển ngành than trở thành một nghành kinh tế - kỹ thuật hiện đại, có hiệu quả cao, hài hoà với sự phát triển kinh tế xã hội của cộng đồng và thân thiện với môi trường trên cơ sở tăng cường chế biến sâu sản phẩm than, phát triển kinh doanh đa ngành, đẩy mạnh đổi mới và hiện đại hoá công nghệ, phát triển nguồn nhân lực, đảm bảo an toàn lao động và bảo vệ môi trường nhằm đáp ứng ở mức cao nhất nhu cầu than của nến kinh tế, góp phần đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia. Cụ thể như sau: Về phát triển than Thứ nhất, đẩy mạnh công tác tìm kiếm, thăm dò, nâng cấp và gia tăng tài nguyên. Cụ thể là: Đến năm 2010 thăm dò xác định xong phần tài nguyên, trữ lượng than nằm dưới mức -300m ở bể than Quảng Ninh; đồng thời tiến hành thăm dò tỉ mỉ một phải bể than Đồng bằng sông Hồng. Đến năm 2015 - 2020 thăm dò xong bể than Đồng bằng sông Hồng. Bên cạnh đó phải giảm đáng kể chỉ tiêu tổn thất than trong khai thác so với hiện nay. Thứ hai, gia tăng sản lượng than phù hợp với nhu cầu than của nền kinh tế, sự phát triển bền vững của từng doanh nghiệp than trên cơ sở đảm bảo hiệu quả kinh tế - xã hội và cân đối tài chính của ngành than. Bảng 16: Mục tiêu sản lượng than thương phẩm của TKV đến 2025 Đơn vị: Triệu tấn Năm 2007 2008 2009 2010 2015 2020 2025 Mục tiêu 37 - 40 40 - 42 42 - 44 44 - 47 55 - 60 65 - 70 75 – 80 Nguồn: Tạp chí Than – Khoáng sản Việt Nam, số 6/2007, trang 9 Với mục tiêu hạn chế lượng than xuất khẩu, đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia, Bộ Công nghiệp cũng đề nghị “lộ trình” sản xuất và xuất khẩu than trong giai đoạn 2007 – 2010. Theo đó, năm 2007, toàn ngành sẽ sản xuất 37 triệu tấn than sạch, trong đó TKV là 36 triệu tấn và xuất khẩu không quá 17 triệu tấn. Năm 2008, con số này là 38 triệu tấn, trong đó TKV là 37 triệu tấn và xuất khẩu không quá 17 triệu tấn. Lượng than xuất khẩu của TKV năm 2009 cũng được đề nghị không quá 14 triệu tấn trong tổng sản lượng 38 triệu tấn do TKV sản xuất. Còn tới năm 2010, lượng than xuất khẩu của TKV được đề nghị là 12 triệu tấn trong tổng sản lượng 40 triệu tấn do TKV sản xuất Theo . Thứ ba, đẩy nhanh cùng việc nghiên cứu công nghệ, triển khai các dự án chế biến than theo hướng đa dạng hoá sản phẩm, tạo ra các sản phẩm sạch, thân thiện với môi trường. Phấn đấu sau năm 2020 ngành chế biến than phát triển rộng rãi, thay thế một phần xăng dầu và chiếm một tỷ lệ đáng kể trong giá trị gia tăng của ngành than. Thứ tư, không ngừng nâng cao hiệu quả kinh doanh trên cơ sở quản trị chặt chẽ về chi phí, sử dụng tiết kiệm vật tư, năng lượng và nâng cao năng suất lao động thông qua đổi mới, hiện đại hoá công nghệ và ứng dụng rộng rãi các tiến bộ kỹ thuật. Về phát triển hài hoà với cộng đồng TKV có mục tiêu là góp phần phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững quốc phòng an ninh, trật tự an toàn xã hội trên các địa bàn vùng than; Phát triển hài hoà với các bạn hàng nhằm mục tiêu “cùng thắng”; Cải thiện rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá và tinh thần của cán bộ công nhân trong ngành. Phấn đấu mức tăng bình quân thu nhập hàng năm cao hơn tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế; Cuối cùng là tăng cường mở rộng dân chủ cơ sở trong các doanh nghiệp, thông qua đó phát huy tối đa trí tuệ và sự sáng tạo của người lao động nhằm thúc đẩy mạnh mẽ sự nghiệp đổi mới, hiện đại hoá ngành than cũng như Tập đoàn. Về an toàn lao động và bảo vệ môi trường Về an toàn lao động: mục tiêu của Tập đoàn là kiên trì phấn đấu đạt mục tiêu “Tai nạn bằng không”. Về môi trường: Tập đoàn thực hiện chiến lược bảo vệ môi trường xanh - sạch - đẹp với mục tiêu: Đến năm 2010 chặn đứng đà suy thoái về môi trường vùng mỏ; Đến năm 2015 cải thiện cơ bản các chỉ tiêu chính về môi trường tại các khu vực nhạy cảm; Đến 2025 đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn môi trường tại các vùng mỏ. 3. Định hướng chiến lược phát triển của Tập đoàn đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2050 Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam đã tổ chức soạn thảo và xây dựng Chiến lược phát triển của mình, bao gồm chiến lược phát triển, chính sách chung và phương châm hành động nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất của công ty mẹ và các công ty con. TKV xác định rõ 3 giai đoạn của Chiến lược phát triển như sau Theo tạp chí Công nghiệp Mỏ, số 4/2006, trang 4 : * Thời kỳ đầu: Phát triển theo chiều rộng, nâng cao quy mô, thiết lập thị phần, tham gia các ngành nghề kinh doanh mới. Trong thời kỳ này, TKV lấy công nghiệp than làm nền tảng, coi khai thác than là nhiệm vụ trọng tâm và sử dụng các nguồn lực từ than để phát triển các ngành kinh doanh khác (như khoáng sản, điện, cơ khí, ximăng, vật liệu nổ công nghệp…). Thiết lập thị phần cho các lĩnh vực dịch vụ, du lịch, thương mại, hạ tầng, kinh doanh vốn, kinh doanh tiền, xuất khẩu lao động, hợp tác quốc tế… * Thời kỳ hai: Phát triển theo chiều sâu các ngành nghề đã được hình thành. Đặc biệt hoàn thiện các công nghệ khai thác, tuyển, luyện và chế biến sâu quặng. Mở rộng thị phần của các ngành nghề ngoài than. Phát triển các ngành nghề luyện kim (màu và đen), phát triển ngành hoá than. * Thời kỳ ba: Tiếp tục phát triển theo chiều sâu các ngành nghề. Tiến tới thành lập tập đoàn đa ngành (tài chính, công nghiệp, dịch vụ). Lấy công nghiệp khai khoáng và luyện kim làm trọng tâm. Ưu tiên phát triển các ngành nghề dịch vụ, tài chính, tín dụng, ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm, thực hiện thường xuyên và có hiệu quả kinh doanh các doanh nghiệp. Cụ thể, các định hướng cơ bản của chiến lược phát triển là: 3.1 Về thị trường Định hướng của Tập đoàn là chấp nhận hội nhập và thị trường hoá tối đa; Thoả mãn có điều chỉnh các nhu cầu trong nước, đẩy mạnh xuất nhập khẩu theo tiêu chí hiệu quả cụ thể; Duy trì sự cân bằng giữa các thị trường để tránh rủi ro; Tham gia mới các thị trường đã có sẵn;Tạo ra các thị trường mới cho các sản phẩm khoáng sản mới. 3.2 Về đầu tư Tập đoàn định hướng; Gắn đầu tư với tiêu chí hiệu quả, đảm bảo theo phương thức lấy dự án nuôi dự án; Đầu tư dự án để kinh doanh dự án (bán dự án để đầu tư dự án khác); Đẩy mạnh đầu tư tài chính (mua/bán, sáp nhập các công ty/doanh nghiệp); Phát triển đầu tư quốc tế (với nước ngoài và ra nước ngoài). 