Mở đầu
Trong nghiên cứu lịch sử từ vựng và ngữpháp tiếng Việt, hư từlà một bộphận không thể bỏqua, bởi vì, đối với Việt ngữ, một ngôn ngữđơn lập điển hình, hư từlà một phương thức ngữpháp có vai trò cực kỳquan trọng.
Trong bài viết này, chúng tôi sẽphân tích và bước đầu nêu một sốnhận xét về lớp hư từtiếng Việt trong hai tác phẩm (viết bằng chữNôm) thế kỷXV là Quốc âm thi tập (QA) và Hồng Đức quốc âm thi tập (HĐ) nhằm góp thêm tư liệu đểcó thểhình dung được, tiến tới hiểu được diện mạo của hệthống hư từ tiếng Việt thế kỷXV.
Việc xác định và lập danh sách các hư từ của tiếng Việt hoàn toàn không đơn giản, bởi vì trên thực tế, trong tiếng Việt cũng nhưtrong các ngôn ngữđơn lập khác, ranh giới phân định giữa vấn đề của ngữpháp với vấn đề của từ vựng nhiều khi rất không rành mạch. Ởđây, có nhiều hư từđã hình thành từ thực từnhờnhững lý do khác nhau, trong đó, đáng kểvà quan trọng nhất là quá trình ngữpháp hoá; và ngay cảkhi “đã hình thành hư từ rồi thì giữa những hư từ này và các thực từ tương ứng thường cũng vẫn còn bảo tồn những mối quan hệ khá rõ nét" [3, tr. 274].
20 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2447 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Hư từ tiếng Việt thế kỷ XV trong Quốc Âm thi tập và Hồng Đức quốc âm thi tập, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
HƯ TỪ TIẾNG VIỆT THẾ KỶ XV
TRONG QUỐC ÂM THI TẬP VÀ HỒNG ĐỨC QUỐC ÂM THI TẬP
Vũ Đức Nghiệu
1. Trong nghiên cứu lịch sử từ vựng và ngữ pháp tiếng Việt, hư từ là một
bộ phận không thể bỏ qua, bởi vì, đối với Việt ngữ, một ngôn ngữ đơn lập điển
hình, hư từ là một phương thức ngữ pháp có vai trò cực kỳ quan trọng.
Trong bài viết này, chúng tôi sẽ phân tích và bước đầu nêu một số nhận xét
về lớp hư từ tiếng Việt trong hai tác phẩm (viết bằng chữ Nôm) thế kỷ XV là
Quốc âm thi tập (QA) và Hồng Đức quốc âm thi tập (HĐ) nhằm góp thêm tư
liệu để có thể hình dung được, tiến tới hiểu được diện mạo của hệ thống hư từ
tiếng Việt thế kỷ XV.
2. Việc xác định và lập danh sách các hư từ của tiếng Việt hoàn toàn
không đơn giản, bởi vì trên thực tế, trong tiếng Việt cũng như trong các ngôn
ngữ đơn lập khác, ranh giới phân định giữa vấn đề của ngữ pháp với vấn đề của
từ vựng nhiều khi rất không rành mạch. Ở đây, có nhiều hư từ đã hình thành từ
thực từ nhờ những lý do khác nhau, trong đó, đáng kể và quan trọng nhất là quá
trình ngữ pháp hoá; và ngay cả khi “đã hình thành hư từ rồi thì giữa những hư từ
này và các thực từ tương ứng thường cũng vẫn còn bảo tồn những mối quan hệ
khá rõ nét" [3, tr. 274].
Nếu lấy những tiêu chí phổ biến, được đa số trong giới nghiên cứu chấp
nhận, coi hư từ là những từ: a/ không có ý nghĩa từ vựng chân thực, hoặc chỉ có
ý nghiã từ vựng mờ nhạt; b/ không có chức năng định danh; c/ làm công cụ để
biểu đạt những ý nghĩa, phạm trù ngữ pháp nào đó của thực từ; (nói tóm lại là
những từ có liên quan đến việc diễn đạt, biểu thị những loại ý nghĩa ngữ pháp);
thì khi khảo sát hai tập thơ, chấp nhận và căn cứ vào hai bản phiên âm hiện đã
công bố, đồng thời, quy những cách phiên âm khác nhau của cùng một hư từ vào
làm một (chẳng hạn, liễn-lẫn à lẫn), chúng tôi xác định được 135 hư từ các
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
2
loại. Chúng được sử dụng 3920 lần trong tổng độ dài văn bản 26300 lượt từ (làm
tròn số), chiếm khoảng 14,9% độ dài văn bản 1.
