Một trong các vấn đề không khuyến khích được người tham gia bảo hiểm đó là vấn đề trả bảo hiểm. Việc trả bảo hiểm phải đảm bảo dễ dàng, thuận tiện và nhanh chóng. Có như vậy tác dụng khôi phục, ổn định sản xuất và đời sống của bảo hiểm mới được phát huy. Thực tế hiện nay, thủ tục giải quyết bồi thường, trả bảo hiểm còn rất phức tạp, nhiều trường hợp cơ quan bảo hiểm còn chậm trễ trong việc giải quyết hồ sơ khiếu nại bồi thường. Cũng còn một vấn đề nữa làm cho việc trả bảo hiểm bị kéo dài, phức tạp đó là chất lượng giám định hiện nay chưa đạt yêu cầu.
Do vậy, phải có những qui định chặt chẽ để cải tiến thủ tục trả bảo hiểm, rút ngắn thời gian và tiết kiệm chi phí của khách hàng trong việc đòi bồi thường. Nên chăng tạm ứng một phần tiền khi có thiệt hại sau đó tiếp tục điều tra.
54 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1375 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hợp đồng bảo hiểm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hợp đồng bảo hiểm có nhiều người tham gia bảo hiểm, hợp đồng bảo hiểm được giao kết theo chế độ bảo hiểm bắt buộc. Giấy chứng nhận bảo hiểm có thể là chứng chỉ pháp lý xác nhận người sở hữu giấy chứng nhận bảo hiểm tham gia một hoặc nhiều chế độ bảo hiểm.
II. Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm
Khi hợp đồng bảo hiểm đã có hiệu lực, các bên phải thực hiện các nghĩa vụ đã được xác định từ hợp đồng đó.
Hợp đồng bảo hiểm khi đã được ký kết nhưng chưa phải thực hiện mà nếu xuất hiện điều kiện như đã thoả thuận thì hợp đồng mới bắt đầu được thực hiện tức là việc thực hiện hợp đồng chỉ được tiến hành khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra gây tổn thất cho đối tượng bảo hiểm. Do vậy mà thời điểm có hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm có những nét khác biệt so với những hợp đồng dân sự khác. Hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực từ khi ký kết nhưng đây chỉ được coi là hiệu lực về mặt hình thức. Hợp đồng bảo hiểm còn có thời điểm hiệu lực vật chất. Thời điểm hiệu lực vật chất là thời điểm bắt đầu người bảo hiểm có trách nhiệm vật chất đối với người được bảo hiểm, hay chính từ thời điểm xuất hiện sự kiện bảo hiểm.
III. Giao kết hợp đồng bảo hiểm
Giao kết hợp đồng bảo hiểm là việc các bên bày tỏ ý chí với nhau theo những nguyên tắc và trình tự nhất định để qua đó xác lập nên hợp đồng bảo hiểm.
Việc giao kết hợp đồng bảo hiểm nhìn chung phải tuân thủ những nguyên tắc mà pháp luật qui định như sau:
- Tự do giao kết hợp đồng nhưng không trái pháp luật, đạo đức xã hội.
- Tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực, cùng có lợi.
Tuỳ thuộc vào từng loại hình bảo hiểm, bản chất pháp lý của từng loại quan hệ hợp đồng mà pháp luật qui định các cách thức ký kết hợp đồng bảo hiểm. Theo qui định của pháp luật hiện hành có các cách thức ký kết chủ yếu sau:
+ Phương pháp ký trực tiếp: là phương pháp mà theo đó các bên trực tiếp gặp nhau để thoả thuận về các điều khoản của hợp đồng bảo hiểm và cùng ký vào văn bản hợp đồng.
+ Phương pháp ký gián tiếp: là phương pháp mà theo đó người tham gia bảo hiểm gửi văn bản đề nghị giao kết hợp đồng và các hồ sơ liên quan đến việc ký kết hợp đồng cho bên bảo hiểm. Trong một thời hạn nhất định kể từ ngày bên bảo hiểm nhận được văn bản đề nghị của bên tham gia bảo hiểm, phải có quyết định chấp thuận hay không chấp thuận đề nghị bảo hiểm của người tham gia bảo hiểm. Nếu quá thời hạn trên mà bên bảo hiểm không có quyết định từ chối bảo hiểm thì coi như đề nghị bảo hiểm được chấp nhận.
+ Phương pháp ký theo thủ tục đơn giản: là phương pháp mà theo qui định của pháp luật hợp đồng bảo hiểm sẽ đương nhiên phát sinh hiệu lực khi người được bảo hiểm thực hiện một hành vi giao kết một hợp đồng khác có liên quan. Phương pháp này chỉ áp dụng đối với các loại hình bảo hiểm mà nội dung hợp đồng bảo hiểm đã được pháp luật qui định. Ví dụ: theo chế độ bảo hiểm khách du lịch, đối với trường hợp vé vào cửa khu du lịch có thu phí bảo hiểm thì hành vi mua vé và qua cửa kiểm soát để vào khu du lịch của khách du lịch được coi là hành vi giao kết hợp đồng bảo hiểm.
G. GIÁ TRỊ BẢO HIỂM - SỐ TIỀN BẢO HIỂM - PHÍ BẢO HIỂM - BỒI THƯỜNG VÀ CHẾ ĐỘ BẢO ĐẢM BẢO HIỂM
I. Giá trị bảo hiểm
Giá trị bảo hiểm là giá trị của đối tượng bảo hiểm. Đây là khái niệm chỉ dùng cho bảo hiểm tài sản vì đối với tính mạng, sức khoẻ hay trách nhiệm dân sự thì không thể tính thành giá trị cụ thể được.
Việc xác định giá trị bảo hiểm nhằm xác định giới hạn trách nhiệm bảo hiểm của bên bảo hiểm và cũng là căn cứ để tính phí bảo hiểm.
Thông thường giá trị tài sản cũng là giá trị bảo hiểm của tài sản được bảo hiểm. Việc tính toán giá trị phải là giá trị thực tế của đối tượng bảo hiểm khi ký kết hợp đồng. Tuy vậy người tham gia bảo hiểm và bên bảo hiểm có thể thoả thuận với nhau về giá trị bảo hiểm gồm giá trị tài sản bảo hiểm và một số chi phí khác có liên quan.
Điều 210 Bộ luật hàng hải có qui định giá trị bảo hiểm là giá trị thực tế của đối tượng bảo hiểm và được xác định như sau:
a. Giá trị bảo hiểm của tàu là tổng giá trị của tàu vào thời điểm bắt đầu bảo hiểm. Giá trị này còn bao gồm giá trị của máy móc, trang thiết bị, phụ tùng, dự trữ của tàu cộng với toàn bộ phí bảo hiểm. Tuỳ theo hợp đồng, giá trị tàu còn có thể bao gồm cả tiền lương ứng trước cho thuyền bộ và chi phí chuẩn bị chuyến đi.
b. Giá trị bảo hiểm của hàng hoá là giá trị hàng hoá ghi trên đơn ở nơi bốc hàng hoặc giá trị thị trường ở nơi và thời điểm bốc hàng cộng với phí bảo hiểm và có thể cả tiền lãi ước tính.
c. Giá trị bảo hiểm của tiền cước vận chuyển là tổng số tiền cước vận chuyển cộng với phí bảo hiểm. Trong trường hợp người thuê vận chuyển mua bảo hiểm cho tiền cước vận chuyển, thì số tiền cước này được trừ gộp vào giá trị bảo hiểm của hàng hoá để bảo hiểm.
d. Giá trị bảo hiểm của các đối tượng bảo hiểm khác, trừ các trách nhiệm dân sự, là giá trị của đối tượng ở nơi và thời điểm bắt đầu bảo hiểm cộng với phí bảo hiểm.
II. Số tiền bảo hiểm
Số tiền bảo hiểm là khoản tiền nhất định thể hiện một phần hay toàn bộ giá trị bảo hiểm.
Đối với hợp đồng bảo hiểm con người thì số tiền bảo hiểm do các bên tham gia hợp đồng thoả thuận trước trong hợp đồng và số tiền bảo hiểm là giới hạn trách nhiệm bồi thường tối đa của bên bảo hiểm đối với người được bảo hiểm, do Bộ Tài chính qui định trong bảng trả tiền bảo hiểm. Số tiền bảo hiểm phụ thuộc vào mức phí bảo hiểm mà người tham gia bảo hiểm lựa chọn cao hay thấp được ghi trên giấy chứng nhận bảo hiểm.
Trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự, số tiền bảo hiểm cũng được qui định trong bảng do Bộ Tài chính qui định, chủ xe cơ giới có trách nhiệm tham gia bảo hiểm theo mức trách nhiệm tối thiểu. Ngoài ra chủ xe có thể tham gia bảo hiểm trên mức trách nhiệm tối thiểu nếu có nhu cầu. Tổng số tiền bồi thường không vượt quá giới hạn trách nhiệm bảo hiểm đã ghi trên giấy chứng nhận bảo hiểm.
Trong bảo hiểm tài sản, số tiền bảo hiểm là một phần hay toàn bộ giá trị bảo hiểm. Giá trị bảo hiểm là căn cứ để xác định phạm vi số tiền bảo hiểm. Vì hợp đồng bảo hiểm tài sản là hợp đồng bồi thường do đó về nguyên tắc số tiền bồi thường bảo hiểm mà doanh nghiệp bảo hiểm phải trả cho người được bảo hiểm không vượt quá giá trị tài sản được bảo hiểm tại thời điểm và nơi xảy ra tai nạn.
Số tiền bảo hiểm là cơ sở để xác định số tiền bồi thường. Thiệt hại xảy ra như thế nào, bằng bao nhiêu thì bảo hiểm cũng chỉ bồi thường tối đa bằng số tiền bảo hiểm mà người tham gia bảo hiểm đã thoả thuận với bên bảo hiểm.
Trong quan hệ bảo hiểm tài sản có thể xảy ra trường hợp bảo hiểm trên giá trị, bảo hiểm dưới giá trị, bảo hiểm trùng.
Pháp luật qui định đối với trường hợp bảo hiểm trên giá trị (tức số tiền bảo hiểm lớn hơn giá trị bảo hiểm) thì giải quyết như sau:
- Trường hợp bảo hiểm trên giá trị do người được bảo hiểm lừa dối hoặc cố ý khai sai khi ký hợp đồng bảo hiểm thì bên bảo hiểm có quyền huỷ bỏ hợp đồng và đòi bồi thường thiệt hại.
- Trường hợp bảo hiểm trên giá trị không có sự gian lận thì giới hạn trách nhiệm bảo hiểm là giá trị thực tế của đối tượng được bảo hiểm và người được bảo hiểm không có quyền đòi phí bảo hiểm đã nộp của phần vượt giá trị.
Đối với trường hợp bảo hiểm dưới giá trị, bên bảo hiểm chỉ chịu trách nhiệm đối với các tổn thất theo tỷ lệ: tiền bồi thường bằng giá trị thiệt hại nhân với tỷ lệ giữa số tiền bảo hiểm với giá trị tài sản được bảo hiểm vào thời điểm xảy ra tổn thất.
Đối với trường hợp bảo hiểm trùng cho cùng một đối tượng bảo hiểm được nhiều người bảo hiểm với cùng một hiểm hoạ và tổng số tiền bảo hiểm vượt quá giá trị bảo hiểm thì người được bảo hiểm có trách nhiệm báo cho doanh nghiệp bảo hiểm về các doanh nghiệp bảo hiểm khác cùng bảo hiểm và số tiền bảo hiểm. Mỗi doanh nghiệp bảo hiểm chịu trách nhiệm tương ứng với số tiền bảo hiểm mà doanh nghiệp bảo hiểm đã nhận bảo hiểm nhưng tất cả các doanh nghiệp bảo hiểm chỉ chịu trách nhiệm trong phạm vi giá trị thực tế của đối tượng bảo hiểm.
III. Phí bảo hiểm.
Phí bảo hiểm là khoản tiền mà bên mua bảo hiểm phải đóng cho bên bảo hiểm (Điều 576 Bộ luật dân sự).
Người tham gia bảo hiểm có nghĩa vụ phải đóng phí bảo hiểm cho bên bảo hiểm nhằm xây dựng thành quĩ bảo hiểm. Mức phí bảo hiểm do hai bên thoả thuận song cũng có thể do bên bảo hiểm qui định trước.
Trong bảo hiểm con người, mức phí bảo hiểm do Bộ Tài chính qui định theo mỗi loại hình bảo hiểm con người, được ghi trong biểu phí, người mua bảo hiểm có thể lựa chọn mức phí phù hợp với mình. Theo qui định của pháp luật hiện hành về chế độ bảo hiểm tài sản thì phí bảo hiểm được tính trên cơ sở giá trị bảo hiểm hoặc số tiền bảo hiểm nhân với tỷ lệ phí bảo hiểm. Tỷ lệ phí bảo hiểm là tỷ lệ % do bên bảo hiểm đề ra trên cơ sở tính toán xác suất của những rủi ro tổn thất xảy ra hoặc trên cơ sở thống kê tổn thất nhằm thu đủ phí để bồi thường và có lãi.
Mức phí bảo hiểm luôn tỉ lệ thuận với mức độ rủi ro và trách nhiệm của bảo hiểm.
Điều 576 Bộ luật dân sự cũng qui định.
Thời hạn đóng phí bảo hiểm theo thoả thuận hoặc theo qui định của pháp luật. Phí bảo hiểm có thể đóng một lần hoặc theo định kỳ. Trong trường hợp bên mua bảo hiểm chậm đóng phí theo định kỳ thì bên bảo hiểm ấn định một thời hạn để bên mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm. Nếu hết hạn đó mà bên mua bảo hiểm không đóng phí bảo hiểm thì hợp đồng chấm dứt.
IV. Bồi thường
Bồi thường là việc bên bảo hiểm trả một khoản tiền cho người được bảo hiểm khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra gây thiệt hại cho đối tượng bảo hiểm.
Trong hợp đồng bảo hiểm, số tiền bồi thường được xác định trên cơ sở thiệt hại thực tế nhưng không bao giờ vượt quá số tiền bảo hiểm. Đặc biệt trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự, số tiền bồi thường, ngoài việc dựa trên hai căn cứ trên, còn phụ thuộc vào mức độ lỗi của bên được bảo hiểm trong vụ tai nạn.
Khi tính toán số tiền bồi thường, phải xác định đúng giá trị thiệt hại thực tế. Thiệt hại xảy ra có thể là thiệt hại về tài sản, thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và cũng có thể là cả hai.
- Thiệt hại về tài sản:
Đó là sự thiệt hại về vật chất nên có thể tính được giá trị thiệt hại thành tiền. Thiệt hại được xác định là toàn bộ thiệt hại về tài sản đó bao gồm: tài sản bị mất, bị huỷ hoại hoặc bị hư hỏng, lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại vào thời điểm gây ra thiệt hại.
- Thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ:
Tính mạng, sức khoẻ của con người không thể tính toán thiệt hại cụ thể thành tiền được. Vì vậy việc bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ có ý nghĩa là đền bù phần nào thiệt hại vật chất, tạo điều kiện cho người bị thiệt hại hay gia đình họ khắc phục khó khăn do tai nạn gây nên. Xác định thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ bao gồm những khoản chi phí về nạn nhân và những khoản thu nhập bị mất hoặc giảm sút.
+ Chi phí về nạn nhân có thể bao gồm tiền thuốc men, bồi dưỡng, tiền phẫu thuật, phí tổn tàu xe, chi phí mai táng nếu nạn nhân chết.
Tuỳ thuộc vào khả năng kinh tế của từng người mà các chi phí trên có thể khác nhau, do vậy khi xác định mức bồi thường cần phải tính toán một cách hợp lý phù hợp với điều kiện chung của tình hình kinh tế xã hội hiện nay.
+ Những khoản thu nhập bị mất hoặc bị giảm sút: bao gồm thu nhập bị mất hoặc bị giảm sút của nạn nhân do phải điều trị, bị thương tật hay bị chết và thu nhập bị mất, giảm sút của người thân nạn nhân phải bỏ thời gian để chăm sóc nạn nhân. Thu nhập bị mất là những khoản thu nhập không thu được sau thời gian điều trị do nạn nhân bị mất khả năng lao động. Thu nhập bị giảm sút là khoản chênh lệch giữa thu nhập trước khi xảy ra tai nạn và sau khi điều trị.
Thu nhập bị mất đối với gia đình nạn nhân: trường hợp nạn nhân chết mà khi còn sống hoặc nếu không chết họ vẫn phải nuôi dưỡng các con chưa thành niên hoặc phải trợ cấp cho người khác,... Về nguyên tắc, xác định toàn bộ thu nhập bị mất của nạn nhân trừ đi các khoản chi phí hàng ngày cho nạn nhân khi họ còn sống.
Tính thu nhập bị mất hay giảm sút như sau:
- Nếu nạn nhân còn thu nhập sau khi xảy ra tai nạn thì mức chênh lệch thu nhập trước khi xảy ra tai nạn và thu nhập sau khi xảy ra tai nạn là thu nhập bị giảm sút.