3.3 Về khoa học công nghệ Tập đoàn sẽ nghiên cứu và ứng dụng các công nghệ hiện đại tiên tiến nhằm nâng cao mức độ an toàn lao động, an toàn môi trường, tăng năng suất lao động, khai thác tiết kiệm các nguồn tài nguyên khoáng sản, giảm chi phí; Biến khoa học, công nghệ thành lực lượng sản xuất trực tiếp; Chuyển các viện nghiên cứu thành doanh nghiệp khoa học công nghệ vì mục tiêu lợi nhuận; Tăng cường hợp tác khoa học công nghệ với nước ngoài. 3.4 Về môi trường Tập đoàn cần chủ động bảo vệ môi trường; Phát triển thân thiện với môi trường; bên cạnh đó sẽ kinh doanh các dự án môi trường; 3.5 Về huy động vốn Tập đoàn nên: Áp dụng linh hoạt các phương thức và kênh huy động vốn trong nền kinh tế thị trường (vay các ngân hàng trong và ngoài nước, thuê mua, thuê khai thác, thuê vận hành, hợp tác gia công); Phát hành trái phiếu trên các thị trường chứng khoán trong và ngoài nước; Huy động tiền gửi ngắn và dài hạn của cán bộ nhân viên trong và ngoài TKV (v.v…) 3.6 Về hội nhập quốc tế Tập đoàn có định hướng: Hội nhập sâu rộng và cụ thể; Quốc tế hoá các hoạt động của TKV, hợp tác với các công ty lớn có vị thế toàn cầu. Về phát triển doanh nghiệp: TKV sẽ tiến tới thực hiện việc chuyển từ kinh doanh sản phẩm sang kinh doanh các doanh nghiệp; Thực hiện đa sở hữu; Tiến tới cổ phần hoá cả công ty mẹ (chỉ giữ lại 51% của Nhà nước). 3.7 Về phát triển các nguồn nhân lực TKV hướng tới: Xây dựng đội ngũ công nhân lành nghề, cán bộ thạo việc, nhân viên trung thành; Tạo điều kiện để con người phát triển toàn diện về thể chất, tinh thần, kinh tế, văn hoá, tạo dựng các sắc thái văn hoá riêng của TKV; Đào tạo phải là một lĩnh vực kinh doanh có lãi, dịch vụ có thu; Trường đào tạo phải đạt các tiêu chuẩn, tiêu chí quốc tế; Bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo có phong thái làm việc chủ động hiệu quả, biết đặt ra vấn đề và chủ động giải quyết vấn đề một cách khoa học với tốc độ cao. 3.8 Về thương hiệu và truyền thống văn hoá Định hướng phát triển là: Lấy chữ tín làm đầu, coi “Khách hàng là cha đẻ của Thượng đế”; Phát huy truyền thống của TKV, xây dựng văn hoá doanh nghiệp với sắc thái riêng của TKV phù hợp với các chuẩn mực quốc tế; TKV phải trở thành thương hiệu quốc tế quen thuộc, được ưa thích và có uy tín trong khu vực và quốc tế. 3.9 Về kế hoạch xuất khẩu Về xuất khẩu than, xuất nhập khẩu hợp lý trên cơ sở giảm dần và tiến đến không xuất khẩu than: Đến năm 2010 giảm xuất khẩu xuống còn 12 triệu tấn; Đến năm 2015 giảm còn 5 triệu tấn; Sau 2015 giảm dần và tiến tới không xuất khẩu. Về thị trường than, phấn đấu đến năm 2010 thiết lập được hệ thống cơ chế, chính sách hình thành thị trường than cạnh tranh, hội nhập với khu vực và thế giới, tạo sự công bằng trong hoạt động sản xuất, kinh doanh than, không phân biệt thành phần kinh tế. III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CỤ THỂ TRONG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU THAN CỦA TKV TRONG THỜI GIAN TỚI Giải pháp nhằm hạn chế xuất khẩu than của Tập đoàn trong tương lai Việt Nam hiện là một trong những nước nghèo về các nguồn tài nguyên năng lượng, với mức quy đổi về nguồn năng lượng sơ cấp (than, dầu, khí uranium và thủy điện) tính bình quân trên đầu người rất thấp so với nhiều nước trên thế giới. Song, việc khai thác và sử dụng năng lượng lại rất lãng phí. Trong khi nước ta đang phải nhập khẩu nhiệt điện, xăng, dầu và khí đốt thì có bao nhiêu than, dầu thô hầu như chúng ta lại đem bán hết. Hiện nước ta đang xuất khẩu hơn 50% sản lượng than và gần 100% lượng dầu thô khai thác được. Theo lý giải của Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam, việc xuất khẩu than hiện nay là đúng đắn vì nó thu về lượng ngoại tệ “khổng lồ”. Tuy nhiên, thực tế lại hoàn toàn ngược lại. Trong khi TKV xuất khẩu than qua Trung Quốc với giá “bèo” để nước này sản xuất điện thì Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) đang phải mua điện cũng từ Trung Quốc với giá cao ngất ngưởng.   Theo GS.TS Phí Văn Lịch, Chuyên gia chính sách của dự án Nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Bộ Khoa học và Công nghệ, sau năm 2015 nước ta sẽ phải nhập khẩu than để sản xuất điện nguyên tử (vào năm 2020). Trong khi đó tổng sản lượng than của Việt Nam lúc đó nếu khai thác tối đa cũng chỉ đáp ứng 50% nhu cầu. Lượng than nhập khẩu của Việt Nam sẽ cao hơn cả sản lượng than hiện nay. Song vấn đề là chúng ta phải nhập khẩu than từ đâu thì chưa ai biết. “Nếu sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả các nguồn năng lượng sơ cấp, chúng ta chỉ phải nhập khẩu than vào năm 2025, kịp đưa nhà máy điện nguyên tử với lò phản ứng thế hệ thứ tư vào phát điện sau năm 2030. Hiện nay, có thể coi Việt Nam là nước xuất khẩu về năng lượng. Nhưng chỉ sau năm 2015, Việt Nam sẽ trở thành nước nhập khẩu về năng lượng và khi đó khủng hoảng thiếu năng lượng sẽ là điều có thể” - ông Lịch cho biết thêm. Những năm gần đây, xuất khẩu than liên tục gia tăng với tốc độ ngày càng cao. Việc tăng nhanh sản lượng than xuất khẩu đã làm cho dư luận quan tâm lo ngại về sự cạn kiệt nguồn tài nguyên không tái tạo và sự thiếu hụt than của nền kinh tế trong một tương lai không xa. Đã có ý kiến cảnh báo về bài học xuất khẩu gỗ hơn 10 năm trước đây, để đến nay đất nước phải nhập khẩu gỗ với số lượng còn lớn hơn số đã xuất khẩu. Cũng đã có nhiều ý kiến đề xuất về các biện pháp hạn chế xuất khẩu than. Tuy nhiên, do chưa xuất phát từ nguyên nhân sâu xa của việc gia tăng sản lượng than xuất khẩu nên các biện pháp đã đề xuất chưa có tính khả thi, thậm chí còn làm tăng nguy cơ xuất khẩu cao hơn và làm tăng nguy cơ thiếu hụt than trong tương lai. Qua phân tích ở những phần trên cho thấy, nguyên nhân của mọi nguyên nhân làm tăng lượng than xuất khẩu là do giá than bán trong nước quá thấp. Việc duy trì cơ chế giá than nội địa thấp, nhất là giá than bán cho các hộ tiêu thụ chính (điện, xi