Trong hai năm 1995, 1997 Quốc hội đã lần lượt ban hành hai văn bản pháp luật mới là Bộ luật dân sự (BLDS) và Luật thương mại (LTM). Đây chính là một bước đột phá mới trong những quy định về hợp đồng và quyền tự do hợp đồng. Nhìn chung, nội dung hai văn bản pháp luật này đều dựa trên cơ sở nền tảng của PL HĐKT nhưng BLDS 1994 và LTM 1997 đều có những quy định thoáng hơn về hợp đồng.
Thứ nhất, chủ thể tham gia ký kết hợp đồng không chỉ giới hạn ở pháp nhân và cá nhân có đăng ký kinh doanh mà tùy thuộc vào tính chất của từng loại hợp đồng, phạm vi chủ thể có quyền giao kết có những sự khác nhau nhất định.
Theo BLDS 1995, các chủ thể của hợp đồng dân sự bao gồm: cá nhân (có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự), pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình. Trong Điều 5 LTM 1997cũng quy định chủ thể của hợp đồng trong lĩnh vực thương mại là cá nhân, pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình có đăng ký kinh doanh hoạt động thương mại. Như vậy, phạm vi chủ thể có quyền giao kết hợp đồng được mở rộng đáng kể.
56 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1138 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hợp đồng mua bán hàng hoá từ lý thuyết đến thực tiễn áp dụng tại công ty TNHH IPC, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
gia tăng, hoạt động mua bán hàng hoá cũng phát triển manh đây là dấu hiệu tốt cho công ty.
5. Những thành tựu đạt được
Mặc dù chỉ mới thành lập 6 năm nhưng công ty TNHH IPC đã từng bước khẳng định được vị thế của mình trên thị trường thép Việt Nam. Là một công ty có quy mô hoạt động nhỏ trên một thị trường tiêu thụ thép khá lớn như Việt Nam, công ty đã thể hiện được điểm mạnh của mình trên so với các đối thủ cạnh tranh khác. Trong những năm hoạt động của mình, công ty đã đạt được một số thành công nhất định: Quy mô hoạt động đang dần được mở rộng, mới đầu thành lập công ty chỉ thuần tuý là một công ty thương mại, gần đây vào năm 2005 công ty bắt đầu mở rộng sang lĩnh vực sản xuất với một xưởng sản xuất thép tại Hải Phòng. Đánh dấu sự chấm dứt thời kỳ chỉ đơn thuần nhập khẩu thép về bán tại thị trường nội địa. Công ty sẽ tiến hành một số công đoạn xử lý đối với sản phẩm thép nhập khẩu nhằm tăng thêm giá trị cho sản phẩm, đáp ứng tốt hơn nhu cầu thép của thị trường. Ban đầu xưởng sản xuất mới chỉ hoạt động với công suất rất nhỏ, định hướng của công ty trong tương lai là nâng cao năng suất, sản lượng của xưởng sản xuất này.
Không chỉ dừng lại ở đó, công ty đang xúc tiến một dự án sản xuất máng đèn cung cấp cho thị trường trong nước. Theo kế hoạch công ty sẽ hợp tác, liên kết với công ty TNHH Đoàn Kết - Đức Giang, Gia Lâm, Hà Nội, tổng số vốn ban đầu là một tỷ đồng, với tỷ lệ vốn góp là 50- 50. Theo nghiên cứu khảo sát thị trường, nếu dự án thực hiện đúng kế hoạch thì đối thủ cạnh tranh lớn nhất về sản phẩm này là công ty bóng đèn phích nước Rạng Đông. Mảng thị trường mà công ty nhắm tới là các tỉnh lân cận Hà Nội và các tỉnh miền núi. Chiến lược cạnh tranh mà công ty lựa chọn là cạnh tranh bằng giá. Sở dĩ như vậy vì công ty có lợi thế về nguồn cung cấp nguyên vật liệu đầu vào là thép.
Hiện tại thị trường tiêu thụ thép chủ yếu của công ty là Hà Nội, Hải Phòng, thành phố HCM và một số tỉnh phụ cận Hà Nội. Mục tiêu sắp tới của công ty là hướng đến thị trường các tỉnh miền trung- khu vực thị trường mà công ty bắt đầu tiếp cận và được nhận định sẽ hứa hẹn nhiều tiềm năng khai thác. Hiện tại, công ty đang tập trung, chú trọng phát triển nguồn nhân lực bằng việc tăng cường tuyển thêm nhân viên, tiến hành chuyên môn hoá trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Với định hướng đặt ra là mỗi nhóm, mỗi nhân viên sẽ chuyên về một mảng thị trường hoặc một nhóm sản phẩm nhất định, nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh và hoàn thành tốt các kế hoạch đề ra.
Chính vì những chuyển biến mang chiều hướng tích cực trên số lượng các hợp đồng mà công ty ký kết trong năm 2006 tăng lên một cách đáng kể so với năm 2005.
II. ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN TRONG QUÁ TRÌNH KÝ KẾT VÀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG CỦA IPC
1. Giao kết hợp đồng
1.1. Lựa chọn khách hàng làm chủ thể giao kết
Công ty TNHH IPC là một thương nhân nên công ty có thể lựa chọn các thương nhân hoặc với bên không phải là thương nhân để giao kết hợp đồng. Tuy nhiên, công ty cũng cần phải lựa chọn khách hàng giao kết để đảm bảo tính hợp pháp của hợp đồng mà còn tìm kiếm lợi nhuận lớn từ hợp đồng đó. Vì trong ùng điều kiện như nhau, không phải việc giao dịch với khách hàng nào cũng đem lại thành công. Vì vậy, một nhiệm vụ quan trọng của công ty trong giai đoạn chuẩn bị là lựa chọn khách hàng
Để tìm hiểu về một khách hàng mà mình muốn đặt quan hệ làm ăn, thông thường công ty sẽ sử dụng đội ngũ nhân viên kinh doanh của mình xâm nhập vào thị trường tìm hiểu đối tác mà mình muốn thiết lập quan hệ làm ăn.
Công ty có hệ thống bán buôn cho các công ty, cơ sở kinh doanh thép, cung cấp sản phẩm đầu vào cho các công ty, cơ sở sản xuất, xây dựng tại Hà Nội, thành phố HCM, Hải Phòng và các tỉnh lân cận. Các công ty này có thể là công ty Việt Nam hoặc công ty nước ngoài có uy tín trên thị trường và hoạt động trong lĩnh vực xây dựng như:
1. Công ty TNHH Đại La Thành
2. Công ty CP Xây lắp và thương mại COMA 25
3. Tổng công ty Vật liệu xây dựng
4. Tổng công ty Lắp máy Việt Nam
5. Công ty TNHH thương mại Thép Việt Nam
6. Công ty CP bê tông Biên Hoà
Công ty cũng có hình thức bán lẻ thép, nếu khách hàng yêu cầu; tuy nhiên số lượng thép bán lẻ chiếm tỷ trọng rất nhỏ.
1.2. Hình thức của hợp đồng
Theo quy định của pháp luật, công ty có thể lựa chọn bất cứ hình thức nào để giao kết hợp đồng. Do đó, tuỳ vào từng trường hợp, từng đối tác, từng khách hàng mà công ty có thể ký hợp đồng dưới các hình thức: văn bản, fax, email hoặc chỉ thông qua điện thoại để giao kết.
Thông thường, đối với các đối tác, nếu công ty có nhu cầu đối với một mặt hàng nào đó với một khối lượng nhất địn, công ty sẽ gửi một bảng hỏi giá cho công ty có khả năng đáp ứng, yêu cầu họ gửi cho mình báogiá. Sau khi có bảng báo giá, hai bên tiến hành đàm phán về các điều khoản và yêu cầu đối tác soạn thảo hợp đồng dưới hình thức văn bản ký vào đó rồi gửi sang cho công ty. Do các đối tác thường là các doanh nghiệp nước ngoài nên quá trình đàm phán chủ yếu diễn ra qua điện thoại hoặc email.
