MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 1
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG KINH TẾ 3
I. Lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật về hợp đồng kinh tế
ở nước ta 3
1. Thời kỳ kế hoạch hoá tập trung 4
2. Thời kỳ đổi mới kinh tế 6
II. Khái niệm, đặc điểm của hợp đồng kinh tế 7
1. Khái niệm 7
2. Đặc điểm 8
CHƯƠNG II: YÊU CẦU ĐỔI MỚI PHÁP LUẬT VỀ
HỢP ĐỒNG KINH TẾ 9
I. Cơ sở lý luận của việc sửa đổi pháp luật về hợp đồng kinh tế 9
1. Điều kiện kinh tế 9
2. Điều kiện pháp luật 10
II. Cơ sở thực tiễn của việc sửa đổi pháp luật về hợp đồng kinh tế 11
1. Thực tiễn ký kết và thực hiện HĐKT 12
2. Thực hiện và giải quyết tranh chấp Hợp đồng kinh tế 13
CHƯƠNG III: ĐỔI MỚI PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG KINH TẾ 14
I. Định hướng sửa đổi pháp luật về hợp đồng kinh tế 14
1. Về quan điểm loại bỏ Hợp đồng kinh tế 14
2. Về quan điểm duy trì Hợp đồng kinh tế 15
II. Yêu cầu đối với việc sửa đổi pháp luật về hợp đồng kinh tế 16
III. Một số vấn đề cần sửa đổi trong pháp luật về hợp đồng kinh tế 16
1. Những quy định chung 16
2. Ký kết Hợp đồng kinh tế 20
3. Thực hiện, sửa đổi, định chỉ, thanh lý Hợp đồng kinh tế: 21
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 24
TÀI LIỆU THAM KHẢO 26
35 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1509 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hợp đồng kinh tế trong điều kiện cơ chế quản lý kinh tế hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Bất kỳ một hình thái kinh tế nào, việc phát triển nền kinh tế là một trong những vấn đề cốt lõi thúc đẩy xã hội đó đi lên cũng như đảm bảo cho chế độ đó tồn tại là phát triển do vậy mục tiêu phát triển nền kinh tế là rất quan trọng (6/1986).
Trong văn kiện Đại hội Đảng VI (6/1986) đã đề ra: "Giai đoạn này là giai đoạn phát triển một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường, có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng XHCN" và hàng loạt các văn bản pháp luật đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế đã được Nhà nước ta ban hành, trong đó có pháp luật HĐKT được Hội đồng Nhà nước ban hành (nay là UBTVQH) thông qua ngày 25/9/1989. Có hiệu lực từ ngày 19/9/1989. Có thể nói với tư cách là kiến trúc thượng tầng, pháp lệnh HĐKT năm 1989 đã có những đóng góp tích cực trong công cuộc xoá bỏ cơ chế kinh tế cũ thiết lập cơ chế kinh tế mới, là sự phát triển chung của nền kinh tế nước ta. Cho đến nay chúng ta đã đi qua một chặng đường phát triển hơn mười năm và đã có nhiều thay đổi trong nền kinh tế và hệ thống pháp luật. Mặt khác, các quan hệ kinh tế đang ngày càng trở nên đa dạng hoá và phức tạp khiến cho nhiều quy định pháp lệnh HĐKT và các văn bản pháp luật hướng dẫn thi hành trở nên không còn phù hợp. Bên cạnh đó sự ra đời của nhiều văn bản pháp luật quan trọng đã xuất hiện nhiều điểm không thống nhất với nhau như Bộ Luật dân sự và Luật Thương mại. Nó làm giảm hiệu quả việc điều chỉnh của pháp luật đối với các quan hệ xã hội và còn một số vấn đề mâu thuẫn trong HĐKT.
Trong nền kinh tế thị trường, hệ thống pháp luật nói chung mà trước hết là hệ thống pháp luật về kinh tế nói riêng có vai trò tạo ra khuôn khổ pháp lý nhất định và là hành lang cho các chủ thể kinh tế hoạt động sản xuất kinh doanh. Đồng thời pháp luật là công cụ để quản lý nền kinh tế.
Với công cuộc đổi mới nền kinh tế như hiện nay cũng như đổi mới pháp luật về HĐKT em đã chọn đề tài: "Hợp đồng kinh tế trong điều kiện cơ chế quản lý kinh tế hiện nay".
Bằng phương pháp luận CNXHKH, phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử cùng với một số phương pháp nghiên cứu so sánh phân tích, sẽ cố gắng chỉ ra những quan điểm bất cập trong pháp luật HĐKT hiện hành và một số kiến nghị đối với việc sửa đổi pháp luật về HĐKT.
Trên cơ sở đó bản báo cáo này tập trung vào những vấn đề sau:
- Khái quát pháp luật về HĐKT;
- Yêu cầu đổi mới pháp luật về HĐKT;
- Đổi mới pháp luật về HĐKT.
Tuy nhiên đã có nhiều cố gắng trong quá trình nghiên cứu nhưng đây là một đề tài khó, đòi hỏi người nghiên cứu phải có trình độ hiểu biết rộng về mọi lĩnh vực liên quan đến HĐKT. Với trình độ còn hạn hẹp của một sinh viên, chắc chắn bản báo cáo này sẽ còn nhiều thiết sót,... Vì vậy rất mong các thầy cô giáo và các bạn sẽ bổ sung thêm ý kiến cùng tôi để hoàn thiện nội dung đề tài này.
Chương I
KHÁI QUÁT PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG KINH TẾ
I. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG KINH TẾ Ở NƯỚC TA
Pháp luật về HĐKT nói riêng hay hợp đồng nói chung không phải đương nhiên mà có, mà nó phải trải qua một quá trình phát triển lâu dài của quan hệ kinh tế. Ban đầu, hợp đồng biểu hiện mối quan hệ kinh tế giữa những người giữ hàng hoá tồn tại một cách khách quan, sau đó mối quan hệ kinh tế đó trở thành một quan hệ pháp luật khi được pháp luật tác động vào. Do đó để tìm hiểu sự ra đời của HĐKT cần tìm hiểu sự ra đời của hợp đồng nói chung (hay chính là Hợp đồng dân sự).
Hợp đồng không xuất hiện ngay từ khi có con người, mà phần lớn qua những bước phát triển nhất định thì mới có đủ điều kiện cho sự ra đời của Hợp đồng.
Mác nói: "Tự chúng hàng hoá không thể đi tới thị trường và trao đổi với nhau được. Vậy chúng ta phải quay sang phía những người sử dụng hàng hoá, hàng hoá là những đồ vật cho nên đứng trước con người chúng không có cách gì để chối lại được. Nếu hàng hoá không muốn đi thì người ta có thể dùng tới sức mạnh tức là nắm lấy nó. Muốn cho những vật đó quan hệ với nhau nhưng những hàng hoá phải đối xử với nhau như những người mà ý chí nằm trong các vật đó như thế nào để người này phải do ý chí của người kia tức là mỗi người trong 2 người đều phải nhờ vào một hành động tự nguyện chung đối với cả hai bên mới có thể chiếm hữu hàng hoá của người khác - cách nhượng lại hàng hoá của mình". Ý chí của những người giữ hàng hoá ở đây là tự nguyện, từ đó có nguyên tắc tự do khế ước, nghĩa là nếu không có tự cho ý chí thì không có hợp đồng.
Là một loại Hợp đồng chuyên biệt, HĐKT có nguồn gốc từ hợp đồng dân sự, HĐKT chỉ xuất hiện trong chủ nghĩa xã hội khi có những điều kiện nhất định.
Thứ nhất: Có sự trao đổi hàng hoá trên cơ sở sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể.
Thứ hai: Có một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung.
Hai điều kiện này không còn đơn thuần mang tính dân sự và chúng được điều chỉnh bằng một ngành luật mới đó là ngành luật kinh tế.
Hợp đồng kinh tế ra đời sớm nhất ở Liên Xô, sau đó lan ra các nước XHCN khác. Ở nước ta HĐKT ra đời cùng với việc bắt đầu kế hoạch 5 năm lần thứ nhất 1960 - 1965 xây dựng CNXH. Có thể nói với tư cách là thượng tầng kiến trúc, pháp luật về HĐKT của nước ta đã luôn gắn liền và phản ánh được bước phát triển khác nhau của nền kinh tế.
Trong quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về HĐKT ở nước ta có thể được chia làm hai thời kỳ. Thời kỳ kế hoạch hoá tập trung và thời kỳ đổi mới kinh tế.
