Default Hội nghị Geneve về Đông Dương
Tiểu luận dài 21 trang:
Lời Nói Đầu
Hội nghị Geneve về Đông Dương là hội nghị thương lượng hoà bình giữa phe đế quốc gây chiến và phe dân chủ hoà bình. Họp tại Geneve ( thủ đô của Thuỵ Sĩ) . Khuôn khổ của cuộc đàm phán ở Geneve phản ánh xu thế hoà hoãn giữa hai bên. Hội nghị được triệu tập từ kiến nghị của phía Liên Xô, được các nước phương Tây chấp thuận. Đây là hội nghị quốc tế đầu tiên với sự tham gia của các nước lớn, ngoài cơ chế Liên Hợp Quốc, trong bối cảnh bước đầu tiên có hoà dịu Đông Tây sau khi chiến tranh Triều Tiên đã lắng dịu và quân đội viễn chinh Pháp trong cơn nguy kịch.
Hội nghị tập trung giải quyết bốn vấn đề lớn trong một giải pháp kết thúc chiến tranh:
Vấn đề đình chiến và khu vực tập kết
Vấn đề hoà bình, độc lập, thống nhất và dân chủ
Vấn đề quân sự, chính trị trong mối quan hệ giữa ba nước Đông Dương và giữa ba nước này với bên ngoài
Vấn đề quan hệ với nước Pháp .
21 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1902 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hội nghị Geneve về Đông Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời Nói Đầu
Hội nghị Geneve về Đông Dương là hội nghị thương lượng hoà bình giữa phe đế quốc gây chiến và phe dân chủ hoà bình. Họp tại Geneve ( thủ đô của Thuỵ Sĩ) . Khuôn khổ của cuộc đàm phán ở Geneve phản ánh xu thế hoà hoãn giữa hai bên. Hội nghị được triệu tập từ kiến nghị của phía Liên Xô, được các nước phương Tây chấp thuận. Đây là hội nghị quốc tế đầu tiên với sự tham gia của các nước lớn, ngoài cơ chế Liên Hợp Quốc, trong bối cảnh bước đầu tiên có hoà dịu Đông Tây sau khi chiến tranh Triều Tiên đã lắng dịu và quân đội viễn chinh Pháp trong cơn nguy kịch.
Hội nghị tập trung giải quyết bốn vấn đề lớn trong một giải pháp kết thúc chiến tranh:
Vấn đề đình chiến và khu vực tập kết
Vấn đề hoà bình, độc lập, thống nhất và dân chủ
Vấn đề quân sự, chính trị trong mối quan hệ giữa ba nước Đông Dương và giữa ba nước này với bên ngoài
Vấn đề quan hệ với nước Pháp
Chương 1: Hoàn cảnh lịch sử
1.Tình hình thế giới
Trên thế giới, vào năm1953 chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là đế quốc Mỹ ra sức chuẩn bị chiến tranh, nhanh chóng triển khai chiến lược toàn cầu hoá phản cách mạng của chúng. Đế quốc Mỹ áp dụng chiến lược quân sự “trả đũa ồ ạt’ và chính sách ngoại giao “bên miệng hố chiến tranh” của Ai-xen-hao và Đa-lét nhằm bao vây Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa, ngăn chặn sự phát triển của chủ nghĩa cộng sản, đàn áp phong trào giải phóng dân tộc, hòng làm bá chủ thế giới. Lợi dụng chiến tranh Triều Tiên, đế quốc Mỹ pháp triển quân đội Mỹ từ 1.400.000 người (năm 1949) lên 3.500.000 người vừa chống Liên Xô ở châu Âu, vừa chống Trung Quốc ở châu Á. Chúng xúc tiến vũ trang lại Tây Đức khôi phục lại chủ nghĩa phục thù Tây Đức, thành lập quân đội Tây Âu (NATO), khôi phục lại chủ nghĩa quân phiệt Nhật ở châu Á.
Từ sau cách mạng Trung Quốc thành công, sự so sánh lực lượng trên thế giới đang thay đổi có lợi cho cách mạng. Phe xã hội chủ nghĩa đứng đầu là Liên Xô, với liên minh Xô Trung làm nòng cốt, ngày một củng cố vững mạnh.
Cả Liên Xô và Trung Quốc đã đi vào thời kỳ kinh tế kế hoạch dài hạn. Liên Xô đã có bom khinh khí (8.1953) và Trung Quốc sau chiến tranh Triêu Tiên, đã trở thành một nước có lực lượng quân sự mạnh nhất Châu Á.
Liên Xô, Trung Quốc và phe xã hội chủ nghĩa đoàn kết nhất chí và gương cao ngọn cờ chống đế quốc gây chiến, bảo vệ hoà bình, ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc, nên có uy tín to lớn trên thế giới.
Song song với sự hình thành phe xã hội chủ nghĩa, phong trào giải phóng dân tộc tiếp tục phát triển mạnh mẽ ở Nam Á, Đông Nam Á, Trung Cận Đông và châu Phi.
Xu hướng trung lập tích cực, không tham gia các liên minh quân sự với các nước phương Tây, phát triển trong các nước mới dành được độc lập như 5 nước tham gia kế hoạch Colombo Ấn Độ, Miến Điện, Pa-ki-xtan, In-đô-nê-xi-a, và chủ nghĩa dân tộc Nát-xe ở Ai Cập.
Hai phe đều tranh thủ tập hợp lực lượng và đấu tranh quyết liệt. Nhưng so sánh lực lượng lúc bấy giờ, hai phe đã có hoà hoãn với nhau ở mức thấp. Chấp nhận đình chiến tại Triều Tiên (1953) gần như nguyên trạng của cả hai bên ở vĩ tuyến 38 và sau đó thoả thuận họp hội nghị Bá Linh(1.1954) để bàn giải quyết hoà bình vấn đề Triều Tiên và bàn việc lập lại hoà bình ở Đông Dương. Đây là hội nghị đầu tiên của bốn nước lớn kể từ năm 1949, sau những năm hết sức căng thẳng của chiến tranh lạnh Đông Tây. Kết quả hội nghị này là hai phe đồng ý triệu tập hội nghị Geneve vào ngày 26 tháng 4 năm 1954 với sự tham dự của Trung Quốc.