Đối với khách hàng, chủ yếu là khách hàng trong nước nên việc đàm phán diễn ra dễ dàng hơn. Cán bộ kinh doanh của từng nhóm mặt hàng sẽ trực tiếp liên hệ với các công ty, cơ sở kinh doanh thép để tìm kiếm khách hàng cho mình và nếu công ty hay cơ sở kinh doanh đó có nhu cầu các mặt hàng thép mà công ty có khả năng đáp ứng nhu cầu đó thì nhân viên kinh doanh sẽ gửi lời chào hàng và bảng báo giá cho đối tác. Nếu bên được chào hàng chấp nhận lời chào hàng thì cán bộ kinh doanh sẽ trực tiếp soạn thảo hợp đồng dưới dạng văn bản để hai bên tiến hành giao kết hoặc có thể thông qua fax, email
Do hình thức hợp đồng công ty giao kết rất đa dạng đã tạo điều kiện thuận lợi mở rộng giao kết, tưng số lượng hợp đồng.
1.3. Mục đích, nội dung của hợp đồng
Mặt hàng mà công ty kinh doanh là thép nên không nằm trong dạnh mục hàng hoá cấm hoặc hạn chế kinh doanh của TTg. Mặt khác, mục đích của hợp đồng là trao đổi hàng hoá nhằm tìm kiếm lợi nhuận nên không trái pháp luật và đạo đức xã hội.
Nội dung của hợp đồng là kết quả của quá trình đàm phán giữ hai bên với nhau về các điều khoản trong hợp đồng. Nội dung của hợp đồng thương bao gồm các vấn đề sau:
- Tên hàng
- Số lượng: Số lượng vật tư, hàng hoá luôn được ghi chính xác, rõ ràng theo sự thoả thuận cảu các bên chủ thể và tính theo đơn vị đo lường hợp pháp của nhà nước với từng loại mặt hàng như: tạ, tấn, chiếc
Trong những hợp đồng có mua bán nhiều loại hàng hoá khác nhau thì công ty ghi riêng số lượng, trọng lượng của từng loại, sau đó ghi tổng giá trị vật tư, hàng hoá mua bán.
- Chất lượng, quy cách hàng hoá: Trong hợp đồng, công ty luôn ghi rõ phẩm chất, quy cách, tiêu chuẩn kỹ thuật, kích thước, màu sắ, mùi vị, độ ẩm, tạp chất v.v... Nhưng tuỳ loại hàng hoá mà hai bên có thể thoả thuận về các điều kiện phẩm chất, quy cách cho phù hợp.
- Bao bì và ký mã hiệu: Công ty luôn có sự mô tả một cách tỉ mỉ về hình dáng, kích cỡ bao bì, chất liệu, độ bền và cả cách đóng gói hàng, vị trí ký mã hiệu, nội dung ký mã hiệu trên bao bị, đảm bảo ghi nhận đầy đủ các dấu hiệu đặc trưng từng loại hàng như: tên hàng, tên cơ sở sản xuất, trọng lượng hàng, số hiệu đơn hàng, có đủ những chỉ dẫn đặc biệt về vận chuyển, bảo quản bốc xếp.
- Giao nhận hàng
- Giá cả:
+ Đơn vị tính giá: Công ty chọn đơn vị tính giá căn cứ vào tính chất của loại hàng và thông lệ buôn bán mặt hàng đó trên thị trường.
+ Phương pháp định giá: Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, nói chung phương pháp dịnh giá như thế nào để bên mua có thể chấp nhận được là do nghệ thuật tiếp thị của bên bán. Trừ những sản phẩm và vật tư đặc biệt nhà nước đang quản lý giá thì định giá laọi hàng hoá này theo nguyên tắc nhà nước quyết định giá.
- Thanh toán
- Biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng: Mục đích của việc quy định biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng là nâng cao trách nhiệm các bên trong việc thực hiện nghĩa vụ, ngăn ngừa và khắc phục những hậu quả xấu do việc thực hiện hoặc thực hiện không đúng các nghĩa vụ gây ra, đảm bảo quyền lợi cho các bên tham gia quan hệ hợp đồng. Vì vậy, việc quy định biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng công ty luôn tuân thủ một số nguyên tắc như:
+ Chỉ mang tính chất bổ sung cho các nghĩa vụ chính
+ Đối tượng của các biện pháp bảo đảm là những lợi ích vật chất
+ Phạm vi bảo đảm không vượt quá phạm vi nghĩa vụ đã xác định trong nội dung các nghĩa vụ chính của hợp đồng.
+ Chỉ áp dụng khi các có sự vi phạm nghĩa vụ thực hiện hợp đồng
+ Phải có sự thoả thuận giữa các bên về các biện pháp bảo đảm
Các bên có thể thoả thuận trong hợp đồng về các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng sau: Cầm cố tài sản; thế chấp tài sản; đặt cọc; ký quỹ; bảo lãnh
- Trách nhiệm vật chất khi vi phạm hợp đồng: Trong hợp đồng mua bán hàng hoá, điều khoản này quy tụ những điều cam kết rất cụ thể về sự quyết tâm thực hiện nghiêm túc mọi điều khoản đã thoả thuận. Trong đó, xác định một cách cụ thể những trường hợp phải bồi thường do trách nhiệm liên đới, xác định các mức phạt cụ thể theo từng trường hợp. Công ty quy định phạt vi phạm trong hợp đồng nên khi có vi phạm xảy ra công ty có quyền áp dụng cả chế tài phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại.
- Giải quyết tranh chấp
- Trường hợp bất khả kháng
- Hiệu lực của hợp đồng: Hợp đồng có hiệu lực kể từ thời điểm giao kết
Sau đây là bảng kê khai một số hợp đồng thép tiêu biểu mà công ty đã giao kết
Bảng 4: BẢNG KÊ CÁC HỢP ĐỒNG CUNG CẤP THÉP TẤM CÁN NÓNG
Đơn vị: Đồng Việt Nam
TT
Công việc
Trị giá hợp đồng
Thời gian cung cấp
Đối tác ký hợp đồng
1
Thép tấm cán nóng (Tiêu chuẩn CT3, SS400)
147 tấn
Năm 2003
Nhà máy kết cấu thép cơ khí Đông Anh
2
Thép tấm cán nóng (Tiêu chuẩn JIS G3101 SS400)
100.103 tấn
Năm 2003
Công ty CP thép và vật tư Hải Phòng
3
Thép tấm cán nóng (Tiêu chuẩn Q235 tương đương SS400)
300 tấn
Năm 2004
Công ty thép Minh Hoàng
4
Thép tấm cán nóng (Tiêu chuẩn Q235)
249.064 tấn
Năm 2004
Công ty TNHH Anh Đức
5
Thép tấm cán nóng (Tiêu chuẩn Q235)
1.033 tấn
Năm 2004
Công ty TNHH Nam Vang
6
Thép tấm cán nóng
128 tấn
Năm 2005
XN kinh doanh khí số 12
7
Thép tấm cán nóng (Tiêu chuẩn Q235)
550 tấn
Năm 2005
Công ty TNHH Thanh Bình
8
Thép tấm cán nóng (Tiêu chuẩn Q235)
650 tấn
Năm 2005
Công ty cơ khí và lắp máy Sông Đà
9
Thép tấm cán nóng (Tiêu chuẩn Q235)
84 tấn
Năm 2005
Công ty cầu 14
10
Thép tấm cán nóng (Tiêu chuẩn Q345)
180 tấn
Năm 2005
Công ty CT đường sắt
11
Thép tấm cán nóng (Tiêu chuẩn Q345)
750 tấn
Năm 2005
Công ty cơ khí và xây dựng Thăng Long
12
Thép tấm cán nóng (Tiêu chuẩn Q235)
280 tấn
Năm 2006
Công ty TNHH thép Anh Ngọc
13
Thép tấm cán nóng (Tiêu chuẩn Q345)
123 tấn
Năm 2006
Công ty TNHH Xuân Hiếu
(Nguồn: Bảng thống kê các hợp đồng trong các năm 2003, 2004, 2005, 2006)
Bảng 5: DANH MỤC CÁC HỢP ĐỒNG THÉP TIÊU BIỂU ĐANG TIẾN HÀNH
Đơn vị: Đồng Việt Nam
Tên hợp đồng
Giá trị hợp đồng
Tên cơ quan ký hợp đồng
Ngày hoàn thành
Tổng số
Phần đã thực hiện
Phần cò lại
Cung cấp thép tấm cán nóng
2.072.000.000
2.072.000.000
0
Công ty TNHH thép Anh Ngọc
10/11/2006
Cung cấp thép tấm cán nóng
1.039.562.940
1.039.562.940
0
Công ty TNHH Xuân Hiếu
22/11/2006
Tổng giá trị
3.111.562.940
3.111.562.940
0
(Nguồn: Bảng thống kê các hợp đồng năm 2006)
2. Tổ chức thực hiện hợp đồng
2.1. Giao hàng
Trong hoạt động mua bán hàng hoá trong nước tuỳ thuộc công ty vào vị trí của người bán hay người mua, tuỳ thuộc vào điều khoản hai bên thoả thuận trong hợp đồng công ty có thể phải thuê vận chuyển hoặc không. Do đa phần đóng vai trò bên bán nên công ty thường xuyên phải ký các hợp đồng thuê vận chuyển hàng hoá tới điểm giao hàng đã thoả thuận. Ngoài ra, công ty còn có một đội vận tải chuyên phục vụ cho họat động kinh doanh của công ty. Vì thế, tuỳ theo yêu cầu của khách hàng công ty sẽ giao hàng cho người mua tại xưởng của mình ở Hải Phòng hay Hà Nội hoặc cũng có thể giao đến tận xưởng của người mua. Đây là một yếu tố thuận lợi, là một lợi thế cạnh tranh của công ty.