- Nếu sau khi xảy ra tai nạn, nạn nhân không còn thu nhập nữa thì thu nhập trước khi xảy ra tai nạn là thu nhập bị mất.
- Nếu nạn nhân chết vì tai nạn thì mức chênh lệch giữa thu nhập của nạn nhân và chi tiêu hàng ngày cho nạn nhân khi còn sống là thu nhập bị mất đối với gia đình nạn nhân. Thu nhập của nạn nhân phải là những thu nhập chính đáng do công sức lao động của nạn nhân tạo ra. Những thu nhập bất chính trái với pháp luật của nạn nhân không được thừa nhận. Thu nhập bị mất hoặc giảm sút thông thường được tính cho 3 năm. Trường hợp đặc biệt, nạn nhân sau khi bị nạn, kinh tế gia đình quá khó khăn thì thời gian tính toán thiệt hại có thể từ 3 đến 5 năm.
V. Chế độ bảo đảm bảo hiểm
Đây là chế độ qui định ràng buộc trách nhiệm giữa bên bảo hiểm và người được bảo hiểm trong thời gian hợp đồng có hiệu lực.
1. Chế độ bảo đảm bảo hiểm theo nguyên tắc trách nhiệm vượt giới hạn.
Theo chế độ này, bảo hiểm chỉ chịu trách nhiệm bồi thường cho những thiệt hại vượt quá mức mà hai bên đã thoả thuận được miễn bồi thường. Ví dụ: một hợp đồng bảo hiểm hàng hoá có giới hạn bảo hiểm là 100 tấn hàng và mức miễn bồi thường là 3% tức 3 tấn hàng. Nếu khi có rủi ro xảy ra mà gây thiệt hại nhỏ hơn 3 tấn hàng thì bảo hiểm không bồi thường, nếu thiệt hại lớn hơn 3 tấn hàng thì bảo hiểm sẽ bồi thường tổn thất. Ngoài ra những trường hợp không qui định mức miễn bồi thường các bên cũng có thể thoả thuận đối với những thiệt hại có giá trị nhỏ thì bảo hiểm cũng không phải bồi thường.
2. Chế độ bảo đảm bảo hiểm theo tỷ lệ.
Theo đó số tiền bồi thường của bên bảo hiểm luôn luôn được xác định bằng một tỷ lệ giữa số tiền bảo hiểm và giá trị bảo hiểm, trên cơ sở tổn thất thực tế. Bên tham gia bảo hiểm luôn phải gánh chịu một tỷ lệ nhất định trong số tổn thất thực tế. Nếu số tiền bảo hiểm vượt quá giá trị bảo hiểm thì phần vượt quá không được thừa nhận.
Ví dụ: một hợp đồng bảo hiểm có ghi:
+ Giá trị bảo hiểm là 10.000.000 đồng
+ Số tiền bảo hiểm là 9.000.000 đồng
và hợp đồng áp dụng theo chế độ bảo đảm bảo hiểm theo tỷ lệ. Nếu tổn thất xảy ra là 3 triệu đồng thì số tiền bảo hiểm bồi thường sẽ là:
3.000.000 x = 2.700.000 đ
3. Chế độ bảo đảm bảo hiểm theo rủi ro đầu tiên.
Theo chế độ này, số tiền bảo hiểm là giới hạn trách nhiệm của bảo hiểm. Số tiền bảo hiểm luôn được xác định phải nhỏ hơn giá trị bảo hiểm. Khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra, bảo hiểm chịu trách nhiệm bồi thường toàn bộ thiệt hại tổn thất trong phạm vi số tiền bảo hiểm. Nếu tổn thất xảy ra nhỏ hơn hoặc bằng số tiền bảo hiểm thì bảo hiểm bồi thường toàn bộ thiệt hại. Nếu tổn thất đó lớn hơn số tiền bảo hiểm thì bảo hiểm cũng chỉ bồi thường tối đa bằng số tiền bảo hiểm. Phần vượt quá người được bảo hiểm tự gánh chịu.
H. THỜI GIAN BẢO HIỂM - KHÔNG GIAN BẢO HIỂM
I. Thời gian bảo hiểm.
Thời gian bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm là những khoảng thời gian trong đó các sự kiện bảo hiểm theo thoả thuận của hợp đồng có thể xảy ra. Chỉ những rủi ro xảy ra gây thiệt hại cho đối tượng bảo hiểm trong thời gian bảo hiểm mới làm phát sinh trách nhiệm bồi thường của bên bảo hiểm.
Thời gian bảo hiểm thường do các bên thoả thuận hoặc pháp luật qui định. Thời gian bảo hiểm có thể trùng hoặc không trùng với thời gian kể từ khi hợp đồng có hiệu lực cho đến khi chấm dứt hiệu lực. Thời gian hiệu lực của hợp đồng đó là một khoảng thời gian liên tục từ khi bắt đầu đến khi chấm dứt hiệu lực. Còn khái niệm thời gian bảo hiểm là muốn nói đến nhiều khoảng thời gian mà giới hạn trong phạm vi khi nào sự kiện bảo hiểm có thể xảy ra. Ví dụ như thời gian làm việc, thời gian học tập, thời gian nghỉ giải lao,...
Tuỳ thuộc mỗi loại hợp đồng, tuỳ theo đặc điểm của đối tượng bảo hiểm và sự thoả thuận giữa các bên mà việc xác định thời gian bảo hiểm có khác nhau.
Ví dụ: trong bảo hiểm hoả hoạn, thời gian bảo hiểm là suốt thời gian từ khi ký kết hợp đồng cho đến khi hết hạn hợp đồng. Mọi rủi ro hoả hoạn xảy ra cho tài sản được bảo hiểm trong thời gian này đều được coi là sự kiện bảo hiểm.
Còn trong bảo hiểm tai nạn lao động thì thời gian bảo hiểm là những khoảng thời gian nhất định trong suốt thời gian hợp đồng có hiệu lực. Quyết định số 383 - TC ngày 24/12/1997 của Bộ Tài chính ban hành qui tắc bảo hiểm tai nạn lao động qui định: “Những tai nạn trong thời gian sau đây gây thiệt hại thân thể cho người lao động thuộc phạm vi trách nhiệm của bảo hiểm: tai nạn trong thời gian làm việc, chuẩn bị hoặc thu dọn dụng cụ, máy móc trước và sau khi làm việc, thực hiện các nhu cầu cần thiết như: nghỉ giải lao, ăn cơm giữa ca, ăn bồi dưỡng, cho con bú, tắm rửa chân tay, đi từ nhà đến nơi làm việc và từ nơi làm việc về nhà (với khoảng thời gian hợp lý)”.
Đối với một số hợp đồng bảo hiểm, thời gian bảo hiểm được xác định bằng những cách riêng. Ví dụ trong hợp đồng bảo hiểm tai nạn hành khách đi lại trong nước (theo qui tắc bảo hiểm tai nạn hành khách) thì thời gian bảo hiểm được tính bằng hành trình. Thời gian bảo hiểm là suốt thời gian kể từ khi hành khách lên phương tiện vận tải ở nơi đi và kết thúc khi hành khách đến địa điểm đã qui định ở trong vé. Khi kết thúc hành trình coi như hợp đồng chấm dứt, bảo hiểm không chịu trách nhiệm bồi thường cho những tai nạn xảy ra sau đó cho khách hàng. Cũng như trong trường hợp hành khách tự ý rời bỏ hành trình trước lúc đến địa điểm ghi trong vé thì hiệu lực bảo hiểm cũng chấm dứt ngay khi hành khách rời khỏi phương tiện vận tải mình đang dùng.
II. Không gian bảo hiểm
Không phải khi có rủi ro xảy ra ở bất cứ đâu thì bên bảo hiểm phải chịu trách nhiệm mà chỉ những rủi ro xảy ra trong một phạm vi không gian nhất định được các bên thoả thuận mới làm phát sinh trách nhiệm bồi thường của bên bảo hiểm.
Không gian bảo hiểm là phạm vi những nơi, những địa điểm theo đó các sự kiện bảo hiểm trong hợp đồng có thể xảy ra.
Việc xác định không gian bảo hiểm cũng tuỳ thuộc mỗi loại hợp đồng, tuỳ theo đặc điểm của đối tượng bảo hiểm và sự thoả thuận của các bên.
Ví dụ: trong hợp đồng bảo hiểm tai nạn hành khách đi lại trong nước không gian bảo hiểm chỉ ở trong phương tiện vận tải đó, ngoài ra nó còn mở rộng đối với những trường hợp:
- Khi hành khách xuống xe qua phà.