măng, phân bón, giấy) không những gây nhiều tiêu cực trong buôn bán và xuất khẩu than, không phản ánh đúng thực chất hiệu quả kinh doanh và năng lực cạnh tranh của các hộ sử dụng than, mà còn góp phần làm cho việc sử dụng than lãng phí và làm tăng suy thoái môi trường, gây nhiều thiệt hại cho nền kinh tế, dẫn đến cạn kiệt nguồn “vàng đen” hữu hạn không thể tái tạo của đất nước. Việc “xuất khẩu than hạn chế” hay “không khuyến khích xuất khẩu than” đã trở nên rõ ràng. Vấn đề phải giải quyết ở đây là hạn chế, không khuyến khích bằng cách nào? Đó là phương án tăng giá than trong nước đến năm 2010 bằng giá FOB xuất khẩu và đến năm 2020 bằng giá CIF nhập khẩu thì sản lượng than khai thác được sẽ giành tối đa cho nhu cầu than trong nước, chỉ xuất khẩu lượng than thừa và sau năm 2015 mới phải nhập khẩu than. Như vậy, Tập đoàn không những cân đối, tự chủ được tài chính mà còn có tích luỹ để đầu tư phát triển các ngành nghề khác theo phương châm “đi lên từ than, phát triển trên nền than”. Có thể thấy biện pháp hợp tình, hợp lý nhất, có hiệu quả kinh tế - xã hội cao nhất để hạn chế/giảm thiểu xuất khẩu than phù hợp với quy luật kinh tế thị trường và quá trình toàn cầu hóa là thực hiện lộ trình thị trường hóa giá than trong nước. Chỉ có như vậy mới tạo điều kiện cho ngành Than phát triển bền vững, đáp ứng nhu cầu than ngày càng tăng cao của nền kinh tế; khắc phục các bất cập hiện nay do giá than thấp gây ra; đồng thời cũng là một công cụ để buộc các ngành sử dụng than phải có giải pháp sử dụng tiết kiệm, hiệu quả hơn đối với nguồn “vàng đen”, góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh, tăng khả năng cạnh tranh để vững vàng bước vào hội nhập. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất và xuất khẩu than của Tập đoàn trong thời gian tới và vì mục tiêu phát triển bền vững Tuy định hướng lâu dài của Tập đoàn là hạn chế xuất khẩu than nhưng Tập đoàn vẫn cần những giải pháp nâng cao năng lực sản xuất và xuất khẩu than trong thời gian trước mắt, khi mà xuất khẩu than vẫn là nguồn thu chủ yếu của Tập đoàn để Tập đoàn từng bước chuyển đổi, mở rộng việc sản xuất kinh doanh đa ngành đa nghề đúng theo mục tiêu phát triển bền vững của mình, đó là những giải pháp sau: 2.1 Đổi mới công nghệ, hiện đại hoá máy móc thiết bị phụ tùng Với đặc thù của than là nguồn tài nguyên quý, là nguồn nhiên liệu không thể tái tạo được, do vậy việc không ngừng đổi mới công nghệ trong việc khai thác và tuyển than đóng một vai trò vô cùng quan trọng, nó giúp Tập đoàn một mặt sử dụng một cách tiết kiệm nguồn than của đất nước, đồng thời đem lại hiệu quả xuất khẩu cao hơn với số lượng và chất lượng ngày càng tăng và đáp ứng yêu cầu của nhiều khách hàng. Muốn đạt được điều đó, TKV cần phải: Nghiên cứu các thị trường nhập khẩu than của mình một cách cẩn thận, tìm ra yêu cầu thực sự của họ về sản phẩm than để từ đó tìm ra được những máy móc thiết bị phù hợp. Nghiên cứu thị trường cung cấp máy móc thiết bị để tìm những máy móc thiết bị mới, hiện đại mà lại phù hợp với khả năng tài chính của Tập đoàn và phù hợp với điều kiện khai thác than ở Việt Nam. Sau khi đã điều tra, nghiên cứu thị trường, nếu không có khả năng mua thì Tập đoàn nên kêu gọi vốn đầu tư từ bên ngoài hoặc tiến hành liên doanh liên kết với các công ty khác thông qua việc tìm kiếm thông tin trên Internet, thông qua khách hàng hoặc các đối tác cũ… Trong trường hợp máy móc thiết bị phù hợp và ngành có khả năng mua thì mua trực tiếp máy móc thiết bị đó ngay phục vụ cho hoạt động khai thác và sản xuất than. Nhưng bên cạnh đổi mới trang thiết bị thì Tập đoàn nên tận dụng những máy móc thiết bị cũ bởi vì muốn máy móc thiết bị cũ phát huy được tác dụng thì cũng phải mất một khoảng thời gian. Do vậy phải có sự kết hợp giữa thiết bị cũ và thiết bị mới để đạt được hiệu quả tốt nhất trong quá trình khai thác và sàng tuyển than. Việc đổi mới công nghệ góp phần rất lớn vào quá trình nâng cao sản lượng than thương phẩm cũng như chất lượng than xuất khẩu. Tuy nhiên yêu cầu của từng thị trường đối với chất lượng rất khác nhau trong khi chất lượng than của Tập đoàn chưa đồng đều, đặc biệt đối với những hợp đồng lớn; quy trình kiểm tra và giám định tại các trung tâm giám định chưa thực sự chính xác hoàn toàn, chưa hiểu một cách thấu đáo các quy trình về chất lượng than nhập khẩu của các nước…Do vậy, bên cạnh việc đổi mới công nghệ thì Tập đoàn có thể áp dụng một số biện pháp bổ trợ khác để nâng cao chất lượng than xuất khẩu: Đưa ra các tiêu chuẩn đối với chất lượng than xuất khẩu cũng như các biện pháp quản lý đối với chất lượng than xuất khẩu. Đối với những hợp đồng xuất khẩu than đã được ký kết, để đảm bảo thực hiện được hợp đồng thì phải đảm bảo cả số lượng cũng như chất lượng, tránh trường hợp giao hàng không đúng theo yêu cầu của hợp đồng, hàng bị trả lại hay bị phạt. Để đạt được điều này thì Tập đoàn cần quan tâm đến việc giám định kiểm tra chất lượng đối với các lô hàng xuất khẩu. Cụ thể Tập đoàn đã thành lập trung tâm đo lường và giám định chất lượng sản phẩm QUACONTROL để kiểm tra giám sát chất lượng than xuất khẩu. Để trung tâm này hoạt động có hiệu quả và hiệu quả hoạt động xuất khẩu đạt được như kết quả mong đợi thì Tập đoàn nên cử người của trung tâm kiểm tra sơ bộ than dành cho xuất khẩu ngay trong quá trình than được đưa từ nơi khai thác vào sàng tuyển trước khi đưa ra cảng xuất khẩu, phát hiện kịp thời những lô hàng nào không đủ tiêu chuẩn chất lượng trong các hợp đồng yêu cầu tiến hành loại bỏ và bổ sung kịp thời. Đồng thời Tập đoàn phải có sự liên lạc thường xuyên với trung tâm này để nắm rõ tình hình. Bên cạnh đó Tập đoàn phải luôn duy trì mối quan hệ tốt với các cơ quan kiêm tra và giám định chất lượng như VINACONTROL hay SGS và những cơ quan giám định trung gian và độc lập có uy tín, được nhiều đối tác nước ngoài tin tưởng. - Nâng cao nhận thức của cán bộ công nhân viên trong Tập đoàn về tầm quan trọng của việc nâng cao chất lượng. Sản xuất không có phế phẩm tức là không tốn thêm lao động, không tốn thêm nguyên liệu, thời gian để khắc phục những sản phẩm không có không có chất