2.2. Kiểm tra hàng hoá trước khi xuất và khi nhận hàng để hạn chế rủi ro
Công ty luôn tiến hành hoạt động kiểm tra hàng hoá trước khi xuất kho và khi nhận hàng để đảm bảo hàng hoá đó đúng tiêu chuẩn, quy cách đã thoả thuận trong hợp đồng. Công ty có quyền từ chối nhận hàng nếu thấy hàng không đáp ứng yêu cầu và yêu cầu bên mua phải tiếp nhận hàng nếu chứng minh hàng công ty cung cấp là đúng theo hợp đồng mà hai bên ký kết. Những việc làm này của công ty đã hạn chế phần nào rủi ro khi giao hàng.
2.3. Chuyển giao quyền sở hữu hàng hoá
Quyền sở hữu hàng hoá có thể thực hiện vào bất cứ lúc nào, có thể trước khi giao hàng, tại thời điểm giao hàng hay sau khi giao hàng tuỳ theo thoả thuận của hai bên trong hợp đồng. Nếu hai bên không có thoả thuận thì theo quy định của pháp luật hiện hành. Sau khi chuyển quyền sở hữu, người mua sẽ có toàn quyền đối với hàng hoá đồng thời phải chịu những rủi ro đối với hàng hoá đó nếu không do lỗi của bên nào. Bên cạnh đó, do mặt hàng mà công ty kinh doanh là những hàng hoá mà pháp luật không yêu cầu đăng ký quyền sở hữu nên việc chuyển quyền sở hữu không cần có điều kiện.
2.4. Làm thủ tục thanh toán và thanh lý hợp đồng
Thanh toán tiền hàng là nghĩa vụ quan trọng nhất cảu bên mua. Người mua phải thanh toán tiền hàng đúng như đã thoả thuận trong hợp đồng, ngay cả trong trường hợp hàng hoá bị mất mát, hư hỏng sau khi quyền sở hữu hàng hoá đã được chuyển từ người bán sang người mua. Trừ trường hợp do lỗi của người bán gây ra. Một số phương thức thanh toán mà công ty sử dụng là:
* Thanh toán ngay: Việc thanh toán được thực hiện ngay sau khi bên bán hoàn thành nghĩa vụ giao hàng hoặc bên mua hoàn thành thủ tục nhận hàng tuỳ theo thoả thuận trong hợp đồng. Kiểu thanh toán này có ưu điểm là nhanh gọn, thuận tiện cho cả người mua lẫn người bán. Có hai phương thức thanh toán ngay mà công ty sử dụng nhiều nhất đó là:
- Thanh toán bằng tiền mặt
- Thanh toán bằng uỷ nhiệm chi (chuyển tiền)
* Trả góp: Theo cách này bên mua nhận hàng và quyền sở hữu hàng hoá và thanh toán tiền hàng theo nhiều đợt. Phương thức thanh toán này phù hợp với những trường hợp bên mua chưa có đủ tiền để thanh toán hết ngay một lúc cho bên bán. Đặc biệt đối với mặt hàng thép mà công ty kinh doanh là mặt hàng có giá cao, cần một lượng vốn lớn. Do đó, phương thức thanh toán bằng trả góp không những tạo điều kiện tốt hơn mà còn khuyến khích người mua. Tuy nhiên, người mua phải có một sự bảo đảm cho việc thanh toán vì đôi khi rủi ro vẫn có thể xảy đối với bên bán.
* Thanh toán trước: Bên mua thanh toán trước cho bên bán một phần hoặc toàn bộ số tiền hàng sau khi hợp đồng nhưng trước khi nhận hàng. Cách này không phổ biến lắm vì rủi ro dễ xảy ra đối với bên mua. Tuy nhiên, với cách này thì bên bán có thể yên tâm sản xuất hay đặt hàng từ bên khác mà không lo bên mua chạy làng. Số tiền bên mua trả trước phải đủ để ràng buộc bên mua thực hiện đúng như đồng mà đã ký kết.
* Trả chậm: Hai bên có thể thoả thuận việc bên mua sẽ trả tiền trong một thời gian nhất định sau khi nhận hàng. Phương thức này chủ yếu xảy ra đối với những đối tác đã có quan hệ làm ăn lâu dài, tin tưởng lẫn nhau và có uy tín. Bên mua chưa đủ tiền thanh toán ngay và bên bán cũng chưa cần thiết phải thu hồi vốn ngay. Phương thức này cũng có thể có rủi ro đối với bên bán, nhất là khi bên mua rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán.
Bên cạnh đó, công ty rất linh hoạt trong việc thu tiền bán hàng từ khách hàng. Đối với những khách hàng mới, lần đầu giao dịch công ty thường yêu cầu thanh toán 100% ngay sau khi giao hàng. Đồng thời, cũng thoả thuận với khách hàng rằng về thời hạn thanh toán các lần giao dịch sau. Tuỳ vào đối tượng khách hàng, tuỳ vào mức độ uy tín của khách hàng mà áp dụng phương thức thanh toán linh hoạt. Đối với phần lớn các khách hàng, công ty sẽ áp dụng phương thức thanh toán 70% ngay sau khi giao hàng và 30% còn lại sẽ thanh toán trong vòng 15 ngày. Một số khách hàng đặc biệt sẽ được ưu tiên có thể chỉ phải thanh toán 50% ngay khi giao hàng. Một hình thức ưu tiên khác giành cho khách hàng đặc biệt là có thể thanh toán trong vòng 30 ngày sau khi giao hàng.
Nếu không có tranh chấp phát sinh, hai bên tiến hành thanh lý hợp đồng.
3. Giải quyết tranh chấp phát sinh
Trong hoạt động kinh doanh không thể tránh khỏi việc nảy sinh các tranh chấp và công ty TNHH IPC cũng không phải là ngoại lệ. Theo thống kê, trong năm 2006 số vụ tranh chấp phát sinh từ hợp đồng mua bán hàng hoá đã lên tới trăm vụ. Tuy nhiên nhìn chung các vụ tranh chấp này đều phát sinh do đối tác chậm trễ trong việc thanh toán. Trong đó, có những vụ hai bên tự thương lượng, giải quyết với nhau và cũng không ít số vụ phải đưa ra Toà án để giải quyết.
Khi nhận thấy đối tác có biểu hiện chiếm dụng vốn của công ty (tức là khi tới hạn thanh toán hợp đồng, đối tác không thanh toán mặc dù công ty đã thúc giục) thì công ty sẽ gửi cho đối tác bản yêu cầu thanh toán, trong đó nêu rõ tổng số tiền mà đối tác còn phải thanh toán; đi cùng với nó là bảng đối chiếu công nợ và bảng tính lãi trả chậm, có chữ ký của người có thẩm quyền.