- Phương tiện vận tải tạm dừng dọc đường để tiếp nhiên liệu hoặc để hành khách nghỉ ngơi.
- Doanh nghiệp vận tải thay đổi phương tiện vận tải để hoàn thành hành trình đã qui định.
Trong bảo hiểm tai nạn lao động thì không gian bảo hiểm giới hạn ở địa điểm khi người lao động đang tiến hành công việc theo chức năng, nhiệm vụ, theo sự phân công lao động của đơn vị hoặc theo nghề nghiệp vốn có hay ở phạm vi không gian người được bảo hiểm đi từ nhà đến cơ quan và từ cơ quan về nhà.
CHƯƠNG III
NỘI DUNG CỦA HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM
A. NỘI DUNG CỦA HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM
Tổng hợp các điều khoản mà các chủ thể tham gia giao kết hợp đồng bảo hiểm đã thoả thuận xác định các quyền và nghĩa vụ các bên trong hợp đồng gọi là nội dung của hợp đồng bảo hiểm.
I. Quyền và nghĩa vụ của bên bảo hiểm.
1. Quyền.
Nhìn chung trong các hợp đồng bảo hiểm, bên bảo hiểm thường có một số quyền cơ bản sau:
- Bên bảo hiểm có quyền thu phí bảo hiểm đối với người mua bảo hiểm theo mức hai bên đã thoả thuận hoặc theo biểu phí mà pháp luật qui định đối với hợp đồng bảo hiểm bắt buộc.
- Bên bảo hiểm có quyền yêu cầu người mua bảo hiểm phải cung cấp cho bên bảo hiểm đầy đủ các thông tin có liên quan đến đối tượng bảo hiểm trừ các thông tin mà bên bảo hiểm đã biết hoặc phải biết. Các thông tin này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác định trách nhiệm của bên bảo hiểm như rủi ro xảy ra có phải là sự kiện bảo hiểm không, mức thiệt hại bao nhiêu,... Điều 577 khoản 2 Bộ luật dân sự qui định: “Trong trường hợp bên mua bảo hiểm cố ý cung cấp thông tin sai nhằm giao kết hợp đồng để hưởng tiền bảo hiểm, thì bên bảo hiểm có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng và thu phí bảo hiểm đến thời điểm đình chỉ hợp đồng.” Đây là một quyền quan trọng bởi bên bảo hiểm khó có điều kiện theo dõi sát đối tượng bảo hiểm mà chỉ thông qua nghĩa vụ khai báo của bên kia mới có thể nắm rõ tình trạng của đối tượng bảo hiểm. Vì thế trong tất cả các hợp đồng bảo hiểm đều qui định quyền này cụ thể và để đảm bảo sự khai báo trung thực của bên mua bảo hiểm, bên bảo hiểm có thể áp dụng những chế tài nhất định. Ví dụ điều 207 Bộ luật hàng hải qui định: “Trong trường hợp người được bảo hiểm vi phạm nghĩa vụ khai báo thông tin thì bên bảo hiểm có quyền rút khỏi hợp đồng và vẫn được thu phí bảo hiểm đầy đủ. Nếu người được bảo hiểm không có lỗi trong việc khai báo không chính xác hoặc không khai báo theo qui định thì bên bảo hiểm không có quyền rút khỏi hợp đồng nhưng có quyền thu thêm phí bảo hiểm ở mức độ hợp lý ”.
Hiện nay, ở Việt Nam hiện tượng khách hàng trục lợi bảo hiểm bằng cách khai báo thông tin sai lệch là hiện tượng phổ biến và ngày một tinh vi. Đơn cử những con số thống kê về gian lận bảo hiểm sau đây được phát hiện và xử lý kịp thời (theo tờ “Thị trường Bảo hiểm” số tháng 5/2000 của Bảo Việt):
+ Năm 1997, phát hiện 183 vụ gian lận về bảo hiểm xe cơ giới với số tiền gian lận 1,473 tỉ đồng ở Hà Nội, Huế,...
+ Bảo hiểm tàu thuỷ năm 1998, Bảo Việt Sóc Trăng và Bình Định đã phát hiện và từ chối bồi thường số tiền là 846 triệu đồng.
+ Bảo hiểm con người: năm 1998, ở Khánh Hoà phát hiện 90 vụ, từ chối bồi thường 638 triệu đồng,...
- Trong trường hợp bên được bảo hiểm có lỗi không thực hiện các biện pháp phòng ngừa thiệt hại ghi trong hợp đồng, bên bảo hiểm có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng hoặc không trả tiền bảo hiểm khi thiệt hại xảy ra do các biện pháp phòng ngừa đã không được thực hiện (Điều 578 khoản 2 Bộ luật dân sự).
- Trong trường hợp người thứ ba có lỗi mà gây thiệt hại cho bên được bảo hiểm và bên bảo hiểm đã trả tiền bảo hiểm cho bên được bảo hiểm thì bên bảo hiểm có quyền yêu cầu người thứ ba bồi hoàn khoản tiền mà mình phải trả (Điều 581 khoản 1 Bộ luật dân sự).
2. Nghĩa vụ.
Bên bảo hiểm khi nhận được tin báo về rủi ro xảy ra đối với đối tượng bảo hiểm có nghĩa vụ thực hiện các biện pháp cần thiết để xác định nguyên nhân và mức độ thiệt hại. Nếu thiệt hại xảy ra thuộc trách nhiệm bảo hiểm, bên bảo hiểm phải bồi thường cho người được bảo hiểm. Bên bảo hiểm có nghĩa vụ tiến hành giám định tổn thất và lập biên bản giám định. Nghĩa vụ này nhằm đảm bảo quyền lợi cho người được bảo hiểm vì khi người được bảo hiểm khiếu nại đòi bồi thường thì phải có cả biên bản giám định tổn thất đồng thời đó cũng là vì quyền lợi của bên bảo hiểm để xác định được mức bồi thường chính xác. Điều 19 - Qui tắc bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt qui định: “Bảo Việt và người được bảo hiểm có nghĩa vụ tiến hành giám định và lập biên bản giám định thiệt hại. Trường hợp hai bên không thoả thuận được mức độ thiệt hại, có thể mời giám định viên chuyên ngành xác định”.
Điều 28 - Qui tắc bảo hiểm hàng hoá vận chuyển bằng đường biển qui định:
- “Sau khi kiểm tra các chứng từ có liên quan đến việc khiếu nại do người được bảo hiểm gửi đến và đã xác nhận tổn thất, người bảo hiểm sẽ thanh toán tiền bồi thường cho người được bảo hiểm.
- Trừ khi có thoả thuận khác, việc thanh toán bồi thường sẽ được giải quyết bằng loại tiền qui định trong hợp đồng hoặc giấy chứng nhận bảo hiểm.
- Khi thanh toán bồi thường, người bảo hiểm có thể khấu trừ vào tiền bồi thường các khoản thu nhập của người được bảo hiểm trong việc bán hàng hoá cứu được và đòi người thứ ba.”
Đối với một số hợp đồng bảo hiểm như bảo hiểm tai nạn con người vấn đề giám định tổn thất có thể không đặt ra. Chỉ cần bên được bảo hiểm cung cấp đầy đủ hồ sơ về vụ tai nạn và các giấy tờ liên quan đến chi phí cứu chữa, nằm viện,... bên bảo hiểm sẽ thực hiện nghĩa vụ bồi thường.
Trong trường hợp hồ sơ về tai nạn, rủi ro xảy ra vẫn chưa được hoàn tất nên chưa thể tính toán được mức bồi thường thì bên bảo hiểm còn có nghĩa vụ ứng trước cho bên được bảo hiểm một khoản tiền nếu bên được bảo hiểm yêu cầu.
II. Quyền và nghĩa vụ của người tham gia bảo hiểm.
Dưới đây xin đề cập quyền và nghĩa vụ của người tham gia bảo hiểm trong trường hợp họ đồng thời là người được bảo hiểm.
1. Quyền.
- Người tham gia bảo hiểm có quyền hưởng số tiền bảo hiểm mà bên bảo hiểm bồi thường khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra theo thoả thuận trong hợp đồng hoặc theo qui định của pháp luật. Đây là quyền chủ yếu của người tham gia bảo hiểm.