Trong số 135 hư từ đó, điều dễ thấy đầu tiên là nếu so với trạng thái tiếng
Việt hiện nay, chúng có thể được phân chia thành ba loại: Loại thứ nhất là
những hư từ cổ (gồm những từ đã mất hoặc gần như mất hẳn trong đời sống
tiếng Việt hiện đại), loại thứ hai là những hư từ hiện vẫn đang tồn tại trong tiếng
Việt ngày nay nhưng đã có những biến đổi về ý nghĩa và cách dùng, loại thứ ba
là những hư từ có thể nói là không biến đổi từ thế kỷ XV cho đến nay. Dưới đây
là một số miêu tả và phân tích cụ thể.
2.1. Các hư từ cổ.
Đây là loại bao gồm những hư từ đã vắng bóng trong đời sống hoạt động
của tiếng Việt hiện đại. Nói rõ hơn, đó là những hư từ không còn được sử dụng
trong giao tiếp thường nhật một cách bình thường nữa. Danh sách những hư từ
này bao gồm: Bui (18 lần), mựa (35), nhẫn (32), sá (23), phô (3), tua (11), thửa
(18), ru (1), vay (9), hoà (43), chỉn (20), chưng (45), lọ (26), luống (14), mấy
(103), khôn (53), chăng (80), le (1), huống (10), ngõ (6), há (22), hề (7), đòi
(19), tá (7), khá (21).
Trong số các hư từ cổ này, có thể vạch được một đường phân giới khá rõ,
chia chúng thành hai nhóm: nhóm gồm những từ đã hoàn toàn mất hẳn và nhóm
gồm những từ chưa hoàn toàn mất hẳn trong tiếng Việt hiện đại.
2.1.a. Nhóm những hư từ cổ đã hoàn toàn vắng mặt trong tiếng Việt ngày
nay: bui (18), chỉn ( 20 ), chưng (45), hoà ( 43 ), lọ (26), luống (14), mựa (35 ),
nhẫn ( 32 ), phô ( 3 ), ru (1), sá ( 23 ), tua ( 11 ), thửa ( 18 ), vay ( 9 ).
Trừ trường hợp từ chưng, tuy hoạ hiếm, nhưng vẫn còn có thể còn gặp
trong lối nói "giả cổ" như vì chưng, bởi chưng, mười bốn hư từ trên đây hoàn
1 Tất nhiên, vì quan niệm về từ hư từ có thể rộng, hẹp khác nhau, việc xác định ranh giới từ có thể khác nhau ít
nhiều giữa những người nghiên cứu, việc phiên âm văn bản nôm cũng có thể có ít nhiều dị biệt, cho nên những
con số thống kê có thể có những xê xích một chút. Tuy vậy, chúng tôi đã ước lượng, những dị biệt đó thực sự
không đáng kể, và không làm cho bức tranh toàn cảnh về các hư từ được khảo sát ở đây bị sai lệch.
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
3
toàn không còn hiện diện trong tiếng Việt hiện đại nữa, chủ yếu là vì bị hư từ
khác thay thế (trong đó có cả những hư từ vốn là dạng gốc của một hư từ mới,
được hình thành do các biến đổi ngữ âm lịch sử và thay thế cho dạng gốc ấy).
Điều này hoàn toàn bình thường và chúng ta có thể gặp trong bất kỳ ngôn ngữ
nào, vì đó chính là biểu hiện của quy luật đào thải và phát triển trong quá trình
diễn tiến của ngôn ngữ nói chung. Ví dụ: Nếu trong ngữ liệu thế kỷ XV, chúng
ta gặp những cách nói như: Bui có một lòng trung liễn hiếu (QA. bài 69), Mựa
nghe sàm nịnh có niềm tây (QA.bài.145), Cái gươm nhẫn có thiếu Trương Hoa
(QA.bài.114), Dây dây hoa nở tốt hoà tươi (QA.bài.247)... thì ngày nay, tiếng
Việt đã hoàn toàn dùng duy/ chỉ thay cho bui, dùng đừng / chớ thay cho mựa,
dùng dầu /dẫu / dù thay cho nhẫn, dùng và thay cho hoà ... tại các vị trí của
chúng trong những câu đó.
