Tại nhiều quốc gia, đại diện thương mại tại nước ngoài do Bộ Ngoại giao đảm trách, trong một số ít trường hợp, trách nhiệm này do Bộ thương mại hoặc tương đương. Sự tồn tại mạng lưới các văn phòng đại diện thương mại dưới sự điều hành trực tiếp của tổ chức XTTM là hiếm có, ngoại trừ các tổ chức XTTM có quá trình hoạt động lâu dài và có nguồn tài chính dồi dào và có chiến lược mạnh hướng về xuất khẩu. Trong thực tế, có khoảng một nửa các quốc gia, các văn phòng đại diện thương mại tại nước ngoài có những liên kết trực tiếp với tổ chức XTTM. Các đại diện thương mại của tổ chức XTTM tại nước ngoài thường có chức năng riêng biệt về XTTM, trong một số ít trường hợp, họ cũng có liên quan đến các vấn đề như xúc tiến đầu tư và tìm nguồn nhập khẩu. Trái lại, đa số các viên chức của Bộ Ngoại giao hay Bộ thương mại lại không có nhiệm vụ riêng cho xúc tiến xuất khẩu. Tuy nhiên, tại các quốc gia phát triển, có sự tập trung rõ ràng cho các vấn đề thương mại.
100 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1131 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoạt động xúc tiến xuất khẩu của hiệp hội ngành hàng da giầy xuất khẩu Việt Nam, thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
triển lãm trong và ngoài nước nhằm phát triển thị trường và quảng bá sản phẩm hàng hóa Việt Nam
Hỗ trợ các hội viên chú trọng phát triển cả thị trường trong nước lẫn thị trường nước ngoài và đẩy mạnh xuất khẩu.
Hiệp hội có trang web riêng để cung cấp thông tin và quảng bá sản phẩm.
Hầu hết các thành viên hiệp hội Da –Giầy VN đều đã có trang web riêng cung cấp thông tin và quảng bá sản phẩm. Các Hiệp hội ngành hàng đã cung cấp thông tin thị trường, giá cả và tình hình sản xuất cho các hội viên tương đối kịp thời, phong phú, nhờ đó mà nhiều hội viên đã kịp thời chuyển đổi phương thức và mặt hàng kinh doanh, mở rộng quy mô và định hướng phát triển sản xuất – kinh doanh.
Một số trang web của Hiệp hội:
(1) Hiệp hội Da - Giầy Việt Nam - Email: hhdg@hn.vnn.vn - Website: www.lefaso.org.vn
Tel: 84-4-7281560/7281562 - Fax: 84-4-7281561
(2) Hiệp hội Da - Giầy TH Hồ Chí Minh: http:www.sla.org.vn
(3) @f shoesleather@fpt.vn pt.vnsleather@
Ngoài ra, Hiệp hội còn có những kênh thông tin khác, như sách, báo, tạp chí,các ấn phẩm mà Hiệp hội ban hành như:
(1) Bản tin phát hành hàng tháng tới các DN hội viên và các DN trong ngành để cung cấp các thông tin về sản xuất - kinh doanh, công nghệ, quản lý và đào tạo... Đồng thời, tạo cầu nối giữa LEFASO VN, các DN hội viên với các bạn hàng và những người quan tâm tới sự phát triển của ngành CN Da - Giầy VN nhằm tăng cường mối quan hệ hợp tác và sự hiểu biết lẫn nhau. Trong tương lai bản tin sẽ được phát hành bằng cả tiếng Anh và tiếng Việt.
(2)Cuốn danh bạ song ngữ (Anh - Việt) giới thiệu về Hiệp hội Da - Giầy VN được phát hành 1 năm một lần với những thông tin cập nhật mới nhất về các DN hội viên và các DN khác trong ngành. Cuốn sách đã nhận được nhiều ý kiến đóng góp rất bổ ích từ nhiều nhà lãnh đạo, bạn hàng và các tổ chức quốc tế khác.
Tồn tại.
Chưa thực hiện tốt chức năng đại diện cho cộng đồng doanh nghiệp hội viên
Tiếng nói của Hiệp hội trong lĩnh vực tư vấn cho các cơ quan chính quyền còn yếu ớt, ít tính thuyết phuc, không tính toán được lợi ích lâu dài của doanh nghiệp hội viên. ít sức thuyết phục, thậm chí thiên lệch không tính đến lợi ích lâu dài của hội viên và cộng đồng doanh nghiệp. Có hiệp hội doanh nghiệp chưa thoát khỏi tư duy bao cấp, do vậy trong xu thế đẩy mạnh tiến trình đổi mới và hội nhập thay vì tập trung kiến nghị những giải pháp hỗ trợ nâng cao sức cạnh tranh, họ vẫn còn đưa ra những kiến nghị nặng về bảo hộ, củng cố và tăng cường vị thế độc quyền của các doanh nghiệp hội viên (trong một số trường hợp chỉ là một số ít hội viên lớn), làm phương hại đến lợi ích của khối doanh nghiệp nhỏ và vừa và cả nền kinh tế.
Hội viên các hiệp hội chủ yếu vẫn là các doanh nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp tư nhân chiếm tỉ trọng nhỏ, và có rất ít doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tham gia hiệp hội.
Toàn ngành Da – Giầy Việt Nam có 373 doanh nghiệp trong đó chỉ có 115 doanh nghiệp là hội viên hiệp hội ( số liệu năm 2007)
(Bản danh sách các doanh nghiệp hội viên đính kèm bản thảo).
Bị động, lúng túng, không đưa ra được những dịch vụ mang lại lợi ích thiết thực cho hội viên trong lĩnh vực xúc tiến hỗ trợ kinh doanh.
Cơ sở thông tin của họ quá nghèo nàn chưa tiếp cận được các công nghệ thông tin hiện đại; chất lượng các hoạt động đào tạo, tư vấn thấp, thiếu các hoạt động hỗ trợ xúc tiến đa dạng và hiệu quả. Hoạt động của một vài Hiệp hội còn mang nặng tính chất mặt trận - bảo trợ xã hội, chưa thực sự phát huy được vai trò của một tổ chức xã hội - nghề nghiệp của giới doanh nghiệp.
Yếu kém về mặt tài chính và nhân sự tạo nên vòng luẩn quản, bế tắc của hiệp hội.
Do những mặt yếu kém và khó khăn về tài chính và nhân sự nêu trên tạo nên một vòng luẩn quẩn của không ít các hiệp hội: ảnh hưởng xã hội, uy tín và chất lượng hoạt động không cao, không những không hấp dẫn được thêm hội viên mới, mà còn làm cho hội viên cũ chán nản không tham gia vào hoạt động của hiệp hội, không đóng hội phí, từ đó hoạt động của hiệp hội co hẹp, nguồn thu giảm sút, hiệp hội không đủ khả năng giải quyết dứt điểm những khó khăn của mình. Một số hiệp hội thừa nhận họ đang trong tình trạng bế tắc, lúng túng, chưa có lối ra.
Nguyên nhân của những tồn tại.
Do hoạt động tìm kiếm thông tin của nước ta còn yếu. Hệ thống máy móc thiết bị nghèo nàn lạc hậu.
Hoạt động tìm kiếm thông tin là khâu quan trọng và đầu tiên của mọi tổ chức. Thiết lập được hệ thống thông tin chặt chẽ và cập nhật sẽ tạo nên lợi thế cho tổ chức đó, ngược lại tổ chức sẽ hoạt động kém hiệu quả, thậm chí phương hướng không rõ ràng. Đặc biệt tổ chức là các Hiệp hội, có vai trò định hướng và hỗ trợ thông tin cho các doanh nghiệp.
Tuy nhiên, theo thực tế khảo sát thì tình hình tài chính cũng như cơ sở vật chất kỹ thuật của Hiệp hội Da – Giầy nước ta còn rất khiêm tốn, chưa đáp ứng được yêu cầu thông tin cần thiết. Nhiều ví dụ thực tế cho thấy Hiệp hội và các doanh nghiệp Da – Giầy đã gặp nhiều rắc rối do không chú trọng công tác thông tin. Gần đây là vụ kiện bán phá giá AD 499. Theo bà Tòng, phó chủ tịch Hiệp hội Da – Giầy VN, các doanh nghiệp giày da hiện chưa quan tâm nhiều đến việc khai báo thủ tục hải quan, khi cứ kê khai theo kiểu đối tác bảo ghi thông số bao nhiêu thì ghi bấy nhiêu. Do đó, khi xảy ra khởi kiện, việc tính toán chi phí đầu vào cộng với chi phí sản xuất bị “đội” lên cao rất nhiều so với tổng giá trị đầu ra (kim ngạch xuất khẩu) của hàng hóa. Đó là lí do để phía khởi kiện quy kết doanh nghiệp bán phá giá.