Nếu như đối tác vẫn tiếp tục không thanh toán thì công ty làm đơn kiện lên Toà án nhân dân do hai bên thoả thuận trong hợp đồng (thường là công ty lựa chọn Toà án Hà Nội) và nộp tiền tạm ứng án phí kinh tế. Hồ sơ khởi kiện bao gồm: đơn khởi kiện, hợp đồng hai bên ký kết, bảng đối chiếu công nợ, và một số giấy tờ khác có liên quan, như: phiếu xuất kho, nhập kho, hoá đơn giá trị gia tăng Sau khi xem xét hồ sơ vụ án, Toà án tiến hành hoà giải:
- Nếu Toà án hoà giải thành công thì lập Biên bản hoà giải thành
- Nếu hoà giải không thành thì Toà án tiến hành các thủ tục xét xử của một vụ án kinh tế.
Điển hình là tranh chấp giữa công ty với Công ty khi xây dựng công trình giao thông, vào năm 2005.
Theo hợp đồng kinh tế số IPC/CK 121-HRP/03-132 đã ký ngày 23/05/2003, công ty đã thực hiện đầy đủ trách nhiệm giao hàng nhưng phía đối tác lại không thực hiện đầy đủ trách nhiệm của người thanh toán. Do đó ngày 2/6/2005 công ty đã khới kiện ra Toà án Nhân dân quận Long Biên Hà Nội yêu cầu giải quyết.
Hay như tranh chấp giữa công ty với công ty TNHH sản xuất và đầu tư công nghệ liên doanh Việt- Ý cũng về thanh toán. Ngày 21/9/2006 công ty đã kiện ra Toà án Nhân dân thành phố Hà Nội yêu cầu giải quyết.
Tuy nhiên sau đó hai bên đã thoả thuận được về việc giải quyết vụ án và Toà án đã lập biên bản hoà giải ngày 16/10/2006.
CHƯƠNG III
MỘT SỐ Ý KIẾN ĐỀ XUẤT NHẰM NÂNG CAO HIỆU LỰC CỦA PHÁP LUẬT CŨNG NHƯ TÍNH HIỆU QUẢ CỦA HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ TRONG KINH DOANH
CỦA DOANH NGHIỆP
I. NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG CỦA CÔNG TY
1. Những điều kiện thuận lợi của công ty
- Sự ra đời của hai văn bản pháp luật lớn: Bộ luật Dân sự và Luật Thương mại 2005 có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo lập môi trường pháp lý thông thoáng cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nhìn nhận một cách tổng thể, BLDS 205 và LTM 2005 đã giải quyết những vướng mắc còn tồn đọng do BLDS 1995, LTM 1997 và PL HĐKT 1989 gây ra. Đó là, những quy định bất hợp lý trong pháp luật về hợp đồng kinh tế đã đóng khung các hoạt động kinh doanh vốn dĩ hết sức mềm dẻo, linh hoạt, năng động, và nhiều tính sáng tạo. Bên cạnh đó, sự trùng lắp, thiếu nhất quán, và mâu thuẫn giữa các văn bản này đã gây ra nhiều khó khăn trong ký kết hợp đồng của doanh nghiệp. Doanh nghiệp gặp rất nhiều vướng mắc không biết nên đưa những điều khoản nào vào trong hợp đồng, không biết hợp đồng mình ký kết là loại hợp đồng nào, chịu sự điều chỉnh của luật nào. Chính vì vậy, với những quy định mới về hợp đồng trong BLDS 2005 và LTM 2005 doanh nghiệp không dễ dàng hơn trong khi ký kết, thực hiện hợp đồng mà còn trong việc giải quyết những tranh chấp phát sinh từ đó nâng cao khả năng kinh doanh và tài chính của doanh nghiệp.
- Việc Việt Nam gia nhập WTO cũng là một điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp. Với sự mở cửa cho các doanh nghiệp nước ngoài vào kinh doanh tại môi trường trong nước đã giúp cho doanh nghiệp tìm kiếm thêm được nhiều bạn hàng mới có uy tín, có nguồn vốn lớn. Mặt khác, Việt Nam phải có lộ trình giảm thuế khi gia nhập WTO và mặt hàng thép cũng nằm trong số những mặt hàng được giảm thuế nhập khẩu vì thế chi phí đầu vào của doanh nghiệp giảm đi đáng kể làm giá thành của sản phẩm giảm tạo điều kiện cho doanh nghiệp mở rộng quan hệ làm ăn với những bạn hàng có nguồn vốn nhỏ.
- Công ty có một đội ngũ công nhân viên trẻ trung, năng động, nhiệt tình, có trình độ cao. Đại bộ phận nhân viên trong công ty đều tốt nghệp các trường Đại học danh tiếng trong nước như: Đại học Kinh tế quốc dân, Đại học Ngoại thương, Đại học Bách Khoa Trong số đó, nhiều người có bề dày kinh nghiệm trong kinh doanh.
- Giám đốc công ty là người có học vấn cao, có kinh nghiệm quản lý, kinh nghiệm kinh doanh và có khả năng tổ chức lao động tốt. Do đó, sắp xếp được nguồn nhân lực vào vị trí thuận lợi, giúp họ phát huy được khả năng sẵn có của mình.
- Công ty luôn có chính sách tăng lương nhằm khuyến khích sự nhiệt tình hăng say trong công việc của nhân viên. Bên cạnh đó, công ty còn những chính sách khen thưởng, phúc lợi xã hội rất hợp lý
- Công ty còn mở các khoá đào tạo nhằm nâng cao hơn nữa trình độ cũng như tay nghề cho công nhân viên. hàng tháng công ty còng tổ chức các buổi hội thảo để nhân viên trao đổi kinh nghiệm trong kinh doanh, trong quản lý với nhau và với nhân viên của công ty khác.
- Sản phẩm của công ty là mặt hàng nóng trên thị trường. Ngày nay, khi nền kinh tế đang ngày càng phát triển, cơ sở hạ tầng đang dần được mở rộng và đời sống con người được nâng cao thì nhu cầu về sản phẩm thép xây dựng cũng được nâng cao. Do vậy, khả năng mở rộng thị trường kinh doanh của công ty là rất lớn, việc tìm kiếm khách hàng là không mấy khó khăn.
2. Những khó khăn còn tồn tại
Bên cạnh những thuận lợi đem lại thành công trong ký kết hợp đồng cũng như trong kinh doanh thì doanh nghiệp cũng còn tồn tại một số khó khăn cần được khắc phục như:
- Mặc dù, môi trường pháp lý đã tạo điều kiện tốt hơn cho doanh nghiệp nhưng việc thay đổi pháp luật quá nhều và quá nhanh khiến doanh nghiệp không kịp thời thích ứng gây khó khăn bước đầu cho việc áp dụng luật khi ký kết hợp đồng. Bên cạnh đó, việc chậm trễ ban hành các văn bản hướng dẫn chi tiết thi hành pháp luật khiến cho công ty khó khăn khi ký kết, thực hiện cũng như giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng
- Nhân viên trong công ty phần đa là trẻ trong đó nhiều người mới ra trường nên chưa có nhiều kinh nghiệm cần được đào tạo thêm
- Công nghệ của doanh nghiệp còn yếu kém nên doanh nghiệp thường chỉ nhập khẩu thép từ nước ngoài bán ra thị trường nội địa ăn hoa hồng, chỉ một số sản phẩm được doanh nghiệp gia công chế biến. Đo đó, một phần lợi nhuận lớn đã không được doanh nghiệp khai khác.
- Hiện nay, thị trường sắt thép thế giới được đánh giá là một thị trường có nhiều triển vọng. Theo dự báo của Bộ nông nghiệp và Tài nguyên Oxtrâylia (ABARE), sản lượng thép toàn cầu dự báo sẽ tăng với tộc độ tăng bình quân 3.7%/năm, đạt 1.41 tỷ tấn vào năm 2011, chủ yếu do nhu cầu tăng tại nhiều nước châu Á như Trung Quốc Nhật. Điều này có thể làm giảm nhẹ tăng giá thép trong thời gian tới.