Điều cần chú ý ở đây là: mặc dù có thể khác nhau ở chi tiết này, chi tiết
khác, nhưng nhìn chung các hư từ cổ bị mất đi (bui, mựa, huống, lọ, nhẫn, sá,
tua, phô, ru, vay) chủ yếu vẫn là do được/bị (những) hư từ khác có ý nghĩa
tương đương, đồng nghĩa thay thế. Tuy nhiên, cũng có những hư từ tự thân
chúng biến đổi đi trong quá trình phát triển lịch sử, làm hình thành hư từ mới
thay thế cho chính chúng (hoà à và, chỉn à chỉ); và cũng có trường hợp ý
nghĩa ngữ pháp do chúng biểu thị, có ý nghĩa thì bị rụng đi, có ý nghĩa lại được
hư từ khác thay thế thể hiện, đã làm cho chúng bị triệt thoái khỏi hệ thống
(chưng, thửa).
Tư liệu cho thấy: trong QA và HĐ, đã có những nhóm hư từ đồng nghĩa
và chắc chắn rằng sự cạnh tranh, phân chia chức phận trong nội bộ từng nhóm
đã góp phần dẫn đến những khả năng loại trừ, thay thế lẫn nhau, khiến cho một
hay vài hư từ nào đó trong mỗi nhóm dần dần trở nên ít được sử dụng rồi về sau
trở thành từ cổ. Đó là những nhóm như: hoà - cùng/cùng nhau, không - chăng -
chẳng, sá - tua - nên - hãy, mựa - đừng - chớ, nhẫn - đến - hơn- dầu ... Ví dụ:
Trong QA và HĐ, hư từ nhẫn xuất hiện 26 lần thì:
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
4
+ Bên cạnh ý nghĩa đến, tới của nó, đã có hư từ đến xuất hiện 40 lần, tới
26 lần.
So sánh: Đêm đêm thức nhẫn nẻo sơ chung (QA, b. 68)
Chân chẳng lọt đến cửa vương hầu (QA, b. 30)
+ Bên cạnh ý nghĩa như dầu / dù của nó, đã có hư từ dầu xuất hiện 87 lần.
So sánh: Bà ngựa dầu lành, nào Bá Nhạc
Cái gươm nhẫn có, thiếu Trương Hoa (QA, b. 114)
+ Bên cạnh ý nghĩa như hơn của nó, đã có hư từ hơn xuất hiện 36 lần.
So sánh: Năng một hoa này nhẫn mọi loài (QA, b. 230)
Lớn hơn mọi vật gọi là voi (HĐ. PVM, b.65)
Ngoài ra, chúng tôi cũng thấy tình hình tương tự như vậy giữa:
- sá (xuất hiện 23 lần), tua (11 lần) với nên (107 lần), hãy (38 lần);
- mựa (xuất hiện 35 lần) với chớ (53 lần), đừng (4 lần);
- chăng (xuất hiện 80 lần) với không (7 lần), chẳng (231 lần);
- hoà (xuất hiện 43 lần) với cùng, cùng nhau (74 lần), vừa (4 lần)
-tày (xuất hiện 6 lần) với tựa (19 lần), dường (53 lần), bằng ( lần 65), như ( lần
16)...
Như vậy, sự thay thế một hư từ cổ ở đây có thể không phải bằng một, mà
nhiều khi, bằng một số hư từ khác. Hiện tượng này thường xảy ra khi có một hư
từ đa nghĩa, đa chức năng bị một số hư từ khác, mỗi hư từ có một hoặc vài ý
nghĩa, chức năng tương đồng thay thế cho một trong số những ý nghĩa, chức
năng của nó. Ví dụ, ngoài trường hợp từ nhẫn và những từ vừa kể trên, có thể
quan sát thêm trường hợp hư từ hoà. Từ này trong QA và HĐ:
- Vừa có ý nghĩa, chức năng như một liên từ (tương tự như và, với); chẳng
hạn: Dây dây hoa nở tốt hoà tươi (QA, b. 247)...
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
5
- Vừa có ý nghĩa, chức năng như một phó từ đứng trước vị từ, thậm chí
đứng trước danh từ (tương tự như vẫn, hãy, cả, vừa); chẳng hạn: Hoà cao hoà
sáng vuỗn hoà thanh (HĐ. TĐM, b.19), Thuyền hoà còn dội tiếng đinh đinh
(QA, b.123), Mười phương châu ngọc vẹn hoà mười (HĐ. PVM, b. 1)...