1. Thời kỳ kế hoạch hoá tập trung
Thời kỳ này kéo dài từ năm 1954 đến năm 1989 là thời kỳ đánh dấu các bước phát triển của pháp luật về HĐKT đặc biệt là 3 văn bản sau:
- Điều lệ tạm thời về Hợp đồng kinh doanh ban hành kèm theo NĐ 735/TTg (10/4/1957);
- Điều lệ tạm thời về chế độ HĐKT ban hành kèm theo NĐ04/TTg (4/1/1960);
- Điều lệ về chế độ HĐKT ban hành kèm theo Nghị định 54/CP (10/3/1975).
Ở nước ta có thể nói: Bản pháp luật đầu tiên đề cập đến HĐKT đó là sắc lệnh 97 - Sắc lệnh ngày 22/05/1950 của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ban hành sửa đổi về dân sự xoá bỏ tuyệt đối hoá quyền dân sự tư nhân. Điều 12 sắc lệnh này quy định "Khi lập khế ước mà có sự tổn thất do bóc lột của một bên vì điều kiện kinh tế của hai bên chênh lệch thì khế ước có thể coi là vô luận". Bằng quy định này của Sắc lệnh, Nhà nước ta đã thừa nhận việc ký kết hợp đồng nói chung, trong đó có các Hợp đồng trong lĩnh vực kinh tế nói riêng, giữa tư nhân với nhau càng cần phải có sự can thiệp của Nhà nước.
Vào cuối năm 1950 nền kinh tế nước ta là một nền kinh tế nhiều thành phần. Kinh tế quốc doanh tuy giữ vai trò chủ đạo nhưng chưa lớn mạnh kinh tế tập thể còn yếu. Kinh tế tư bản còn ở trình độ thấp, kinh tế công - nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp còn rất rộng lớn. Kinh tế tư bản và tư doanh vẫn còn tồn tại để điều chỉnh các mối quan hệ kinh tế giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Chính phủ đã ban hành điều lệ tạm thời về HĐKT kinh doanh số 735 TTg 10/4/1957. Theo điều lệ này, HĐKT được ký kết nhằm mục đích phát triển kinh doanh công thông nghiệp góp phần thực hiện kế hoạch Nhà nước trên nguyên tắc tự nguyện hai bên cùng có lợi và có lợi cho kinh tế phát triển quốc dân. Như vậy, mặc dù tự do cá nhân trong giao kết hợp đồng được tôn trọng song nhưng vẫn luôn đề cao vai trò quản lý của mình, điều này được thể hiện rõ trong quy định về đăng ký hợp đồng "Hợp đồng kinh doanh nếu ký kết giữa 2 đơn vị kinh tế Nhà nước với nhau thì hợp đồng phải được đăng ký tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền" cơ quan công thương tỉnh hoặc cơ quan hành chính huyện.
Có thể nói điều lệ tạm thời về HĐKD là văn bản được đặt nền móng cho sự ra đời của chế độ HĐKT. Trong chừng mực nhất định việc ban hành văn bản này đã góp phần huy động khả năng của mọi thành phần kinh tế vào công cuộc phát triển kinh tế đất nước theo hướng thống nhất cũ tạo quan hệ sản xuất cũ, từng bước xây dựng quan hệ sản xuất mới.
Đến Hiến pháp năm 1959 đã xác định mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước ta. Đại hội lần thứ 3 của Đảng cũng thông qua kế hoạch 5 năm lần thứ nhất 1960 - 1965 để xây dựng công nghiệp hoá. Bắt đầu công cuộc cải tạo các thành phần kinh tế TBTN đã cơ bản hoàn thành kinh tế cá thể trong Nhà nước đã chuyển hoá dần thành kinh tế tập thể thông qua phong trào hệ thống hoá Nhà nước, nền kinh tế chỉ còn lại 2 thành phần kinh tế chủ yếu là kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể.
Các tiền đề cho sự ra đời của HĐKT đã có, hơn nữa Điều lệ tạm thời về HĐKD với nguyên tắc ký kết hợp đồng trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện đó không còn phù hợp nữa. Trong bối cảnh đó Thủ tướng Chính phủ đã ban hành điều lệ tạm thời về chế độ HĐKT kèm theo Nghị định 04 TTg ngày 4/1/1960.
Theo điều lệ này: HĐKT có 2 đặc điểm cơ bản:
Thứ nhất: HĐKT được xây dựng trên cơ sở kế hoạch Nhà nước, nhằm thực hiện chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước.
Thứ hai: Chủ thể của HĐKT bị hạn chế chỉ trong phạm vi các tổ chức kinh tế quốc doanh và các cơ quan Nhà nước, trong đó đại diện các cơ quan Nhà nước được ký hợp đồng dài hạn mang tính nguyên tắc đại diện tổ chức kinh tế quốc doanh ký HĐKT ngắn hạn cụ thể. Điều này thể hiện một cơ chế quản lý chủ yếu theo chiến lệnh chỉ huy trém xuống, báo cáo dưới lên, lãi nộp Ngân sách, lỗ xin trên.
Việc xử lý vi phạm hợp đồng và các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ không được đề cập đến.
Lần đầu tiên khái niệm hợp đồng kinh tế được sử dụng trong bản điều lệ này có thể coi là thời điểm ra đời của HĐKT ở nước ta. Mặc dù có tên gọi điều lệ tạm thời, nhưng bản điều lệ này cũng đã được sử dụng trong 15 năm từ 1960 - 1975 trong suốt thời gian đó chúng ta ở trong điều kiện chiến tranh không tập trung vào việc xây dựng và hệ thống hoá pháp luật.
Điều lệ về chế độ HĐKT ban hành kèm theo Nghị định 54/CP - 10/3/1975).
Ở giai đoạn này HĐKT đã trở thành công cụ pháp lý chủ yếu của Nhà nước để quản lý nền kinh tế.
HĐKT theo điều lệ này có 2 đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất: Việc ký kết Hợp đồng đã bắt buộc, là kỷ luật của Nhà nước. Tính bắt buộc này do tính pháp lệnh của kế hoạch Nhà nước quy định việc thay đổi chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước. Vì vậy, các vi phạm HĐKT đều bị xử lý hết sức nghiêm khắc.
Thứ hai: Về thẩm quyền xử lý tranh chấp HĐKT, bản điều lệ này đã giao cho hai cơ quan: Đó là cơ quan quản lý cấp trên của các đơn vị kinh tế là cơ quan trọng tài kinh tế.
Từ các đặc điểm trên ta có thể thấy HĐKT trong giai đoạn này mang tính kế hoạch, hành chính, tập trung bao cấp rõ nét.
2. Thời kỳ đổi mới kinh tế
Pháp lệnh về HĐKT do Hội đồng Nhà nước (nay là UBTVQH) thông qua ngày 25/9/1989 của Hiệu lực 29/9/1989.
Pháp lệnh về HĐKT ra đời trong bối cảnh đổi mới cơ chế quản lý kinh tế do Đại hội Đảng lần thứ VI đề ra. Xây dựng một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN.
Pháp lệnh HĐKT điều chỉnh các quan hệ HĐKT được thiết lập giữa các đơn vị kinh tế thuộc mọi thành phần kinh tế. Theo pháp lệnh này, HĐKT được ký kết nhằm mục đích kinh doanh và được xây dựng trên cơ sở sự thống nhất ý trí giữa các bên. Như vậy, về nguyên tắc, việc ký kết HĐKT trong thời kỳ này không phải theo chỉ tiêu pháp lệnh, việc ký kết và thực hiện HĐKT theo chỉ tiêu pháp lệnh tuân theo những quy định riêng. Các chủ thể của HĐKT cũng được mở rộng và các chế tài ít khắt khe hơn, nội dung của pháp lệnh này sẽ được nghiên cứu ở các phần sau.
II. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM CỦA HỢP ĐỒNG KINH TẾ
1. Khái niệm
Hiện nay, trong khoa học pháp lý khái niệm hợp đồng được hiểu theo hai nghĩa chủ quan và khách quan.
a. Theo nghĩa khách quan (hay còn gọi là nghĩa rộng)
HĐKT là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ HĐKT giữa các đơn vị kinh tế (còn gọi là chế độ pháp lý về HĐKT).