Bảng 6: TRIỂN VỌNG TIÊU THỤ THÉP TRÊN THẾ GIỚI
Đơn vị: Triệu tấn
Tiêu thụ
2005
2006
2007
2008
2009
2010
2011
EU25
188
190
192
193
194
195
196
Bắc Mỹ
145
147
150
154
158
162
166
Braxin
19
20
22
23
24
26
28
Đông Âu
61
62
64
67
69
71
73
Trung Quốc
355
390
419
450
459
483
511
Nhật Bản
81
82
82
83
83
83
83
Hàn Quốc
48
48
48
49
49
49
49
Đài Loan
27
27
28
28
28
28
28
Ấn Độ
41
43
46
49
52
56
61
Tổng tiêu thụ
1137
1185
1233
1283
1312
1358
1408
(Nguồn: Dự báo sản lượng thép toàn cầu của Bộ nông nghệp và Tài nguyên Otrâylia)
Trong khi đó, thực tế thị trường thép xây dựng nước ta kể từ cuối năm 2005 tăng trưởng rất chậm, các doanh nghiệp trong hệ thống phân phối thép xây dựng đang gặp khó khăn do luôn phải cân nhắc từ nhiều yếu tố như: nhu cầu tiêu dùng thép đang yếu so thị trường bất động sản đang bị đóng băng, các doanh nghiệp cung ứng sản phẩm thép thi nhau giảm giá nhằm chiếm mẩu bánh thị trường ngày càng hạn hẹp do cung vượt quá cầu.
Ngày 15/8/2005, Bộ trưởng Bộ Thương mại ra quyết định số 212/2005/QĐ-BTM về “Quy chế kinh doanh thép xây dựng” và có hiệu lực sau 15 ngày kể từ ngày đăng trên công báo, tuy đã góp phần hoàn thiện hệ thống phân phối thép nhưng vẫn chưa thực sự tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của hệ thống phân phối phát triển.
II. MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU LỰC CỦA PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN
1. Nâng cao hiệu lực của pháp luật về hợp đồng mua bán ngay từ khâu lập pháp
- Hoạt động mua bán hàng hoá cũng như các hoạt động khác là hoạt động giữa con người với nhau diễn ra trong xã hội. Vì vậy, không phải ai hết mà chính những con người, những công dân ấy, họ hiểu rõ những điểm bất cập, những vấn đề còn tồn tại mà pháp luật chưa điều chỉnh được. Bên cạnh đó, trong một xã hội dân chủ, mọi quan tâm, cố gắng của các nhóm quyền lực nhà nước, suy cho cùng, đều phải vì nguyện vọng, lợi ích của người dân, vì mọi quyền lực nhà nước đều bắt nguồn từ nhân dân. Do đó, để hoàn thiện hệ thống pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hoá thì trước hết, ngay từ khâu lập pháp, cần có biện pháp đúng đắn để thu hút sự tham gia đóng góp ý kiến của công chúng, đặc biệt là cá nhân kinh doanh và pháp nhân. Để làm được điều này, cần phải có giải pháp tăng cường hiệu lực của các công cụ chính sách quản lý vĩ mô, chú trọng tới việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật và tổ chức thi hành luật một cách nghiêm minh.
- Cơ quan lập pháp có vai trò vô cùng quan trọng trong việc xây dựng những vấn đề pháp lý mang tính bắt buộc chung. Họ phải nghiên cứu, đánh giá và nhận dạng được hết những sản phẩm của mình cùng với chất lượng của chúng. Hiện tại, Quốc hội là cơ quan có quyền lập pháp duy nhất nhưng nhìn chung các nhà lập pháp của Việt Nam, về số đa vẫn chỉ là những người làm luật kiêm nhiệm, ít thời gian và điều kiện để nghiên cứu, nhận thức được nhu cầu này. Trong bối cảnh hiện nay cần phải có các chuyên gia pháp lý để khắc phục tình trạng này.
- Cho đến thời điểm hiện tại, Quốc Hội mới chỉ ban hành hai văn bản pháp luật là: BLDS 2005 và LTM 2005 để điều chỉnh những vấn đề pháp lý liên quan đến hợp đồng mua bán hàng hoá mà chưa ban hành các văn bản hướng dẫn chi tiết thi hành hai văn bản pháp luật này, chẳng hạn như: Nghị định, Quyết định, Thông tư Chính vì lẽ đó, việc hiểu biết cũng như áp dụng BLDS 2005 và LTM 2005 để giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá là rất hạn chế. Nhiều trường hợp, các doanh nghiệp do không hiểu biết, hiểu biết không đúng, không đầy đủ về điều khoản trong các văn bản pháp luật này mà không dám giao kết hoặc giao kết rồi phải chịu những hậu quả không bất lợi. Do đó, Quốc hội cần sớm ban hành những văn bản hướng dẫn thi hành BLDS 2005 và LTM 2005 cũng như khi có một văn bản pháp luật mới ra đời.
Như vậy, hoạt động lập pháp là hoạt động rất quan trọng, nó tạo nền tảng pháp lý cho các hoạt động mua bán giữa các cá nhân, thương nhân và pháp nhân. Các cá nhân, thương nhân và pháp nhân dựa vào pháp luật mà thoả thuận các điều khoản, giao kết hợp đồng, thực hiện hợp đồng cũng như giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng. Có thể nói, hiện nay, hệ thống pháp luật Việt Nam chưa thực sự hoàn chỉnh, luôn cần có sự thay đổi cho phù hợp với điều kiện cụ thể của xã hội nên việc hoàn thiện hệ thống pháp luật ngay từ khâu lập pháp vô cùng cần thiết không chỉ đối với những vấn đề pháp lý về hợp đồng mua bán hàng hoá mà đối với đối với tất cả hoạt động nói chung diễn ra trong xã hội.
2. Xây dựng cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hoá
Doanh nghiệp là các chủ thể của các hợp đồng mua bán hàng hoá, do đó, doanh nghiệp có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ pháp lý trước pháp luật trong lĩnh vực mua bán hàng hoá. Một trong các nghĩa vụ pháp lý quan trọng đó là doanh nghiệp phải chấp hành, tuân thủ đầy đủ các yêu cầu của pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hoá và được áp dụng, sử dụng pháp luật trong hoạt động trong hoạt động mua bán hàng hoá của mình. Tuy nhiên, việc thực hiện pháp luật trong hợp đồng mua bán hàng hoá của doanh nghiệp Việt Nam còn nhiều bất cập. Nhận thức, hiểu biết pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hoá của một bộ phận người quản lý doanh nghiệp còn hạn chế. Tình trạng doanh nghiệp không chú ý tới việc tìm hiểu và thực hiện pháp luật là khá phổ biến. Nhiều doanh nghiệp chưa có thói quen sử dụng tư vấn pháp luật để áp dụng, thi hành pháp luật và phòng, chống rủi ro pháp lý trong hoạt động mua bán hàng hoá. Nguyên nhân chính của tình trạng này là ý thức pháp luật, văn hoá pháp lý của đại bộ phận chủ sở hữu, cán bộ quản lý doanh nghiệp Việt Nam còn hạn chế. Trong tổ chức thi hành pháp luật, chưa có cơ chế, biện pháp để hỗ trợ doanh nghiệp một cách hiệu quả. Do đó, việc nghiên cứu, xác định cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hoá là một hoạt động cần thiết hiện nay. Trong phạm vi bài viết này, tôi xin đề xuất cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hoá hiệu quả. Đó là, cần xác định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan quản lý nhà nước trong hỗ trợ thực hiện pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hoá cho doanh nghiệp thể hiện trên những điểm sau:
- Đối với các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ.
+ Tổ chức thi hành các văn bản pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hoá như: BLDS 2005, LTM 2005; triển khai các hoạt động hỗ trợ thực hiện pháp luật hợp đồng trong phạm vi lĩnh vực quản lý nhà nước của bộ, ngành cho doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân kinh doanh dưới các hình thức. Cung cấp và cập nhật thông tin pháp luật hợp đồng trong lĩnh vực Bộ, ngành mình quản lý.
+ Chỉ đạo củng cố, kiện toàn tổ chức pháp chế tại bộ, ngành mình để lực lượng này có đủ năng lực thực hiện nhiệm vụ với vai trò đầu mối và lực lượng nòng cốt triển khai hoạt động hỗ trợ thực hiện pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hoá cho doanh nghiệp trong phạm vi lĩnh vực quản lý nhà nước của bộ, ngành.
+ Phối hợp với Bộ Tư pháp trong việc cung cấp văn bản quy phạm pháp luật do bộ, ngành ban hành và trao đổi thông tin pháp lý nhằm xây dựng cơ sở dữ liệu pháp luật hợp đồng đầy đủ, toàn diện và được cập nhật.
+ Bộ nội vụ chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp xây dựng kế hoạch bố trí biên chế đáp ứng yêu cầu củng cố, kiện toàn pháp chế ngành ở trung ương và địa phương.
+ Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp xây dựng cơ chế tài chính đối với hoạt động hỗ trợ thực hiện pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hoá cho doanh nghiệp ở Trung ương và địa phương.
+ Bộ Kế hoạch, Đầu tư phối hợp với Bộ Tư pháp xây dựng và tổ chức thực hiện chương trình hỗ trợ thực hiện pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hoá cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, phù hợp với kế hoạch phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa giai đoạn 2006- 2010 của Chính phủ.
- Đối với Bộ Tư pháp
Theo quy định tại Nghị định số 62/2003/NĐ- CP ngày 6/6/2003 của Chính phủ quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp, bên cạnh chức năng soạn thảo, thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật thì công tác phổ biến, giáo dục pháp luật và thông tin pháp lý là một trong các nhiêm vụ trọng tâm của Bộ. Bên cạnh đó, theo quy định tại Nghị định số 122/2004/NĐ- CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức pháp chế các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và doanh nghiệp nhà nước, Bộ Tư pháp được Chính phủ giao thống nhất quản lý công tác pháp chế trong phạm vi cả nước. Để tăng cường hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nói chung, hỗ trợ thực hiện pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hoá cho doanh nghiệp nói riêng, Bộ Tư pháp cần tập trung chỉ đạo, thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm sau đây:
+ Giúp Chính phủ làm đầu mối triển khai các hoạt động hỗ trợ thực hiện pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hoá cho doanh nghiệp.
+ Chủ trì, phối hợp với các Bộ và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh xây dựng cơ sở dữ liệu pháp luật hợp đồng toàn diện, được cập nhật và truyền tải trên Internet nhằm hỗ trợ và đáp ứng yêu cầu thông tin pháp lý của doanh nghiệp một cách đầy đủ, nhanh chóng, thuận lợi, minh bạch và có tính dự báo
+ Xây dựng chương trình, nội dung và cập nhật tài liệu phục vụ bồi dưỡng kiến thức pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hoá cho chủ sở hữu, người quản lý doanh nghiệp và cán bộ nghiệp vụ của doanh nghiệp
+ Tăng cường thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với công tác pháp chế tại các Bộ, cơ quan chuyên môn thuộcUỷ ban nhân dân cấp tỉnh theo Nghị định số 122/2004/NĐ- CP, cụ thể:
Xây dựng kế hoạch, biện pháp củng cố, kiện toàn tổ chức là hoạt động pháp chế ngành ở Trung ương và địa phương để các tổ chức pháp chế có đủ năng lực là lực lượng nòng cốt triển khai các hoạt động hỗ trợ thực hiện pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hoá cho doanh nghiệp trong phạm vi lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ và cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh;
Xây dựng kế hoạch, chương trình, nội dung bồi dưỡng và hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ pháp chế ngành ở Trung ương và địa phơng để đáp ứng yêu cầu hỗ trợ thực hiện pháp luật hợp đồng cho doanh nghiệp.
- Đối với Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh
+ Tổ chức thi hành pháp luật kinh doanh, triển khai các hoạt động hỗ trợ thực hiện pháp luật hợp đồng cho doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân tại địa phương dưới các hình thức:
Cung cấp và cập nhật thông tin pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hoá;
Tổ chức cung cấp ý kiến trả lời, gải đáp thắc mắc của doanh nghiệp về các quy định của pháp luật trong hoạt động mua bán hàng hoá;
+ Củng cố, kiện toàn tổ chức pháp chế tại các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh để lực lượng này có đủ năng lực thực hiện nhiệm vụ với vai trò là đầu mối và là lực lượng nòng cốt để triển khai hoạt động hỗ trợ thực hiện pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hoá cho doanh nghiệp thuộc trách nhiệm của cơ quan chuyên môn. Tổ chức pháp chế là đầu mối phối hợp các đơn vị hữu quan trong cơ quan chuyên môn thực hiện hoạt động hỗ trợ thực hiện pháp luật hợp đồng cho doanh nghiệp.
+ Xây dựng các dự án, chương trình hỗ trợ thực hiện pháp luật trong hoạt động mua bán hàng hoá cho doanh nghiệp nhỏ và vừa tại địa phương.
III. VỀ PHÍA CÔNG TY
Kể từ khi thành lập cho đến nay, tình hình kinh doanh chung của công ty đang trên đà phát triển, doanh thu không ngừng tăng qua các năm, mở rộng quan hệ làm ăn với nhiều đối tác mới, đặc biệt, số lượng các hợp đồng giao kết tăng lên đáng kể. Công ty đã soạn thảo các mẫu hợp đồng cụ thể để phục vụ cho quá trình đàm phán, giao kết hợp đồng nhằm đem lại những lợi ích tốt nhất cho công ty mình. Tuy nhiên, công ty vẫn còn một số bất cập ngay từ khi soạn thảo hợp đồng, chưa thực sự nhạy bén trong việc tiếp nhận, sửa đổi hợp đồng theo những quy định mới cảu pháp luật. Điển hình là việc công ty vẫn còn căn cứ vào PL HĐKT (khi mà pháp lệnh này đã hết hiệu lực) trong các hợp đồng giao kết của công ty, hay những điều khoản mà công ty giao kết vẫn chưa thực sự rõ ràng, chưa có tính ràng buộc cao như điều khoản về trường hợp bất khả kháng Do vậy, cần phải có biện pháp nhằm phát huy vai trò của hợp đồng mua bán hàng hoá trong kinh doanh, từ đó, nâng cao hơn nữa hiệu quả kinh doanh của công ty. Tôi xin đưa ra một số biện pháp cụ thể như sau:
1. Phát huy vai trò của hợp đồng mua bán hàng hoá từ khâu giao kết hợp đồng.
1.1. Lựa chọn đối tác
Hiện tại công ty có quan hệ bạn hàng rất gần gũi với một số đối tác cung ứng thép đầu vào. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở một vài ba nhà cung ứng đó thì công ty có thể bỏ lỡ nhiều cơ hội làm ăn khác có lợi nhuận cao hơn. Công ty cần chủ động tích cực tìm kiếm các nhà cung cấp mới, nhằm tạo thêm nhiều cơ hội phát triển đa dạng hoá nguồn hàng, đồng thời hạn chế nguy cơ bị đối tác chèn ép trong các điều kiện giao dịch cũng như trong việc thoả thuận giá cả.
Để làm được điều đó, trước tiên công ty phải làm tốt hai biện pháp đồng thời như sau:
- Giữ vững ổn định quan hệ tốt đẹp với các đối tác cung cấp trước đây
- Thông qua các quan hệ, các kênh thông tin khác nhau, các chợ triển lãm sản phẩm hay báo đài, internet để tìm kiếm và đặt quan hệ với các bạn hàng mới.
1.2. Tìm kiếm khách hàng
Yếu tố đầu tiên của việc nghiên cứu, tìm kiếm khách hàng là nắm bắt chính xác nhu cầu thực tế của khách hàng tiêu dùng cả về chất lượng, chủng loại cũng như số lượng sản phẩm. Đặc biệt đối với mặt hàng thép của công ty vốn được đánh giá là mặt hàng khá nhạy cảm nên càng cần chú trọng đến chất lượng thép nhập khẩu. Đồng thời căn cứ vào tập quán, yêu cầu về xây dựng tại từng khu vực thị trường và xét đến các vấn đề như tốc độ đô thị hoá, CNH- HĐH của từng địa phương để đưa ra những mặt hàng hợp lý, hấp dẫn, thu hút sự quan tâm của khách hàng ngay từ đơn chào hàng. Chẳng hạn như, ở miền Bắc nước ta, người dân thường giữ tập quán xây dựng nhà cửa công trình rất kiên cố, do đó yêu cầu của họ đối với thép xây dựng phải thoả mãn tốt về chất lượng, đôi lúc giá cả chỉ là vấn đề thứ yếu. Nhưng ở mền Nam do đặc tính khí hậu, người ta thường không đề cao tính chất kiên cố, vì vậy họ không yêu cầu quá cao về chất lượng mà quan tâm nhiều đến giá cả. Bên cạnh đó, tại các thành phố mới có tốc độ đô thị hoá diễn ra nhanh chóng hay các khu vực nông thôn, miền núi được ưu tiên phát triển cơ sở hạ tầng thì nhu cầu thép xây dựng cũng tăng cao. Công ty cần nắm vững những đặc điểm này để tranh thủ cơ hội phát triển.