- Trong một số hợp đồng bảo hiểm tài sản, người tham gia bảo hiểm còn có một quyền quan trọng đó là quyền từ bỏ đối tượng bảo hiểm. Quyền này được thực hiện trong trường hợp nguy cơ đối tượng bị tổn thất toàn bộ là không tránh khỏi hoặc chi phí cứu chữa sẽ quá cao so với giá trị của đối tượng bảo hiểm. Nếu việc từ bỏ đối tượng bảo hiểm được bên bảo hiếm chấp nhận thì người tham gia bảo hiểm có quyền được bồi thường tổn thất toàn bộ.
Điều 234 Bộ luật hàng hải qui định về từ bỏ đối tượng bảo hiểm như sau:
1. Người được bảo hiểm có quyền tuyên bố từ bỏ đối tượng bảo hiểm và chuyển cho người bảo hiểm quyền, nghĩa vụ của mình liên quan đến đối tượng bảo hiểm để được nhận tiền bồi thường tổn thất toàn bộ nếu việc đối tượng bị tổn thất toàn bộ là không thể tránh khỏi hoặc việc ngăn ngừa tổn thất đó sẽ gây ra các chi phí quá cao so với giá trị của đối tượng bảo hiểm.
2. Quyền từ bỏ đối tượng bảo hiểm có thể được áp dụng trong trường hợp tàu biển bị mất tích, bị cưỡng đoạt, bị hư hỏng do tai nạn mà không thể sửa chữa được hoặc chi phí sửa chữa, phục hồi, chuộc tàu là không có hiệu quả kinh tế.
2. Nghĩa vụ.
- Người tham gia bảo hiểm có nghĩa vụ đóng phí bảo hiểm cho bên bảo hiểm. Phí bảo hiểm phải đóng đủ và đúng thời hạn, nếu không bên bảo hiểm có quyền chấm dứt hợp đồng. Đây là điều kiện quan trọng để duy trì quan hệ hợp đồng và là điều kiện để được hưởng tiền bồi thường bảo hiểm.
- Người tham gia bảo hiểm có nghĩa vụ cung cấp cho bên bảo hiểm đầy đủ thông tin có liên quan đến đối tượng bảo hiểm theo yêu cầu của bên bảo hiểm. Việc cung cấp thông tin phải đảm bảo sự trung thực, kịp thời, đầy đủ. Nếu thực hiện không tốt nghĩa vụ này thì người tham gia bảo hiểm có thể phải gánh chịu những chế tài nhất định theo thoả thuận trong hợp đồng hoặc theo qui định của pháp luật. Chẳng hạn bên bảo hiểm có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng và thu phí bảo hiểm đến thời điểm đình chỉ hợp đồng, hoặc có quyền không bồi thường tiền bảo hiểm hoặc giảm tiền bồi thường.
- Khi xuất hiện sự kiện bảo hiểm người tham gia bảo hiểm phải thông báo kịp thời cho bên bảo hiểm biết và thực hiện mọi biện pháp cần thiết trong khả năng cho phép để ngăn chặn, hạn chế thiệt hại (Điều 579 Bộ luật dân sự). Trong qui tắc bảo hiểm trộm cướp (do Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam ban hành) qui định: “Khi phát sinh bất kỳ sự cố nào có thể dẫn đến việc khiếu nại theo hợp đồng này, người tham gia bảo hiểm có trách nhiệm:
a. Thông báo cho công an và dành cho họ sự hợp lý để họ tìm ra, trừng phạt kẻ có tội và tìm ra tài sản bị mất cắp.
b. Thông báo cho Bảo Việt bằng văn bản và trong vòng 7 ngày, sau đó gửi cho Bảo Việt hồ sơ khiếu nại bồi thường cùng với tất cả những bằng chứng chi tiết và cụ thể.
- Người tham gia bảo hiểm có nghĩa vụ phòng ngừa thiệt hại. Điều 578 Bộ luật dân sự qui định:
1. Bên được bảo hiểm có nghĩa vụ tuân thủ các điều kiện ghi trong hợp đồng, các qui định của pháp luật có liên quan và thực hiện các biện pháp phòng ngừa thiệt hại.
2. Trong trường hợp bên được bảo hiểm có lỗi không thực hiện các biện pháp phòng ngừa thiệt hại đã ghi trong hợp đồng và sau một thời gian được bên bảo hiểm ấn định để thực hiện biện pháp phòng ngừa mà vẫn không thực hiện thì bên bảo hiểm có quyền đơn phương đình chỉ hợp đồng hoặc không trả tiền bảo hiểm.
Nghĩa vụ này nhằm nâng cao trách nhiệm của người tham gia bảo hiểm bởi vì bảo hiểm không có nghĩa là trút mọi trách nhiệm cho người bảo hiểm.
- Những trường hợp tổn thất xảy ra do lỗi của người thứ ba gây ra, người tham gia bảo hiểm còn có nghĩa vụ trao cho bên bảo hiểm quyền truy đòi người gây thiệt hại và giúp bên bảo hiểm có thể thực hiện tốt quyền này. Tại điều 14 qui tắc bảo hiểm hoả hoạn có qui định “Trường hợp thiệt hại thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm do người thứ ba gây ra, người tham gia bảo hiểm có trách nhiệm báo ngay cho Bảo Việt và làm những thủ tục pháp lý cần thiết để bảo lưu quyền khiếu nại của Bảo Việt, hỗ trợ Bảo Việt đòi người thứ ba”.
III. Quyền - Nghĩa vụ của người thứ ba trong hợp đồng bảo hiểm.
Người thứ ba mặc dù không tham gia ký kết hợp đồng nhưng là người có lợi ích liên quan chặt chẽ với việc ký kết đó, họ chính là người được bảo hiểm. Vì vậy mà người thứ ba vẫn còn có một số quyền và nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng. Xét mối tương quan giữa quyền và nghĩa vụ thì họ là người được hưởng quyền nhiều hơn. Cụ thể là người thứ ba có quyền hưởng tiền bảo hiểm, có quyền trực tiếp yêu cầu bên bảo hiểm thực hiện nghĩa vụ bồi thường đối với tổn thất do rủi ro bảo hiểm xảy ra. Về nghĩa vụ, người thứ ba có nghĩa vụ trong việc bảo vệ đối tượng bảo hiểm, phòng ngừa, hạn chế rủi ro, cung cấp thông tin, nghĩa vụ chuyển quyền truy đòi kẻ gây hại,... Song người thứ ba lại không phải thực hiện nghĩa vụ nộp phí bảo hiểm (vốn được coi là nghĩa vụ nặng nề nhất) mà nghĩa vụ này thuộc về người mua bảo hiểm. Tuy vậy, người thứ ba cũng không có quyền thiết lập, sửa đổi hợp đồng bảo hiểm.
B. THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM.
Thực hiện hợp đồng bảo hiểm là việc các bên tiến hành các hành vi mà mỗi bên tham gia hợp đồng phải thực hiện nhằm đáp ứng các quyền tương ứng của bên kia.
Khi thực hiện hợp đồng bảo hiểm, các bên phải thực hiện một cách trung thực, theo tinh thần hợp tác và có lợi nhất cho các bên, bảo đảm tin cậy lẫn nhau, không xâm phạm đến lợi ích Nhà nước, công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác; thực hiện đúng, đầy đủ các điều khoản về đối tượng bảo hiểm, sự kiện bảo hiểm, phí bảo hiểm, số tiền bảo hiểm,... đã xác định trong hợp đồng.
Trong phần này chỉ xin đề cập đến một vấn đề quan trọng nhất đó là thủ tục trả bảo hiểm.
Khi xảy ra sự kiện bảo hiểm, việc bồi thường tổn thất được thực hiện theo các bước sau:
- Thứ nhất, giám định tổn thất:
Giám định tổn thất là hoạt động kiểm tra, kết luận của bên bảo hiểm đối với đối tượng được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. Theo qui định của pháp luật, người được bảo hiểm phải kịp thời làm giấy báo và yêu cầu bên bảo hiểm đến giám định tổn thất nhằm: xác định tình trạng tổn thất, mức độ thiệt hại vật chất, nguyên nhân gây ra tổn thất. Người được bảo hiểm hoặc người đại diện phải để nguyên trạng đối tượng đã bị tổn thất, không làm mất dấu vết, xác trộn hoặc tự động di chuyển đi nơi khác trừ khi có sự chứng kiến tại hiện trường của đại diện các cơ quan hữu quan tạm lập biên bản để chờ giám định viên của bảo hiểm đến giám định cụ thể. Việc giám định phải có mặt người được bảo hiểm và phải lập thành biên bản giám định.