Hiện nay, ý nghĩa, chức năng làm liên từ của hoà vẫn được bảo lưu trong
và, nhưng các ý nghĩa và chức năng làm phó từ của hoà thì không còn được lưu
lại trong và nữa. Thay vào đó, tiếng Việt hiện đại huy động các từ vẫn/ hãy/ cả/
vừa ... để chuyển tải những ý nghiã và chức năng tương ứng của hoà trước đây.
Điều này hoàn toàn có thể kiểm chứng được. Nếu chúng ta thay hoà trong các
câu trên đây: Hoà cao hoà sáng vuỗn hoà thanh. Thuyền hoà còn dội tiếng đinh
đinh. Mười phương châu ngọc vẹn hoà mười... bằng vẫn/ hãy/ cả/ vừa ... tuỳ
từng trường hợp cho tương thích, thì ba câu này hoàn toàn trở thành ba câu của
tiếng Việt ngày nay, không còn một mảy may gì những vết tích của thế kỷ XV.
2.1.b. Các hư từ: le (1), mấy (103), khôn (53), chưng 45), huống (10), ngõ
(6), há (22 ), hề (7), đòi (19), tá (7), khá (21) chưa hoàn toàn biến mất trong
tiếng Việt hiện đại. Chúng không còn hoạt động tích cực trong đời sống ngôn
ngữ thường nhật hiện nay, nhưng ở những mức độ khác nhau, trong một vài
phương ngữ, trong một số cách nói, một số kết cấu nhất định, chúng vẫn còn tồn
tại. Ví dụ:
- Trong khẩu ngữ ở một vài phương ngữ Bắc bộ, đôi khi chúng ta vẫn
nghe được cách nói ... mấy/mí nhau thay cho với nhau.
- Trong một vài lối nói nệ cổ, "giả cổ" chúng ta gặp le trong song le, gặp
chưng trong bởi chưng, vì chưng..., gặp tá trong đâu tá? chăng tá? gặp ngõ
trong ngõ hầu, gặp há trong há nỡ, há để, gặp khá trong khá khen...
- Trong lối nói văn chương, khôn được sử dụng để thể hiện ý phủ định và
kèm cả ý nghĩa tình thái “không thể ” trong các kết cấu như: khôn nguôi, khôn
cùng, khôn khuây, khôn xiết, khôn lường...
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
6
- Chúng ta cũng vẫn còn gặp huống trong huống hồ, huống chi... gặp hề
trong không hề, chẳng hề, hề gì, hề chi, không hề gì, chẳng hề gì... gặp đòi trong
học đòi, theo đòi, đua đòi...
Như vậy, các hư từ vừa nói trên đây không bị đào thải hoàn toàn mà chỉ bị
thu hẹp không gian tồn tại và hoạt động của chúng vào một số cách nói, một số
kết cấu rất hạn chế. Lý do là ở chỗ:
- Có khi chính các ý nghĩa hoặc chức năng của chúng bị thu hẹp, bị cạnh
tranh hoặc đã bị thay thế hẳn. Ví dụ: thay cho mấy đã có với, thay cho khá có
nên/đáng, thay cho há có thể là chẳng lẽ, thay cho ngõ/ngõ hầu đã có nhằm/ để/
nhằm để, thay cho khôn đã có không thể ...
- Có khi chúng thu hẹp năng lực hoạt động với tư cách là một từ độc lập
của mình lại, chỉ còn tồn tại với tư cách là một thành tố trong một kết cấu cố
định hoặc một "từ ghép". Ví dụ: le, chưng, tá, huống, hề, đòi ... trong song le, vì
chưng, bởi chưng, đâu tá, huống hồ, huống chi, chẳng hề, không hề, hề gì, hề
chi, học đòi, theo đòi, đua đòi ...
Điều đáng chú ý là: tại những nơi các hư từ đó còn hiện diện, cái nghĩa
vốn có của chúng từ thế kỷ XV vẫn còn tiếp tục được duy trì.
2.1.c. Khi nói về các hư từ cổ, kể cả những hư từ được coi như đã hoàn
toàn vắng bóng trong tiếng Việt ngày nay, không nên đơn giản nghĩ rằng chúng
đã bị đào thải một cách triệt để và chóng vánh từ lâu rồi.