lượng, từ đó làm cho chi phí không hiệu quả sẽ giảm. Sản phẩm chất lượng tốt sẽ tạo được lòng tin cho khách hàng, nâng cao năng lực cạnh tranh, tăng doanh thu và lợi nhuận cho Tập đoàn. 2.2 Đầu tư trong sản xuất than Tập đoàn cần phải ưu tiên công tác thăm dò xác định trữ lượng, chất lượng than, điều kiện địa chất vỉa than. Chỉ đạo lập và hoàn chỉnh các báo cáo nghiên cứu khả thi làm cơ sở cho việc chủ động đầu tư tập trung và đồng bộ, đầu tư chiều sâu, đầu tư đổi mới công nghệ, cân đối tự đầu tư với mức độ hợp lý để chủ động ổn định sản xuất, phát huy cao nhất năng lực tài sản và hiệu quả đầu tư, áp dụng các giải pháp công nghệ để đảm bảo an toàn trong sản xuất, nâng cao tỉ lệ thu hồi than và tiết kiêm tài nguyên. Nghiên cứu cơ chế, biện pháp trong đầu tư nhằm giải phóng được năng lực sản xuất, nâng cao lợi thế cạnh tranh, tạo sự phát triển đột phá của doanh nghiệp mà vẫn đảm bảo được sự thống nhất lợi ích của từng đơn vị và của cả Tập đoàn. Cụ thể: Đối với công tác tìm kiếm, thăm dò tài nguyên than Đẩy mạnh thăm dò xác minh trữ lượng than trên mức -300m, tìm kiếm thăm dò dưới mức -300m tại bể than Quảng Ninh. Tăng cường công tác thăm dò đánh giá tài nguyên tại bể than Đồng bằng Bắc Bộ theo mục tiêu đã đề ra trên cơ sở hợp tác và kêu gọi đầu tư nước ngoài. Đối với bể than thềm lục địa cần sử dụng triệt để các tài liệu tìm kiếm thăm dò dầu khí để tổng hợp, đánh giá sơ bộ tiềm năng tài nguyên than và lập kế hoạch cho các bước tiếp theo. Đối với việc khai thác, chế biến than Hiện tại, toàn ngành có 5 mỏ lộ thiên lớn sản xuất với công suất trên dưới 2 triệu tấn than nguyên khai/năm, 15 mỏ lộ thiên vừa và công trường lộ thiên (thuộc các công ty than hầm lò quản lý) sản xuất với công suất từ 100.000 tấn - dưới 1 triệu tấn than nguyên khai/năm, trên 30 mỏ hầm lò đang hoạt động (trong đó có 8 mỏ có trữ lượng huy động lớn, có công nghệ và cơ sở hạ tầng tưng đối hoàn chỉnh, khai thác với công suất từ 1 triệu tấn/năm trở lên; các mỏ còn lại có sản lượng khai thác dưới 1 triệu tấn/năm). Giải pháp cho thời gian tới là: Đối với vùng than Quảng Ninh: Cần tập trung đầu tư cải tạo, mở rộng các mỏ hiện có và đầu tư các mỏ mới theo hướng hiện đại để tăng sản lượng than nguyên khai, đẩy mạnh quá trình hiện đại hoá công nghệ khai thác hầm lò và hiện đại hoá thiết bị khai thác lộ thiên. Đầu tư phát triển các cơ sở sàng tuyển, chế biến than, hệ thống kỹ thuật hạ tầng, thăm dò tài nguyên. Đối với vùng than nội địa: Do các mỏ đều có trữ lượng vừa và nhỏ nên chỉ cần nâng công suất khai thác hợp lý để đáp ứng nhu cầu tại chỗ và trong vùng. Đối với vùng than Đồng bằng sông Hồng: Tập đoàn cần tích cực hợp tác với nước ngoài nghiên cứu công nghệ và khả năng khai thác (công nghệ khai thác hầm lò hoặc công nghệ khí hoá than…) để có thể đưa khoáng sàn Bình Minh – Khoái Châu (Hưng Yên) vào khai thác và nâng dần sản lượng. Đối với chế biến than: Phải nghiên cứu và đầu tư triển khai các dự án chế biến than theo công nghệ tiên tiến để tạo ra các sản phẩm chất lượng cao và sạch, đặc biệt là chế biến Antraxit cùng cho luyện kim, khí hoá than, hoá lỏng than…phục vụ cho các mục đích dân dụng và công nghệp đảm bảo giảm thiểu ô nhiễm môi trường và tăng cao giá trị của than. 2.3 Phát triển nguồn nhân lực Lực lượng lao động của doanh nghiệp xuất khẩu rất quan trọng và có tác động trực tiếp trong việc nâng cao hiệu kinh doanh xuất khẩu của doanh nghiệp. Do đó Tập đoàn phải đào tạo được đội ngũ cán bộ quản lý, kỹ thuật, tư vấn, nghiên cứu và công nhân có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, tay nghề và tinh thần trách nhiệm để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của Tập đoàn trên các lĩnh vực, cụ thể: Đối với công nhân kỹ thuật Cần tiến hành đào tạo, bồi dưỡng tại chỗ kết hợp với tu nghiệp tại nước ngoài phù hợp với từng đối tượng lao động vì hiện nay Tập đoàn đã có quan hệ với các trường đại học chuyên đào tạo về mỏ tại các nước như Trường Đại học Hoa Bắc (Trung Quốc), Trường Đại học Mỏ quốc gia Matxcơva (Nga), Trường Đại học Bách khoa Slask (Ba Lan)… Ngoài ra, Tập đoàn cũng phải tổ chức lại hệ thống trung tâm đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, trường dạy nghề, tích cực đào tạo lại, bồi dưỡng nâng cao kiến thức, tay nghề…Đưa tin học vào quản lý, tăng cường các hoạt động giáo duc truyền thống, văn hoá doanh nghiệp. Đối với cán bộ kinh doanh Đào tạo ngắn hạn và dài hạn đối với cán bộ kinh doanh về các mảng kiến thức về tổ chức doanh nghiệp (Kinh tế vi mô, Marketing, Các phương pháp lượng trong quản trị, Cổ phần hoá trong doanh nghiệp…); các kiến thức về thị trường (Kinh tế vĩ mô, Kinh tế công cộng, Lý thuyết cạnh tranh…); các kiến thức về kinh doanh; kỹ năng sử dụng các phương pháp quản trị hiện đại; các kỹ năng giao tiếp… Đối với cán bộ cao cấp Tập đoàn cần có kế hoạch đào tạo cán bộ lãnh đạo các cấp, đồng thời cũng phải có kế hoạch đào tạo tầng lớp kế cận một cách thích hợp thông qua các khoá học được tổ chức trong nước tại Trung tâm phát triển nguồn nhân lực quản lý, đồng thời kết hợp với việc cử đi học tại các nước phát triển để học hỏi kinh nghiệm quản lý cũng như cách tiếp cận với việc giải quyết các vấn đề lớn. 2.4 Bảo vệ tốt môi trường, đảm bảo hiệu quả khai thác than Thời gian vừa qua, TKV đã chú trọng chỉ đạo và có nhiều giải pháp nhằm khắc phục, xử lý ô nhiễm môi trường do khai thác vận chuyển, chế biến than gây ra. Tuy nhiên, việc tăng quá nhanh sản lượng than khai thác trong khi các giải pháp bảo vệ môi trường, đầu tư hạ tầng kỹ thuật chưa tương xứng, đồng bộ đã ảnh hưởng rất nhiều tới môi trường vùng mỏ. Một số doanh nghiệp của ngành than thực hiện chưa nghiêm các quy định của Luật Khoáng sản, Luật Bảo vệ môi trường gây ảnh hưởng lớn đến đời sống, sinh hoạt của nhân dân và bức xúc trong dư luận. Các cơ quan chức năng tiến hành kiểm tra tại 68 khu vực mỏ đang hoạt động thì chỉ có 38 khu vực có báo cáo đánh giá tác động môi trường, hầu hết các đơn vị đều chưa lập báo cáo bảo vệ môi trường định kỳ theo quy định. Nhiều dự án mở rộng, nâng cấp mỏ than của các đơn vị như Cao Sơn, Cọc Sáu, Đèo Nai, Hà Tu, Núi Béo...