Vì vậy, doanh nghiệp cần thực hiện công tác kê khai phù hợp, như vậy sẽ giúp cho việc tập hợp thông tin của ngành được dễ dàng hơn, chứng minh được tình hình sản xuất của ngay đơn vị mình.
Bà Tòng, phó Chủ tịch Hiệp hội da – giầy Việt Nam, cho biết: Thời gian qua, phía Việt Nam vì không có số liệu thống kê nên đã phải sử dụng số liệu của bên khởi kiện EU, vì vậy ngành da giày Việt Nam không có thông số để chứng minh cho sự trong sạch cho mình. Từ đó, ta có thể thấy thực trạng tình hình thu thập thông tin của các doanh nghiệp Da – Giầy nước ta còn rất hạn chế và yếu kém gây nhiều thiệt thòi cho các doanh nghiệp. Để có thể phát triển tốt hơn trong thời gian tới, Hiệp hội và các doanh nghiệp cần chú trọng hơn tới các biện pháp hoàn thiện hệ thống thu thập và xử lý thông tin.
2.3.3.2. Các hiệp hội mới thành lập nên chưa có nhiều kinh nghiệm.
Hầu hết các hiệp hội vừa mới được thành lập, đất nước đang trong quá trình phát triển hoàn thiện cơ chế thị trường, phát triển xuất khẩu là nhiệm vụ quan trọng của các doanh nghiệp, nhưng thị trường thế giới là sân chơi mới mẻ, các doanh nghiệp còn nhiều ngỡ ngàng. Thực tế đó đòi hỏi bộ máy hiệp hội phải mạnh, cán bộ hiệp hội phải giỏi mới có thể hỗ trợ doanh nghiệp thúc đẩy xuất khẩu và thành công trong hội nhập kinh tế quốc tế.
Qua việc nghiên cứu đánh giá thực trạng năng lực bộ máy của Hiệp hội Da – Giầy của nước ta, có thể kết luận rằng năng lực đó nhìn chung còn rất hạn chế.
Nguồn tài chính của Hiệp hội còn eo hẹp.
Nguồn tài chính của các Hiệp hội chủ yếu từ hội phí của các thành viên và phí dịch vụ mà hiệp hội thực hiện. Đối với hiệp hội Da –Giầy, hiệp hội có cơ quan Chủ quản nên chi phí được hỗ trợ phần nào. Tuy nhiên nguồn phí vẫn rất eo hẹp, nguyên nhân vì Nguồn tài chính thu chủ yếu là hội phí của các doanh nghiệp hội viên, nhưng trong thực tế hiện nay, các doanh nghiệp cũng gặp rất nhiều khó khăn nên thậm chí có nhiều doanh nghiệp cũng không đóng hội phí vấn đề này có 2 lý do; một là, hội phí cao quá sức đóng góp của doanh nghiệp và hai là, sau khi vào Hiệp hội, doanh nghiệp thất vọng vì chưa tìm thấy lợi ích thiết thực mà mình mong muốn. Nguồn thu từ dịch vụ thì hiệp hội chưa đủ điều kiện năng lực để triển khai hoạt động.
Công tác thông tin cũng có thể đem lại cho hiệp hội nguồn thu, nếu hiệp hội bán thông tin cho các tổ chức khác. Tuy nhiên nguồn thông tin hiệp hội có chưa đủ mạnh để kinh doanh nên đây cũng chưa thể coi là nguồn thu của hiệp hội.
Như vậy, trong giai đoạn đầu, đang trong quá trình phỏt triển, hiệp hội rất cần sự hỗ trợ từ phía Chính phủ và các cơ quan Nhà nước, từ cơ sở vật chất đến tài chính.
Hiệp hội thiếu đội ngũ chuyên gia giỏi.
Đặc biệt là đội ngũ lãnh đạo hiệp hội. Chúng ta thường có xu hướng chọn quan chức về hưu làm lãnh đạo, chứ không ưu tiên các cán bộ đã trưởng thành từ trong ngành Da – Giầy. Vì thế nên năng lực chuyên môn cũng như kinh nghiệm ngành nghề của Ban lãnh đạo thấp, khó có thể đưa Hiệp hội đi đúng hướng và đề ra được phương hướng phát triển hiệu quả cho Hiệp hội, ngành.
Tiếp đến là các thành viên Hiệp hội, hoạt động không được hiệu quả. Các chuyên gia của Hiệp hội, do nguyên nhân han chế về kinh phí của Hiệp hội nên không đầu tư đào tạo các chuyên gia cũng như không đủ sức hấp dẫn các chuyên gia giỏi. Vì thế nên chức năng hỗ trợ về tri thức cũng như thông tin hay bảo trợ các doanh nghiệp không được đảm bảo.
Trong hiệp hội, chưa tạo được mối liên kết giữa các thành viên, sự trao đổi, học hỏi và hỗ trợ lẫn nhau giữa các thành viên trong hiệp hội chưa được nhuần nhuyễn. Điều đó ảnh hưởng rất lớn đến việc xử lý công việc một cách nhanh chóng, đồng thời làm nghẽn lượng thông tin và khai thác không triệt để lượng tri thức do chính hiệp hội tạo ra.
Như vậy đội ngũ chuyên gia giỏi có vai trò quan trọng trong hoạt động của hiệp hội. Yếu kém về mảng này gấy lên những thiệt hại lớn cho hiệp hội, cần cố gắng tìm biện pháp khắc phục.
CHƯƠNG III: CÁC GIẢI PHÁP NHẰM THÚC ĐẨY HOẠT ĐỘNG XÚC TIẾN XUẤT KHẨU CỦA HIỆP HỘI DA – GIẦY XUẤT KHẨU VIỆT NAM
Xu thế hoạt động xúc tiến xuất khẩu của hiệp hội ngành hàng xuất khẩu của nước ta trong thời gian tới.
Xúc tiến xuất khẩu ngày càng trở nên quan trọng trong chiến lược thúc đẩy xuất khẩu, phát triển nền kinh tế. Hiện nay nhà nước đã dành một khoản ngân sách tính trên kim ngạch xuất khẩu để hỗ trợ hoạt động xúc tiến thương mại, đẩy mạnh xuất khẩu theo các chương trình trọng điểm quốc gia, nhằm mục tiêu cơ bản sau:
Tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận với thị trường xuất khẩu.
Nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu.
Nâng cao hiểu biết và kĩ năng tiếp thị xuất khẩu.
Đa dạng hóa mặt hàng, cải thiện caow cấu hàng hóa và thâm nhập mở rộng thị trương xuất khẩu.
Xây dựng thương hiệu cho hàng hóa Việt Nam.
Hiện nay, Hiệp hội ngành hàng đã trở thành nhân tố chính trong các hoạt động xúc tiến Xuất khẩu, nhiều Hiệp hội đứng ra chủ trì các chương trình xúc tiến thương mại quốc gia quan trọng. Điển hình như chưng trình xúc tiến thương mại của Hiệp hội Da – Giầy Việt Nam với việc tham dự hội chợ World Shoe Show tại Lasvegas – Hoa Kỳ, khảo sát thị trường Úc, New Zealand và tham dự trưng bày tại hội chợ Garda – Italy kết hợp khảo sát thị trường da giày Italy. Ngoài ra, Hiệp hội còn tham dự hội chợ kết hợp khảo sát thị trường giày dép Canada. Hiệp hội Gỗ - Lâm sản Việt Nam với việc mở rộng thị trường sang Nhật Bản, Trung Quốc, và Mỹ. Các Hiệp hội lớn như: Hiệp hội dệt may, Hiệp hội các doanh nghiệp phần mềm, cũng tham gia các hội chợ triển lãm và khảo sát quan trọng tại các thị trường trọng điểm.
Như vậy, chúng ta nhạn thấy rằng Nhà nước đã nhận ra vai trò của Hiệp hội ngành hàng trong hoạt động xúc tiến xuất khẩu, và đang ra sức nâng cao vai trò đó. Đây cũng là cơ hội cho các Hiệp hội ngành hàng Việt Nam đẩy mạnh hoạt động của mình.