Trong đó quy định các nguyên tắc ký kết HĐKT, điều kiện chủ thể của HĐKT, thủ tục trình tự ký kết HĐKT, các điều kiện và giải pháp hậu quả của việc thay đổi, huỷ bỏ, đình chỉ HĐKT, trách nhiệm vi phạm HĐKT.
Như vậy, theo nghĩa khả quan này thì pháp luật nói chung là chế độ pháp luật về HĐKT nói riêng luôn luôn phải có những thay đổi theo kịp và phù hợp với sự phát triển của quan hệ kinh tế hay chính xác hơn cũng phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất,...
b. Theo nghĩa chủ quan (hay gọi là nghĩa hẹp)
Điều 1: Pháp lệnh HĐKT ban hành ngày 25/9/1989 quy định:
"HĐKT là sự thoả thuận bằng văn bản, tài liệu giao dịch giữa các bên ký kết về việc thực hiện công việc sản xuất - trao đổi hàng hoá, dịch vụ, nghiên cứu ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật và các thoả thuận khác có mục đích kinh doanh với sự quy định rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của mỗi bên để xây dựng và thực hiện kế hoạch của mình".
Như vậy theo nghĩa này thực chất HĐKT là quan hệ kinh tế giữa các chủ thể ký kết, đó là mối quan hệ ý chí được xác lập một cách tự nguyện, bình đẳng thông qua các hình thức bằng văn bản trong tài liệu giao dịch giữa các bên như công văn, đơn chào hàng, đơn đặt hàng, giấy chấp nhận... Đây là một điểm khác với hợp đồng dân sự. Theo quy định tại điểm 400 BLDS (có hiệu lực từ ngày 01/07/1996) thì hình thức của hợp đồng dân sự rất rộng, có thể giao kết bằng lời nói, bằng văn bản, bằng những hành vi cụ thể... Khi pháp luật không quy định đối với các loại hợp đồng đó phải được giao kết bằng một hình thức nhất định.
Vậy tài sản lại có sự khác nhau này? Như chúng ta đã biết nếu bất kỳ một loại hợp đồng nào khi được ký kết bằng văn bản nó đều có thể là căn cứ vào các bên thực hiện hợp đồng và là căn cứ để cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiểm tra tư cách pháp nhân khi ký kết hợp đồng của các bên, đồng thời cũng là căn cứ để cơ quan tài phán giải quyết tranh chấp nếu có. Mặt khác, đối với HĐKT thường có giá trị lớn và thậm chí rất lớn, cho nên, để tránh tình trạng các chủ thể lợi dụng việc ký kết để chiếm đoạt cho bản thân nên chúng ta phải quy định HĐKT được ký kết bằng các văn bản. Hơn nữa, một HĐKT thường tương đối dài về mặt thực tế mà nói nếu không được thực hiện bằng các loại hình văn bản thì các chủ thể cũng có thể sẽ quên mất một trong một số những chi tiết nhỏ hay những điều khoản nếu có trong Hợp đồng, gây thiệt hại cho các bên gặp khó khăn do việc thực hiện Hợp đồng dẫn đến những tranh chấp đáng tiếc.
2. Đặc điểm
Khi nghiên cứu các quy định này, chúng ta có thể rút ra một số đặc điểm của HĐKT sau:
Đặc điểm về hình thức: Hợp đồng phải được thể hiện dưới hình thức văn bản tài liệu giao dịch.
Đặc điểm về mục đích: Mục đích của hợp đồng phải là mục đích kinh doanh.
Đặc điểm về chủ thể: Chủ thể của Hợp đồng là pháp nhân và cá nhân có đăng ký kinh doanh, trong đó ít nhất một bên tham gia quan hệ Hợp đồng phải là pháp nhân. Ngoài ra, Điều 42 và 43 Pháp lệnh cũng cho phép một số loại chủ thể khác có thể giao kết HĐKT đó là người làm công tác khoa học kỹ thuật, nghệ nhân, hộ gia đình, hộ nông dân, ngư dân, cá thể và các tổ chức cá nhân nước ngoài tại Việt Nam.
Chương II
YÊU CẦU ĐỔI MỚI PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG KINH TẾ
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC SỬA ĐỔI PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG KINH TẾ
Cùng với sự ra đời và phát triển kinh tế các quan hệ xã hội vốn đang trở nên ngày càng đa dạng và phức tạp, nhiều quy định của pháp luật về hợp đồng kinh tế đã tỏ ra lạc hậu, không còn phù hợp nữa. Đây là quy luật tất yếu trong quá trình phát triển của xí nghiệp. Đã đến lúc phải sửa đổi pháp luật về HĐKT cho phù hợp với giai cấp thực tế, tạo điều kiện cho các quan hệ kinh tế phát triển thuận lợi và góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế.
Pháp luật là một trong những bộ phận cơ bản kiến trúc thượng tầng xã hội nó luôn luôn phù hợp với cơ sở hạ tầng của nền kinh tế. Nếu pháp luật phù hợp với các điều kiện kinh tế nó sẽ thúc đẩy nền kinh tế phát triển và ngược lại.
Tuy nhiên, ngoài việc phải phù hợp với các điều kiện kinh tế - cơ sở hạ tầng, pháp luật còn phải thống nhất trong nội tại bản thân nó. Nói một cách đơn giản thì trong một chỉnh thể pháp luật, các văn bản pháp luật phải thống nhất với nhau, không được mâu thuẫn hay chồng chéo với nhau. Có như vậy pháp luật mới phát huy được hiệu quả của nó mới có thể thi hành trên thực tế, nếu không pháp luật chỉ tồn tại trên giấy tờ mà không có giá trị thực tiễn nào.
Qua đó chúng ta có thể xem xét những thay đổi cơ bản của các điều kiện kinh tế, pháp luật, những tiền đề cho sự hình thành pháp luật về HĐKT so với thời gian pháp luật về HĐKT trong cơ chế mới hình thành (1989 - 1990).
1. Điều kiện kinh tế
Từ khi xây dựng nền kinh tế thị trường đến nay chúng ta đã đi được một chặng đường hơn mười năm và có rất nhiều thay đổi về nền kinh tế, trong đó có những thay đổi căn bản và có ảnh hưởng trực tiếp đến pháp luật về HĐKT.
Về lực lượng sản xuất đó có những bước phát triển mạnh mẽ, hàng hoá sản xuất và ngày càng nhiều, nhịp độ tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân hàng năm thời kỳ 1991 - 1995 đạt 8,2%, lạm phát giảm từ chỗ 67,1% năm 1991 xuống còn 12,7% năm 1995.
Từ đó không đủ lương thực cho tiêu dùng trong nước đến nay chúng ta đã có thể xuất khẩu khoảng 2 triệu tấn gạo mỗi năm đứng thứ 2 trên thế giới (sau Thái Lan) việc công nghiệp hoá, hiện đại hoá mang lại nhiều kết quả to lớn và nhiều công trình quan trọng được xây dựng, tạo điều kiện phát triển cho nền kinh tế.
Về quan hệ sản xuất cũng đã được điều chỉnh phù hợp đã có những bước tiến dài trong việc thay đổi cơ chế quản lý những tồn tại của cơ chế kinh tế cũ đã được xoá bỏ, được biểu hiện rõ sự thay đổi lớn trong cơ cấu thành phần kinh tế.
Nền kinh tế thị trường đã được hình thành như thị trường hàng hoá, thị trường sức lao động và một số thị trường khác cũng đang trong quá trình hình thành như thị trường bất động sản, thị trường vốn, v.v...
Những chuyển biến này dẫn đến một hệ quả tất yếu là các quan hệ kinh tế đang ngày càng trở nên đa dạng và phức tạp, đòi hỏi pháp luật với tư cách là kiến trúc thượng tầng cần phải điều chỉnh cho phù hợp, tránh cản trở sự phát triển của các quan hệ kinh tế, đồng thời đảm bảo cho các quan hệ kinh tế phát triển lành mạnh theo định hướng của Nhà nước.
2. Điều kiện pháp luật
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, pháp luật nước ta cũng đã có những bước tiến lớn, rất nhiều văn bản pháp luật mới đã được hình thành trong đó trước tiên cần phải kể đến Hiến pháp 1992 được Quốc hội thông qua ngày 14/4/1992.
Có hiệu lực từ ngày 17/4/1992, Hiến pháp 1992 đã quy định những vấn đề hết sức cơ bản và quan trọng đối với công cuộc đổi mới kinh tế đất nước thể hiện rõ quan điểm của Đảng và Nhà nước về kinh tế thị trường thừa nhận sự tồn tại của nhiều loại hình chủ thể đại diện cho các thành phần kinh tế khác nhau (kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế tư bản, tư nhân, kinh tế tư bản Nhà nước (Điều 16) Hiến pháp. Ngoài ra còn quy định tại các Điều 58, 57, 22 của Hiến pháp 1992).