1.3. Đàm phán
Đây là khâu quan trọng nếu có sơ suất có thể gây thệt hại lớn. Ngược lại nếu đàm phán thành công sẽ đem lại lợi ích lớn cho doanh nghiệp. Căn cứ vào khách hàng cụ thể cho từng thời điểm trong năm, cần cụ thể hoá để xác định số lượng từng mặt hàng với từng hãng cung cấp cụ thể.
- Đặt ra mục đích, yêu cầu cho việc đàm phán đặc biệt là vấn đề giá cả. Cần phải chuẩn bị trước những lý lẽ thuyết phục đối tác trong thương lượng và đàm phán, tránh trường hợp bị bất ngờ. Lập kế hoạch và vạch sẵn những phương án để giải quyết trong những trường hợp đàm phán không thành công.
- Có sự chuẩn bị về thời gian để trao đổi về hợp đồng với các phòng ban có liên quan tới hợp đồng trước khi đàm phán.
- Cần cập nhật những thông tin về nhà cung cấp để biết điểm mạnh, điểm yếu của họ.
- Duy trì mối quan hệ thường xuyên với bạn hàng
1.4. Giao kết hợp đồng
Khi hợp đồng được giao kết đồng nghĩa với việc phát sinh các quyền và nghĩa vụ mà các bên phải thực hiện. Do đó, khi giao kết hợp đồng công ty cần chú ý các điều khoản mình giao kết. Để làm được điều này công ty cần phải:
- Thường xuyên cập nhật thông tin pháp lý; xây dựng tổ chức pháp chế trong doanh nghiệp; sử dụng dịch vụ tư vấn pháp luật một cách thường xuyên và có hiệu quả; lãnh đạo cán bộ doanh nghiệp có kế hoạch định kỳ bồi dưỡng kiến thức về pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hoá
- Không được coi hợp đồng chỉ mang tính hình thức trong quan hệ với các bên. Bởi vì trường hợp phát sinh tranh chấp thì trọng tài hay toà án đều căn cứ vào các điều khoản của hợp đồng để giải quyết. Hợp đồng vừa là bằng chứng duy nhất quy định quyền và nghĩa vụ của mỗi bên khi thực hiện hợp đồng vừa là căn cứ hợp lý để giải quyết tranh chấp.
- Không dùng từ ngữ mập mờ khó hiểu hoặc có nhiều cách giải thích trong hợp đồng để tránh việc đối tác có thể lợi dụng để không thực hiện nghĩa vụ của họ.
- Không nên cam kết những gì mà mình không biết hoặc không đủ thẩm quyền giải quyết.
- Xây dựng các điều khoản chặt chẽ trong hợp đồng như thời gian hiệu lực, điều khoản điều chỉnh giá, điều khoản bất khả kháng, điều khoản huỷ bỏ hợp đồng, điều khoản phạt, điều khoản giữ bí mật, điều khoản lựa chọn luật điều chỉnh.
Thực tế trong hoạt động thương mại, hầu hết các hợp đồng từ trước đến nay mà công ty ký kết bao giờ cũng nói tới căn cứ pháp lý ví dụ, căn cứ vào Pháp lệnh hợp đồng kinh tế và các Nghị định hướng dẫn thi hành. Ngay cả khi pháp lệnh hợp đồng kinh tế đã hết hiệu lực, công ty vẫn sử dụng làm căn cứ trong hợp đồng; dù việc ghi căn cứ là không cần thiết khi đưa tranh chấp ra giải quyết bằng con đường trọng tài hoặc bằng con đường toà án nhưng đối với chủ thể của hợp đồng thì đó là cách tư duy về vấn đề pháp lý của hợp đồng. Do vậy, công ty cần nhận rõ là PL HĐKT hết hiệu lực và phải căn cứ vào LTM 2005 và BLDS 2005. Bên cạnh đó, thói quen này không những không hợp lý mà còn không cần thiết. Bởi vì, việc ký kết và thực hiện hợp đồng trên lãnh thổ nước CHXHCN Việt Nam phải chịu sự điều chỉnh của toàn bộ hệ thống pháp luật Việt Nam chứ không phải riêng một văn bản nào đó. Khi có tranh chấp xảy ra thì từ hợp đồng việc xác định quy định nào sẽ được áp dụng là công việc của các cá nhân, cơ quan và tổ chức có thẩm quyền mà cụ thể là của thẩm phán, toà án và trọng tài. Các bên căn cứ vào BLDS, LTM hay pháp lệnh hợp đồng kinh tế khi ký kết hợp đồng là đã làm thay một phần việc của thẩm phán và trọng tài viên. Điều nay cũng gần giống với việc một người bình thường chỉ cho các chuyên gia cần phải làm gì trong lĩnh vực của họ. Bởi vì rõ ràng, Thẩm phán và Trọng tài viên hiểu rõ pháp luật hơn các bên trong hợp đồng.
Bên cạnh đó, trong hầu hết các hợp đồng, công ty chỉ quy định trong trường hợp bất khả kháng mà không quy định trường hợp bất khả kháng là những trường hợp nào? Do đó công ty cần quy định cụ thể về vấn đề này. Bởi trong thực tế trường hợp bất khả kháng xảy ra rất đa dạng mà pháp luật không quy định cụ thể trường hợp nào được coi là trường hợp bất khả kháng; nếu công ty quy định rõ vấn đề này không những thể hiện tính chặt chẽ của hợp đồng mà khi trường hợp bất khả kháng xảy ra việc giải quyết cũng trở nên đơn giản và rõ ràng hơn.
2. Thực hiện hợp đồng
Kinh doanh là hoạt động của con người, do đó hiệu quả kinh doanh tuỳ thuộc vào năng lực của người kinh doanh. Để nâng cao tính hiệu quả của hợp đồng thì trước hết cần phải phát triển nguồn nhân lực trong công ty.
Nếu chỉ đưa ra những phương án kinh doanh biện pháp thực hiện mà không chuẩn bị tốt đội ngũ cán bộ thì chắc chắn hoạt động kinh doanh sẽ không mang lại hiệu quả. Vì vậy các doanh nghiệp tham gia hoạt động kinh doanh phải có các cán bộ chuyên trách. Các cán bộ này phải có trình độ nghiệp vụ chuyên trách, am hiểu tập quán, luật pháp đặc biệt trong thanh toán để khi kí kết hợp đồng luôn đưa ra những điều khoản chặt chẽ nhằm đảm bảo được hiệu quả.
Hiện nay công ty có khoảng 53 nhân viên chính thức, đa số đều tốt nghiệp đại học, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ tương đối cao. Tuy nhiên bên cạnh điểm mạnh là sự trẻ trung năng động, các nhân viên trẻ của công ty cần được tạo điều kiện hơn nữa để tiếp cận, tích luỹ kinh nghiệm thực tế. Kết hợp song song với việc chuyên môn hoá trong từng lĩnh vực nghiệp vụ, từng mặt hàng sản phẩm cũng đặt ra yêu cầu chuyên môn hoá sâu trong nhân viên, nhưng vẫn giữ được sợi dây liên kết chặt chẽ giữa các bộ phận với nhau trong toàn công ty.
Để có đội ngũ cán bộ chuyên môn cao công ty cần bỏ chi phí đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, bồi dưỡng trình độ ngoại ngữ, tin học Bên cạnh đó, công ty cũng cần có chính sách tuyển nhân viên hợp lý, thông qua chế độ tiền lương, thưởng để thu hút nhân tài bên ngoài cũng như để phát hiện nhân tài bên trong công ty.
Mặt khác, công ty cũng cần có những nhân viên, chuyên viên về công tác thu thập thông tin nghiên cứu thị trường. Hay bằng cách sử dụng các cố vấn chuyên môn có thể cung cấp các kiến thức mà bản thân công ty không thể có. Nếu không có thông tin chính xác và kịp thời thì không thể kinh doanh có hiệu quả. Nghiên cứu thị trường giúp công ty tìm được đối tác mới, mở rộng thị trường chủ động giao dịch và ký kết với các bạn hàng trực tiếp sản xuất, hạn chế giao dịch với các địa điểm trung gian để giảm chi phí giao dịch.