2.Tình hình Đông Dương.
Ở Đông Dương, trải qua 8 năm kháng chiến, vào Thu-Đông năm 1953 lực lượng ta trên chiến trường đã dành được chủ động tiến công trên chiến trương chính. Ta đã liên tiếp mở bốn chiến dịch lớn thắng lợi: giải phóng Lai Châu ở Tây Bắc (10.12.1953), tiến quân vào Thà Khẹt (25.12.1953) ở Trung và Hạ Lào, giải phóng khu vực sông Nậm Líu và Phong-sa-lỳ (26.11.1953) ở Thượng Lào và giải phóng Comtum ở Tây Nguyên.
Vào mùa hè năm 1953, Pháp đã gặp nhiều khó khăn lớn ở Đông Dương. Lực lượng Pháp tuy còn 45 vạn quân( so với khoảng trên 30 vạn của ta), song phân tán, làm nhiệm vụ chiếm đóng ở ba nước Đông Dương, thiếu quân cơ động, nhiều nguỵ quân và tinh thần giảm sút.
Tướng Hăng-ri Na-va, là một nhà chiến lược xuất sắc ở Pháp, vừa được cử sang làm tổng tư lệnh quân đội Pháp ở Đông Dương, lúc đó nhận xét rằng:
“Sau 7 năm chiến tranh, nhìn chung so sánh các phương tiện của chúng ta với đối phương đã trở nên bất tiện cho ta”. Và y báo cáo chính phủ pháp như sau:
“Sự phân tán và tình trạng bất động của lực lượng chúng ta chỉ còn để lại Bộ chỉ huy những khả năng hết sức hạn chế. Mọi cuộc hành quân chiến lược tương đối lớn đều không thể tiến hành được trong tình trạng hiện nay.”
Để cứu vãn tình hình, chính phủ Pháp thông qua kế hoạch Na-va gồm hai giai đoạn:
- 1953 – 1954: phòng ngự chiến lược ở miền Bắc Việt Nam, tấn công chiến lược ở Nam vĩ tuyến 18 đi đôi vói viêc tăng cường quân cơ động bằng xây dựng nguỵ quân và tăng viện từ Pháp sang.
- 1954 – 1955: tấn công chiến lược miền Bắc, giành lấy thắng lợi quân sự to lớn, buộc ta phải đình chiến theo điều kiện của Pháp.
Đây là một kế hoạch đầy tham vọng, được Mỹ hết sức ủng hộ và viện trợ thêm 385 triệu đô la để thực hiện.
Nhưng vì qua nhiều khó khăn, không thể đáp ứng hết yêu cầu xin tăng quân của Na-va, Ngày 13.11.1953, Uỷ ban quốc phòng Pháp chỉ thị cho Na-va phải sử dụng các lực lượng hiện có, phát triển tối đa quân nguỵ và xác định mục tiêu hành động của Pháp ở Đông Dương là làm sao cho đối phương “nhận thấy không thể giành được một quyết định quân sự.
Để thực hiện kế hoạch trên, trong Hè – Thu năm 1953, Na-va liên tiếp mở hàng chục cuộc càn quét ở vùng chúng chiếm đóng ở Bắc Bộ, Bình Trị Thiên và Nam Bộ, nhẩy dù tập kích Lạng Sơn (7,1953), tăng cường biệt kích thổ phỉ ở Lào Cai, Lai Châu, Sơn La, mở cuộc tấn công lớn gọi là chiến dịch Hải Âu vào vùng Nho Quan ( Ninh Bình), tuyên bố đã dành được chủ động chiến trường. Nhưng bị tổ thất nặng chúng phải rút khỏi Nho Quan.
Trước việc ta tiến quân lên hướng Tây Bắc, Na-va cho quân nhảy dù xuống Điện Biên Phủ (20.11.19530 nhằm mở rộng địa bàn của chúng ở Tây Bắc và bảo vệ Lào mà Pháp mới trao trả độc lập chưa đầy một tháng (22.10.1953).
Lực lượng của địch lúc đầu có 6 tiểu đoàn. Ngày 3.12 tướng Na-va quyết định tăng cường lực lượng cho Điện Biên Phủ và tiếp nhận cuộc chiến đấu với lực lượng chủ lực của ta ở Điện Biên Phủ và Điện Biên Phủ trở thành tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương.
Trước khi ta đánh Điện Biên Phủ, ngày 20.11.1954, Na-va mở chiến dịch “Át-lăng-tơ’ (Atlante) đổ bộ lên Tuy Hoà, Phú Yên, đánh chiếm vùng tự do liên khu 5. Sau mấy chiến dịch lớn của ta Na-va cho rằng ta không đủ sức tấn công nữa, càng không thể đánh Điện Biên Phủ được, Vì vậy, ngày 12.3.1954, Pháp đổ bộ lên chiếm Quy Nhơn, tiếp tục chiến dịch Atlante.
Ngày 13.3.1954, ta mở cuộc đại tấn công vào tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ và sau 55 ngày đêm chiến đấu, ta tiêu diệt hoàn toàn Điện Biên Phủ, 16.000 quân địch gồm 21 tiểu đoàn bị tiêu diệt và bị bắt làm tù binh.
Nhìn chung, trong Đông – Xuân 1953 – 1954 địch bị thiệt hại 112.000 tên, tức ¼ lực lượng vũ trang của địch tại Đông Dương. Những thắng lợi đó đã đưa cuộc kháng chiến của nhân dân ta từ hình thái phản công cục bộ tiến lên hình thái phản công lớn, từ tư thế chủ động chiến lược trên chiến trường Bắc Bộ tiến lên giành chủ động trên chiến trường cả nước.
3.Tình hình nước Pháp
Nước Pháp bị kệt quệ trong cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai, phải nhờ vào viện trợ của Mỹ ngày càng nhiều và do đó càng bị lệ thuộc vào Mỹ và chắc chắn sẽ bị Mỹ hất cẳng ở d.