Văn bản quan trọng thứ 2 phải kể đến BLDS được Quốc hội thông qua ngày 28/10/1995 có hiệu lực từ ngày 1/7/1996. Đây là Bộ luật đồ sộ nhất của nước ta từ trước đến nay. Bao gồm 883 điều trong đó có nhiều quy định rõ nét đến Hợp đồng. Như khái niệm hợp đồng dân sự các chủ thể của hợp đồng, trình tự ký kết, các biện pháp bảo đảm nghĩa vụ,... Có thể nói đã là những quy định có giá trị pháp lý cao, thể hiện một trình độ lập pháp đã phát triển hơn trước rất nhiều pháp luật về HĐKT hoàn toàn có thể áp dụng hay tham khảo những quy định này để xây dựng các quy định của mình.
Luật thương mại được quốc hội thông qua ngày 10/5/1997 có hiệu lực từ ngày 1/1/1998. Đây là lần đầu tiên một đạo luật về thương mại được Nhà nước ta ban hành, nó thể hiện quan tâm xây dựng một nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, theo định hướng XHCN, Luật Thương mại đã quy định khá chi tiết về hoạt động thương mại các hành vi thương mại. Trong đó có Hợp đồng thương mại. Mặc dù có nhiều tranh cãi xung quanh sự ra đời của Luật Thương mại nhưng có thể nói đây là những quy định cần thiết để điều chỉnh các quan hệ thương mại, một loại quan hệ đặc thù và rất phát triển trong nền kinh tế thị trường.
Ngoài ra còn kể đến các đạo luật và các văn bản hướng dẫn trong hệ thống pháp luật kinh tế như. Luật Doanh nghiệp được Quốc hội thông qua ngày 12/06/1999 có hiệu lực từ ngày 1/1/2000, luật đầu tư nước ngoài, luật khuyến khích đầu tư trong nước, các Nghị định của Chính phủ về thị trường chứng khoán, đăng ký kinh doanh, giao dịch bảo đảm và đăng ký giao dịch bảo đảm các Thông tư,...
Tất cả những văn bản pháp luật đó đã được giải quyết phần nào trong nền kinh tế thị trường và tạo điều kiện cho các quan hệ kinh tế ngày càng phát triển. Nhưng mặt khác cần phải đặt ra những vấn đề cần được đổi mới, giải quyết để đảm bảo các quyền của các chủ thể trong kinh doanh, tránh sự mâu thuẫn chồng chéo giữa các văn bản pháp luật chuyên ngành, nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật kinh tế. Đặc biệt là giải quyết mối quan hệ giữa luật kinh tế, luật dân sự, luật thương mại nói chung và giữa hợp đồng kinh tế, hợp đồng dân sự, hợp đồng thương mại nói riêng.
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA VIỆC SỬA ĐỔI PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG KINH TẾ
Thực tiễn thi hành pháp luật về Hợp đồng kinh tế tại thời điểm hiện nay cho thấy có nhiều quy định đã tỏ ra không còn phù hợp. Một số quy định đã lạc hậu, không theo kịp sự phát triển của các quan hệ kinh tế, mặt khác xuất hiện nhiều quan điểm không thống nhất giữa pháp luật về HĐKT và các văn bản pháp luật khác có liên quan. Do đó việc thực hiện pháp luật HĐKT đã gặp nhiều vướng mắc, thậm chí có nhiều trường hợp chủ thể kinh doanh không ký kết HĐKT theo quy định của pháp luật về HĐKT.
1. Thực tiễn ký kết và thực hiện HĐKT
- Khi ký kết HĐKT các chủ thể kinh doanh thường bị nhầm lẫn giữa HĐKT, Hợp đồng dân sự và Hợp đồng thương mại.
- Quy định về hình thức của Hợp đồng phải bằng văn bản hoặc bằng tài liệu giao dịch giữa các bên, làm cho nhiều Hợp đồng đã ký kết mang bản chất của Hợp đồng kinh tế lại bị coi là Hợp đồng dân sự.
- Các quy định về chủ thể ký kết HĐKT nhiều khi không tuân thủ các quy định của HĐKT nguyên nhân một phần là do các chủ thể kinh doanh và cũng có trường hợp là do những bất cập của pháp luật gây nên.
* Chẳng hạn như ký kết HĐKT không đúng phạm vi kinh doanh theo đăng ký kinh doanh. Vi phạm loại này xảy ra rất phổ biến hiện nay, đặc biệt đối với những Hợp đồng thuê nhà, địa điểm kinh doanh mà bên cho thuê không có chức năng kinh doanh trong lĩnh vực này.
* Người ký kết không thẩm quyền ký kết, đây là trường hợp người ký kết Hợp đồng không phải là đại diện đương nhiên của chủ thể có quyền ký kết Hợp đồng nhưng lại không được uỷ quyền bằng văn bản.
* Hợp đồng kinh tế được ký kết giữa hai bên đều không phải là pháp nhân, loại vi phạm này thường xảy ra trong trường hợp các bên ký kết là đơn vị thành viên của các Tổng Công ty và các Ngân hàng chuyên doanh và một số Công ty thành viên có tư cách pháp nhân và một số Công ty thành viên không có tư cách pháp nhân do đó rất dễ nhầm lẫn khi ký kết HĐKT. Khi ký kết dạng này cũng không được coi là HĐKT theo quy định của Điều 2 Pháp lệnh HĐKT hiện hành. Tuy nhiên nếu coi là HĐDS thì cũng không đúng, bởi vì Công ty thành viên này mặc dù không có tư cách pháp nhân nhưng cũng là chủ thể kinh doanh. Điều 22 Hiến pháp 1992 quy định quyền bình đẳng của các chủ thể tham gia kinh doanh trước pháp luật. Vì vậy việc quy định buộc 1 trong 2 bên tham gia hợp đồng phải là pháp nhân là không phù hợp với thực tiễn và trái với quy định của Hiến pháp.
Tuy nhiên những trường hợp trên ngoài vấn đề chủ thể còn có những trường hợp do sự thay đổi chủ thể của quan hệ Hợp đồng nên đã dẫn đến có nhiều cách giải thích khác nhau về luật áp dụng trong quá trình giải quyết tranh chấp.
- Về các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ HĐKT, Pháp lệnh HĐKT hiện hành đã quy định 3 biện pháp bảo đảm thực hiện Hợp đồng là cầm cố, thế chấp và bảo lãnh, nhưng lại quy định phạt vi phạm là biện pháp trách nhiệm tài sản khi có thiệt hại xảy ra mà không quy định nó là một biện pháp bảo đảm thực hiện Hợp đồng. Trên thực tế trong các Hợp đồng kinh tế các bên vẫn thoả thuận với nhau về phạt vi phạm như một biện pháp bảo đảm thực hiện Hợp đồng.
2. Thực hiện và giải quyết tranh chấp Hợp đồng kinh tế
Mặc dù ban hành các văn bản để hướng dẫn giải quyết tranh chấp, nhưng do những hạn chế của các văn bản và tính cục bộ trong việc ban hành văn bản và giá trị pháp lý chưa cao của các văn bản hướng dẫn nên quá trình giải quyết tranh chấp gặp rất nhiều vướng mắc.
Qua báo cáo tổng kết công tác ngành toà án năm 1999, số 40BC/VP ngày 11/3/2000 của Toà án NDTC cho ta thấy việc giải quyết tránh chấp HĐKT của các cơ quan có thẩm quyền hiện nay đang gặp rất nhiều khó khăn. Nhưng không thể phủ nhận rằng có nhiều nguyên nhân mang tính chủ quan trong những khó khăn này như: Trình độ và tinh thần trách nhiệm của những người có thẩm quyền giải quyết tranh chấp còn thấp, ý thức tuân thủ pháp luật của các chủ thể kinh doanh chưa cao, việc tuyên truyền và phổ biến pháp luật chưa được chú trọng,... Nhưng cũng dễ dàng nhận thấy rất nhiều trường hợp là do những nguyên nhân khách quan gây nên, đó là do trong pháp luật HĐKT hiện hành còn tồn tại nhiều điểm không hợp lý và không rõ ràng.