đều chưa có báo cáo đánh giá tác động môi trường. Hoạt động khai thác than và đổ thải đã tạo lên các bãi thải lớn như: Đèo Nai có độ cao khoảng 200m, Cao Sơn cao 150m, Đông Bắc Bàng Nâu cao 150m rất dễ ảnh hưởng đến các khu dân cư phía dưới khi có động đất, mưa lớn kéo dài. Các bến cảng còn phân tán, quy mô nhỏ, hạ tầng yếu kém và đại đa số đều không có công trình bảo vệ môi trường, nhiều bến bãi đã có quyết định ngừng hoạt động như bến xuất của Công ty Than Hà Tu, Xí nghiệp Chế biến tiêu thụ than Hòn Gai, Xí nghiệp Dịch vụ kinh doanh than... nhưng vẫn không chấp hành gây ô nhiễm môi trường trên tuyến đường 337. Qua quan trắc cho thấy nồng độ bụi ở khu vực Mông Dương (Cẩm Phả); Hà Trung, Hồng Hà (Hạ Long); Vàng Danh, Khe Ngát (Uông Bí) đều vượt tiêu chuẩn cho phép nhiều lần. Nước thải mỏ của Công ty Than Hà Lầm có hàm lượng BOD (nhu cầu ô xy sinh hoá), COD (nhu cầu ô xy hoá học), TSS (hàm lượng cặn lơ lửng) vượt tiêu chuẩn cho phép từ 3,9 đến 5,7 lần; hàm lượng sunfua, TSS của Công ty Than Mông Dương cao gấp đôi mức cho phép; hàm lượng TSS trong nước thải của Công ty Than Dương Huy còn vượt đến 15,6 lần đặc biệt là Công ty Than Hạ Long còn không có cả hệ thống xử lý nước thải và nhiều công ty khác khi kiểm tra đều không đạt tiêu chuẩn. Để khắc phục tình trạng trên, Tập đoàn đã phối hợp với các địa phương làm tốt công tác giáo dục môi trường cho cộng đồng. Bên cạnh đó Tập đoàn còn thành lập Quỹ môi trường than Việt Nam trên cơ sở tính thêm 1% vào giá thành sản xuất và trở thành doanh nghiệp đầu tiên trong nước có quỹ này. Những biện pháp này phần nào đã giúp cho việc bảo vệ môi trường cũng như nâng cao năng suất của người lao động. Một trong những mục tiêu phát triển bền vững của ngành than có tính chất sống còn là bảo vệ môi trường. Muốn vậy, giải pháp của Tập đoàn là phân vùng quy hoạch bảo vệ môi trường, gồm có: Vùng cấm các hoạt động khai thác than; Vùng hạn chế hoạt động khai thác than; Vùng bảo vệ môi trường đặc biệt; Vùng bảo vệ môi trường thông thường, các khu vực đặc biệt khác như các công trình /khu vực khai thác cần bảo tồn hoặc chuyển đổi mục đích sử dụng sau khi khai thác hết than. Trên cơ sở các vùng quy hoạch, tập đoàn đã xác lập các giải pháp bảo vệ môi trường cụ thể theo các lĩnh vực như: Kiểm soát bụi, khí thải, tiếng ồn, độ rung; Cải tạo hệ thống thoát và xử lý nước thải; Nạo vét và xây kè sông, suối, hồ chứa nước; Đắp đê, xây kè chống xói mòn, tụt lở ở các bãi thải, khai trường; Tái trồng cây, phục hồi và cải tạo đất ở các khu vực mỏ và bãi thải; Đổi mới công nghệ, thiết bị, vật liệu, năng lượng; Tăng cường hệ thống quan trắc và phát triển công nghệ môi trường. Tập đoàn cũng phải xây dựng và áp dụng các tiêu chuẩn, công cụ kinh tế môi trường cho ngành than như: tiêu chuẩn quản lý môi trường ISO 14000, các chuẩn môi trường, ký quỹ phục hồi môi trường… Ngoài ra, Tập đoàn cần nâng cao nhận thức bảo vệ môi trường cho CBCN, chú trọng đào tạo chuyên gia và tăng cường hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường. Bên cạnh việc bảo vệ môi trường, Tập đoàn cũng phải tiến hành việc quản lý than được khai thác để đảm bảo lượng than xuất khẩu thông qua việc quy hoạch lại các kho than, cảng than, bến bãi để quản lý than được tốt hơn, đồng thời cũng góp phần bảo vệ môi trường. Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam cho biết, đến năm 2010, tất cả các đơn vị sản xuất, sàng tuyển và chế biến than đều phải đáp ứng các tiêu chuẩn môi trường trong ngành than. Theo đó, TKV sẽ kiểm soát chặt chẽ tác động môi trường vùng có hoạt động khai thác than, thực hiện đồng bộ các giải pháp bảo vệ môi trường và nghiên cứu ứng dụng công nghệ khai thác sạch hơn. TKV chú trọng tới công tác đào tạo chuyên gia và tăng cường hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường; tranh thủ các nguồn vốn, tài trợ của các tổ chức trong và ngoài nước cho môi trường, đồng thời TKV sẽ kết hợp với chính quyền địa phương nhanh chóng khắc phục ô nhiễm môi trường do khai thác nhiều năm để lại, đặc biệt là với môi trường cảnh quan Vịnh Hạ Long. TKV hiện đang triển khai thực hiện một số dự án môi trường như: xử lý nước thải mỏ than Na Dương, tỉnh Lạng Sơn; xử lý ô nhiễm bụi và ngập úng ở các khu dân cư xung quanh nhà máy tuyển Nam Cầu Trắng; cải tạo môi trường, cảnh quan bãi thải Nam Lộ Phong, thành phố Hạ Long; trồng rừng cải tạo môi trường khu vực Nam Khe Sim, thị xã Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh. Bên cạnh đó, Quỹ môi trường Than Việt Nam được thành lập trên cơ sở sử dụng 1% chi phí tính thêm vào giá thành để giải quyết vấn đề về môi trường do hoạt động khai thác than gây ra. Những năm gần đây, TKV đã phối hợp với tỉnh Quảng Ninh cải thiện, nâng cấp các hệ thống đường giao thông và nhiều công trình bảo vệ môi trường khác như các hồ chứa nước, hệ thống sông suối...với số vốn đầu tư ngày một tăng. TKV đã xây dựng Trung tâm an toàn mỏ, lắp đặt hệ thống cảnh báo khí CH4 tự động cho Công ty Than Mạo Khê và thiết bị cảnh báo di động cho tất cả các mỏ hầm lò, hiện đại hóa Trung tâm cấp cứu mỏ của 3 khu vực, củng cố hệ thống cấp cứu mỏ bán chuyên tại các mỏ; quy định từ năm 2005, mỗi mỏ phải có 1 phó giám đốc chuyên trách về an toàn... Bên cạnh đó, để khắc phục hậu quả môi trường vùng mỏ đã bị suy thoái sau nhiều thập kỷ để lại, đồng thời để bảo vệ môi trường sinh thái, danh lam thắng cảnh, các di tích văn hóa trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, TKV đã thực hiện chương trình tổng thể đánh giá tác động môi trường vùng than Quảng Ninh và đề ra các giải pháp và chương trình cải thiện môi trường. Kinh phí cho các công trình bảo vệ môi trường đã tăng từ 47,98 tỷ đồng năm 2003 lên 69,91 tỷ đồng năm 2004, và 208,9 tỷ đồng vào năm 2006. Biện pháp bảo vệ môi trường và quản lý than khai thác nếu được tiến hành một cách đồng bộ sẽ giúp nâng cao năng suất lao động, giảm được các chi phí phát sinh do hậu quả của việc không bảo vệ tốt môi trường đem lại. Từ đó sản lượng và chất lượng than cũng tăng lên. 2.5 Tăng cường hoạt động phân phối và xúc tiến thương mại Xây dựng kênh phân