Trước sự thất bại ngày càng lớn ở Đông Dương, Pháp rất lúng túng: không tăng viện cho Đông Dương thì quân đội viễn chinh Pháp có nguy cơ bị tiêu diệt, mà tăng viện từ Pháp hoặc lấy quân từ Bắc Phi sang, sẽ làm yếu lực lượng ở châu Âu, có nguy cơ Mỹ sẽ đẩy nhanh việc phục hồi quân đội phát xít Đức ở châu Âu trong cái gọi là phòng thủ châu Âu: CED, là một hiểm hoạ truyền thống của nước Pháp, và không đủ lực lượng đối phó vói phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa Bắc Phi.
Vấn đề cứu vãn quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương trở thành cấp bách đối với Pháp không những để duy trì quyền lợi của chúng ở Đông Dương mà còn đối với cả quyền lợi của Pháp ở châu Âu và Bắc Phi.
Trên đất Pháp, phong trào nhân dân Pháp đòi chấm dứt cuộc chiến tranh bẩn thỉu ở Đông Dương ngày càng phát triển mạnh. Giai câp tư sản Pháp phân hoá thành hai lực lượng chủ hoà và chủ chiến đối lập nhau.
Trong chính phủ Pháp, phái chủ chiến là bọn Laniel, thủ tướng và Bidault, bộ trưởng ngoại giao cầm đầu, bọn này đại diện cho tập đoang Nhà băng Đông Dương có nhiều quyền lợi ở Viễn Đông gắn liền với Mỹ. Phái chủ hoà có Paul reynaud, phó thủ tướng, Edgảe Fảue, bộ trưởng bộ tài chính, M.Mitterand, bộ trưởng trước kia phụ trách các vấn đề Châu Âu và Jacquinot, Bộ trưởng Pháp quốc hải ngoại, đại biểu cho quyền lợi của Pháp ở Bắc Phi.
Trong quốc hội Pháp, ngoài các nghị sĩ cộng sản trước sau vẫn kiên quyết chống chiến tranh Đông Dương, còn có một bộ phận Đảng xã hội cấp tiến Mendes France cầm đầu, đại biểu lợi ích cho tập đoàn gang thép Scheider, và dệt Pousste, một bộ phận của nhóm dân chủ xã hội đề nghị kháng liên minh (UDSR do Francois Mitterand cầm đầu, đại biểu cho lợi ích của tập đoàn Ngân hàng Lassale, bọn này liên hiệp với các nghị sĩ cánh tả của Đảng xã hội và Cộng hoà bình dân).
Chương 2: Diễn biến hội nghị
1.Thành phần hội nghị
Hội nghị Geneve về Đông Dương có 9 đoàn đại biểu tham dự ,ngoài 5 nước lớn:Liên Xô,Trung Quốc,Anh,Pháp, Mỹ còn có các đoàn của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà do Phạm Văn Đồng dẫn đầu,của Quốc Gia Việt Nam do Nguyễn Quốc Bình dẫn đầu,của Vương Quốc Lào do Phoui Sanaikone dẫn đầu,của Vương Quốc Campuchia do Nhiếp Tiêu Long dẫn đầu.
Hội nghị có hai đồng chủ tịch là Liên Xô và Anh.
Các đoàn đại biểu Pathet Lào và Khơme Issarak đều có mặt tại Geneve. Đoàn đại biểu của ta ngay từ đầu đã yêu cầu hội nghị mời họ tham gia . Nhưng Liên Xô thì né tránh còn Trung Quốc đã công nhận tính hợp pháp cảu Chính phủ Vương quốc Campuchia,Vương quốc Lào, cho nên họ không ủng hộ việc Pathet Lào và Khơme Issarak tham dự hội nghị.
2.Diễn biến hội nghị
Hội nghị Geneve về Đông Dương diễn ra từ ngày 8 tháng 5 đến 21 tháng 7 năm 1954.Cuộc đấu tranh trên bàn đàm phán cũng như bên lề hội nghị diễn ra gay gắt ,ta có thể khái quát thành 3 thời kì.
Thời kì từ 8 -5 -1954 đến 19-6-1954
Nội dung chính của thời kì này là các bên trình bày lập trường, cách giải quyết của mình về vấn đề kết thúc chiến tranh ,lập lại hoà bình ở Đông Dương. Tại hội nghị phía ta yêu cầu bàn song song giữa vấn đề quân sự và chính trị còn Pháp ,Mỹ thì yêu cầu bàn riêng từng vấn đề một.
Trong phiên họp đầu tiên ,trưởng đoàn đại biểu Pháp Bidault trình bày lập trường của Pháp.
- Tập kết quân đội hai bên vào vùng quy định.
- Giải giáp lưc lượng dân quân du kích.
- Trao trả tù quân sự và dân sự.
- Kiểm soát quốc tế.
- Đình chỉ chiến sự.
Phiên thứ hai Nguyễn Quốc Định đại biểu Quốc gia Việt Nam đề nghị ưu tiên giải quyết vấn đề thả tù binh bị thương ở Điện Biên Phủ ,Phạm Văn Đồng tuyên bố chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà sẵn sàng để Pháp nhận tù nhân bị thương ,nhưng đại diện hai Bộ tổng tư lệnh sẽ thảo luận cụ thể các biện pháp cần thiết.Vấn đề này phía Pháp đồng ý ngay.
Sau đó Phạm văn Đồng nêu lên lập trường của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà trên cơ sở :Hoà bình , độc lập, thống nhất và dân chủ đồng thời trình bày 8 điểm cho việc chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam và Đông Dương:
*Pháp công nhận độc lập ,chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam,Lào và Campuchia.
*Kí một hiệp định rút quân đội nước ngoài ra khỏi Việt Nam ,Lào và Campuchia trong thời hạn do các bên tham chiến ấn định. Trước khi rút quân, đạt thoả thuận về nơi đóng quân của lực lượng Pháp hay Việt Nam trong một số khu vực hạn chế.
*Tổ chức tổng tuyển cử tự do trong ba nước nhằm thành lập chính phủ duy nhất cho mỗi nước.
*Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà tuyên bố ý định xem xét việc tự nguyện gia nhập Liên hiệp Pháp và những điều kiện của việc gia nhập đó.Các chính phủ Lào và Campuchia cũng tuyên bố tương tự.