Quan điểm và mục tiêu.
Nghị quyết Trung ương 4 (khoá VII) của Đảng đã đưa ra tư tưởng chỉ đạo là: "Phát triển các hình thức hợp tác giữa các doanh nghiệp Nhà nước với các Hợp tác xã, xây dựng các hiệp hội ngành nghề theo cơ chế dân chủ, tự quản". Hiệp hội ngành hàng là tổ chức hợp tác, liên kết "mềm" theo chiều ngang để phối hợp hoạt động bảo vệ lợi ích chung và giúp nhau nâng cao sức cạnh tranh; và đó là nhân tố thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội.
Theo tư tưởng chỉ đạo trên đây, Nghị định 88 của Chính phủ ban hành ngày 30 tháng 7 năm 2003 xác định Hiệp hội là một tổ chức tự nguyện của công dân, hoặc các tổ chức hoạt động cùng ngành nghề, cùng sở thích, cùng giới, có chung mục đích là tập hợp, đoàn kết hội viên, hoạt động thường xuyên, không vụ lợi nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của hội viên; hỗ trợ nhau hoạt động có hiệu quả, góp phần vào việc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, được tổ chức và hoạt động theo các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan.
Quán triệt quan điểm về hội nhập kinh tế quốc tế và phát triển xuất khẩu, đồng thời căn cứ vào tưởng chỉ đạo trên đây của Đảng và Nghị định 88 của chỉnh phủ, chúng ta có thể hình thành quan điểm về phát triển Hiệp hội ngành hàng nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế như sau:
- Hiệp hội ngành hàng là một tổ chức tập hợp doanh nghiệp theo nguyên tắc dân chủ và tự quản. Hiệp hội là tổ chức dân sự, phi chính phủ do cộng đồng các doanh nghiệp tự nguyện lập ra cho nên nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hiệp hội là dân chủ và là loại hình dân chủ trực tiếp, do các doanh nghiệp hội viên thảo luận bàn bạc và quyết định từ tổ chức đến chương trình kế hoạch hoạt động. Hiệp hội phải hoạt động theo nguyên tắc tự quản, tự chủ không có cấp trên chỉ đạo, không có cơ quan chủ quản đỡ đầu, bao cấp. Hoạt động của hiệp hội phải tuân thủ pháp luật và thực hiện theo điều lệ và quy chế của hiệp hội. Hiệp hội phải tự quản từ nhiệm vụ chuyên môn đến nhân sự, tài chính và các mặt hoạt động khác.
- Hiệp hội ngành hàng là tổ chức hoạt động vì doanh nghiệp, gắn bó với lợi ích của doanh nghiệp. Nếu không vì lợi ích doanh nghiệp thì không có lý do để tồn tại hiệp hội. Hiệp hội do các doanh nghiệp lập ra để đại diện cho họ, hoạt động vì lợi ích của họ. Bản thân hiệp hội không kinh doanh, không vì mục tiêu lợi nhuận nhưng hoạt động của hiệp hội là hỗ trợ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, trợ giúp doanh nghiệp phát triển kinh doanh, nâng cao hiệu quả, tăng trưởng doanh thu và doanh lợi. Doanh nghiệp và hiệp hội đều cần có nhau, gắn bó lợi ích với nhau hợp tác chặt chẽ với nhau để phát triển ngành hàng, nâng cao sức cạnh tranh của ngành hàng góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế đất nước.
- Hiệp hội là tổ chức dân sự có địa vị pháp lý, tích cực phối hợp, tư vấn, hỗ trợ cho nhà nước trong soạn thảo, ban hành và thực thi chính sách và cơ chế quản lý kinh tế nói chung và quản lý Nhà nước đối với ngành hàng nói riêng. Các cơ quan Nhà nước không trực tiếp chỉ đạo hoạt động của hiệp hội mà tôn trọng vai trò tự quản của hiệp hội cũng như tôn trọng vai trò tự chủ hoạt động của các doanh nghiệp. Hiệp hội muốn mang lại lợi ích cho doanh nghiệp thì phải phối hợp và hỗ trợ hoạt động quản lý kinh tế của Nhà nước. Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan Chính phủ, cơ quan chính quyền các cấp, tư vấn cho các cơ quan quản lý Nhà nước trong soạn thảo và ban hành cơ chế chính, luật pháp về kinh tế. Chủ động theo dõi, hướng dẫn các doanh nghiệp, tích cực vận động các doanh nghiệp thực thi luật pháp, chính sách do Nhà nước ban hành. Hiệp hội còn có vai trò quan trọng trong đóng góp ý kiến xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành hàng. Như vậy, hiệp hội là một tổ chức đại diện cho cộng đồng doanh nghiệp, tiếng nói của hiệp hội hết sức cần thiết và bổ ích cho các cơ quan quản lý Nhà nước, trợ thủ đắc lực cho quản lý Nhà nước trong vai trò là cầu nối giữa Chính phủ với doanh nghiệp.
- Hiệp hội ngành hàng có vai trò cực kỳ quan trọng trong hội nhập kinh tế quốc tế của các doanh nghiệp. Xuất khẩu hàng hoá của doanh nghiệp trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế là bước vào một thị trường cạnh tranh gay gắt. Doanh nghiệp Việt Nam với quy mô nhỏ yếu, chưa hiểu biết luật lệ quốc tế, thiếu kinh nghiệm thương trường thì yếu tố hiệp hội trở nên cực kỳ quan trọng. Hiệp hội vừa là đại diện cho doanh nghiệp, vừa hỗ trợ doanh nghiệp hoạt động trên thị trường thế giới, từ Marketing, tiếp cận thị trường, nắm bắt luật lệ đến xử lý tranh chấp. Có thể nói, trên thương trường quốc tế thì hiệp hội vừa là người bạn, người thầy, vừa là trợ thủ đắc lực cho doanh nghiệp thâm nhập thị trường, phát triển kinh doanh, xử lý khi có tranh chấp, bảo vệ khi bị xâm phạm lợi ích.
Tóm lại, Hiệp hội ngành hàng là một tổ chức rất hữu ích cho doanh nghiệp, rất cần cho các cơ quan quản lý Nhà nước và là một đối tác quan trọng trên thương trường quốc tế. Phát triển kinh tế thị trường mở cửa, hội nhập theo định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phát triển doanh nghiệp thuộc các thành phần và cũng tất yếu khách quan đòi hỏi phải xây dựng một hệ thống các Hiệp hội ngành hàng hoạt động mạnh, đủ năng lực thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình.
Như vậy, Đảng và Nhà nước ta đánh giá cao vai trò của các hiệp hội trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, đã có quan điểm đúng đắn trong việc đề ra một số biện pháp nhằm hỗ trợ để các hiệp hội phát triển.
Phát triển xuất khẩu đang là một trong hai động lực tăng trưởng kinh tế. Để các doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu cần nhận thức đúng đắn vai trò hiệp hội trong điều kiện mới, tích cực xây dựng và phát triển các Hiệp hội ngành hàng. Nâng cao năng lực hoạt động của Hiệp hội ngành hàng nhằm đáp ứng những yêu cầu đòi hỏi phát triển xuất khẩu trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, cần phải có những giải pháp thích hợp kể cả từ phía các cơ quan quản lý nhà nước lẫn các Hiệp hội ngành hàng.
Một số giải pháp phát triển hiệp hôi.
Các giải pháp đối với hiệp hội
Nâng cao năng lực bộ máy lãnh đạo hiệp hội.
Một trong những nguyên nhân làm hạn chế năng lực xỳc tiến xuất khẩu của các Hiệp hội ngành hàng ở nước ta hiện nay là năng lực của ban lãnh đạo hiệp hội còn yếu, vì vậy để phát huy vai trò của các hiệp hội nhằm thực hiện tốt các chức năng của mình, trước hết cần phải hoàn thiện bộ máy tổ chức của các Hiệp hội ngành hàng trên cơ sở xác định rõ chức năng, nhiệm vụ. Hình thành cơ chế hoạt động và quản lý của Hiệp hội bảo đảm dân chủ, bình đẳng với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần, mang lại lợi ích thiết thực cho các doanh nghiệp thành viên.