phối than xuất khẩu hiệu quả Hiện nay, Tập đoàn vẫn duy trì ba kênh phân phối là: Bán hàng trực tiếp, bán hàng thông qua một tổ chức kinh doanh trong nước và thông qua trung gian nước ngoài. Trong đó kênh thứ ba vẫn đang được sử dụng rộng rãi nhất do Tập đoàn chưa đủ khả năng lập văn phòng đại diện ở nước ngoài. Điều này khiến Tập đoàn không chủ động trong cung cấp sản phẩm, tăng chi phí và giá bán, giảm lợi nhuận xuất khẩu. Như vậy Tập đoàn cần khắc phục điều này bằng cách tăng cường phối hợp hoạt động với thương vụ Việt Nam tại nước ngoài, cơ quan chính phủ, Phòng Thương mại để tìm hiểu hoạt động của các trung gian ở thị trường đó để lựa chọn được trung gian thực sự uy tín, hoạt động hiệu quả. Bên cạnh đó phải mở rộng sử dụng kênh thứ nhất tức là nghiên cứu thị trường một cách chủ động để xuất khẩu trực tiếp tới các thị trường đó. Một vấn đề khác cũng rất quan trọng trong hoạt động phân phối xuất khẩu than chính là việc vận chuyển than. Than thường được xuất khẩu với khối lượng lớn và được vận chuyển bằng tàu biển nên để đảm bảo chất lượng than trong quá trình vận chuyển thì Tập đoàn nên: Đảm bảo than được vận chuyển từ mỏ ra cảng theo đúng quy trình kỹ thuật đã được định sẵn để không làm ảnh hưởng đến chất lượng than xuất khẩu. Nên có nhân viên giám sát theo dõi quá trình thực hiện này. Thiết lập mối quan hệ mật thiết với công ty vận tải, theo dõi quá trình vận chuyển để có phản ứng kịp thời khi có sự cố xảy ra. Nắm được những thông tin cần thiết về quá trình phân phối sản phẩm ở nước nhập khẩu, một mặt để học hỏi, một mặt để có những biện pháp thích hợp khi có biến cố xảy ra. Tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại Các hoạt động quảng cáo và xúc tiến bán hàng được thực hiện tốt sẽ mang lại hiệu quả cao cho công tác xuất khẩu, mở rộng thị trường tiêu thụ. Để khắc phục hoạt động quảng cáo cho sản phẩm than vẫn còn đơn giản và chưa để lại ấn tượng cho khách hàng, Tập đoàn nên: Tận dụng những ưu điểm và sự tiện lợi của công nghệ thông tin, đặc biệt là Internet để quảng bá hình ảnh của Tập đoàn. Tăng cường quảng cáo tại các hội chợ thương mại quốc tế về than, trước đó xây dựng một chương trình quảng cáo xúc tiến bán hàng một cách hiệu quả nhất. Tận dụng các cơ hội để tiếp cận trực tiếp với khách hàng, tư đó nhận được ngay những thông tin phản hồi từ phía khách hàng về sản phẩm than Việt Nam. Tập đoàn cần tìm kiếm và đào tạo một đội ngũ marketing có trình độ giúp phát triển hoạt động xúc tiến thương mại, để sản phẩm than Việt Nam có thể đến được với những khách hàng tiềm năng nhất. KIẾN NGHỊ VỚI NHÀ NƯỚC 1. Giải pháp của Nhà nước nhằm hạn chế xuất khẩu than thông qua thuế xuất khẩu than Như đã phân tích ở những phần trên, việc hạn chế xuất khẩu than là rất cần thiết, và cần có sự giúp sức của Nhà nước. Cũng như những nền kinh tế thị trường khác, ở từng giai đoạn phát triển kinh tế, việc Nhà nước ta hạn chế hay khuyến khích sản xuất, tiêu thụ, xuất khẩu hoặc nhập khẩu sản phẩm hàng hoá nào đó để đảm bảo lợi ích quốc gia là điều bình thường và cần thiết. Nhưng hạn chế hay khuyến khích bằng cách nào, với mức độ thế nào,... là điều quan trọng, bởi vì xu hướng phổ biến hiện nay là các cơ quan quản lý nhà nước không nên can thiệp vào các hoạt động sản xuất – kinh doanh bằng biện pháp hành chính mà Nhà nước phải dựa vào các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô của mình, ở đây cụ thể là dùng công cụ thuế để điều chỉnh. Điều này xuất phát từ: Thứ nhất, Nhà nước ta đang được xây dựng theo định hướng Nhà nước pháp quyền XHCN, do đó mọi chính sách, nhất là những chính sách kinh tế của Nhà nước đều phải tuân thủ pháp luật. Thứ hai, nước ta đã gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và việc hình thành thị trường than trong nước đang dần thực hiện, việc xuất khẩu than chịu ảnh hưởng của thị trường cung cầu than trong nước cũng như trên thế giới, do đó, việc Nhà nước sử dụng công cụ thuế để hạn chế xuất khẩu than là cần thiết. Hạn chế xuất khẩu than với thuế suất xuất khẩu hợp lý để ngành than phát triển bền vững, đồng thời đáp ứng đủ nhu cầu than trong nước và đảm bảo Chính sách năng lượng quốc gia. Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng IX và X, TKV đã tập trung đầu tư sâu vào công nghệ khai thác, bốc xúc, vận chuyển và sàng tuyển than nên năng lực sản xuất than hiện nay có nhiều tiến bộ: sản lượng không ngừng tăng lên, chất lượng được nâng cao và đa dạng hoá chủng loại than tiêu thụ. Vì vậy, một số chủng loại than được sản xuất ra với số lượng khá lớn, với chất lượng và giá trị xuất khẩu cao, thị trường ngoài nước có nhu cầu tiêu thụ, nhưng thị trường trong nước lại không sử dụng hoặc sử dụng ít, như: than cám số 6, số 7; than cục 2C, cục 3, cục xô... Hơn nữa, trong nhiều năm qua, than sản xuất ra bán cho nhu cầu trong nước với giá thấp hơn giá thành. Từ năm 2004, giá dầu trên thế giới bắt đầu tăng cao đã góp phần mở rộng thị trường tiêu thụ than ra ngoài nước, đẩy giá than xuất khẩu lên và đây là cơ hội mới mà TKV có được để đẩy mạnh sản xuất, tăng sản lượng tiêu thụ và nâng giá bán than xuất khẩu. Mặt khác, trong khi hàng năm, TKV vẫn phải sản xuất, đảm bảo cho nhu cầu than trong nước (năm 2006, là 15 triệu tấn than) với giá than bán thấp hơn giá thành, thì xuất khẩu than với giá như hiện nay là cứu cánh, bù lỗ cho giá bán trong nước và là giải pháp chủ yếu để hoạt động sản xuất của TKV có hiệu quả đồng thời có tích luỹ để tái đầu tư, mở rộng sản xuất cho những năm tiếp theo. Đây cũng là một trong những lý do mà hiện nay, thuế suất xuất khẩu than đang được Nhà nước áp dụng ở mức 0%. Với tốc độ tăng sản lượng than xuất khẩu như đã nêu ở trên, hạn chế xuất khẩu than bằng việc nâng mức thuế suất xuất khẩu than là việc làm cần thiết, nhưng nên có mức thuế suất hợp lý. Và như vậy, thuế suất xuất khẩu than cần được phân làm hai loại: mức cao áp dụng cho chủng loại than khai thác được sử dụng nhiều cho nhu cầu trong nước; mức thấp áp dụng cho chủng loại than sản xuất ra ít được sử dụng hoặc trong nước không có nhu cầu sử dụng. Dự kiến, thuế suất xuất khẩu than sẽ dao động trong