*Việt Nam Dân chủ Cộng Hoà ,Campuchia và Lào thừa nhận các quyền lợi kinh tế, văn hoá của Pháp trong ba nước. Sau khi chính phủ duy nhất được thành lập,quan hệ kinh tế và văn hoá được giải quyết theo đúng nguyên tắc bình đẳng và cùng có lợi.
*Hai bên cam kết không truy tố những người hợp tác với đối phương trong thời gian chiến tranh.
*Trao trả tù binh.
*Các biện pháp nói trên được thực hiện sau khi đình chiến sự. Pháp và ba nước Đông Dương kí Hiệp định về từng nước trên cơ sở dưới đây:
- Ngừng bắn trên toàn Đông Dương và đồng thời với việc điều chỉnh các lãnh thổ và khu vực mà các bên chiếm giữ.
- Ngừng việc đưa quân đội mới vũ khí và đạn dược vào Đông Dương.
- Thiết lập một hệ thống kiểm soát các uỷ ban liên hợp gồm các bên tham chiến.
Đề nghị này của Việt Nam Chủ Cộng Hoà có tinh toàn diện cả về mặt quân sự lẫn chính trị, đòi Pháp và các nước khác phải công nhận chủ quyền, độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Lào, Campuchia và quân đội nước ngoài phải rút khỏi ba nước Đông Dương,coi đó là cơ sở quan trọng nhất cho giải pháp kết thúc chiến tranh, lập lại hoà bình ở Đông Dương.
Phiên thứ ba, trưởng đoàn Đại biểu Quốc Gia Việt Nam Nguyễn Quốc Định trình bày lập trường của họ là:Quốc gia Việt Nam là nước duy nhất có thẩm quyền thay mặt nước Việt Nam,lính Việt Minh có thể hoà nhập vào quân đội quốc gia, sau tổng tuyển cử do Quốc gia Việt Nam tổ chức,sẽ thành lập một chính phủ duy nhất dưới sự lãnh đạo của Bảo Đại làm Quốc trưởng… Đề nghị này có ý nghĩa đòi Việt Minh đầu hàng, cho nên báo chí phương Tây gọi đó là một đề nghị “hoàn toàn không thực tế”.
Chu Ân Lai trình bày lập trường tổng quát của Trung Quốc: ủng hộ đề nghị 8 điểm của Việt NamDân Chủ Cộng Hoà, phê phán tính cách thực dân trong đề nghị của Pháp,nêu hai điều kiện để lập lại hoà bình Đông Dương :Pháp chấm chiến tranh thực dân, Mỹ chấm dứt can thiệp vào cuộc xung đột ở Đông Dương.
Trong phiên thứ tư Liên Xô ủng hộ kế hoạch của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà,nhưng Uỷ ban quốc tế kiểm soát gồm các nước trung lập.
Đề nghị của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà được dư luận cac nước trên thế giới cho là thích hợp để đàm phán có kết quả.Vì vậy chủ tịch hội nghị đưa quyết định lấy bài phát biểu của đoàn Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà và Pháp làm cơ sỏ thảo luận.
Ngày 25-5 trong phiên họp thứ sáu,Phạm Văn Đồng đưa ra hai nguyên tắc :ngừng bắn hoàn toàn, đồng thời, càng sớm càng tốt trên toàn cõi Đông Dương;chia ranh giới trên cơ sở trao đổi đất để có thể mỗi bên có vùng hoàn chỉnh và tương đối rộng ,tạo thuận lợi cho quản lý hành chính và hoạt động kinh tế cho mỗi vùng.
Ngày 27-5 trong phiên họp lần thư bảy Pháp đồng ý đề nghị của ta làm cơ sở thảo luận. cũng ngày Trung Quốc đưa ra đề nghị 6 điểm:
- Ngừng bắn hoàn toàn cho tất cả các lực lượng vũ trang của hai bên tham chiến xảy ra cùng một lúc trên toàn bộ lãnh thổ Đông Dương.
- Bắt đầu các cuộc thương lượng về việc điều chỉnh thích hợp những vùng chiêm đóng của mình, về việc chuyển vận quân đội của hai bên trong khi điều chỉnh, về những vấn đề khác.
- Việc đưa từ bên ngoài vào Đông Dương mọi loại binh chủng mớivà nhân viên quân sự cũng như tất cả các loại vũ khí đạn dược phải chấm dứt cùng một lúc với việc chấm dứt các cuộc xung đột trên lãnh thổ Đông Dương.
- Thành lập những Uỷ ban liên hợp gồm đại biểu Bộ chỉ huy hai bên để kiểm soát việc thi hành các điều khoảncủa hiệp định đình chỉ chiến sự. Thành lập Uỷ ban quốc tế gồm các nước trung lập để kiểm soát việc thi hành hiệp định.
- Các nươc tham gia hội nghị Geneve cam kết bảo đảm việc thi hành Hiệp định.
- Thả tù binh và dân thường bị giam giữ.
Trong phiên họp thứ tám ngày 29-5 hội nghị thông qua đề nghị dung hoà do Eden nêu ra: đại diện hai Bộ Tư lệnh gặp nhau tại chỗ và tại Geneve để bàn về vấn đề bố trí lực lượng quân sự theo thoả thuận đình chiến, bắt đầu bằng phân vùng tập kết quân đội ở Việt Nam.