Từ việc phân tích các cơ sở lý luận và thực tiễn cho chúng ta thấy được thực tế đang đòi hỏi phải sửa đổi pháp luật về HĐKT càng sớm càng tốt và phải giải quyết được những bất cập của pháp luật về HĐKT cả về lý luận và thực tiễn đặc biệt là:
+ Khắc phục những bất hợp lý trong các quy định của pháp luật về HĐKT, tạo điều kiện cho các quan hệ kinh tế phát triển, tạo thuận lợi cho quá trình giải quyết tranh chấp về HĐKT;
+ Giải quyết triệt để mối quan hệ giữa 3 loại Hợp đồng: HĐKT, HĐDS, HĐTM,...
Chương III
ĐỔI MỚI PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG KINH TẾ
I. ĐỊNH HƯỚNG SỬA ĐỔI PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG KINH TẾ
Hiện nay khi bàn về các giải pháp cho việc sửa đổi pháp luật về HĐKT, các nhà khoa học pháp lý có đưa ra 2 quan điểm khác nhau.
- Pháp luật về HĐKT tại thời điểm hiện nay là không cần thiết vì mọi quan hệ hợp đồng đã có BLDS và luật thương mại điều chỉnh.
- Pháp luật về HĐKT là cần thiết vì mọi loại Hợp đồng đều có phạm vi riêng và không thể đem các quy định áp dụng cho loại Hợp đồng này để áp dụng cho loại Hợp đồng khác. Quan điểm này được rút ra trên cơ sở phân tích một số quy định của pháp lệnh hiện hành về khái niệm hợp đồng, về chủ thể hợp đồng và một số quy định của pháp lệnh hiện hành về khái niệm hợp đồng, về chủ thể hợp đồng và một số quy định khác của ba loại Hợp đồng trên.
Theo chúng tôi, mỗi quan điểm đều có những căn cứ khoa học nhất định và đều có ưu điểm của nó. Tuy nhiên, quan điểm thứ 2 sẽ là quan điểm được nhiều người chấp nhận trong điều kiện hiện nay.
1. Về quan điểm loại bỏ Hợp đồng kinh tế
Về phương diện lý luận: Về việc loại bỏ HĐKT sẽ dẫn đến một hệ quả tất yếu về vấn đề mối quan hệ giữa HĐKT, HĐDS và HĐTM đó là vấn đề luôn gây ra nhiều tranh cãi từ xưa đến nay. HĐTM sẽ được coi như một loại Hợp đồng riêng đối với HĐDS. Đây là một ưu điểm lớn của giải pháp này, nhưng nó vấp phải khó khăn rất lớn là tư duy pháp lý của chúng ta về sự phân chia hệ thống pháp luật. Tiếp thu quan điểm của các nước XHCN, trong đó có Liên Xô cũ, các nước Đông Âu trước đây về sự phân chia hệ thống pháp luật thành luật công và luật tư mà phân chia thành các ngành luật khác nhau, trong đó có luật kinh tế, cho đến thời điểm như hiện nay, các nhà nghiên cứu cho rằng khái niệm luật kinh tế với tư cách là ngành luật độc lập đã không còn là cơ sở lý luận để tồn tại và có thể thay thế.
- Khái niệm pháp luật kinh tế, một khái niệm rộng hơn bao hàm nhiều lĩnh vực pháp luật liên quan đến các Hợp đồng kinh tế. Nhưng điều đó không có nghĩa là HĐKT không còn là một chế định cơ bản của PLKT.
Về phương diện thực tiễn: Việc loại bỏ HĐKT có 2 ưu điểm lớn:
Một là, chúng ta sẽ tránh được việc ban hành một hệ thống các văn bản pháp luật về HĐKT sửa đổi, trong đó có nhiều văn bản có giá trị thấp hơn luật (Pháp lệnh, Nghị định, Thông tư), những văn bản có giá trị pháp lý thấp và không có tính ổn định cao, trong khi đó các quan hệ kinh tế trong nền kinh tế thị trường luôn đặt ra yêu cầu về tính ổn định, bền vững của pháp luật về kinh tế.
Hai là, mối quan hệ giữa HĐKT, HĐDS, HĐTM đã không còn đặt ra nên chúng ta không phải vấp vào những khó khăn trong việc xác định luật áp dụng cho các quan hệ kinh tế nữa, một vấn đề đã và đang gây ra những lo lắng cho các chủ thể kinh tế khi tiến hành các hoạt động kinh tế.
Tuy nhiên, trái với những ưu điểm trên việc loại bỏ HĐKT cũng sẽ gặp rất nhiều khó khăn.
- Thứ nhất: Chúng ta phải sửa đổi lại rất nhiều văn bản pháp luật hiện hành trong đó có BLDS, Luật thương mại.
- Thứ hai: Chúng ta phải cơ cấu lại một số cơ quan pháp lý và giải quyết tranh chấp kinh tế như Toà án kinh tế của TAND các cấp (trừ TAND cấp huyện) và trọng tài kinh tế.
2. Về quan điểm duy trì Hợp đồng kinh tế
Mặc dù nền kinh tế ở nước ta đã hình thành nhưng phải thừa nhận rằng nhưng nó chưa phải là một nền kinh tế thị trường hoàn chỉnh. Bên cạnh những loại thị trường quen thuộc đã hình thành như thị trường hàng hóa, thị trường lao động thì một số loại thị trường quan trọng khác của nền kinh tế thị trường như thị trường vốn, thị trường bất động sản đang ở giai đoạn hình thành.
Mối quan hệ của HĐKT, HĐDS, và HĐTM có thể giải quyết bằng cách:
+ Coi HĐTM là một chủng loại HĐKT và phân biệt với nhay thông qua việc liệt kê các loại Hợp đồng do luật thương mại điều chỉnh (Luật thương mại hiện nay liệt kê 14 hành vi thương mại tại Điều 45). Còn pháp luật về HĐKT sẽ điều chỉnh những loại Hợp đồng còn lại trong lĩnh vực kinh tế.
+ Lúc này HĐKT phải được coi là một loại Hợp đồng khác biệt so với HĐDS.
Tuy vậy, trên thực tế những phân biệt này vẫn chỉ mang tính tương đối vì sẽ bất hợp lý nếu không sử dụng chung một số quy định cho cả 3 loại Hợp đồng.
Qua phân tích trên chúng ta thấy rằng, giải pháp thứ nhất là loại bỏ HĐKT là một giải pháp triệt để hơn. Nhưng tại thời điểm như hiện nay còn quá nhiều trở ngại cho việc thực hiện nó vì vậy chúng ta nên chấp nhận giải pháp thứ 2. Duy trì HĐKT tồn tại song phương với HĐDS và HĐTM đó là một giải pháp mang tính quá độ.
II. YÊU CẦU ĐỐI VỚI VIỆC SỬA ĐỔI PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG KINH TẾ
Chúng ta có thể xác định một số yêu cầu đối với việc sửa đổi pháp luật về HĐKT như sau:
Thứ nhất: Pháp luật về HĐKT sửa đổi phải giải quyết được mối quan hệ giữa HĐKT, HĐDS và HĐTM về mặt thực tiễn, tức là phải quy định ranh giới rõ ràng của 3 hợp đồng này sao cho khi áp dụng pháp luật để điều chỉnh một quan hệ hợp đồng sẽ không bị nhầm lẫn, bảo đảm an toàn về mặt pháp lý.
Thứ hai: Pháp luật về HĐKT sửa đổi, một mặt phải kế thừa được những điểm hợp lý, tiến bộ của pháp luật về HĐKT hiện hành. Mặt khác phải khắc phục được những điểm bất cập, bổ sung những quy định mới, làm rõ những vấn đề phát sinh trong quan hệ Hợp đồng, hạn chế các tranh chấp có thể xảy ra...
Thứ ba: Về việc sửâ đổi HĐKT trong thời điểm hiện nay là có nhiều thuận lợi trong việc áp dụng BLDS.
Thứ tư: Việc sửa đổi phải được tiến hành một cách đồng bộ, thống nhất. Cuối cùng về mặt kỹ thuật lập pháp, các quy định của pháp luật về HĐKT sửa đổi phải rõ ràng, chính xác chánh sự hiểu biết khác nhau cùng một vấn đề. Có như vậy khi áp dụng các văn bản pháp luật mới có hiệu quả và chính xác.
III. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẦN SỬA ĐỔI TRONG PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG KINH TẾ
1. Những quy định chung
a. Khái niệm về Hợp đồng kinh tế
HĐKT là một quy định cơ bản của pháp luật về HĐKT, là căn cứ để xây dựng phạm vi điều chỉnh của pháp luật về HĐKT. Do đó khái niệm HĐKT cần thể hiện được bản chất và các đặc điểm của HĐKT, để thông qua đó người ta có thể nhận biết được Hợp đồng nào là HĐKT.
Trong pháp lệnh Điều 1 và 2 HĐKT cũng đưa ra định nghĩa về HĐKT như sau:
Điều 1: Pháp luật Hợp đồng kinh tế
HĐKT là sự thoả thuận bằng văn bản, tài liệu giao dịch giữa các bên ký kết và thực hiện công việc sản xuất, trao đổi hàng hoá, dịch vụ nghiên cứu ứng dụng, tiến bộ khoa học kỹ thuật và các thoả thuận khác có mục đích kinh doanh với sự quy định rõ ràng quyền và nghĩa vụ của mỗi bên để xây dựng và thực hiện kế hoạch của mình.
Điều 2: Pháp luật HĐKT quy định
HĐKT được ký kết giữa các bên sau đây:
a. Pháp nhân với pháp nhân
b. Pháp nhân với cá nhân có đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật.
Trong 2 quy định trên chúng ta có thể thấy được những điểm không hợp lý sau:
Thứ nhất: Về mặt kỹ thuật lập pháp, định nghĩa HĐKT mà pháp lệnh đưa ra không có tính khái quát cao, do đó dù dài dòng nhưng vẫn không đủ chính xác. Trong đó, có một số vấn đề không thể hiện bằng bản chất của Hợp đồng như về hình thức của hợp đồng ''... Bằng văn bản, tài liệu giao dịch..." một cụm từ mang tính liệt kê nhưng vẫn không đủ như về đối tượng của hợp đồng.... ''Về việc thực hiện công việc sản xuất, trao đổi hàng hoá dịch vụ, nghiên cứu ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và các thoả thuận khác..." và một số cụm từ không cần thiết để xây dựng và thực hiện kế hoạch của mình.
Thứ hai: Các đặc điểm của HĐKT mà Điều 1, Điều 2 pháp lện đưa ra đã trở thành những điều kiện quá khắt khe đối với các chủ thể kinh tế muốn ký kết hợp đồng, làm hạn chế phạm vi của HĐKT cho đến nay những quy định này không còn phù hợp.
Chẳng hạn như về: +Hình thức hợp đồng
+ Chủ thể ký kết
+ Mục đích của hợp đồng
Tóm lại HĐKT cần có tính khái quát cao, ngắn gọn, rõ ràng nêu lên được bản chất của HĐKT và các đặc điểm để phân biệt với HĐDS bao gồm:
Chủ thể của hợp đồng, cần phải được mở rộng cho tất cả các chủ thể kinh doanh trong nền kinh tế, không phân biệt quy mô tổ chức, hình thức hoạt động.
Mục đích hợp đồng: Phải là mục đích kinh doanh, để phân biệt HĐDS, thì không cần thì hạn chế như quy định của Thông tư 11 quy định.
Các chủ thể ký kết HĐKT với nhau mà hai bên nhằm mục đích kinh doanh, thì đó còn HĐKT. Nếu khi ký kết Hợp đồng một bên nhằm mục đích kinh doanh, một bên không nhằm mục đích kinh doanh nhưng cũng không nhằm mục đích sinh hoạt, tiêu dùng, thuê lao động thì Hợp đồng đó cũng được coi là HĐKT.
Hiện nay chúng ta đang gấp rút soạn thảo pháp lện HĐKT sửa đổi trong dự thảo gần đây nhất. Dự thảo 7 tháng 10/1999 cũng đã có nhiều quy định về HĐKT nhưng dự thảo này vẫn còn một số điểm không hợp lý chẳng hạn như:
Thứ nhất: Điều I khoản 1: Dự thảo pháp luật HĐKT sửa đổi quy định HĐKT là sự thoả thuận giữa các bên quy định tại điều 2 pháp lệnh này, về việc xác lập thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ trong các hoạt động với mục đích kinh doanh.
Tại Điều 2: Dự thảo quy định các bên của Hợp đồng kinh tế bằng cách liệt kê một quy định như vậy sẽ làm cho khái niệm của Hợp đồng kinh tế bị chia cắt, nhưng mang tính khái quát cao, gây khó hiểu cho người đọc trong khi đó, có thể sử dụng một thuật ngữ mang tính khái quát hơn đó là ''Chủ thể kinh doanh". Sau đó giải thích khái niệm chủ thể kinh doanh tại một điều quy định về giải thích từ ngữ hiện nay trong dự thảo đã có Điều 4 Quy định về giải thích từ ngữ. Quy định theo cách này sẽ làm cho khái niệm HĐKT có tính khái quát cao và không mất thêm một điều luật để quy định về các bên của Hợp đồng nữa.
Thứ hai: Điều 1 khoản 1 dự thảo quy định cũng được coi là HĐKT sự thoả thuận giữa một bên được quy định tại Điều 2 pháp lệnh này về việc xác lập, thay đổi trên chấm dứt quyền, nghĩa cụ trong các hoạt động với mục đích kinh doanh là một bên là pháp luật không được quy định tại Điều 2 Pháp lệnh này về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ trong các Hợp đồng nhằm mục đích phục vụ cho việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ pháp nhân.
Để làm rõ khái niệm pháp nhân không được quy định tại Điều 2 pháp lệnh này, trước hết phải xem xét khái niệm pháp nhân được quy định tại Điều 2 pháp lệnh này là gì. Điều 113 BLDS quy định về pháp nhân là tổ chức kinh tế đã liệt kê. Gồm có, doanh nghiệp Nhà nước, hợp tác xã, Công ty TNHH, Công ty cổ phần, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các tổ chức kinh tế khác có đủ các điều kiện quy định tại Điều 94 BLDS. Điều 2 Dự thảo liệt kê năm loại chủ thể của HĐKT, bao gồm: Doanh nghiệp, HTX, tổ hợp tác có đăng ký kinh doanh, hộ gia đình có đăng ký kinh doanh, cá nhân có đăng ký kinh doanh.
Như vậy, so sánh giữa Điều 113 BLDS với Điều 2 và Điều 4 giải thích về doanh nghiệph gồm... thì trong dự thảo có thể thấy rằng khái niệm pháp nhân được quy định tại Điều 2 pháp lệnh này chính là pháp nhân là tổ chức kinh tế được quy định tại Điều 113 BLDS. Từ đó có thể thấy rằng khái niệm pháp nhân không được quy định tại Điều 2 pháp lệnh này là những loại pháp nhân không phải là tổ chức kinh tế đã liệt kê tại Điều 110 BLDS bao gồm: Cơ quan Nhà nước, đơn vị vũ trang, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, quỹ xã hội, quỹ từ thiện.
Như vậy, theo quy định này, Hợp đồng kinh tế được ký kết giữa một pháp nhân là tổ chức kinh tế với các chủ thể kinh doanh khác không được coi là HĐKT khi pháp nhân đó không có mục đích kinh doanh.Trong khi đó lại coi một Hợp đồng được ký kết giữa một phân nhân không có mục đích kinh doanh nhưng không phải là tổ chức kinh tế với các chủ thể kinh doanh là HĐKT. Đây là một quy định không lôgic và không phù hợp. Cần hiểu rằng khái niệm pháp nhân là tổ chức kinh tế ở đây chính là khái niệm pháp nhân hoạt động kinh doanh mà chúng ta đã nêu ở trên. Do đó, việc coi một hợp đồng là HĐKT trong trường hợp một bên ký kết hợp đồng không có mục đích kinh doanh nhưng bên đó là pháp nhân HĐKD, là do đặc điểm về sự độc lập về tài sản của pháp nhân đó với các thành viên của nó và vì thế mọi hành vi của pháp nhân đó với các thành viên của nó và vì thế mọi hành vi của pháp nhân này cuối cùng chỉ là để phục vụ cho HĐKD của mình. Do đó hợp đồng này có bản chất của một HĐKT. Quy định như Dự thảo 7 là ngược lại với lôgic này và sẽ dẫn đến một số hợp đồng có thể coi là HĐKT bị loại bỏ ra khỏi phạm vi điều chỉnh của pháp luật về HĐKT.
b. Hợp đồng kinh tế vô hiệu.