Việc hoàn chỉnh mô hình tổ chức và phương thức hoạt động của bộ máy lãnh đạo Hiệp hội cần thực hiện theo hướng hình thành các tổ chức chuyên trách của Hiệp hội, nghiên cứu giúp đỡ các doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu, tăng cường hội nhập quốc tế, nâng cao sức cạnh tranh của da giầy xuất khẩu Việt Nam. Năng lực hoạt động còn phụ thuộc vào đội ngũ cán bộ của hiệp hội. Hiệp hội phải chủ động trong công tác cán bộ. Tập thể lựa chọn những cán bộ am hiểu công việc, có uy tín, có nhiệt tình với công tác hội. Chủ tịch Hiệp hội phải là người trưởng thành từ đội ngũ quản lý kinh doanh trong ngành da giầy được tập thể tín nhiệm bầu ra, tránh tình trạng là một quan chức kiêm nhiệm hoặc ở cơ quan chính quyền chuyển sang công tác hiệp hội. Cần khắc phục xu hướng chọn quan chức về hưu làm Chủ tịch Hiệp hội.
Lãnh đạo của Hiệp hội ngành hàng cần có những liên kết với các hiệp hội thuộc các lĩnh vực khác nhưng có liên quan đến ngành hàng xuất khẩu da giầy để tạo ra sự phối hợp giữa các ngành trong việc nâng cao hiệu quả xuất khẩu. Nên thành lập câu lạc bộ hiệp hội các tổ chức kinh tế để tạo môi trường hoạt động giao lưu giữa các hiệp hội.
Để tăng cường hiệu quả của công tác xúc tiến thương mại, Hiệp hội nên có bộ phận chuyên trách với các cán bộ có năng lực đảm nhận công tác này. Cải tiến công tác tổ chức bộ máy, sắp xếp, tổ chức lại các bộ phận của lãnh đạo hiệp hội, loại bỏ tính hình thức, bảo đảm tính "Chuyên nghiệp hoá" của cán bộ. Các thành viên hiệp hội cần đề cử vào bộ phận văn phòng hiệp hội những cán bộ có trình độ chuyên môn cao, ngoại ngữ tốt, năng động để hoàn thành nhiệm vụ của hiệp hội.
Tổ chức thường kỳ các cuộc gặp doanh nghiệp để đối thoại trực tiếp, công khai, giải quyết kịp thời các vướng mắc, khiếu nại của doanh nghiệp. Tăng cường làm việc với các hiệp hội và cùng hiệp hội tổ chức những cuộc đối thoại thẳng thắn về những vấn đề liên quan đến sản xuất, kinh doanh, chấn chỉnh công tác thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp theo đúng các quy định hiện hành của pháp luật, bảo đảm sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước và không cản trở hoạt động bình thường của doanh nghiệp.
Công tác hiệp hội còn mới mẻ, hoạt động của hiệp hội các tổ chức kinh tế có nhiều điểm chung nên việc tổ chức thường xuyên các cuộc trao đổi về nghiệp vụ, thông tin sẽ rất bổ ích. Nờn tổ chức tập huấn cho cán bộ hoạt động chuyên trách của hiệp hội, có thể mời các chuyên gia trong nước và nước ngoài thuyết trình về nội dung phương thức, kinh nghiệm hoạt động của hiệp hội. Tăng cường trao đổi kinh nghiệm công tác với các hiệp hội quốc tế và hiệp hội các nước khác.
Tóm lại, muốn Hiệp hội phát triển thực hiện tốt vai trò xỳc tiến xuất khẩu, trước hết cần phải nâng cao năng lực của Ban lãnh đạo các hiệp hội. Để thực hiện được điều này cần phải chọn những người có năng lực tham gia vào ban lãnh đạo của hiệp hội. Bộ máy lãnh đạo phải được tổ chức hợp lý theo hướng tăng cường các bộ phận chuyên trách.
Nâng cao năng lực hỗ trợ cho các doanh nghiệp.
Một trong những chức năng quan trọng nhất của Hiệp hội là hỗ trợ cho doanh nghiệp thành viên. Vì vậy, hiệp hội cần xây dựng chương trình hoạt động cụ thể để nâng cao năng lực hỗ trợ cho doanh nghiệp. Nội dung của chương trình cần tập trung vào kỹ năng tập hợp, phân tích thông tin, kỹ năng đánh giá nhu cầu và phát triển các hình thức dịch vụ nhằm tạo sự cân đối về nguồn thu, nâng cao khả năng phát triển bền vững của hiệp hội... Tiến hành đánh giá, nghiên cứu những hình thức liên kết, hợp tác của các doanh nghiệp để một mặt hạn chế những hình thức liên kết tạo độc quyền và cạnh tranh không bình đẳng giữa các doanh nghiệp; mặt khác cũng tổng kết những mô hình liên kết tốt để hỗ trợ và phát triển các hình thức liên kết này.
Không ngừng phát triển hội viên, chú trọng việc tập hợp các hội viên là doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các văn phòng đại diện của doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam. Thông qua các hoạt động của mình, hiệp hội cần thiết lập mối hệ với các doanh nghiệp trong ngành thuộc các khu vực kinh tế khác nhau trong nền kinh tế, để qua đó kết nạp thêm các doanh nghiệp có nguyện vọng gia nhập hiệp hội và được pháp luật cho phép, đồng thời tạo ra một khung khổ hợp tác có hiệu quả với cộng đồng doanh nghiệp trong cả nước.
Các doanh nghiệp Việt Nam phần lớn là quy mô nhỏ và vừa. Vì vậy, cần tăng cường thực hiện các biện pháp xúc tiến hỗ trợ kinh doanh và đầu tư cho doanh nghiệp. Các biện pháp này có thể được thực hiện bởi cơ quan nhà nước, nhưng kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới đã chứng minh rằng, chúng sẽ được thực hiện có hiệu quả hơn nếu thông qua các tổ chức của giới doanh nghiệp, các Hiệp hội doanh nghiệp là thể chế thích hợp, để cung ứng các dịch vụ xúc tiến hỗ trợ này.
- Về công tác thông tin
Cung cấp thông tin, tư vấn cho doanh nghiệp là một trong những hoạt động quan trọng của Hiệp hội ngành hàng. Do có mối quan hệ mật thiết với các cơ quan của Chính phủ và cộng đồng doanh nghiệp trong và ngoài nước, Hiệp hội cần chủ động thu thập và cung cấp cho doanh nghiệp các thông tin về luật pháp, chính sách, về thị trường, về các đối tác...
Trên cơ sở hình thành các bộ phận chuyên trách trong ban lãnh đạo của hiệp hội, bộ phận phụ trách công tác thông tin nên chú trọng việc thu thập thông tin nước ngoài và trong nước.
Một nguồn tin ngoài nước đáng chú ý mà Hiệp hội có thể khai thác được là các Tài liệu của Tổ chức ngành hàng quốc tế. Đó là các báo cáo có liên quan đến tình hình sản xuất, tiêu dùng, xuất nhập khẩu của các nước thành viên (theo tháng, quý hay theo niên vụ), các biến động về chất lượng và giá cả các mặt hàng ở một số thị trường chủ yếu.
Cùng với việc nâng cao năng lực thu thập và xử lý thông tin, cần đẩy mạnh hoạt động phổ biến thông tin dưới nhiều hình thức khác nhau. Phổ biến thông tin nhanh nhạy, kịp thời với nhiều hình thức phong phú, với nội dung thiết thực, bổ ích cho doanh nghiệp.
- Về đào tạo
Tổ chức đào tạo cán bộ cho doanh nghiệp, góp phần xây dựng đội ngũ doanh nhân Việt Nam. Đào tạo, phát triển nguồn nhân lực và đội ngũ doanh nhân Việt Nam là một nhân tố quyết định đối với sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam. Trong chương trình công tác hằng năm, Hiệp hội cần dành một nguồn lực đáng kể cho việc tổ chức các chương trình đào tạo, bồi dưỡng. Ngoài ra, cần tổ chức một số chương trình đào tạo cho đội ngũ công nhân kỹ thuật, đội ngũ lao động lành nghề phục vụ cho yêu cầu phát triển của ngành hàng.