Trong lúc hội nghị Geneve đang diễn biến phức tạp, thì trên toàn quốc Đảng, Chính phủ, toàn quân và dân ta tăng cương đấu tranh,dẩy mạnh mọi mặt công tác,củng cố, chỉnh đốn lực lượng, động viên tinh thần dân quân trên các chiến trường , đặc biệt là vùng sau lưng địch tích cực đánh giặc; vùng tự do thì đòi giảm tô, cải cách ruộng đất, đòi địch chấm dứt chiến tranh,… Để ủng hộ cho hội nghị Geneve.
b. Thời kì từ 20-6 đến 10-7-1954
Là thời kỳ các trưởng đoàn về nước báo cáo, tại Geneve các chuyên viên tiếp tục làm việc và đã đạt được kỹ thuật về vấn đề thương binh ở Điện Biên Phủ. Sự kiện đáng chú ý nhất là ngày 23-6, Thủ tướng Chu Ân Lai gặp Thủ tướng Mendes France (chính phủ của Laniel bị lật đổ chính phủ Mendes lên thay thế ) tại Berne,nhắc lại những điều ông nói với Bidault, ngày 17-6, nhưng ý nghĩa của cuộc họp là Trung quốc khẳng định lại ý định đi tới một giải pháp về vấn đề Đông Dương. Mendes France tỏ ra muốn thoả thuận giữa hai bên, không bàn vấn đề chính trị và lộ ý không muốn sớm có tổng tuyển cử, không bac việc đàm phán trực tiếp với Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (Bidault không chịu gặp Phạm Văn Đồng).
Sau cuộc gặp này, ngày 24-6, Mendes France chỉ thị cần tập trung giải quyết ba vấn đề lớn: định giới tuyến ở Việt Nam càng lùi về phía Bắc càng tốt; trì hoãn tối đa thời hạn tổng tuyển cử; kéo dài thời gian quân Pháp rút khỏi miền Bắc Việt Nam.
Ngày 18-6 được sự ủng hộ của Mỹ Ngô Đình Diệm đã lật đổ chính phủ Hoàng thân Bửu Lộc làm thủ tướng ở Miền Nam. Một sự kiện đáng chú ý ở thời kỳ này là cuộc gặp giữa Anh và Mỹ để giải quyết bất đồng giữa hai nước về hoà bình ở Đông Dương cuối cùng hai nước cũng thoả thuận bảy điểm được coi là bảy điều kiện mà các hiệp định nếu đạt được phải tuân theo.
- Bảo vệ toàn vẹn và độc lập của Lào và Campuchia, đồng thời đạt được việc lực lượng Việt Minh rút khỏi hai nước này.
- Ít nhất giữ lấy nữa phía nam của Việt Nam và nếu có thể giành lấy một vùng nằm lọt trong đồng bằng sông Hồng, đường giới tuyến không được ở nam Đồng Hới.
- Không được áp đặt cho Lào ,Campuchia và phần phải giành của Việt Nam những hạn chế đối với khả năng duy trì những vùng ổn định không có Cộng sản -nhất là quyền có lực lượng đủ giữ an ninh nội địa, nhập vũ khí và kêu gọi các cố vấn ngoại quốc.
- Không chứa đựng bất kỳ điều khoản chính trị nào có tính chất làm mất những vùng phải giành để cho cộng sản được hưởng.
- Không lọai trừ một sự thống nhất sau này của nước Việt Nam bằng con đường hoà bình.
- Cho phép di cư trong những điều kiện nhân đạovà hoà bình, dước sự kiểm soát quốc tế tất cả những người muốn từ miền này sang miền kia.
- Dự liệu một cơ chế hữu hiệu kiểm soát quốc tế.
Về phía ta và Trung quốc, có cuọc gặp giữa Hồ Chí Minh-Chu Ân Lai từ ngày 3 đến ngày7-7-1954 tại Liễu Châu.Hai bên đã trao đổi quan điểm thẳng thắn toàn diện về hội nghị Geneve, vấn đề lập lại hoà bình ở Đông Dương và các vấn đề có liên quan. Về vấn đề tập kết quân ở hai miền, ta chỉ nhân nhượng đến vĩ tuyến 16, Chu Ân Lai đề nghị lấy vĩ tuyến 17.Về tổng tuyển cử, ta đề nghị thời hạn 6 tháng, Chu Ân Lai đề nghị 2 năm, ta thấy lực lượng đã rút ra Bắc rồi mà đợi 2 năm thì khó khăn.Lúc từ biệt Hồ Chủ Tịch, Chu nói sẽ cùng Liên Xô cố gắng thực hiện ý kiến đó, song nếu việc đấu tranh tại hội nghị xác định ranh giới có khó khăn thì xin đươc linh hoạt về vĩ tuyến.
Ngoài ra từ ngày 27-5, trưởng đoàn Pháp chấp nhận đề nghị của ta là đại diện hai Bộ Tổng tư lệnh gặp nhau tại chỗ để bàn việc phân chia vùng tập kết, thể thức ngừng bắn. Tại Geneve đó là cuộc đam phán giữa Tạ Quang Bửu – Delteil, tại Đông Dương là hội nghị Trung Giã giữa đoàn đại biểu Việt Nam do thiêú tướng Văn Tiến Dũng dẫn đầu và đoàn đại biểu của Pháp do Đại tá Lennuyeux dẫn đầu
c. Thời kỳ từ ngày 11 đến 20-71954
Thời kỳ này các trưởng đoàn Liên Xô, Trung Quốc, Anh, Pháp đều trở lại Geneve; Dulles không chịu trở lại và cử Bedell Smit, Thứ trưởng Ngoại giao thay. Bây giờ Mỹ - Anh – Pháp đã thống nhất về giải pháp cho vấn đề Đông Dương. Chu Ân Lai đã gặp Hồ Chủ tịch. Đó là điều kiện thuận lợi tiến hành những mặc cả cuối cùng, nhưng khó khăn nhất là chưa có thoả thuận cuối cùng về các vấn đề cơ bản của giải pháp trong thời khi thời hạn của Mendes France chỉ còn 10 ngày. Các trưởng đoàn gặp nhau, các chuyên viên gặp nhau, Hội nghị quân sự về Việt Nam, Lào, Campuchia hoạt động khẩn trương.
Về vấn đề giới tuyến, khi gặp Mendes France ngày 13 tháng 7 Phạm Văn Đồng đề nghị lấy vĩ tuyến 16, Mendes France đòi lấy vĩ tuyến 18. Ngày 19 tháng 7, Chu Ân Lai đồng ý vĩ tuyến 17 nhưng vấn đề này chưa được giải quyết.