Vận chuyển hàng hoá cũng là một khâu khá quan trọng trong thực hiện hợp đồng. Do vậy, công ty cần có những biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của đội ngũ vận chuyển sẵn có của mình giảm được những chi phí vận chuyển không cần thiết, góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh.
KẾT LUẬN
Trong thời kỳ đất nước ta đang trên đà phát triển, với nền kinh tế thị trường và sự hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay, hợp đồng mua bán hàng hoá đóng vai trò rất quan trọng, không thể thiếu được đối với các chủ thể trong quan hệ mua bán hàng hoá. Nó cũng là công cụ quan trọng để nhà nước quản lý và điều hành nền kinh tế đạt hiều quả cao nhất. Vì vậy, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hoá trong thương mại Việt Nam hiện nay là điều cần thiết và điều này được đánh dấu bởi sự ra đời của hai văn bản pháp luật lớn là Bộ luật Dân sự 2005 và Luật Thương mại 2005. Chính những quy định trong các văn bản pháp luật mới này đã giải quyết một phần nào đó những hạn chế của văn bản pháp luật trước đây; tạo môi trường pháp lý thông thoáng cho thương nhân ký kết và thực hiện hợp đồng và nâng cao tính hiệu quả của hệ thống pháp luật Việt Nam hơn nữa.
Đối với bản thân công ty TNHH IPC, trong những năm qua, hoạt động kinh doanh của công ty đã đạt được một số thành quả nhất định, đem lại lợi nhuận cho công ty, đồng thời góp phần nhỏ vào tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Công ty đem lại công ăn, việc làm và thu nhập ổn định cho nhân viên của mình, tạo nguồn thu nhập cao cho nhiều lao động không chính thức. Đánh giá một cách khách quan, hoạt động kinh doanh thép tại công ty đã đạt được những kết quả khá tốt và có triển vọng phát triển hơn nữa. Công ty đã tạo dựng được những mối quan hệ bền chặt với đối tác của mình trên cơ sở hợp tác tin tưởng lẫn nhau, với phương châm đặt chữ “tín” lên hàng đầu. Có thể nói, đây là cơ sở đảm bảo sự phát triển ổn định bền vững lâu dài cho công ty trong tương lai.
Trong bối cảnh kinh tế thị trường cùng xu hướng toàn cầu hoá diễn ra ngày càng sâu sắc và mạnh mẽ, với việc Việt Nam đã gia nhập WTO mở ra nhiều bạn hàng mới, hoạt động mua bán thép của công ty diễn ra càng sôi nổi, số lượng các mặt hàng mua bán thép ngày càng gia tăng. Tuy nhiên, cùng với việc mở cửa thị trường và thay đổi lớn trong pháp luật điều chỉnh về quan hệ hợp đồng thì công ty cần phải có những biện pháp để trang bị và nâng cao kiến thức pháp luật cho bản thân mình để việc ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá đạt hiệu quả và lợi ích cao nhất. Đặc biệt từ khi có BLDS 2005 và LTM 2005 ra đời, về bản chất hợp đồng đã có sự thay đổi đáng kể. Mặc dù các hợp đồng được giao kết giữa các thương nhân không phát sinh mục đích sinh lời nhưng vẫn được coi là hợp đồng mua bán hàng hoá, mà theo thói quen các ben vẫn gọi là hợp đồng kinh tế. Như vậy, về hình thức không thay đổi nhưng các cán bộ kinh doanh phải hiểu, nắm bắt được sự thay đổi về chất này bởi đây là vấn đề cốt lõi của hợp đồng.
Vấn đề hợp đồng mua bán hàng hoá trong kinh doanh thương mại rất rộng lớn và còn nhiều vấn đề. Với khoảng thời gian nghiên cứu không nhiều, chuyên đề tốt nghiệp này không thể đề cập được mọi chi tiết, mọi khía cạnh và không thể tránh khỏi những sai sót, rất mong nhận được sự chỉ bảo cũng như ý kiến đóng góp quý báu của các thầy cô cùng toàn thể các bạn. Một lần nữa, tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc đến TS. Nguyền Thị Thanh Thuỷ và ThS. Vũ Văn Ngọc; đồng thời chân thành cảm ơn các anh chị trong công ty TNHH IPC đã giúp đỡ tôi hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. CÁC VĂN BẢN PHÁP QUY
1. Pháp lệnh hợp đồng kinh tế 1989
2. Nghị định của Hội đồng bộ trưởng số 17- HĐBT ngày 16/1/1990
Luật Công ty 1990
3. Hiến pháp nước CHXHCNVN 1992 (sửa đổi năm 2001)
4. Bộ luật Dân sự 1995
5. Luật Thương mại 1997
6. Luật Doanh nghiệp 1999
7. Quyết định 212/1999/QĐ- TCCB ngày 27/7/1999
8. Pháp lệnh trọng tài 25/2/2003
9. Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế
10. Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự
11. Pháp lệnh thủ tục giải quyết tranh chấp lao động
12. Nghị định 02/2003/NĐ-CP
13. Bộ luật tố tụng dân sự 2004
14. Luật Doanh nghiệp 2005
15. Bộ luật Dân sự 2005
16. Luật Thương mại 2005
17. Nghị định 122/2005/NĐ- CP
18. Nghị định 12/2006/NĐ- CP về xuất nhập khẩu
19. Nghị định 19/2006/NĐ- CP về xuất xứ hàng hoá
20. Nghị định 59/2006/NĐ- CP về hàng hoá cấm kinh doanh
21. Quyết định 236/2006/QĐ- TTg ngày 23/10/2006
II. SÁCH BÁO THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật kinh tế Việt Nam Khoa luật- ĐH QGHN, NXB: ĐH QGHN năm 1997
2. Những quy định chung của luật hợp đồng ở Pháp, Đức, Anh, Mỹ. Người dịch: Phạm Thái Việt, NXB: Chính Trị Quốc Gia
3. Giáo trình Luật thương mại Việt Nam Khoa luật- ĐH QGHN, Chủ biien: TS. Phan Duy Nghĩa, NXB: ĐH QGHN năm 2002
4. Giáo trình lịch sử các học thuyết kinh tế, ĐH KTQD, NXB: Thống kê năm 2003
5. Giáo trình Luật kinh tế, ĐH KTQD, NXB: Thống kê năm 2005
Thống nhất pháp luật hợp đồng ở Việt Nam- Đinh Mai Phương, NXB: Tư pháp Hà Nội năm 2005
6. Nâng cao vai trò của hợp đồng kinh tế trong nền kinh tế thị trường và vấn đề hoàn thiện pháp luật hợp đồng kinh tế, PTS. Nguyễn Văn Dũng
III. TẠP CHÍ
1. Vấn đề điều chỉnh nguy cơ không thực hiện trong Bộ luật Dân sự Việt Nam- Đỗ Văn Đại- Nhà nước và pháp luật số 1/2005
2. Một số điểm mới về hợp đồng trong Bộ luật dân sự 2005- Nguyễn Thị Thục- Nhà nước và pháp luật số 3/2005
3. Dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi) với vấn đề cải cách pháp luật hợp đồng- Phạm Hữu Nghị- Nhà nước và pháp luật số 4/2005
4. Hoàn thiện chế định hợp đồng- Phan Chí Hiếu- Nhà nước và pháp luật số 4/2005
5. Một số vấn đề hoàn thiện pháp luật hợp đồng ở Việt Nam- Bùi Ngọc Cường- Nhà nước và pháp luật số 5/2005
6. Điều kiện thu hút sự tham gia của các nhà khoa học vào hoạt động xây dựng lập pháp- Nguyễn Như Phát- Nghiên cứu lập pháp số 10/2006
7. Bàn về xây dựng cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện pháp luật- ThS. Nguyễn Thanh Tịnh- Dân chủ và pháp luật (số chuyên đề về Câu lạc bộ Pháp chế doanh nghiệp năm 2006)
8. Pháp luật cho doanh nghiệp trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế- Trần Minh Sơn- Dân chủ và pháp luật (số chuyền đề về Câu lạc bộ Pháp chế doanh nghiệp năm 2006)
9. Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 3/2003; 43/2003; 4/2004; 3/2006
10. Tạp chí Luật học số 3/2003; 12/2005; 2/2006
11. Tạp chí Toà án nhân dân số 1/2006
Các trang wep: vneconomy.com.vn; dei.gov.vn; mof.gov.vn; vnexpress.net; mpi.gov.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3617.doc