Để kết quả đào tạo đạt hiệu quả chất lượng cao Hiệp hội phải có hình thức tổ chức và nội dung phù hợp. Về hình thức nên tổ chức các khoá học ngắn hạn để thuận tiện cho việc tham gia của học viên. Ngoài hình thức đào tạo tập trung có thể kết hợp các phương thức đào tạo khác như đào tạo từ xa. Nội dung đào tạo phải thiết thực. Tuyệt đối tránh theo kiểu phong trào, cung cấp cho người học những kiến thức chung chung không phù hợp với trình độ nhận thức của học viên và không phụ vụ trực tiếp cho công việc hàng ngày của họ. Tiến hành kiểm tra đánh giá một cách nghiêm túc sau khi kết thúc. Đẩy mạnh hoạt động đào tạo không chỉ có nghĩa hiệp hội phải tự mình tổ chức đào tạo, mà cần tận dụng mọi cơ hội, phối hợp với nhiều cơ sở đào tạo, thu hút mọi nguồn lực trong và ngoài nước để hỗ trợ các doanh nghiệp tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công nhân của mình.
- Về công tác xây dựng quỹ
Như phần trên đã trình bày, hầu hết các Hiệp hội ngành hàng của ta hiện nay quy mô quỹ rất hạn chế. Hiệp hội Da – giầy cũng khụng phải ngoại lệ. Để thỳc đẩy hoạt động xỳc tiến xuất khẩu từ Hiệp hội cần tăng cường nguồn thu cho Hiệp hội.
Một trong những biện pháp là tăng cường các hoạt động dịch vụ như cung cấp thông tin, tư vấn, đào tạo... Khi các dịch vụ này phát triển một mặt có thể cung cấp cho hội viên với giá ưu tiên hoặc miễn phí nhưng thay vào đó là mức hội phí có thể cao hơn theo quyết định của hội nghị ban lãnh đạo hoặc toàn thể hội viên. Mặt khác có thể cung cấp thông tin cho các cơ quan khác với mức giá thị trường. Ngoài ra, các Hiệp hội có thể tham gia vào các chương trình, dự án của Chính phủ hoặc của các tổ chức quốc tế để tạo nguồn thu cho mình.
Cần xây dựng quy chế cụ thể quản lý thu chi tài chính của hiệp hội. Chấn chỉnh nguồn thu từ hội phí, mở rộng nguồn thu từ các hoạt động dịch vụ, tăng cường vận động sự hỗ trợ của Chính phủ và các tổ chức quốc tế. Bên cạnh đó, quản lý chi tiêu chặt chẽ, đúng mục tiêu, có hiệu quả. Đây là những biện pháp tốt nhất để tăng cường năng lực tài chính của hiệp hội.
- Xúc tiến thương mại
Tổ chức chắp môi giới thiệu bạn hàng và các hoạt động xúc tiến khác. Chắp mối giới thiệu bạn hàng là một hoạt động tương đối đặc trưng cho thế mạnh của Hiệp hội ngành hàng. Do có mối quan hệ rộng khắp với các hội viên của mình với các hiệp hội khác, Hiệp hội ngành hàng phải làm nhiệm vụ cầu nối, chắp mối cho các quan hệ làm ăn kinh doanh của các doanh nghiệp.
Hoạt động chắp mối có thể thực hiện thông qua tiếp xúc trực tiếp, qua điện thoại, qua hộp thư điện tử, qua thư giới thiệu...
Tổ chức cho doanh nghiệp ra nước ngoài để tham gia hội nghị, hội chợ triển lãm, khảo sát thị trường tìm cơ hội làm ăn kinh doanh. Hỗ trợ các doanh nghiệp xác minh và kiểm tra đối tác của mình trước khi ký hợp đồng buôn bán, đầu tư, chuyển giao công nghệ... Hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc phòng tránh và giải quyết có hiệu quả các tranh chấp phát sinh trong kinh doanh; tư vấn và hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc thực hiện bảo hộ sở hữu thương hiệu, kiểu dáng công nghiệp và sáng chế của mình. cung cấp các thông tin cần thiết về thị trường, mặt hàng và pháp luật cần thiết trong thương mại quốc tế tạo thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp,...
Phát triển các dịch vụ xúc tiến, hỗ trợ doanh nghiệp thâm nhập thị trường theo nguyên tắc có sự phối hợp với các hiệp hội và các tổ chức xúc tiến khác. Tích cực thúc đẩy sự hình thành của thị trường các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh ở Việt Nam. Tập trung nguồn lực của hiệp hội vào các hoạt động có lợi thế cao, những hoạt động xúc tiến ở tầm quốc gia; tổ chức các hội nghị, hội thảo, hội chợ triển lãm, lễ hội; xây dựng mạng lưới tiếp thị tập thể, các chiến dịch xây dựng hình ảnh quốc gia, chiến lược phát triển và bảo vệ thương hiệu Việt Nam, các dự án hỗ trợ tái cơ cấu và chuyển giao công nghệ lớn.
Để hoạt động xúc tiến thương mại của hiệp hội thực sự đóng vai trò hỗ trợ hiệu quả đối với hoạt động xuất nhập khẩu, thì những hạn chế bất cập hiện nay trong hoạt động xúc tiến thương mại cần phải được tháo gỡ kịp thời. Đẩy mạnh hoạt động xây dựng và quảng bá thương hiệu hàng hoá; Chú ý phát triển hệ thống thương mại điện tử nhằm đảm bảo kết nối các kênh xúc tiến thương mại một cách đầy đủ cập nhật và hiệu quả cao; Đầu tư đào tạo và phát triển đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn cao nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xúc tiến thương mại trong tình hình mới. Tích cực đóng góp ý kiến nhằm hoàn thiện một hệ thống các văn bản, quy định tạo một hành lang pháp lý thuận lợi, bình đẳng trong hoạt động xúc tiến thương mại...
- Các lĩnh vực khác
Nâng cao vai trò của hiệp hội trong lĩnh vực quan hệ lao động và bảo vệ môi trường. Thực hiện trợ giúp về đào tạo, thông tin, tư vấn cho người sử dụng lao động nhằm xây dựng mối quan hệ lao động đúng pháp luật và thuận hoà tại doanh nghiệp. Mở rộng các dự án, chương trình về phát triển bền vững, nâng cao kiến thức và trách nhiệm của doanh nghiệp trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Hướng dẫn các doanh nghiệp áp dụng các quy định, các tiêu chuẩn của pháp luật Việt Nam và quốc tế về trách nhiệm xã hội đối với bảo vệ môi trường để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Phối hợp với các hiệp hội khác triển khai chương trình xây dựng văn hoá kinh doanh và văn hoá doanh nghiệp Việt Nam. Xây dựng đạo đức và tập quán kinh doanh mang đậm bản sắc dân tộc và thích ứng với điều kiện hội nhập, phát huy khả năng sáng tạo, và hợp tác của các doanh nhân.
Quan hệ với cỏc cơ quan nhà nước.
Tạo lập kênh thông tin và đối thoại trực tiếp với các cơ quan chính quyền; tham gia tích cực vào quá trình xây dựng luật pháp, chính sách kinh tế, tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi cho doanh nghiệp. Tổ chức các cuộc gặp gỡ đối thoại giữa lãnh đạo các cơ quan chính quyền với doanh nghiệp để trao đổi cụ thể về những vấn đề đang đặt ra trong từng ngành, lĩnh vực, địa phương như thuế, hải quan, xuất nhập khẩu, ngân hàng, thanh tra, kiểm tra... góp phần tăng cường sự hiểu biết giữa chính quyền và doanh nghiệp, tạo lập sự đồng thuận vì mục tiêu phát triển kinh tế đất nước.
Trực tiếp cử cán bộ của mình tham gia các nhóm nghiên cứu, tổ chức cho các doanh nghiệp tham gia góp ý vào các dự thảo nghị quyết của Đảng, văn bản pháp luật, chính sách của Quốc hội, Chính phủ. Hiệp hội ngành hàng phải tham gia đóng góp vào quá trình xây dựng luật pháp, chính sách góp phần bảo đảm cho các văn bản đó sát, đúng với thực tiễn và có tính khả thi. Đề xuất với Nhà nước xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách đối với các Hiệp hội ngành hàng cũng như đối với các doanh nghiệp. Từ đó, xây dựng và triển khai chương trình trợ giúp nâng cao năng lực hoạt động của Hiệp hội.
Trong bối cảnh nước ta đó gia nhập mở cửa thị trường, hơn ai hết, Hiệp hội da – giầy Việt Nam phải tham vấn cho chính phủ những vấn đề liên quan đến ngành mình. Đảm bảo điều kiện để các doanh nghiệp hội viên có thể tồn tại và phát triển. Tuy nhiên, bên cạnh tham vấn cho chính phủ những nội dung cam kết thích hợp, Hiệp hội ngành hàng phải tìm biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành, của doanh nghiệp để đảm bảo thành công trong quá trình hội nhập.