Trên thực tế, quá trình rút lui của chúng thường diễn ra trong khoảng thời
gian rất lâu dài; và trong quá trình đó, trong quá trình hoạt động ngôn ngữ, có
thể chúng rất ít khi xuất hiện hoặc không còn xuất hiện, hoạt động nữa, nhưng
các từ điển vẫn cứ còn thu thập, tuỳ theo quan niệm của người biên soạn và quy
mô của từ điển. Chẳng hạn:
Kiểm chứng qua một số từ điển, chúng tôi thấy như sau: [Viết tắt: TĐ1: Từ
điển Việt-Bồ đào nha-Latinh (A.de Rhodes, 1651). TĐ2: Tự vị An nam - Latinh
(Pigneaux de Behaine, 1772-1773). TĐ3: Từ điển Truyện Kiều (Truyện Kiều,
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
7
cuối thế kỷ XVIII). TĐ4: Đại Nam quấc âm tự vị (Huình Tịnh Của, 1896). TĐ5:
Từ điển Việt-Pháp (J.F.M. Genibrel, 1898). TĐ6: Việt Nam tự điển (Khai trí
tiến đức, 1931). TĐ7: Từ điển tiếng Việt (Văn Tân chủ biên, 1969). TĐ8: Từ
điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên, 1994). Đối chiếu theo hàng ngang, dấu +
thể hiện rằng còn được ghi nhận trong từ điển tương ứng, dấu - thể hiện rằng
không còn được ghi nhận trong từ điển tương ứng].
TĐ1 TĐ2 TĐ3 TĐ4 TĐ5 TĐ6 TĐ7 TĐ8
bui - - - - - + + -
chỉn - + + + + + + +
chưng + + - + + + + +
hoà + + + + + + + -
lọ + - + - + + + +
luống - + + + + + + +
mựa + + - + + + + +
nhẫn + + + + + + + +
phô + + - + + + - -
ru + + + + + + + +
sá - + + + + - + +
tua - + - + + + - +
thửa + + + + + + - -
vay - + + + + + + +
Sự tồn tại (còn được hiện diện) trong các từ điển của các hư từ trên đây
tuy không đồng đều: (nhẫn, ru còn được ghi trong cả 8 từ điển, chỉn, chưng,
hoà, huống, mựa, vay còn được ghi trong 7 từ điển, lọ, sá, thửa còn được ghi
trong 6 từ điển, phô, tua còn được ghi trong 5 từ điển, bui được ghi trong 2 từ
điển) nhưng điều này vẫn có giá trị chứng tỏ rằng: đối với các hư từ cổ đó,
không phải là ngày nay chúng ta không còn có thể nhận diện và hiểu được chúng
nữa.
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
8
2.2. Loại hư từ thứ hai là những hư từ vốn đã có mặt trong QA và HĐ, tồn
tại suốt từ ngày đó cho đến nay, nhưng trong ý nghĩa và chức năng của chúng đã
có những xu hướng biến động khá đa dạng và phức tạp: 1/ Khi thì mở rộng ý
nghĩa hoặc phạm vi hoạt động ra; 2/ Khi thì thu hẹp ý nghĩa hoặc phạm vi hoạt
động lại; 3/ Khi thì vừa mở rộng chỗ này, vừa thu hẹp chỗ kia.
2.2.1. Về trường hợp mở rộng ý nghĩa, chức năng và khả năng tham gia
các cấu trúc, có thể khảo sát hư từ bằng và hư từ như làm ví dụ.
Từ bằng xuất hiện 65 lần (trong QA 35 lần, trong HĐ 30 lần); như xuất
hiện 16 lần (trong QA 2 lần, trong HĐ 14 lần). Như vậy có thể thấy: trong QA
và HĐ, (và có thể suy rộng ra: trong tiếng Việt thế kỷ XV), hư từ bằng chiếm ưu
thế tuyệt đối về mặt số lượng so với hư từ như trong các cấu trúc so sánh ngang
cấp. Đáng lưu ý là ở chỗ: cả bằng và như trong nguồn ngữ liệu đang xét đều chỉ
thể hiện ý nghĩa so sánh, chưa hề mang một ý nghĩa ngữ pháp nào khác. Ví dụ:
Miệng người như mật mùi qua ngọt. Đạo thánh bằng tơ mối hãy dài (QA, bài
91). Làu làu đèn bụt rạng như tô (HĐ.PCM, bài 44). Ngọt bằng mít mát bằng
dừa (HĐ.PVM, bài 38).