Về thời hạn tổ chức tổng tuyển cử, khi gặp Trần Văn Đỗ, Trưởng đoàn “Quốc gia Việt Nam”, Trần Văn Đồng đề nghị tổ chức tổng tuyển cử trong thời hạn 6 tháng. Khi gặp đại tá Guillermaz, thành viên đoàn đại biểu Pháp ngày 19 tháng 7, Vương Bính Nam, Tổng thư ký đoàn đại biểu Trung Quốc, nói rằng đề nghị của Trung Quốc là cuộc tổng tuyển cử nên hoãn lại 2 năm, đến năm 1956.
Về vấn đề khu đóng quân tạm thời của Pathét Lào, đoàn Việt Nam giữ chủ trương chia dọc nước Lào, Phía bên kia đòi chỉ có điểm tập kết.
Phải đến cuộc họp cuối cùng ngày 20 tháng 7, có Molotov, Eden, Chu Ân Lai, Mendes France và Phạm Văn Đồng mới giải quyết được cả ba vấn đề tồn tại: Để hội nghị kết thúc được, trước thái độ của mọi người, ta chấp nhận vĩ tuyến 17, thời hạn hai năm, và lấy hai tỉnh Phong Sa Lỳ, Sầm Nưa làm vùng tập kết tạm thời của quân Pathét Lào và bộ đội tình nguyện Việt Nam.
Đêm 20 rạng ngày 21, Tạ Quang Bửu và Delteil ký hiệp định đình chỉ chiến sự về Việt Nam, Hiệp định đình chỉ chiến sự về Lào. Sáng 21, Delteil và Nhiếp Tiêu Long ký hiệp định đình chỉ chiến sự về Campuchia; Bế mạc hội nghị với việc thông qua bản tuyên bố cuối cùng xác nhận các quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam (độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ), tổng tuyển cử ở Việt Nam trong thời hạn hai năm, nghe các bản tuyên bố đơn phương và tham luận của các thành viên, hai công hàm trao đổi giữa Phạm Văn Đồng và Mendes France về quan hệ Việt – Pháp.
Chương 3: Nội dung hiệp định Geneve
Hội nghị Geneve họp toàn thể phiên họp cuối cùng vào 3 giờ chiều vào ngày 21 tháng 7 năm 1954, 5 giờ chiều ông Hoàng Văn Hoan, người phát ngôn của phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hoà triệu tập các nhà báo ở lâu đài Liên Hiệp Quốc giới thiệu các văn kiện chính như sau:
Hiệp định đình chiến ở Việt Nam có những điểm quan trong sau:
a. Ngày thực hiện đình chiến đông thời và hoàn toàn là ngày 28 tháng 7 ở Bắc bộ, ngày 1 tháng 8 năm 1954 ở Trung bộ và ngày 11 tháng 8 năm 1954 ở Nam bộ.
b. Giới tuyến quân sự tạm thời vạch theo con sông Cửu Tùng, Phía bắc đường số 9.
c. Thời hạn 2 bên tập kết xong quân đội (kể cả hải lục không quân) về khu vực của mình là 300 ngày sau khi ký hiệp định. Riêng ở Hà Nội thì quân đội liên hiệp Pháp phải rút khỏi Hà Nội sau 80 ngày kể từ khi ký hiệp định.
d. Hai bên cam kết không khủng bố những người đã cộng tác với đối phương.
e. Cấm đưa vũ khí mới, quân đội mới, nhân viên quân sự mới vào Việt Nam sau khi ngừng bắn, trừ số thay thế cần thiết do hiệp định cho phép.
f. Thả tất cả thương binh, tù binh và những người dân bị giam giữ trong thời kỳ chiến tranh.
g. Hai bên cam kết không cho ngoại quốc lập căn cứ quân sự trong vùng mình kiểm soát.
2. Hiệp định đình chiến ở Lào:
a. Bộ chỉ huy hai bên sẽ đảm bảo đình chỉ hoàn toàn mọi chiến sự theo đúng nguyên tắc ngừng bắn, đồng thời trên toàn cõi Đông Dương việc ngừng bắn hoàn toàn nay sẽ bắt đầu thực hiện ngày 28 tháng 7 năm 1954 ở thượng Lào, 1 tháng 8 năm 1954 ở trung Lào, và 11 tháng 8 năm 1954 ở hạ Lào.
b. Quân đội ngoại quốc phải hoàn toàn rút khỏi Lào trong khi chờ đợi một giải pháp về chính trị, quân đội giải phóng Pathét Lào sẽ tập trung trong vung Sầm Nưa, Phông Sa Lỳ và phân chia tỉnh bắc Lu-ang-pra-bang. Việc rút lui và vận chuyển quân đội, lương thực và quân trang vũ khí của hai bên phải hoàn thành trong thời gian 120 ngày kể từ ngày bắt đầu thực thi hiệp định.
c. Ngay sau khi tuyên bố ngừng bắn ở Lào cấm không được đưa vào đất Lào mọi quân đội tăng viện và quân trang quân dụng. Chính phủ Vương Quốc Lào có thể giữ lại một số nhân viên quân sự của Pháp nhất định.
d. Ngay sau khi ngừng bắn, cấm không được cho ngoại quốc lập căn cứ quân sự (thuỷ quân và không quân) trên đất Lào.
e. Hai bên sẽ tha và cho hồi hương tất cả những tù binh và thường dân bị giam giữ.
3. Hiệp định đình chiến ở Campuchia
Hiệp định đình chiến ở Campuchia đại thể cũng giống như Lào nhưng ở Campuchia không đặt vấn đề khu tập kết quân đội.
4. Vấn đề kiểm soát và giám sát đình chiến ở Việt Nam, Lào, Campuchia
Bao gồm những điểm chính sau:
a. Thành phần ban kiểm soát và giám sát quốc tế là 3 nước Ấn độ, Ba Lan. Gia Na Đại, chủ tịch là Ấn Độ.
b. Uỷ ban liên hợp đảm bảo thực hiện các diều khoản ngừng bắn . Uỷ ban quốc tế phụ trách kiểm soát và giám sát việc thực hiện cac điều khoản đình chỉ chiến sự.
c. Uỷ ban kiểm soát và giám sát quốc tế biểu quyết theo đa số, nhưng đối với những vấn đề co tính chất xâm phạm hiệp định một cách nghiêm trọng có thể dẩn tới việc gây lại chiến tranh thì phải biểu quyết toàn thể.