Quan hệ đối ngoại.
Hiệp hội phải đấu tranh cho quyền lợi chính đáng của các doanh nghiệp, chống áp đặt các điều kiện tiêu chuẩn quá cao của các nước. Chủ động tham gia và có tiếng nói mạnh mẽ trong các hoạt động của các tổ chức quốc tế. Tham gia có hiệu quả vào các tổ chức kinh tế thế giới và khu vực, bảo vệ quyền lợi của giới doanh nghiệp và nền kinh tế Việt Nam Để có thể bảo vệ được quyền lợi chính đáng cho doanh nghiệp nước ta trên thương trường quốc tế, đòi hỏi các hiệp hội phải có tầm hiểu biết về kiến thức pháp luật và thông lệ quốc tế về thương mại. Vì vậy đòi hỏi các cán bộ của Hiệp hội phải không ngừng học hỏi nâng cao nhận thức,trình độ về thương mại quốc tế.
Tích cực liên hệ với các Hiệp hội ngành hàng của các nước nhất là các nước tương đồng để phối hợp hành động khi một nước khác có phân biệt đối xử hoặc áp dụng các biện pháp chống bán phá giá. Chẳng hạn, khi EU khieeus nại bỏn phỏ giỏ đối với giầy dộp Việt Nam xuất khẩu. Xây dựng mối quan hệ tốt với các Hiệp hội ngành hàng quốc tế để tranh thủ sự ủng hộ về mặt tài chính, đào tạo, thông tin... và khi có các vụ kiện xẩy ra.
Các giải pháp về quản lý nhà nước.
Xây dựng khung pháp lý cho việc tổ chức và quản lý hoạt động các hiệp hội làm cơ sở nâng cao năng lực tổ chức, quản lý của các Hiệp hội ngành hàng.
Về cơ chế quản lý các hiệp hội núi chung, Bộ Nội vụ xây dựng các quy định pháp luật về thành lập các Hội, Hiệp hội, ra quyết định thành lập các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội; các Bộ quản lý ngành quyết định thành lập các Hiệp hội nghề nghiệp; Bộ Cụng nghiệp quản lý các Hiệp hội ngành hàng xuất khẩu. Trong giai đoạn đầu các Bộ, ngành cần tích cực hỗ trợ việc thành lập và hoạt động của các hiệp hội, tạo điều kiện cho các Hiệp hội ngành hàng hoạt động có hiệu quả. Để Nhà nước phải can thiệp như hiện nay là không hiệu quả, có lúc lại phản tác dụng.
Nguyên tắc hoạt động của tất cả các hiệp hội phải là nguyên tắc mở, tránh đồng thời cả hai biểu hiện: “quốc doanh hoá” hoặc “Nhà nước hoá” hiệp hội. Việc phát triển các hội viên mới cần chú ý tới các DN dân doanh và xem xét cả việc kết nạp các DN có vốn đầu tư nước ngoài cùng ngành nghề sản xuất, kinh doanh vào hiệp hội. Để có cơ sở đánh giá năng lực hoạt động của hiệp hội, cần thiết xây dựng hệ thống tiêu chí đánh giá năng lực hoạt động của hiệp hội, giúp cơ quan quản lý thuộc Bộ Nội vụ và các Bộ, ngành có tiêu chí thống nhất đánh giá.
Trong điều kiện thực tế hiện nay của hiệp hội, có thể đề ra một số tiêu chí đánh giá tối thiểu như sau:
(1) Về năng lực tài chính:
a. Về thu: Tổng thu hàng năm, trong đó:
+ Thu từ đóng góp của hội viên
+ Thu từ hoạt động dịch vụ tư vấn
+ Thu từ nguồn hỗ trợ của ngân sách, của các tổ chức trong và ngoài nước.
b. Về chi: Tổng chi phí hàng năm, trong đó:
+ Chi hành chính văn phòng
+ Chi hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ thực hiện chức năng, nhiệm vụ của hiệp hội
(2) Về tổ chức bộ máy và cán bộ:
a. Về bộ máy:
+ Số lượng đơn vị chuyên môn
+ Kết quả hoạt động
b. Về cán bộ:
+ Số lượng cán bộ
+ Chất lượng cán bộ
(3) Về quy mô
- Số lượng hội viên
- Tỷ lệ số hội viên so với tổng các doanh nghiệp trong ngành hàng đang hoạt động.
(4) Chỉ tiêu đánh giá chung (điều tra, khảo sát ý kiến của doanh nghiệp hội viên và các cơ quan, tổ chức liên quan). Tuỳ theo từng thời kỳ đặt ra những câu hỏi điều tra theo 3 mặt chủ yếu:
- Kết quả hoạt động của hiệp hội từ tổng thể đến từng chức năng, nhiệm vụ.
- Về lợi ích mà hiệp hội mang lại cho doanh nghiệp hội viên trên từng lĩnh vực và đánh giá chung.
- Về sự đóng góp của cán bộ và bộ máy hiệp hội cho hoạt động chung cũng như các lĩnh vực chủ yếu trong ngành hàng.
Tạo điều kiện thuận lợi để Hiệp hội thực hiện cỏc hoạt động dịch vụ, tư vấn, đào tạo
Hiệp hội là tổ chức phi Chính phủ, không hoạt động kinh doanh, nên việc bảo đảm tài chính cho hoạt động của hiệp hội là nhiệm vụ quan trọng. Trong ba nguồn thu của hiệp hội thì nguồn thu từ hội phí là quan trọng nhất, chính đáng nhất. Tuy nhiên, trong điều kiện các doanh nghiệp còn khó khăn, hoạt động trong thời kỳ đầu của hiệp hội lại chưa có nhiều tác động tích cực đến doanh nghiệp thì chưa thể là nguồn thu chủ yếu để bảo đảm hoạt động cho hiệp hội. Hiện nay hiệp hội Da – Giầy cơ sở vật rất yếu kộm, phải đi thuờ cơ sở ngoài do khụng đủ tài chớnh để xõy mới.
Nguồn thu từ hỗ trợ của Chính phủ hay các tổ chức quốc tế thì không ổn định, không thể lâu dài được, mặc dù trong thời kỳ xây dựng ban đầu của hiệp hội thì sự hỗ trợ này là rất quan trọng. Trong hoàn cảnh hiện nay thì phương châm quan trọng là hiệp hội phải tự nuôi sống mình bằng lao động của mình. Bằng cách phát triển các hoạt động dịch vụ, tư vấn, đào tạo mà tạo nguồn thu cho hiệp hội.
Đối với các cơ quan Nhà nước (gồm cơ quan quản lý đến các viện nghiên cứu, trường đại học) thì hiệp hội có thể đăng ký hoặc nhận thầu các đề tài, dự án, các hoạt động điều tra, khảo sát ngành hàng. Đối với các doanh nghiệp thì thực hiện các dịch vụ tư vấn, đào tạo, cung cấp thông tin, tổ chức hội chợ, triển lãm, quảng cáo chào hàng, khảo sát thị trường nước ngoài. Đối với các tổ chức quốc tế và doanh nghiệp nước ngoài cũng có thể thực hiện nhiều dịch vụ nghiên cứu, thâm nhập thị trường Việt Nam hoặc khảo sát tiềm năng sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam. Đó là những hoạt động không vượt quá khả năng của hiệp hội, bổ ích cho hoạt động của chính hiệp hội, lại đáp ứng yêu cầu các đối tác, tạo nguồn thu cho hiệp hội.
Vấn đề là ở chỗ Nhà nước phải có cơ chế, chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho hiệp hội triển khai các hoạt động như vậy, khuyến khích các cơ quan chấp nhận sự tham gia của hiệp hội vào việc nghiên cứu các dự án, đề tài. Không coi hiệp hội như một doanh nghiệp, hay một tổ chức kinh tế có thu để đánh thuế các loại.
Trong tiến trình đổi mới, các cơ quan Nhà nước đang đẩy mạnh cải cách hành chính, chuyển dần các dịch vụ công mà trước đây cơ quan Nhà nước tự làm sang cho các tổ chức kinh tế, dân sự thực hiện. Trong đó có nhiều hoạt động dịch vụ công có thể chuyển cho các hiệp hội thực hiện. Nhiều chương trình, dự án hỗ trợ doanh nghiệp Chính phủ có thể giao cho hiệp hội tổ chức triển khai.