khoảng từ 5 - 10%. Việc nâng thuế suất xuất khẩu than sẽ có tác động rất lớn đối với các nhà quản lý cũng như các đơn vị hoạt động trong lĩnh vực này. - Đối với Nhà nước: + Sẽ hạn chế được việc xuất khẩu than, kéo dài thời gian chưa cần phải nhập khẩu than cho nhu cầu năng lượng trong nước, góp phần đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia. Tuy nhiên, Nhà nước cần sớm hình thành thị trường than trong nước bằng các quy định pháp luật, đảm bảo cho Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam bán than cho các hộ tiêu dùng than trong nước theo giá thị trường. + Có được nguồn thu không nhỏ, bổ sung vào Ngân sách nhà nước, đáp ứng những nhu cầu bức thiết khác của nền kinh tế. Khi cần thiết, có thể dùng nguồn thu này đầu tư lại để phát triển ngành Than. - Đối với Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam: + Cần tiếp tục thực hiện các giải pháp tiết kiệm chi phí để hạ giá thành than xuất khẩu hoặc giảm lượng than xuất khẩu. + Đẩy mạnh chiến lược đa dạng hóa sản phẩm trên nên sản xuất than để khi không còn than xuất khẩu, Tập đoàn vẫn đảm bảo phát triển bền vững. 2. Các biện pháp và chính sách khác của Nhà nước Để phát triển ổn định và bảo đảm môi trường bền vững cho ngành than cũng như Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam, Nhà nước cần đưa ra những biện pháp và chính sách trong giai đoạn tới như sau: Thứ nhất, Nhà nước cần tạo điều kiện để ổn định thị trường than trong nước thông qua việc chuẩn xác tiến độ và mối quan hệ ràng buộc giữa các ngành năng lượng với nhau, giữa ngành than và các hộ tiêu thụ khác. Cho phép ngành than được xây dựng một số nhà máy nhiệt điện chạy than trên cơ sở cân bằng năng lượng giữa dầu, khí và thuỷ điện. Phát triển các tổ hợp công nghiệp vùng để phá thế độc canh chỉ thiên về công nghiệp than ở Quảng Ninh, tạo công ăn việc làm ổn định cho vùng mỏ. Thứ hai, về chính sách giá bán than trong nước: Cần điều tiết kịp thời giá than phù hợp với giá tiêu thụ của các hộ lớn như điện, xi măng, phân bón...và phù hợp với giá thành sản xuất và giá nhập khẩu than - hiện nay giá bán chỉ bằng 65% giá nhập khẩu. Trong giai đoạn chưa hình thành thị trường than cạnh tranh, giá than bán cho các hộ tiêu thụ lớn trong nước do Nhà nước quản lý trên cơ sở đảm bảo đủ bù đắp chi phí và mức lợi nhuận hợp lý của ngành than. Cùng với quá trình tổ chức lại ngành than theo hướng thị trường cạnh tranh, giá than tiến tới thực hiện theo cơ chế thị trường. Nhà nước sử dụng công cụ thuế (thuế tài nguyên, thuế xuất nhập khẩu...) để điều tiết công bằng giữa đơn vị sản xuất than, điều tiết hoạt động xuất nhập khẩu than. Chính phủ đã có công văn chấp thuận kiến nghị tăng giá bán than đối với 3 hộ tiêu thụ lớn gồm giấy, phân bón, xi măng. Mức tăng do Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam tự tính theo cung cầu thị trường, chứ không tăng theo lộ trình và mức mà liên bộ Tài chính - Công nghiệp trình trước đó. Riêng đối với ngành điện, các mức tăng được tính toán dựa trên giá thành bán điện nhằm tránh ảnh hưởng đến đời sống của người tiêu dùng. Theo yêu cầu của Chính phủ, Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam cùng với 4 hộ tiêu thụ lớn trên chủ động áp dụng các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh, chú trọng giảm chi phí sản xuất. Từ đó hạ giá thành sản phẩm đến mức thấp nhất mà vẫn đảm bảo sức cạnh tranh. Theo phương án mà Liên bộ Tài chính - Công nghiệp kiến nghị hồi giữa tháng 11/2006, giá bán than được điều chỉnh thành 2 giai đoạn nhằm hạn chế tác động tiêu cục đến giá cả hàng hóa vì than là đầu vào của nhiều ngành. Giai đoạn 1 từ ngày 1/1/2007, sẽ áp dụng mức tăng 20% cho 3 hộ tiêu dùng lớn gồm giấy, xi măng và phân bón. Giai đoạn 2 từ quý 3/2007 sẽ áp dụng mức tăng theo cung cầu của thị trường. Lộ trình trên để thực hiện chỉ đạo của Thủ tưởng Chính phủ là trong năm 2007 là sẽ hạn chế xuất khẩu và không bù lỗ giá than (trừ giá than cung cấp cho phát điện). Theo ông Huỳnh Kim Tước, Giám đốc Trung tâm Tiết kiệm năng lượng thành phố Hồ Chí Minh, việc mất cân bằng năng lượng và thiếu toàn diện trên cả nước chắc sẽ diễn ra, nhưng Việt Nam có thể hạn chế và đẩy lùi thời điểm xảy ra. Muốn vậy, việc đầu tiên cần làm là xây dựng chiến lược của quốc gia về khai thác và sử dụng nguồn tài nguyên năng lượng sơ cấp (than đá và dầu khí). Ngoài ra, Nhà nước cần xây dựng các cơ chế hoạt động cho thị trường năng lượng. Thứ ba, đề nghị xem xét điều chỉnh thời hạn thu hồi vốn của các khoản vay trung và dài hạn cho phù hợp với chu kỳ khấu hao được quy định tại các văn bản số 1062, 166 của Bộ Tài Chính. Thứ tư, đẩy mạnh việc điều tra đánh giá tiềm năng than ở bể than Quảng Ninh dưới mức -150m, ở bể than vùng đồng bằng Sông Hồng, vùng sâu vùng xa để chuẩn bị cho các kế hoạch sau. Thứ năm, tăng tỷ lệ cấp vốn lưu động cho ngành than, đưa than xuất khẩu vào đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng với mức thuế suất bằng 0%. * * * Tóm lại, trước khi đưa ra giải pháp, chương 3 của luận văn này đề cập tới sự ảnh hưởng của chính sách hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực của Việt Nam và xu hướng thị trường than thế giới tới hoạt động xuất khẩu than của TKV cùng những thách thức cho sự phát triển của ngành than và mục tiêu, định hướng phát triển cho ngành than trong thế giới tới. Qua đó, chương cuối này rút ra một số giải pháp cụ thể, trong đó có những giải pháp hạn chế xuất khẩu than mà quan trọng nhất là thực hiện lộ trình thị trường hoá giá than và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất và xuất khẩu than của Tập đoàn và vì mục tiêu phát triển bền vững. Ngoài ra, những kiến nghị đối với Nhà nước cũng được đưa ra rất cụ thể như ở trên. KẾT LUẬN Ngành than Việt Nam đã có lịch sử phát triển hơn 100 năm, là một trong những ngành công nghiệp truyền thống của Việt Nam, sự phát triển của ngành than gắn liền sự phát triển của công nghiệp Việt Nam. Sự ra đời của Tổng Công ty Than Việt Nam và sau đó trở thành Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam đã góp phần làm cho nền kinh tế nước ta ngày càng phát