Đối với một số hợp đồng bảo hiểm con người việc giám định không cần đặt ra. Hay với những giá trị tổn thất nhỏ cũng không cần phải giám định. Ví dụ trong bảo hiểm vật chất xe cơ giới, đối với những vụ tai nạn ước tính từ 500.000 đồng trở lên thì Bảo Việt mới tiến hành giám định còn những vụ tai nạn nhỏ dưới 500.000 đồng thì không cần giám định nhưng chủ xe phải khai báo thật đầy đủ, chi tiết nguyên nhân, diễn biến vụ việc.
Nếu việc giám định mà hai bên không thoả thuận được mức độ thiệt hại thì có thể mời giám định viên chuyên ngành tiến hành giám định. Biên bản giám định kèm theo các văn bản xác nhận có liên quan khác là chứng cớ có giá trị pháp lý để xử lý bồi thường tổn thất.
- Thứ hai, khiếu nại, đòi bồi thường.
Khiếu nại, đòi bồi thường là hành vi của người được bảo hiểm yêu cầu bên bảo hiểm trả tiền bảo hiểm trên cơ sở những chứng cớ do người được bảo hiểm đưa ra.
Bộ hồ sơ xuất trình khi khiếu nại, đòi bồi thường phải có:
+ Đơn yêu cầu bồi thường.
+ Giấy chứng nhận bảo hiểm.
+ Biên bản giám định tổn thất.
+ Các tài liệu khác: như chứng từ, hoá đơn làm cơ sở cho việc bồi thường.
Thiệt hại về người bao gồm các hoá đơn, chứng từ viện phí, làm chân tay giả, tiền tàu xe, mai táng phí,... Thiệt hại về tài sản bao gồm các chứng từ hoá đơn liên quan đến chi phí sửa chữa,...
Thời hạn khiếu nại, đòi bồi thường được qui định trong các qui tắc bảo hiểm đối với từng loại hợp đồng bảo hiểm. Ví dụ thời hạn đòi bồi thường đối với hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới là 6 tháng kể từ khi xảy ra tai nạn, đối với hợp đồng bảo hiểm hàng hoá vận chuyển bằng đường biển là 2 năm kể từ khi xảy ra tai nạn, tổn thất. Trong hợp đồng bảo hiểm tính mạng thời hạn đòi bồi thường là 6 tháng kể từ ngày người tham gia bảo hiểm bị chết.
Trong thời hạn qui định kể từ ngày nhận được bộ hồ sơ, bên bảo hiểm sẽ bồi thường hoặc trả lời từ chối bồi thường.
Điều 580 Bộ luật dân sự qui định về trách nhiệm trả tiền bảo hiểm như sau:
1. Bên bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho bên được bảo hiểm trong thời hạn đã thoả thuận; nếu không có thoả thuận về thời hạn, thì bên bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm trong 15 ngày kể từ khi nhận được đầy đủ hồ sơ hợp lệ về yêu cầu trả tiền bảo hiểm.
2. Trong trường hợp bên bảo hiểm chậm trả tiền bảo hiểm thì phải trả cả lãi đối với số tiền chậm trả theo lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước qui định tại thời điểm trả tiền bảo hiểm tương ứng với thời gian chậm trả.
3. Trong trường hợp bên được bảo hiểm cố ý để xẩy ra thiệt hại, thì bên bảo hiểm không phải trả tiền bảo hiểm; nếu do lỗi vô ý của người được bảo hiểm, thì bên bảo hiểm không phải trả một phần tiền bảo hiểm tương ứng với mức độ lỗi của bên được bảo hiểm.
- Thứ ba, thanh toán tiền bồi thường: theo nguyên tắc sau:
+ Bên bảo hiểm chỉ bồi thường bằng tiền chứ không bồi thường bằng hiện vật.
+ Bảo hiểm chỉ bồi thường trong phạm vi số tiền bảo hiểm hay giá trị bảo hiểm trừ khi có các chi phí hợp lý khác.
+ Khi trả tiền bồi thường, bên bảo hiểm được khấu trừ những khoản tiền mà người được bảo hiểm đã đòi được ở người thứ ba.
Điều 581 Bộ luật dân sự cũng qui định một trường hợp riêng.
1. Trong trường hợp người thứ ba có lỗi mà gây thiệt hại cho bên được bảo hiểm và bên bảo hiểm đã trả tiền bảo hiểm cho bên được bảo hiểm, thì bên bảo hiểm có quyền yêu cầu người thứ ba bồi hoàn khoản tiền mà mình đã trả. Bên được bảo hiểm có nghĩa vụ phải cung cấp cho bên bảo hiểm mọi tin tức, bằng chứng mà mình biết để bên bảo hiểm thực hiện quyền yêu cầu đối với người thứ ba.
Trường hợp bên được bảo hiểm đã nhận số tiền bồi thường thiệt hại do người thứ ba trả, nhưng vẫn ít hơn số tiền mà bên bảo hiểm phải trả, thì bên bảo hiểm chỉ phải trả phần chênh lệch giữa số tiền bảo hiểm và số tiền người thứ ba đã trả, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
C. SỬA ĐỔI, CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM.
I. Sửa đổi hợp đồng bảo hiểm
Sửa đổi hợp đồng bảo hiểm là việc các bên đã tham gia giao kết hợp đồng bảo hiểm bằng ý chí tự nguyện của mình thoả thuận với nhau để phủ nhận (làm thay đổi) một số điều khoản trong nội dung của hợp đồng đã giao kết.
Các bên tham gia ký kết hợp đồng bảo hiểm có thể thoả thuận sửa đổi hợp đồng và giải quyết hậu quả của việc sửa đổi để việc thực hiện hợp đồng phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện thực tế của mỗi bên. Nhưng cũng có trường hợp pháp luật qui định không được sửa đổi hợp đồng bảo hiểm cho dù các bên hoàn toàn tự nguyện. Đó là trường hợp qui định ở điều 416 Bộ luật dân sự khi người thứ ba đã đồng ý hưởng lợi ích, thì dù hợp đồng bảo hiểm chưa được thực hiện, các bên giao kết hợp đồng cũng không được sửa đổi hoặc huỷ bỏ hợp đồng, trừ trường hợp được người thứ ba đồng ý.
Nhưng người thứ ba cũng không có quyền sửa đổi hợp đồng mà việc sửa đổi phải thực hiện thông qua người tham gia bảo hiểm.
Việc sửa đổi hợp đồng bảo hiểm cũng phải được ghi thành văn bản.
II. Chấm dứt hợp đồng bảo hiểm.
Hợp đồng bảo hiểm chấm dứt trong các trường hợp sau đây:
- Hợp đồng bảo hiểm chấm dứt theo sự thoả thuận của các bên.
- Khi hợp đồng bảo hiểm đã hoàn thành: khi các bên tham gia hợp đồng đã thực hiện toàn bộ nội dung các nghĩa vụ và do vậy, mỗi bên đều đáp ứng được quyền của mình, thì hợp đồng được coi là hoàn thành.
- Hợp đồng bảo hiểm không thể thực hiện được do đối tượng của hợp đồng không còn không phải do sự kiện bảo hiểm xảy ra. Ví dụ: hai bên tham gia ký kết một hợp đồng bảo hiểm cháy cho một tài sản nhưng tài sản này bị mất trộm.
- Đơn phương đình chỉ hợp đồng:
+ Trong trường hợp bên mua bảo hiểm chậm đóng phí bảo hiểm theo định kỳ và hết thời hạn được bên bảo hiểm ấn định mà bên mua bảo hiểm không đóng phí bảo hiểm thì hợp đồng chấm dứt.
+ Trường hợp bên mua bảo hiểm cố ý cung cấp thông tin sai nhằm giao kết hợp đồng để hưởng tiền bảo hiểm thì bên bảo hiểm có quyền đơn phương đình chỉ hợp đồng hoặc trường hợp bên được bảo hiểm có lỗi không thực hiện các biện pháp phòng ngừa thiệt hại.
+ Trường hợp hợp đồng bảo hiểm tài sản, chủ sở hữu mới của tài sản mà được chuyển giao có quyền đơn phương đình chỉ hợp đồng nếu là bảo hiểm tự nguyện.
MỘT VÀI KIẾN NGHỊ
Lĩnh vực bảo hiểm ở nước ta hiện nay đang diễn ra rất sôi động, trên thị trường bảo hiểm đã có rất nhiều doanh nghiệp bảo hiểm và sản phẩm bảo hiểm đang cạnh tranh quyết liệt. Việc tạo ra một cơ chế pháp lý nhằm đổi mới và hoàn thiện, nâng cao vai trò của bảo hiểm nhằm đáp ứng cho sự phát triển của bảo hiểm theo cơ chế thị trường mới là một đòi hỏi tất yếu.