Tuy nhiên, càng về sau này, như càng khẳng định vị thế của nó qua tần số
sử dụng càng ngày càng tăng và mở rộng thêm những ý nghiã, chức năng khác
nữa. Trong QA, như mới chỉ xuất hiện 02 lần/ bằng 35 lần, đến HĐ (sau QA
nửa thế kỷ và có độ dài tương đương), như đã xuất hiện 14 lần/ bằng 30 lần, đến
đến Truyện Kiều, như được dùng tới 91 lần/ bằng 9 lần, và Từ điển tần số tiếng
Việt [6] cho biết trong tiếng Việt khoảng những năm 1960-1970, tần số của như
là 2410, còn tần số của bằng là 518.
Đến nay, ngoài ý nghiã và chức năng làm từ so sánh ra, như đã phái sinh,
mở rộng, phát triển thêm một số ý nghiã và chức năng khác. Cụ thể là:
a. So sánh nhằm gia thêm ý nghiã miêu tả, đánh giá và ý nghĩa tình thái
cho vị ngữ của câu. Ví dụ: Hắn nấc lên như muốn khóc. Nó cứ làm như chết đến
nơi ...
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
9
b. Nhấn mạnh vào ý: "Điều sắp nói đến không có gì mới lạ, hoặc không
cần phải bàn cãi". Ví dụ: Như chúng ta đã biết, chuyện này có những điều tế nhị.
Cậu Thành, như đã thông báo hôm qua, sẽ ở lại, không đi đợt này...
c. Liệt kê những đối tượng đồng loại để làm ví dụ minh hoạ cho cái vừa
được nói tới. Ví dụ: Nó là mẹ đẻ của những tính xấu như suy bì, kiêu căng, kèn
cựa và lười biếng... Những đồ dùng cá nhân như quần áo, giầy dép, chăn màn ...
Đối với hư từ bằng, đồng thời với việc san sẻ vị thế với như, nó cũng có
những chiều hướng mở rộng ý nghĩa và chức năng rất mạnh. Nếu trong QA và
HĐ, bằng chỉ thuần tuý là một từ so sánh, thì hiện nay, bên cạnh ý nghĩa đó, nó
còn có một số ý nghĩa và chức năng rất quan trọng khác nữa như:
a. Ý nghĩa chỉ chất liệu tạo nên sự vật được nói đến. Ví dụ: Bàn bằng gỗ.
b. Ý nghĩa chỉ phương tiện, phương pháp của hoạt động. Ví dụ: Đi bằng ô
tô. Phải làm xong bằng mọi cách.
c. Thể hiện điều sắp nêu ra là yêu cầu/ mức độ (mà hành động vừa được
nói tới) phải đạt được. Ví dụ: …viết bằng xong thì thôi. …cố gặp bằng được(rồi
mới về).
Thực tế cho thấy: sự phái sinh, phát triển các ý nghĩa, chức năng vừa nói
của bằng đã diễn ra không sớm lắm. Nói cách khác, các ý nghĩa, chức năng ấy
mãi đến gần đây mới hoạt động một cách tích cực. Chứng cớ là: trong từ điển
Việt Bồ đào nha La tinh của A. De Rhodes (thế kỷ XVII) và trong Truyện Kiều (
nửa cuối thế kỷ XVIII), tự vị An nam-Latinh của Pigneaux de Behaine (1772 -
1773) ba ý nghĩa, chức năng vừa nêu trên đây của bằng chưa hề được ghi nhận.
Tuy nhiên, nói vậy không có nghiã rằng chúng ta khẳng định: đến thế kỷ XVIII,
ba ý nghĩa, chức năng ấy hoàn toàn chưa xuất hiện. Chúng chưa được ghi trong
từ điển, nhưng trong Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều (thế kỷ
XVIII), chúng ta đọc được: "Giết nhau bằng cái lưu cầu, giết nhau bằng cái u
sầu độc chưa" thì không thể nói rằng vào thời đó ý nghĩa chỉ phương tiện hành
động của hư từ bằng chưa xuất hiện. Có điều chắc chắn rằng năng lực hoạt động
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
10
của bằng với ý nghĩa này lúc đó hẳn còn rất yếu, đến nỗi từ điển chưa đưa vào
bảng từ, chưa ghi nhận, và Truyện Kiều cũng chưa hề sử dụng.