Một số giải phỏp khỏc.
- Cần phải hình thành một cơ quan của Nhà nước làm đầu mối giải quyết những vấn đề của hiệp hội.
Nước ta chuyển từ cơ chế quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường đã gần hai mươi năm nhưng về cơ bản bộ máy Nhà nước vẫn chưa có những thay đổi tương xứng. Doanh nghiệp, hiệp hội cần việc gì phải chạy hết bộ này đến bộ khác tốn không biết bao nhiêu tiền của, công sức của cơ sở. Hoạt động của hiệp hội tăng lên, nhiều vấn đề mới phát sinh, cả doanh nghiệp và hiệp hội đều chưa có kinh nghiệm, nhiều vướng mắc không giải quyết được, lại không biết trông cậy vào đâu. Đó là tình trạng phổ biến. Hiện nay, Vụ Các tổ chức phi Chính phủ thuộc Bộ Nội vụ là cơ quan Nhà nước làm nhiệm vụ theo dõi, quản lý các hiệp hội, nhưng cũng chỉ là nghiên cứu, ban hành văn bản pháp quy là chính. Qua nghiên cứu ta nhận thấy, đưa các Hiệp hội ngành hàng về cho các Bộ chuyên ngành quản lý với tư cách là Bộ chủ quản là không hợp lý và không nên làm. Tuy nhiên, nếu giữ chức năng của Vụ Tổ chức phi Chính phủ thuộc Bộ Nội vụ trong khuôn khổ như hiện nay thì việc quản lý còn yếu ớt, lỏng lẻo. Cho nên cần thêm chức năng cho Vụ Các tổ chức phi Chính phủ để mở rộng việc quản lý các Hiệp hội ngành hàng, theo dõi, giám sát hoạt động các hiệp hội, tập hợp xử lý các ý kiến đề đạt, các vướng mắc cho các hiệp hội, thông qua Bộ trưởng Bộ Nội vụ chỉ đạo và hướng dẫn các Bộ, ngành, chính quyền các cấp, các cơ quan Nhà nước hỗ trợ và phối hợp hoạt động với các hiệp hội..
- Hỗ trợ kinh phí cho hoạt động hiệp hội ngành hàng:
Sự hỗ trợ của Nhà nước không phải là bao cấp và cũng không nên xem là một cử chỉ mang tính “từ thiện”, mà xuất phát từ vai trò, chức năng của hiệp hội, Nhà nước coi hiệp hội là trợ thủ của mình, là tổ chức dân sự chung vai gánh vác nhiệm vụ quản lý kinh tế, quản lý ngành hàng. Theo tinh thần đó, điều 4 trong Nghị định 88/2003/NĐ-Chính phủ, đã quy định trách nhiệm của cơ quan Nhà nước đối với hội: "(1) Cơ quan Nhà nước, trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình có trách nhiệm tạo điều kiện thuận lợi để hội hoạt động theo điều lệ, có hiệu quả. (2) Hội được công nhận là tổ chức chính trị - xã hội nghề nghiệp, hội có hoạt động gắn với nhiệm vụ của Nhà nước được ngân sách Nhà nước hỗ trợ theo qu định của Thủ tướng Chính phủ". Theo quy định này các Hiệp hội ngành hàng "gắn với nhiệm vụ Nhà nước" để phát triển kinh tế trong xuất khẩu hàng hoá, xúc tiến thương mại. đều có thể được ngân sách Nhà nước hỗ trợ kinh phí. Đề nghị điều này được cụ thể hoá tạo điều kiện cho các hiệp hội phát triển.
Việc tạo lập quan hệ hợp tác chia sẻ giữa Chính chủ và doanh nghiệp là hết sức cần thiết. Kinh nghiệm từ các nước chịu tác động của cuộc khủng hoảng châu á cho thấy để nhanh chóng vượt qua khủng hoảng, thì yếu tố tạo sự thống nhất cao trong xã hội, hạn chế sự phân ly, đối đầu trong dân chúng, huy động được sự đóng góp và đồng cam cộng khổ của từng người dân với chính quyền để vượt qua khủng hoảng có ý nghĩa quan trọng không kém các biện pháp kinh tế vĩ mô.
Chính một cơ chế hợp tác, sự đồng thuận của xã hội đối với những tình huống nhất định không chỉ làm giảm biên độ và cường độ tác động tiêu cực khi nền kinh tế rơi vào khủng hoảng mà còn là giải pháp thu hút các nguồn lực thoát khỏi khủng hoảng và phát triển.
3.3.2.4. Chú trọng công tác phối hợp giữa các bộ ngành, giữa Trung ương và địa phương trong công tác XTXK hàng hóa
Việc phối hợp giữa các đơn vị hoạt động xúc tiến thương mại trên cùng địa bàn là cần thiết để nâng cao hiệu quả hoạt động, tránh lãng phí và manh mún, đồng thời qua đó hỗ trợ doanh nghiệp tích cực hơn. Muốn vậy cần tổ chức hợp lý và có hiệu quả các tổ chức xúc tiến thương mại. Nâng cao vai trò và sự phối hợp giữa các tổ chức xúc tiến thương mại trong đó các tổ chức của Nhà nước phải đóng vai trò chính.
Chính phủ nên thành lập các Trung tâm XTTM tại các tỉnh, thành phố lớn trong cả nước để giúp doanh nghiệp tổ chức triển lãm, hội chợ thương mại, nghiên cứu, thu thập thông tin thị trường; tổ chức các hoạt động đào tạo; cung cấp dịch vụ bảo hiểm, cấp giấy chứng nhận xuất xứ, hỗ trợ dịch vụ thanh toán, vận tải,... cho các doanh nghiệp xuất khẩu sang các thị trường khác. Các tổ chức XTXK của Trung ương và địa phương nên có một mối quan hệ chặt chẽ với nhau, cần có sự phối hơp, bổ sung cho nhau trong các hoạt động XTXK, phục vụ mục tiêu chung chứ không nên tiến hành công việc theo kiểu mạnh ai người nấy làm.
Chính phủ cần đầu tư phát triển quỹ hỗ trợ XTXK với quy mô lớn hơn để thực hiện các hoạt động XTXK của Nhà nước; hỗ trợ các doanh nghiệp tìm kiếm bạn hàng, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật nâng cao năng lực hoạt động XTXK. Quỹ này có thể được huy động từ ngân sách Nhà nước, đóng góp của cộng đồng doanh nghiệp và tài trợ quốc tế.
Tăng thêm kinh phí cho hoạt động đào tạo nguồn nhân lực làm việc trong lĩnh vực XTXK, thuê chuyên gia nước ngoài nếu cần thiết.
3.3.3. Các giải pháp từ phía doanh nghiệp
3.3.3.1. Tăng cường công tác nghiên cứu và tìm hiểu thị trường, phối hợp với các cơ quan XTTM
Trong thực tế, có rất nhiều công ty giầy Việt Nam sau khi đưa hàng hóa vào thị trường các nước phát triển thì gặp không ít rắc rối liên quan đến các quy định về tiêu chuẩn hàng hóa, các quy định pháp lý,... dẫn đến hàng hóa không thể nào đưa vào lưu thông kịp thời, bị phía đối tác ép giá và thậm chí thiệt hại tài chính khi phía đối tác kiện chúng ta vi phạm các quy định thương mại của nước bạn. Vì vậy doanh nghiệp Việt Nam cần nắm rõ mọi thông tin liên quan đến hàng hóa dịch vụ của mình trên thị trường xuất khẩu trước khi thực hiện hợp đồng.
Với sự phát triển của các phương tiện truyền thông như hiện nay, có nhiều cách để doanh nghiệp cập nhật thông tin về thị trường mình cần như qua internet, báo chí chuyên ngành, qua các tổ chức chuyên trách. Thông tin từ các tổ chức XTTM là rất quan trọng, nó cung cấp cho doanh nghiệp tình hình biến động trên thị trường, những thay đổi, điều chỉnh, ra mới của các quy định pháp lý hay những thỏa thuận giữa hai nước, giúp doanh nghiệp nắm bắt được nhu cầu, thị hiếu người tiên dùng, văn hóa kinh doanh, tập quán kinh doanh ở các công ty cũng như cần chú ý nghiên cứu các quy định của pháp luật, thủ tục nhập khẩu, chế độ nhập khẩu và hệ thống luật liên quan đến hàng hóa như luật kiểm dịch, bảo vệ thực vật, động vật, luật bảo vệ người tiêu dùng, các tiêu chuẩn liên quan đến chất lượng.