Đề tài luận văn này tuy chưa đề cập được hết các vấn đề cũng như việc phân tích, đánh giá về bảo hiểm và hợp đồng bảo hiểm mới chỉ ở những giác độ chung nhất, khái quát nhất song nó cũng phần nào giúp bạn đọc hiểu sâu thêm về lĩnh vực bảo hiểm và hợp đồng bảo hiểm.
Qua quá trình nghiên cứu các văn bản pháp luật hiện hành cũng như nghiên cứu hoạt động bảo hiểm ở nước ta hiện nay, tôi muốn đưa ra một vài kiến nghị nhằm hoàn thiện các văn bản pháp luật về bảo hiểm và hợp đồng bảo hiểm cho phù hợp với thực tiễn đổi mới ở nước ta.
1. Cần phải xây dựng và ban hành luật kinh doanh bảo hiểm.
Hoạt động kinh doanh bảo hiểm là một loại hình kinh doanh thuộc lĩnh vực dịch vụ tài chính, là công cụ quan trọng nhằm ổn định kinh tế đời sống nhân dân và thúc đẩy nền kinh tế phát triển thông qua việc ngăn ngừa hạn chế rủi ro trong mọi mặt hoạt động của xã hội, huy động vốn đầu tư cho phát triển. Trước năm 1993 thị trường bảo hiểm Việt Nam chỉ có duy nhất Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam hoạt động mang tính bao cấp, độc quyền. Nhằm đổi mới và phát triển đa dạng hoá hoạt động bảo hiểm phù hợp với hướng đổi mới nền kinh tế theo hướng thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Qua 6 năm thực hiện đổi mới hoạt động bảo hiểm (từ khi có Nghị định 100/CP ban hành ngày 18/12/1993) thị trường bảo hiểm Việt Nam đã có những bước phát triển đáng kể. Nhưng qui mô của thị trường bảo hiểm Việt Nam còn chưa tương xứng với tiềm năng và yêu cầu phát triển kinh tế xã hội và hội nhập quốc tế. Tổng doanh thu phí bảo hiểm mới đạt 0,58% GDP trong khi đó tỷ lệ này tại các nước trong khu vực khoảng từ 3-5% GDP và các nước phát triển là 14%. Nguyên nhân của tình trạng này thì có nhiều nhưng nguyên nhân chủ yếu là do hệ thống pháp luật còn phân tán và đơn giản. Hầu hết các văn bản pháp luật về bảo hiểm đều do Bộ Tài chính ban hành dưới dạng qui tắc bảo hiểm cho từng nghiệp vụ. Ngoài ra các cơ quan bảo hiểm cũng tự ban hành một số qui tắc, thể lệ, hướng dẫn để nêu ra các điều kiện và nguyên tắc cho hoạt động của mình. Chưa có luật chuyên ngành tạo môi trường pháp lý đầy đủ và ổn định để điều chỉnh hoạt động bảo hiểm. Hiện tượng chồng chéo của các văn bản pháp luật gây khó khăn không nhỏ trong việc áp dụng. Trong các nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu và tàu biển, bảo hiểm hàng không, bảo hiểm xây lắp và dầu khí,... vẫn còn phải áp dụng luật lệ của nước ngoài nên việc xác định quyền, nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng gặp khó khăn, khi có tranh chấp thì giải quyết rất phức tạp, không thống nhất.
Xuất phát từ những tồn tại trên, nhằm hoàn thiện hệ thống, pháp luật về bảo hiểm, đồng bộ với pháp luật hiện hành, tạo cơ sở pháp lý cho thị trường bảo hiểm Việt Nam phát triển lành mạnh và có hiệu quả, nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước, việc ban hành Luật kinh doanh bảo hiểm là một đòi hỏi cấp thiết.
Việc xây dựng Luật kinh doanh bảo hiểm nên theo hướng chuyên biệt, chỉ điều chỉnh hoạt động kinh doanh bảo hiểm do các doanh nghiệp bảo hiểm tiến hành mà không áp dụng đối với hoạt động bảo hiểm mang tính bảo đảm hay trợ cấp xã hội như bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế do Nhà nước tiến hành nhằm thực hiện chính sách phúc lợi. Đối với loại hình này Chính phủ đã ban hành Nghị định số 58/CP ngày 13/8/1998 ban hành Điều lệ bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội theo qui định tại Nghị định số 12/CP ngày 26/1/1995 của Chính phủ ban hành Điều lệ bảo hiểm xã hội.
Luật kinh doanh bảo hiểm nên gồm những nội dung cơ bản như sau:
- Chương 1: Những qui định chung: về các vấn đề: phạm vi điều chỉnh của luật, giải thích từ ngữ, bảo đảm của Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm, hợp tác quốc tế và những nguyên tắc cơ bản trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm.
- Chương 2: Hợp đồng bảo hiểm: qui định những vấn đề đặc thù về hình thức và nội dung cơ bản hợp đồng bảo hiểm. Cụ thể hoá từng loại hợp đồng bảo hiểm...
- Chương 3: Doanh nghiệp bảo hiểm: qui định nội dung hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm, điều kiện và hồ sơ cấy giấy phép kinh doanh bảo hiểm.
- Chương 4: Đại lý bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm.
- Chương 5: Tài chính, hạch toán kế toán và báo cáo.
- Chương 6: Quản lý Nhà nước về hoạt động kinh doanh bảo hiểm: qui định về nội dung quản lý Nhà nước, cơ quan quản lý Nhà nước và trách nhiệm của cơ quan Nhà nước.
- Chương 7: Khen thưởng và xử lý vi phạm.
2. Cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền bảo hiểm trong nhân dân.
Bảo hiểm là công cụ để xử lý rủi ro, đóng vai trò quan trọng trong việc bồi thường, khắc phục hậu quả của các thiên tai, tai nạn góp phần ổn định nền kinh tế xã hội, huy động vốn cho đầu tư phát triển. Kinh tế càng phát triển thì nhu cầu về bảo hiểm càng cao. Con người càng có nhiều tài sản thì sự mất mát càng tăng lên. Có rất nhiều nguy hiểm có thể xảy đến với con người gây ra những thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, tài sản. Con người ngày càng cảm thấy sự mất an toàn khi sống trong thế giới đầy rẫy những hiểm hoạ này. Tai nạn lao động, tai nạn giao thông ngày càng có nguy cơ lớn do tình trạng đô thị hoá, số máy móc và phương tiện vận tải tăng nhanh, bệnh tật lây lan nhanh chóng (nhiều căn bệnh được coi là nan y, hiểm hoạ của nhân loại). Ngay cả môi trường trong lành mà trước kia con người từng biết đến thì nay cũng chứa đầy những độc tố gây nguy hiểm có hại cho sức khoẻ con người do tình trạng ô nhiễm môi trường ngày càng trầm trọng. Điều này cho thấy bảo hiểm là nhu cầu tất yếu khách quan của cuộc sống hiện đại và sự phát triển mạnh mẽ của bảo hiểm nước ta trong thời gian qua cũng cho thấy điều đó. Song sự phát triển của bảo hiểm ở Việt Nam vẫn chưa tương xứng với qui mô của nó. Ở các nước phát triển người dân rất quen với việc tham gia bảo hiểm và hiểu rất rõ về lợi ích to lớn mà bảo hiểm mang lại. Còn ở Việt Nam nhân dân ta chưa được tiếp xúc nhiều với bảo hiểm và cũng chưa nhận thức được sự cần thiết của bảo hiểm. Người dân vẫn chưa thoát hẳn nếp nghĩ cũ trông chờ ở Nhà nước bao cấp, trợ giúp khó khăn khi có tai nạn, rủi ro. Do đó mọi người còn xa lạ với bảo hiểm đích thực theo cơ chế mới.
Từ thực tế đó, cho thấy sự cần thiết phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền quảng cáo bảo hiểm cho nhân dân. Bảo hiểm và quảng cáo, quảng cáo với bảo hiểm đã đến lúc không thể thiếu trong công tác kinh doanh của các doanh nghiệp bảo hiểm.
Muốn thức hiện tốt công tác tuyên truyền quảng cáo ngàn bảo hiểm cần phải kết hợp chặt chẽ cùng với các cấp, các ngành, các đoàn thể quần chúng như Hội phụ nữ, Hội cựu chiến binh, đoàn thanh niên,... tham gia vận động, nâng cao nhận thức cho toàn dân để mọi người hiểu và tham gia bảo hiểm vừa ích nước, vừa lợi nhà, huy động sức mạnh của cả cộng đồng tham gia vào việc từ thiện, nhân đạo, cứu trợ, giải quyết tài chính, bảo vệ cuộc sống cho những người bị rủi ro bất thường trong cuộc sống.