Tại Điều 8 và Điều 39 Pháp lệnh HĐKT quy định về HĐKT vô hiệu hai Điều luật này có những điểm bất hợp lý sau:
Thứ nhất về bố cục: Việc tách 2 điều luật này thành 2 chương khác nhau là khối khoa học, gây khó khăn cho người tìm hiểu.
Thứ hai: Về HĐKT vô hiệu các quy định còn thiếu và không chính xác.
Thứ ba: Về tuyên bố HĐKT vô hiệu, việc giao thẩm quyền tuyên bố HĐKT vô hiệu cho trọng tài kinh tế hiện nay là không còn phù hợp mà thẩm quyền này phải được giao cho toà án. Việc sử dụng thuật ngữ ''Kết luận HĐKT vô hiệu" là không chính xác. Một HĐKT bị vô hiệu là do nó vi phạm các điều kiện pháp luật quy định, chứ không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của một cơ quan Nhà nước nào. Vì vậy, cần phải dùng thuật ngữ tuyên bố HĐKT vô hiệu mới chính xác, cơ quan có thẩm quyền chỉ được căn cứ vào các quy định của pháp luật để xem xét một HĐKT có vô hiệu hay không, sau đó mới tuyên bố đó là HĐKT vô hiệu khi có đủ các căn cứ xác định.
Thứ 4: Về xử lý HĐKT vô hiệu, quy định tại Điều 39 pháp lệnh còn chưa hợp lý, chồng chéo với các quy định của luật hiện hành chính và luật hình sự không phù hợp với tinh thần của pháp luật về Hợp đồng là tôn trọng quyền tự do kinh doanh, tự do định đoạt của các chủ thể kinh doanh.
Những điểm bất hợp lý trên đây đã được Dự thảo 7 giải quyết tương đối triệt để, tuy nhiên vẫn còn có điểm chưa hợp lý khi quy định về trường hợp HĐKT vô hiệu hoàn toàn.
2. Ký kết Hợp đồng kinh tế
a. Nguyên tắc ký kết Hợp đồng kinh tế
Điều 3 Pháp lệnh HĐKT hiện hành quy định: HĐKT được ký kết theo nguyên tắc tự nguyện, cùng có lợi, bình đẳng về quyền và nghĩavụ, trực tiếp chịu trách nhiệm tài sản và không trái pháp luật. Trong nguyên tắc này có hai nguyên tắc cần được giải quyết.
Thứ nhất: Nguyên tắc trực tiếp chịu trách nhiệm tài sản: Nguyên tắc này được hiểu các bên tham gia quan hệ Hợp đồng phải tự mình gánh vác trách nhiệm về tài sản gồm phạt hợp đồng, bồi thường thiệt hại khi có hành vi vi phạm hợp đồng. Như vậy, trách nhiệm tài sản chỉ xảy ra khi đã có Hợp đồng vi phạm.
Do đó không thể coi đây là nguyên tắc ký kết hợp đồng được mà chỉ là hiệu quả pháp lý của việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng.
Thứ hai: Nguyên tắc cùng có lợi, nguyên tắc này không thể được coi là nguyên tắc ký kết hợp đồng bởi vì, một hoặc các bên trong hợp đồng không có lợi chỉ có thể xảy ra trong hai trường hợp.
Một bên trong hợp đồng không có lợi do bị lừa dối, ép buộc, đối với trường hợp này đã có nguyên tắc tự nguyện giải quyết, vì trong trường hợp này bên bị lừa dối, ép buộc không có sự tự nguyện về ý chí.
- Một bên hoặc các bên trong hợp đồng không có lợi nhưng hợp đồng ký kết hoàn toàn hợp pháp, không có sự lừa dối, ép buộc các bên có thể không có lợi kinh tế trước mắt nhưng lại nhằm tới một lợi thế lâu dài, chẳng hạn như quỹ tín nhiệm. Với khách hàng, mở rộng thị trường. Vì vậy, đối với trường hợp này nếu coi cùng có lợi là nguyên tắc ký kết hợp đồng thì nghĩa là nếu thấy không có lợi thì các bên không ký kết hợp đồng trái với nguyên tắc tự nguyện.
Như vậy, về nguyên tắc ký kết HĐKT, pháp luật về HĐKT sửa đổi hoàn toàn có thể áp dụng nguyên tắc ký kết HĐDS được quy định tại Điều 395 BLDS.
b. Người có thẩm quyền ký kết HĐKT
Người có thẩm quyền ký kết HĐKT chỉ có một điểm cần lưu ý không nên sử dụng khái niệm ''đại diện hợp pháp" như trong pháp lệnh HĐKT hiện hành và Nghị đinhj 17 (16/01/1990) đang sử dụng: Do đó ở đây có thể dùng khái niệm đại diện theo pháp luật về thay thế cho khái niệm đại diện hợp tác Điều 9 pháp lệnh HĐKT hiện hành.
c. Các căn cứ ký kết HĐKT:
Qua nghiên cứu Điều 10 HĐKT hiện hành: Về mục đích là nhằm hướng dẫn các bên khi ký kết không bị coi là hợp đồng vô hiệu, còn về tính hiệu quả do các bên tự tìm hiểu.
3. Thực hiện, sửa đổi, định chỉ, thanh lý Hợp đồng kinh tế:
a. Nguyên tắc thực hiện hợp đồng
Theo điều 22 Pháp lệnh HĐKT hiện hành các bên thực hiện hợp đồng tuân thủ một số nguyên tắc sau:
- Nguyên tắc chấp hành hiện thực
- Nguyên tắc chấp hành đúng
- Nguyên tắc chấp hành HĐKT theo tinh thần hợp tác tôn trọng lợi ích của nhau.
Vấn đề này có một số điểm không phù hợp như sau:
Thứ nhất: Tại Điều 22 Pháp lệnh HĐKT hiện hành là không rõ ràng, gây khó khăn cho việc tìm hiểu. Vì vậy nền quy định theo hướng phân định rõ các nguyên tắc bằng cách liệt kê từng nguyên tắc.
Thứ hai: Nguyên tắc chấp hành thực hiện: Các bên phải chấp hành đúng hợp đồng về mặt đối tượng, không được thay thế việc thực hiện hợp đồng đó bằng việc trả một khoản tiền nhất định, nguyên tắc này chỉ phù hợp với điều kiện cơ chế quản lý kinh tế trước đây. Trong cơ chế quản lý hiện nay, các chủ thể kinh doanh có quyền tự do trong HĐKT, có quyền tự do giao kết hợp đồng và cũng có thể thay đổi hoặc huỷ bỏ hợp đồng khi nhận thấy việc tiếp tục thực hiện Hợp đồng là không có lợi. Chính vì vậy việc quy định nguyên tắc tại thời điểm hiện nay là không phù hợp nữa.
Thứ ba: Nguyên tắc chấp hành đúng là toàn bộ các nghĩa vụ đã cam kết đều phải được chấp hành đúng và đầy đủ. Nguyên tắc này có nội hàm rộng bao hàm cả nguyên tắc chấp hành hiện thực. Việc quy định nguyên tắc chấp hành đúng là rất cần thiết nhưng nội dung của nguyên tắc này không nên được hiểu là bao hàm nguyên tắc chấp hành hiện thực như đã trình bày ở trên.
Thứ tư: Nguyên tắc chấp hành theo tinh thần hợp tác, tôn trọng lợi ích của nhau. Nó được xuất phát từ bản chất của quan hệ kinh doanh trong xã hội ta là tự do kinh doanh, tự do cạnh tranh trên tinh thần bình đẳng và hợp tác. Tôn trọng nguyên tắc này là sự thể hiện đạo đức kinh doanh.
b. Các biện pháp bảo đảm thực hiện Hợp đồng kinh doanh
Tại Điều 5 Pháp lệnh HĐKT hiện hành quy định: Có 3 biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng là thế chấp, cầm cố, bảo lãnh tài sản. Mới đây chính phủ đã ban hành Nghị định 165/NĐ-CP ngày 19/11/1999 về giao dịch bảo đảm. Trong đó tại Điều 1 khoản 2 đã cho phép áp dụng Nghị định này đối với các giao dịch kinh tế, thương mại. Trong pháp luật về Hợp đồng ở nước ta ngoài ba biện pháp bảo đảm trên có 4 biện pháp bảo đảm khác được quy định trong BLDS đó là: Đặt cọc (Điều 363), Ký cược (Điều 364), Ký quỹ (Điều365), Phạt vi phạm (Điều377). Như vậy, pháp luật về hợp đồng sửa đổi cần bổ sung các biện pháp bảo đảm này phù hợp với sự phát triển của các quan hệ xã hội, tạo điều kiện cho chủ thể kinh doanh có nhiều khả năng hơn khi lựa chọn các phương pháp bảo đảm phù hợp với đặc thù của quan hệ Hợp đồng và điều kiện của các chủ thể. Tuy nhiên các biện pháp bảo đảm này còn có biện pháp cần phải bàn tới đó là Biện pháp vi phạm. Hiện nay, pháp lệnh HĐKT đang coi phạt vi phạmnhư một biện pháp trách nhiệm tài sản khi có hành vi vi phạm hợp đồng mà không coi đây là một biện pháp bảo đảm thực hiện Hợp đồng (Điều 29 Pháp lệnh 89) và dự thảo 7 cũng vẫn coi đây là một biện pháp trách nhiệm tài sản (Điều 45).