triển. Sau khi nghiên cứu đề tài: “Hoạt động xuất khẩu than của Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam (Vinacomin), thực trạng và giải pháp”, có thể rút ra một số kết luận sau đây: Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam (TKV) là một trong những Tập đoàn kinh tế đầu tiên của nước ta được chuyển đổi từ tổng công ty nhà nước vào cuối năm 2005, do đó TKV có vai trò rất quan trọng và cần có định hướng phát triển đa ngành đa nghề và theo đúng định hướng phát triển là trở thành một tập đoàn về năng lượng chủ chốt của quốc gia. Qua nghiên cứu Tổng quan về TKV trên các khía cạnh: Quá trình hình thành và phát triển; Chức năng nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức; Các ngành nghề kinh doanh và khái quát tình hình sản xuất kinh doanh của Tập đoàn những năm gần đây, ta thấy Tập đoàn có sự phát triển đáng kể, vượt qua nhiều thử thách khắc nghiệt của kinh tế thị trường, từng bước đổi mới tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh mang lại hiệu quả ngày càng cao. Cùng với phát triển sản xuất tăng nhanh sản lượng than, TKV còn phát triển các ngành nghề khác như cơ khí mỏ, các nhà máy nhiệt điện, vật liệu nổ công nghiệp, vật liệu xây dựng, thương mại, dịch vụ...với cơ cấu kinh doanh đa ngành trên nền sản xuất than. Đời sống việc làm của người lao động được đảm bảo và từng bước được cải thiện. Có được sự tiến bộ vượt bậc như vậy là do nhiều nguyên nhân như: nguồn tài nguyên quý giá, truyền thống lao động anh hùng, sự quan tâm của các cấp nhưng quan trọng nhất là do tận dụng được những lợi thế khi chuyển đổi từ hình thức tổng công ty nhà nước sang tập đoàn. Thị trường than thế giới hiện nay có nhu cầu về than ngày càng tăng trong khi Việt Nam cũng có tiềm năng về than đáng kể. Tuy nhiên các quốc gia trong đó có cả Việt Nam đều đã nhận thức được tầm quan trọng của tài nguyên than nhằm mục tiêu tiết kiệm năng lượng và bảo vệ môi trường sinh thái. Mặc dù hiện nay xuất khẩu than ngày càng chiếm tỷ trọng cao hơn trong cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam nhưng chúng ta không thể chỉ nhìn lợi ích trước mắt mà bỏ qua sự phát triển bền vững của Tập đoàn cũng như vì sự phát triển của cả quốc gia trong tương lai lâu dài. Nguyên nhân của việc xuất khẩu tăng nhanh ngoài việc đổi mới máy móc thiết bị, cơ cấu tổ chức điều hành nhằm nâng cao năng lực khai thác, sản xuất và xuất khẩu than thì nguyên nhân sâu xa là do giá than xuất khẩu cao hơn rất nhiều so với giá nội địa. Đây là một nguyên nhân gây tổn thất than trong quá trình khai thác, suy thoái môi trường và thiệt hại cho cả nền kinh tế. Không thể phủ nhận những thành công đáng kể của TKV trong hoạt động xuất khẩu than như chất lượng than xuất khẩu ngày càng nâng cao, kim ngạch xuất khẩu tăng, thị trường mở rộng, hiệu quả xuất khẩu ngày một cao nhưng về lâu dài, việc hạn chế xuất khẩu than là điều không thể tránh khỏi. Việt Nam ngày càng hoà nhập sâu rộng hơn vào xu thế hội nhập quốc tế và khu vực hiện nay, điều này đồng nghĩa với việc hàng hoá Việt Nam có những thuận lợi nhất định để vươn xa hơn trên thị trường quốc tế. Đối với mặt hàng than, với đặc thù riêng mà ngành than có định hướng phát triển riêng, chứ không đơn thuần là tăng cường xuất khẩu tối đa như nhiều mặt hàng khác. Đó là phương án tăng giá than trong nước đến năm 2010 bằng giá FOB xuất khẩu và đến năm 2020 bằng giá CIF nhập khẩu. Khi đó sản lượng than khai thác được sẽ giành tối đa cho nhu cầu than trong nước. Như vậy, Tập đoàn không những cân đối, tự chủ được tài chính mà còn có tích luỹ để đầu tư phát triển các ngành nghề khác theo phương châm “đi lên từ than, phát triển trên nền than”. TÀI LIỆU THAM KHẢO Các báo cáo tổng kết kinh doanh và tài chính của Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam từ năm 2000 đến nay. * Sách: Nguyễn Tấn Bình (2004), Giáo trình phân tích hoạt động doanh nghiệp, NXB Thống Kê, Hà Nội. Bùi Xuân Lưu (2002), Giáo trình kinh tế ngoại thương, NXB Giáo dục, Hà Nội. Vũ Hữu Tửu (2002), Giáo trình Kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương, NXB Giáo dục, Hà Nội. * Báo và tạp chí: Hội khoa học và công nghệ mỏ Việt Nam (2006), “Tập đoàn Than Việt Nam - Mốc son đánh dấu bước phát triển mới của ngành công nghiệp than Việt Nam”, Tạp chí Công nghiệp Mỏ (số 1/2006), tr. 2-5. Đoàn Văn Kiển, Nguyễn Thành Sơn (2006), “Định hướng chiến lược phát triển của Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam đến 2025 và tầm nhìn đến năm 2050”, Tạp chí Công nghiệp Mỏ (số 4/2006), tr. 4-9. Lê Đỗ Bình (2006), “Khả năng huy động trữ lượng than vào quy hoạch phát triển ngành than Việt Nam giai đoạn 2006 – 2015, có xét triển vọng đến 2025”, Tạp chí Công nghiệp Mỏ (số 4/2006), tr. 13. Nguyễn Cảnh Nam (2006), “Giá than nhìn từ góc độ sử dụng hợp lý tài nguyên và phát triển bền vững”, Tạp chí Công nghiệp Mỏ (số 6 – 2006), tr. 32-34 Nguyễn Cảnh Nam (2007), “Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam sau một năm chuyển đổi và đi vào hoạt động”, Tạp chí Công nghiệp Mỏ (số 1/2007), tr. 35- 37. Nguyễn Hữu Di (2007), “Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam TKV – Phát huy lợi thế đạt được, đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh”, Tạp chí Công nghiệp (Kỳ 1, 8/2007), tr. 41. Đoàn Văn Kiển (2007), “Chiến lược phát triển bền vững ngành than”, Tạp chí Than – Khoáng sản (số 6/2007), tr. 8-12. Văn bản – Quyết định mới (2007), “Tổ chức bộ máy điều hành tập đoàn”, Tạp chí Than – Khoáng sản (số 10/2007), tr. 10-14. Đỗ Thế Anh (2007), “Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam trước thử thách lớn lao trong phát triển than đến năm 2015 – 2025”, Tạp chí Khoa học Công nghệ Mỏ (số 3/2007), tr. 15-18. * Các web site: - Bộ Công thương: 14. 15. - Bộ Công nghiệp (cũ): 16. 17. - Bộ Tài nguyên và Môi trường Việt Nam: 18. Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam: 19. 20. 21. 22. http//www.quangninh.industry.gov.vn/News.aspxNewID=399&CateID=73 23. 24. 25. 26. 27. 28. 29. 30. 31. 32. 33. 34. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLuan van 2.doc
Tài liệu liên quan