Việc tuyên truyền phải kết hợp nhiều hình thức: qua truyền hình, phát thanh, báo chí, qua các hội nghị, diễn đàn,..
Đối với người dân Việt Nam, trăm nghe không bằng mắt thấy, trăm thấy không bằng chứng minh thực tiễn việc làm nên các cán bộ, nhân viên bảo hiểm phải luôn lấy thực tiễn công việc, nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng để khách hàng ngày càng có niềm tin vào bảo hiểm.
3. Nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ làm công tác bảo hiểm để đáp ứng tình hình mới.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ về mọi mặt, ngành bảo hiểm phải không ngừng phát triển đội ngũ cán bộ nhân viên về cả chất lượng và số lượng. Con người bảo hiểm ngày càng phải được nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn thông qua đào tạo, tái đào tạo và tuyển dụng mới. Hơn nữa việc đào tạo, huấn luyện, giáo dục phải được chuyên nghiệp hoá. Chất lượng của cán bộ, nhân viên bảo hiểm không chỉ thể hiện ở trình độ bằng cấp, mà còn ở chất lượng sản phẩm bảo hiểm cung cấp cho khách hàng, ở phong cách và văn hoá kinh doanh. Chính sách con người là yếu tố quan trọng tạo môi trường để nhân viên bảo hiểm phục vụ khách hàng tốt hơn.
4. Phát triển sản phẩm mới.
Một danh mục rộng các sản phẩm bảo hiểm cần được phát triển để đáp ứng các nhu cầu khác nhau của người mua, chứ không phải chỉ để thoả mãn một vài nhận thức mơ hồ về cái mà có lẽ khách hàng muốn hoặc về cái mà thị trường sẵn có. Điều đó đòi hỏi phải hiểu biết hết sức sâu sắc về khách hàng và về các yêu cầu không ngừng đổi mới của họ. Sự hiểu biết các bạn hàng trên thị trường về văn hoá, về đất nước và con người phải được đặt lên vị trí hàng đầu. Phương châm của bảo hiểm phải là: “Phục vụ khách hàng một cách tốt nhất để phát triển”, coi khách hàng là trung tâm của mọi hoạt động.
5. Công nghệ thông tin.
Bảo hiểm phải luôn luôn lưu ý tới bản thân mình tới những cơ hội và thách thức mà việc phát triển công nghệ thông tin mang lại. Đặc biệt phải ý thức được vai trò quan trọng của công nghệ thông tin đối với phục vụ khách hàng và kinh doanh. Nhiều công ty bảo hiểm lớn trên thế giới đã thực hiện việc chào bán bảo hiểm trên các trang Web của hệ thống thương mại điện tử qua đó mà doanh số thu tăng cao và tiết kiệm được chi phí bán hàng. Ở Việt Nam các công ty bảo hiểm cần phải đầu tư hệ thống cơ sở vật chất công nghệ thông tin, ứng dụng khoa học kỹ thuật để mang lại hiệu quả kinh tế và quản lý cao.
6. Cần phải đơn giản hoá thủ tục trả bảo hiểm.
Một trong các vấn đề không khuyến khích được người tham gia bảo hiểm đó là vấn đề trả bảo hiểm. Việc trả bảo hiểm phải đảm bảo dễ dàng, thuận tiện và nhanh chóng. Có như vậy tác dụng khôi phục, ổn định sản xuất và đời sống của bảo hiểm mới được phát huy. Thực tế hiện nay, thủ tục giải quyết bồi thường, trả bảo hiểm còn rất phức tạp, nhiều trường hợp cơ quan bảo hiểm còn chậm trễ trong việc giải quyết hồ sơ khiếu nại bồi thường. Cũng còn một vấn đề nữa làm cho việc trả bảo hiểm bị kéo dài, phức tạp đó là chất lượng giám định hiện nay chưa đạt yêu cầu.
Do vậy, phải có những qui định chặt chẽ để cải tiến thủ tục trả bảo hiểm, rút ngắn thời gian và tiết kiệm chi phí của khách hàng trong việc đòi bồi thường. Nên chăng tạm ứng một phần tiền khi có thiệt hại sau đó tiếp tục điều tra.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tuyển tập Các-Mác - Anghen (tập III - NXB Sự Thật, Hà Nội - 1971).
2. Bộ Luật dân sự Việt Nam thông qua ngày 28/10/1995
3. Bộ Luật hàng hải thông qua ngày 30/6/1990
4. Pháp lệnh hợp đồng dân sự ngày 29/4/1991
5. Nghị định 100/CP ngày 18/12/1993 của Chính phủ về kinh doanh bảo hiểm.
6. Nghị định 115/CP ngày 17/12/1997 của Chính phủ qui định chế độ bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới.
7. Các qui tắc bảo hiểm ban hành kèm theo các quyết định của Bộ Tài chính và một số qui tắc thể lệ bảo hiểm do Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam ban hành.
8. Giáo trình Luật dân sự Việt Nam tập II (Trường ĐH Luật - Hà Nội - 2000).
9. Giáo trình Luật tài chính Việt Nam (Trường ĐH Luật - Hà Nội - 2000).
10. Giáo trình kinh tế bảo hiểm (Trường ĐH - Kinh tế quốc dân - Hà Nội - 1994).
11. Tạp chí bảo hiểm do Tổng công ty bảo hiểm Việt nam xuất bản.
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 1
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM 2
A. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA BẢO HIỂM 2
I. Vì sao bảo hiểm ra đời 2
II. Vai trò của bảo hiểm 3
III. Lịch sử phát triển bảo hiểm trên thế giới. 5
B. KHÁI NIỆM BẢO HIỂM 7
CHƯƠNG II: KHÁI NIỆM HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM 9
A. KHÁI NIỆM HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM 9
I. Khái niệm 9
II. Đặc điểm của hợp đồng bảo hiểm 9
B. CHỦ THỂ CỦA HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM 11
I. Bên bảo hiểm 11
II. Người tham gia bảo hiểm 13
III. Người thứ ba trong hợp đồng bảo hiểm 14
C. SỰ KIỆN BẢO HIỂM 14
I. Rủi ro bảo hiểm. 15
II. Tổn thất 17
D. ĐỐI TƯỢNG CỦA HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM 20
1. Đối tượng bảo hiểm là tài sản. 20
2. Đối tượng bảo hiểm là con người 21
3. Đối tượng bảo hiểm là trách nhiệm dân sự 21
E. PHÂN LOẠI HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM 22
I. Phân loại theo đối tượng bảo hiểm: 22
II. Phân loại theo phương thức hoạt động. 25
F. HÌNH THỨC VÀ THỜI ĐIỂM CÓ HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM - GIAO KẾT HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM 28
I. Hình thức của hợp đồng bảo hiểm 28
II. Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm 28
III. Giao kết hợp đồng bảo hiểm 29
G. GIÁ TRỊ BẢO HIỂM - SỐ TIỀN BẢO HIỂM - PHÍ BẢO HIỂM - BỒI THƯỜNG VÀ CHẾ ĐỘ BẢO ĐẢM BẢO HIỂM 29
I. Giá trị bảo hiểm 29
II. Số tiền bảo hiểm 30
III. Phí bảo hiểm. 31
IV. Bồi thường 32
V. Chế độ bảo đảm bảo hiểm 33
H. THỜI GIAN BẢO HIỂM - KHÔNG GIAN BẢO HIỂM 34
I. Thời gian bảo hiểm. 34
II. Không gian bảo hiểm 35
CHƯƠNG III: NỘI DUNG CỦA HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM 37
A. NỘI DUNG CỦA HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM 37
I. Quyền và nghĩa vụ của bên bảo hiểm. 37
II. Quyền và nghĩa vụ của người tham gia bảo hiểm. 39
III. Quyền - Nghĩa vụ của người thứ ba trong hợp đồng bảo hiểm. 40
B. THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM. 41
C. SỬA ĐỔI, CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM. 43
I. Sửa đổi hợp đồng bảo hiểm 43
II. Chấm dứt hợp đồng bảo hiểm. 43
MỘT VÀI KIẾN NGHỊ 45
1. Cần phải xây dựng và ban hành luật kinh doanh bảo hiểm. 45
2. Cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền bảo hiểm trong nhân dân. 46
3. Nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ làm công tác bảo hiểm để đáp ứng tình hình mới. 47
4. Phát triển sản phẩm mới. 48
5. Công nghệ thông tin. 48
6. Cần phải đơn giản hoá thủ tục trả bảo hiểm. 48
TÀI LIỆU THAM KHẢO 49
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- D0039.doc