Theo chúng tôi, phạt vi phạm nên được coi là một biện pháp bảo đảm thực hiện Hợp đồng. Bởi vì khác với bồi thường thiệt hại, chỉ cần có hành vi vi phạm, mà không cần có thiệt hại xảy ra là đã có thể áp dụng biện pháp này. Nói cách khác khi hợp đồng đã được giao kết nếu một trong hai bên vi phạm nghĩa vụ, không cần thiết có thiệt hại xảy ra hay không, bên đó sẽ bị phạt vi phạm điều đó gây ra sức ép về mặt tâm lý cho các bên. Vì thế các bên buộc phải thực hiện Hợp đồng.
Như vậy phạt vi phạm mang tính ngăn ngừa vi phạm qua đó bảo đảm cho Hợp đồng được thực hiện chứ không mang tính khắc phục hậu quả như bồi thường thiệt hại, do đó cần coi đây là một biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng. Ngoài ra còn có hai điều kiện kèm theo:
- Phạt vi phạm được thoả thuận trước khi có vi phạm
- Không giới hạn khung phạt nhưng phải giải quyết được mối quan hệ với bồi thường thiệt hại (áp dụng cả hai biện pháp cùng lúc đối với một vi phạm nếu có gây thiệt hại hay chỉ lựa chọn một trong hai).
Ngoài những vấn đề trên, pháp luật về HĐKT còn tồn tại một số điểm chưa hợp lý khác như: Về sửa đổi, huỷ bỏ, đình chỉ hợp đồng kinh tế (Điều 27, 28 pháp lệnh), về bồi thường thiệt hại (Điều 29 Pháp lệnh), giải quyết tranh chấp HĐKT (Điều 7)... Tuy nhiên, những vấn đề này đã được giải quyết trong dự thảo 7, vì vậy chúng tôi không đề cập thêm ở đây chi tiết xin xem ở Dự thảo7.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Pháp luật về HĐKT có vai trò rất quan trọng trong việc điều chỉnh các quan hệ kinh tế trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay. Do đó những bất cập trong pháp luật về HĐKT cần phải được giải quyết càng sớm càng tốt, tạo điều kiện thuận lợi cho các quan hệ kinh tế phát triển góp phần thực hiện có hiệu quả cơ chế kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Qua đó huy động tối đa sự tham gia của mọi thành phần kinh tế vào công cuộc phát triển kinh tế đất nước. Qua nghiên cứu những vấn đề trên, chúng ta có thể thấy rằng việc sửa đổi pháp luật về HĐKT không phải là một công việc đơn giản, nó đòi hỏi sự tìm tòi, nghiên cứu một cách nghiêm túc cả về mặt lý luận và thực tiễn. Với mong muốn đóng góp một phần vào công việc đầy khó khăn này, tôi xin đưa ra một số kiến nghị cho việc sửa đổi pháp luật về HĐKT như sau:
Thứ nhất: Pháp luật về HĐKT sửa đổi phải phản ánh được cơ chế quản lý kinh tế mới của Nhà nước, quản lý bằng pháp luật, chính sách, các công cụ đối với nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Có như vậy mới điều chỉnh một cách tốt nhất quan hệ HĐKT trong cơ chế kinh tế mới, khắc phục được những nhược điểm của pháp luật về HĐKT hiện hành.
Thứ hai: Việc hoàn thiện pháp luật về HĐKT cần phải được đặt trong một chiến lược xây dựng pháp luật kinh tế tổng thể. Tức là phải sửa đổi pháp luật về HĐKT trong giai đoạn hiện nay, phải tính đến sự phát triển của hệ thống pháp luật trong lĩnh vực kinh tế trong tương lai, qua đó xác định các bước phát triển tiếp theo cho pháp luật về HĐKT. Khi đã phát triển đến một giai đoạn nhất định, rất có thể pháp luật riêng cho mỗi loại hợp đồng hiện nay sẽ nhập vào làm một. Trở thành pháp luật về hợp đồng chung cho tất cả các loại hợp đồng.
Thứ ba: Một tình trạng phổ biến ở nước ta hiện nay là các văn bản pháp luật do chúng ta ban hành (mới hoặc sửa đổi), thường mang nặng dấu ấn của cơ quan được giao trách nhiệm soạn thảo. Do đó dễ dẫn đến sự không thống nhất giữa các văn bản pháp luật, nhiều khi còn mâu thuẫn, chồng chéo nhau.
Vì vậy, khi sửa đổi pháp luật về HĐKT nói riêng hay các văn bản pháp luật về kinh tế nói chung cần có một cơ quan, tổ chức tương đối độc lập, coi các cơ quan có trách nhiệm soạn thảo, đứng ra đóng vai trò đầu mối, định hướng cho công tác soạn thảo để tránh những điểm không thống nhất giữa các văn bản pháp luật được ban hành đồng thời đưa ra những định hướng cho sự phát triển của pháp luật tương lai. Xác định bước đi trong quá trình phát triển đó. Có như vậy các văn bản pháp luật được ban hành mới phát huy hết hiệu lực, đảm bảo hiệu quả điều chỉnh các quan hệ xã hội đang ngày càng trở nên đa dạng và phức tạp.
Thứ tư: Để pháp luật về HĐKT đạt được hiệu quả cao trong việc điều chỉnh các quan hệ về HĐKT. Bên cạnh việc sửa đổi pháp luật về HĐKT hiện hành cần phải tiến hành nhiều giải pháp khác mang tính đồng bộ như: Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục về pháp luật HĐKT, hướng dẫn, giải thích các quy định của pháp luật cho các chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng; soạn thảo những hợp đồng mẫu đầy đủ, chi tiết với tính chất hướng dẫn,...
Chúng ta biết rằng lý luận cũng là để phục vụ cho việc giải quyết các vấn đề của thực tiễn. Bất cứ một nghiên cứu nào nếu không đạt được yêu cầu này, sẽ không có giá trị. Mong rằng bản báo cáo này cũng góp ích phần nào cho việc sửa đổi pháp luật về hợp đồng kinh tế.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật kinh tế - Khoa học - ĐH QG Hà nội năm 1997.
2. Giáo trình Luật thương mại Việt Nam. Khoa Luật - ĐH QG Hà nội năm 1998.
3. Giáo trình Nhà nước và pháp luật Đại cương. Khoa Luật ĐH QG năm 1997.
4. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam.
5. Báo cáo tổng kết công tác ngành toà án năm 1999 của TAND tối cao.
6. Những đòi hỏi đối với dự án pháp lệnh HĐKT (sửa đổi).
TS. Đặng Quang Phương - Tạp chí TAND số 9/1995
7. Một số ý kiến về quy định HĐKT vô hiệu:
Nguyễn Quý Trọng - Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 2/1999.
8. Một số ý kiến sửa đổi pháp lệnh về HĐKT.
TS. Nguyễn Thị Khế - Tạp chí Luật học số 3/1999
9. Mấy vấn đề về pháp luật kinh tế Việt Nam hiện nay.
TS. Nguyễn Am Hiểu - Tạp chí luật học số 3/1999.
10. Hoàn thiện cơ sở pháp lý của cơ chế kinh tế thị trường ở nước ta.
Đỗ Ngọc Thịnh - Tạp chí luật học số 2/1999.
MỤC LỤC
Một số từ viết tắt
HĐKT : Hợp đồng kinh tế
HĐTM : Hợp đồng thương mại
HĐDS : Hợp đồng dân sự
TNHH : Trách nhiệm hữu hạn
HĐKTVH : Hợp đồng kinh tế vô hiệu
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 68328.DOC