5. Tuyên bố cuối cùng của hội nghị Geneve:
a. Hội nghị thừa nhận độc lập và chủ quyền hoàn toàn của Việt Nam, Campuchia, Lào.
b. Thừa nhận việc giải quyết các vấn đề chính trị ở Việt Nam trên cơ sở tôn trọng những nguyên tắc độc lập thống nhất và sự toàn vẹn lãnh thổ ở Việt Nam.
Tổng tuyển cử ở Việt Nam sẽ tiến hành trong tháng 7 – 1956
c. Quân đội và nhân viên quân sự ngoại quốc sẽ phải rút khỏi Việt Nam, Campuchia, Lào do sự thoả thuận giữa các bên.
d. Sau khi đình chiến không được đưa quân đội, nhân viên ngoại quốc và mọi thứ vũ khí của ngoại quốc vào.
e. Sau khi đình chiến, các nước Việt Nam, Campuchia, Lào không được để cho ngoại quốc lập căn cứ quân sự.
f. Toàn thể công dân Lào và Campuchia đều có cương vị trong quốc gia chung đặc biệt là tham gia tổng tuyển cử. Tổng tuyển cử sẽ tiến hàng trong năm 1955.
g. Trong các mội quan hệ nước Việt Nam, Campuchia, Lào các nước tham giự hội nghị Geneve cam kết tôn trọng chủ quyền độc lập thống nhất và sự toàn vẹn lãnh thổ của các nước nói trên và cam kết không can thiệp vào nội trị các nước ấy.
h. Các nước nhận xét việc dùng hành động tập thể cần thiết trong những trường hợp có những sự xâm phạm nghiêm trọng tới hiệp định đình chiến
Chương 4: Ý nghĩa hiệp nghị Geneve
Hiệp nghị Geneve về “ chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Đông Dương” được dư luận rộng rãi trên thế giới hoan nghênh, làm cho công đồng thế giới thấy được quyết tâm dành độc lập, tự do của nhân dân ta, đồng thời cũng nhận rõ thiện chí hoà bình, long mong muốn giải quyết xung đột bằng biện pháp hoà bình thông qua thương lượng của Đảng, nhà nước và nhân dân ta.
Sau khi hiệp nghị được ký kết, Đảng và nhà nước ta khẳng định ý nghĩa to lớn của giải pháp đã đạt được ở Geneve, đồng thời nêu lên những nhân tố đưa ta đến thắng lợi của hội nghị Geneve về Đông Dương.
Trong lời kêu gọi ngày 22 tháng 7 năm 195 của Hồ chủ tịch nêu rõ: hội nghị Geneve đã kết thúc, Ngoại giao ta đã thắng lợi… Chúng ta giành được thắng lợi to lớn là do nhân dân các nước bạn Pháp và nhân dân các nước yêu chuông hoà bình trên thế giới ủng hộn cuộc đấu tranh chính nghĩa của nước ta…”
Nghị quyết của Bộ Chính Trị Trung Ương Đảng ta ( tháng 10 năm 1954) nhận định: “ hội nghị Geneve đã đi đến thoả thuận lập lại hoà bình Đông Dương, đã ký kết hiệp định đình chiến ở Việt Nam, Campuchia, Lào… Thắng lợi to lớn đó đã kết thúc ách thống trị của thực dân Pháp ở miền Bắc,làm cho nhân dân miền bắc được hoàn toàn giải phóng, tạo nên những điều kiện thuận lợi cho công cuộc hoà bình kiến thiết nước Việt Nam sau này…”
Tại Đại Hội III (tháng 9 năm 1960) của Đảng. Báo cáo chính trị của Ban chấp Hành Trung ương Đảng đã khẳng định: “Việc lập lại hoà bình ở Đông Dương, hoàn toàn giải phóng miền Bắc Việt Nam và đặt cơ sở pháp lý cho việc thống nhất nước Việt Nam la một thắng lợi của nhân dân ta, đồng thời là một thắng lợi của phe Xã hội chủ nghĩa, hoà bình và dân chủ trên thế giới. Nó phản ánh tình hình lực lượng so sánh ở Đông Dương và trên thế giới lúc bấy giờ. Thắng lợi to lớn đó không những tạo khả năng để thực hiện hoà bình thống nhất nước ta trên cơ sở độc lập và dân chủ mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc cách mạng ở miền Bắc tiến lên một giai đoạn mới.”
Tại hội nghị Ngoại giao lần thứ III (ngày 14 tháng 1 năm 1964), Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Sau kháng chiến, đến hội nghị Geneve năm 1954, lúc đó thì ngoại giao của ta thành quốc tế rồi. Ta đã có Liên Xô, Trung Quốc và các nước anh em khác giúp đỡ. Lúc đó. Trong nước ta thắng, nên nước ngoài cũng thắng, nó ảnh hưởng lẫn nhau. Nhưng cũng xo cái khó là Mỹ muốn nhảy vào thay thế Pháp và không muốn ta nhận vĩ tuyến 17. Tình hình lúc đó có đánh hay hoà. Ta đấu tranh mãi từ vĩ tuyến 15 đến vĩ tuyến 16 rồi đến vĩ tuyến 17. Đến đây ta không nhượng nữa, nó phải chịu. vì thế nay ta đã có miền Bắc hoàn toàn giải phóng và đang xây dựng xã hội chủ nghĩa, ít người biết điểm này. Hồi đó ta không nhận hoà bình thì tức là ta mắc mưu Mỹ. Tất nhiên thắng lợi thu được cũng là do mình có Điện Biên Phủ, ngoài ra , lại còn sự giúp đỡ của các nước anh em nữa.”