Một giải pháp nữa ít tốn kém hơn giải pháp trên và cũng có thể mang lại hiệu quả cao đó là cử các đoàn cán bộ trực tiếp sang nghiên cứu thị trường. Để thực hiện được giải pháp này, trước hết doanh nghiệp cần có nguồn kinh doanh đủ mạnh, và một điều quan trọng là cần có những cán bộ nghiên cứu thị trường chuyên nghiệp, có hiểu biết và trình độ cao.
3.3.3.2. Nâng cao chất lượng sản phẩm, thỏa mãn thị hiếu khách hàng và tiêu dùng của thị trường xuất khẩu
Đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sang, các chuyên gia kinh tế đã từng khuyên chúng ta nên tập trung chủ yếu vào chất lượng sản phẩm để tạo uy tín với khách hàng. Đối với các nước phát triển, các chiến lược mà doanh nghiệp nên quan tâm là:
Chiến lược chất lượng kỹ thuật
Chiến lược chất lượng Marketing
Chiến lược chất lượng kỹ thuật – Marketing
Chiến lược chất lượng dịch vụ
Để thực hiện chiến lược chất lượng, các doanh nghiệp cần thực hiện một số giải pháp sau:
Tăng cường nguồn lực cho việc điều tra nghiên cứu thị trường xuất khẩu để xác định đúng yêu cầu về mặt chất lượng. Cần đặt ra các biện pháp tiếp cận, thu thập thông tin ban đầu cho việc nghiên cứu, cải tiến mẫu mã, thẩm mỹ, tiện lợi, an toàn, tiết kiệm, cần kết hợp các đặc điểm này để tạo nên một hàng hóa có chất lượng tối ưu.
Thực hiện đầu tư đổi mới công nghệ có chọn lọc để nâng cao chất lượng sản phẩm với chi phí có lợi thế so sánh.
Tăng cường công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực của doanh nghiệp. Cần phổ biến các kiến thức liên quan đến chất lượng sản phẩm như hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000 và các kiến thức khách về khả năng cạnh tranh bằng chất lượng của doanh nghiệp.
Kiểm soát và nâng cao chất lượng của các yếu tố đầu vào. Kết hợp với các cơ quan quản lý Nhà nước trong việc kiểm định chất lượng sản phẩm, tham gia các chương trình của các tổ chức quốc tế để đạt được các chứng nhận về chất lượng sản phẩm xuất khẩu.
3.3.3.3. Tham gia vào hiệp hội da –giầy Việt Nam
Việc tham gia vào hiệp hội sẽ giúp doanh nghiệp nâng cao tiềm lực tài chính, tiếp thu kinh nghiêm quản lý và trình độ nguồn nhân lực, mở rộng mạng lưới kinh doanh. Đồng thời qua hiệp hội, doanh nghiệp Việt Nam sẽ nhận được nhiều thông tin hữu ích và được chia sẻ nhiều kinh nghiệm trong hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như hoạt động XTXK.
Các doanh nghiệp giầy dép Việt Nam cũng cần phải tích cực chủ động tìm kiếm đối tác, bạn hàng để mở rộng cơ hội giao thương với các đối tác.
Việc tham gia hiệp hội còn giúp cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam giảm bớt khó khăn về tài chính khi đối mặt với những vụ kiện của các nước xuất khẩu phát triển. Chúng ta cũng rút ra kinh nghiệm và thấy được vai trò của hiệp hội trong vụ kiện bán phá giá giầy do EU khởi kiện.
3.3.3.4. Tìm kiếm và đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên môn cao trong công tác XTXK
Có một đội ngũ cán bộ có trình độ và năng lực chuyên môn là yêu cầu hết sức quan trọng đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên vấn đề đặt ra đối với các doanh nghiệp hiện nay là phải có chính sách tuyển dụng và thu hút người tài, có kế hoạch đào tạo và nâng cao năng lực chuyên môn của nhân viên. Muốn như vậy mỗi doanh nghiệp cần đưa ra một chế độ đãi ngộ thỏa đáng, một môi trường làm việc thuận lợi để mọi nhân viên đều phát huy hết năng lực của mình.
Các doanh nghiệp nên tổ chức các khóa đào tạo, bồi dưỡng cho nhân viên về tình hình thị trường, về các yêu cầu khắt khe của thị trường, về các quy định pháp lý, về tâm lý tiêu dùng của khách hàng ,... để nhân viên ý thức được tầm quan trọng của việc nâng cao chất lượng sản phẩm và việc đảm bảo các quy định đó. Đồng thời có các buổi phổ biến về các tiêu chuẩn chất lượng trên thị trường thế giới, về mục tiêu chất lượng, mục tiêu xuất khẩu của công ty để mọi nhân viên đều nắm rõ tình hình và cố gắng hết mình.
Doanh nghiệp nên đầu tư tuyển dụng chuyên gia nước ngoài tư vấn và đào tạo nhân viên của công ty, cử cán bộ ra nước ngoài học hỏi kinh nghiệm, chuẩn bị nguồn lực cho kế hoạch phát triển lâu dài.
KẾT LUẬN
Nền kinh tế Việt Nam trong thời gian qua đã có bước phát triển đáng kể. Bước sang thế kỷ 21, hoà nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới chúng ta cần phải mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại hơn nữa, từng bước nhằm phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Trước yêu cầu đổi mới này, đòi hỏi Hiệp hội Da – Giầy nói riêng phải đổi mới cơ chế và chất lượng hoạt động, dịch vụ cũng như hoạt động của các hiệp hội ngành hàng nói chung mới có thể đáp ứng yêu cầu của khách hàng, đạt được mục đích đề ra. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay hệ thống các HIệp hội ngày càng phát triển mạnh mẽ, số lượng ngày càng nhiều nên cần điều chỉnh ngay từ giai đoạn này. Hiệp hội Da –Giầy Việt Nam tham gia hoạt động từ những năm gần đây còn rất non trẻ và gặp nhiều khó khăn. Chính vì vậy, hoàn thiện hoạt động của Hiệp hội là một yêu cầu bức thiết không chỉ đối với Hiệp hội Da – Giầy mà còn đối với các Hiệp hội khác ở Việt Nam để có thể đứng vững trên thị trường.
Những giải pháp nêu trên trong chuyên đề sẽ có ý nghĩa thiết thực đối với Hiệp hội Da – Giầy xuất khẩu Việt Nam để phát triển hoạt động của mình hiện nay và trong tương lai.
Trong quá trình thực tập, em đã được cán bộ trong Vụ Thị trường trong nước – Bộ Công Thương và cán bộ của Hiệp hội Da – Giầy Việt Nam tận tình giúp đỡ, em xin chân thành cảm ơn.
Em xin gửi tới thầy giáo, TS. Tạ Lợi, người đã hướng dẫn, giúp đỡ em rất nhiều để thực hiện chuyên đề lòng biết ơn sâu sắc !
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nghị định số 88/2003/NĐ – CP của Chính phủ quy định về tổ chức; hoạt động và quản lý Hội.
2. Chuyên đề “QUY HOẠCH TỔNG THỂ PHÁT TRIỂN NGÀNH DA - GIẦY VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2010, TẦM NHÌN 2020”
3. Thông tư Số: 37/2009/TT-BTC Hướng dẫn về việc không thu phí chứng nhận xuất xứ hàng hoá (C/O)
4. Chính Phủ - tờ trình Quốc hội ngày 17/4/2006 – Dự án Luật về Hội số 38/TTr - CP
5. Nguyễn Văn Nam, Viện nghiên cứu Thương mại, bộ Thương mại – Hà Nội, 2004 – “giải pháp nâng cao năng lực hoạt động của các hiệp hội ngnahf hàng nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập Kinh tế quốc tế”.
6. Trần Văn Thắng, Viện nghiên cứu Thương mại, bộ Thương mại – Hà Nội, 2005 – “vai trò của các hiệp hội ngành hàng đối với hoạt động thương mại"
7. Các trang web:
www.google.com.vn
www.lefaso.org.vn
www.moi.gov.vn
www.sla.org.vn
@fshoesleather@fpt.vnpt
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- TH2738.doc