Tuy vậy, những năm gần đây, trong nghiên cứu tổng kết có những đánh giá khác nhau về kết quả của hội nghị Geneve năm 1954, như cho rằng: giải pháp Geneve không phản ánh đầy đủ những thắng lợi của nhân dân ta trên chiến trường và xu thế của cuộc đấu tranh giữa ta với Pháp…(Sơ thảo lịch sủ Đảng Cộng sản Việt Nam, tập I)
Đánh Giá một cách toàn diện và khách qua về hiệp nghị Geneve 1954, trên cơ sở tham khảo ý kiến của nhiều đồng chí lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, tháng 11 năm 1988. Thương Vụ Đảng uỷ quân sự Trung ương đã nêu ra một số kết luận sau:
“Với hiệp nghị Geneve, tuy ta chưa hoàn thành việc giải phóng đất nước, nhưng ta đã đánh đấu một mốc lịch sử quan trọng: Đánh bại chủ nghĩa đế quốc Pháp, giải hống miền Bắc, xây dựng miền Băc thành hậu phương vững mạnh, chuận bị điều kiện để tiến hành cuộc chiến tranh chống Mỹ sau này. Đây là một thắng lợi vĩ đại của một nước nhỏ đánh thắng một đế quốc tô, thắng lợi oanh liệt của cuộc chiến tranh nhân dân đầu tiên do ở nước ta do Đảng ta lãnh đạo. Thắng lợi đó góp phần phát triển cách mạng Lào, Campuchia, cổ vũ phong trào giải phóng dân tộc, mở đầu quá trình sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên thế giới.
Tuy vậy, Hội nghị Geneve chỉ là một bước tạm ngừng cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc củng cố thắng lợi giàng được, chuẩn bị bước sang giai đoạn mới, giai đoạn chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất tổ quốc. Ta ký hiệp định Geneve như thế là phù hợp, phản ánh đúng so sánh lực lượng ta, địch trên chiến trường và hoàn cảnh quốc tế lúc đó. Vì lúc này , về phía địch, thực dân Pháp tuy thất bại lớn nhưng còn lực lượng đằng sau Pháp, đế quốc Mỹ, đang có mưu đồ trực tiếp can thiệp vào chiến tranh Đông Dương. Còn ta luc đó thắng to, nhưng cung có những khó khăn mới, chưa đủ điều kiện tiếp tục chiến tranh để giải phóng đất nước. Trên trường quốc tế, các nước anh em, trong đó có Liên Xô và Trung Quốc, đều muốn có hoà bình để xây dựng đất nước và đều muốn cuộc chiến tranh ở Đông Dương đi tới một giải pháp” Đặt hiệp định Geneve trong bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ, phân tích vấn đề theo quan điểm toàn diện và phát triển, Chủ tịch Hồ Chí Minh thẳng thắn nhận xét: “Có người thấy thắng luôn, muốn đánh bừa, đánh đến cùng , họ chỉ thấy cây mà không thấy rừng, chỉ thấy Pháp rút mà không thấy âm mưu của chúng, chỉ thấy Pháp mà không thấy Mỹ, thiên về tác chiến, xem khinh ngoại giao.”
Như lịch sử đã chứng minh, hiệp nghị Geneve có ý nghĩa to lớn trong việc thúc đẩy tiến trình đấu tranh của nhân dân cho tự do, độc lâp, hoà bình.
Trước hết, Hiệp nghị đã ghi nhận thắng lợi to lớn có tính bước ngoặt của cuộc đấu tranh kiên cường của nhân dân, vì độc lập, vì tự do của dân tộc, nó xác nhận trên phạm vi quốc tế sự thất bại hoàn toàn cuộc chiến tranh xâm lược quy mô lớn của một thế lực đế quốc hùng mạnh trong thời đại mới, nó được ghi nhận trong lịch sử như là một bước mở đầu có tính quyết định cho sự sụp đổ hoàn toàn hệ thống thực dân thống trị phương Tây trên quy mô toàn cầu, đồng thời nó có tác dụng trực tiếp ngăn chặn âm mưu can thiệp, tăng cường mở rộng chiến tranh, dùng chiến tranh và đe doạ vũ lực để thúc ép , lôi kéo các nước độc lập dân tộc vào các liên minh quân sự, chính trị và đặt các nước này vào ô bảo vệ của đế quốc Mỹ và các đế quốc phương Tây, gây đối đầu căng thẳng trong quan hệ quốc tế, phục vụ cho yêu cầu chiến lược của Mỹ và các nước phương Tây trong thời kỳ đỉnh cao của chiến tranh lạnh.
Hai là, điều quan trọng nhất của hiệp nghị Geneve là một giải pháp đồng bộ về chính trị và quân sự, nó vượt ra ngoài ý đồ ban đầu của các nước lớn định giới hạn cuộc thảo luận tại Geneve về Đông Dương trong khuôn khổ một hiệp nghị nghừng bắn đơn phương.
Ba là, Lần đầu tiên trong lịch sử, các nước lớn phương Tây phải công nhận bằng văn bản pháp lý quốc tế công nhận chủ quyền quốc gia, sự thống nhất và quyền dân tộc cơ bản của nhân dân ta. Hơn thế miền Bắc được hoàn toàn giải phóng gắn liền với hệ thống xã hội chủ nghĩa trở thành căn cứ địa vững chắc cho cuộc đấu tranh hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, đồng thời là hậu phương quan trọng để làm nghĩa vụ quốc tế đối với sự nghiệp chống áp đặt ách thống trị của các cường quốc phương Tây đối với Lào, Campuchia.
Điều có ý nghĩa to lớn là theo hiệp nghị Geneve, quân đội nước ngoài phải rút khỏi Đông Dương và ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia không tham gia quân sự bên ngoài. Điều đó đã góp phần quan trọng, chẳng những tạo lập được môi trường hoà bình ổn định cho việc tái thiết Đông Dương sau chiến tranh mà còn đưa đến làm thay đổi tương quan lực lượng và cục diện Đông Dương và Đông Nam Á có lợi cho xu hướng chống ách thống trị và lệ thuộc các nước phương Tây, các liên minh quân sự với bên ngoài vì độc lập tự do hoà bình của mình.
Mục Lục
Lời nói đầu 1
Chương 1: Hoàn cảnh lịch sử 2
Chương 2: Diễn biến hội nghị 7
Chương 3: Nội dung hiệp định Geneve 14
Chương 4: Ý nghĩa hiệp định Geneve 17
Tài liệu tham khảo 21
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LSD-1.docx