Sang cuối thế kỷ XIX, Đại Nam quốc âm tự vị của Huình Tịnh Của
(1896), Tự điển Việt Pháp của Genibrel (1898) đã ghi nhận một cách chắc chắn
ý nghĩa chất liệu, phương tiện của bằng qua những ngữ liệu như: bằng tơ; bằng
vải; bằng gỗ (ĐNQATV) bằng gỗ; bằng vàng; bằng bạc (TĐVP); tôi kêu người
bằng anh; kêu cái này bằng giống gì? súc miệng bằng nước lã (TĐVP).
2.2.2. Về trường hợp thu hẹp ý nghĩa và chức ngữ pháp, xét các ví dụ sau
đây:
a. Hư từ cùng :
Trong QA và HĐ, cùng được dùng 68 lần: làm phó từ đi trước vị từ 25
lần, làm liên từ 18 lần, làm giới từ 25 lần. Ví dụ: Lừng lẫy cùng ca khúc thái
bình (HĐ.TĐM, b.33), Làm người chẳng có đức cùng tài (QA, b.6), Ăn chiên
chẳng quản đói cùng no (HĐ.NĐM, b.9), Chơi cùng đứa dại nên bầy dại (QA,
b.148)
Như vậy, ở đây, cùng xuất hiện (được dùng) với ý nghĩa, chức năng làm
liên từ, giới từ nhiều hơn là ý nghĩa, chức năng làm phó từ trước vị từ. Hiện nay,
và (liên từ), với (liên từ, giới từ) đã đảm nhiệm chức năng liên từ, giới từ của
cùng và thay thế cho cùng trong đại đa số trường hợp. (Trong QA và HĐ đã có
từ với xuất hiện 2 lần - tất nhiên con số này có thể thay đổi chút ít do cách phiên
âm chữ Nôm giữa với và mấy). Từ điển tần số tiếng Việt 1979 [5] cho thấy rất rõ
điều đó: Trong khi tần số của cùng là 409 thì tần số của và là 7903 và tần số của
với là 1483. Độ chênh lệch về tần số ở đây hết sức lớn.
Qua những cứ liệu trên, có thể khẳng định rằng từ thời QA và HĐ, hư từ
cùng đã đồng nghĩa với hư từ và (thời đó còn là hoà) ở chức năng liên từ, đồng
nghĩa với hư từ với ở chức năng liên từ, giới từ. Chính sự đồng nghĩa này đã dần
dần dẫn đến sự cạnh tranh và "phân phối lại" chức năng, ý nghĩa giữa chúng với
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
11
nhau, khiến cho cùng bị thu hẹp bớt dung lượng nghĩa và năng lực hoạt động
của nó lại.
b. Hư từ nữa:
Trong QA và HĐ, chúng ta gặp nữa xuất hiện 61 lần, được sử dụng trong
tuyệt đại đa số trường hợp với ý nghĩa và chức năng của một từ so sánh, thể hiện
ý nghĩa so sánh hơn. Ví dụ: Cửa trúc sương xâm lạnh nữa đồng (HĐ.TĐM,
b.11), Đêm lọt lưu tô lạnh nữa đồng (HĐ.TĐM, b.12), Thu sau càng thắm nữa
thu này(HĐ.NĐM, b.34), Miệng thế nhọn hơn chông mác nhọn / Lòng người
quanh nữa nước non quanh (QA, b.136)...
Ngày nay, ý nghĩa so sánh hơn của nữa đã bị triệt tiêu, làm cho dung lượng
nghĩa của nó bị thu hẹp lại. Ngay trong QA và HĐ, từ hơn - "đối thủ" của nó -
đã hiện diện tới 36 lần rồi.
2.2.3. Đối với trường hợp vừa mở rộng ý nghĩa, chức năng này lại vừa thu
hẹp ý nghĩa, chức năng khác, từ bằng là một ví dụ cụ thể.
Ngoài sự mở rộng ý nghĩa, chức năng của bằng như chúng tôi đã phân
tích bên trên, còn có một hướng biến đổi ngược lại, là thu hẹp ý nghĩa, chức
năng, tầm hoạt động của nó. Từ thời QA và HĐ cho đến nay, ý nghĩa so sánh
của hư từ bằng tuy vẫn được bảo lưu, nhưng càng về sau này, khi từ như càng
mạnh dần lên và "lấn sân" của bằng ở một số chỗ, thì bằng buộc phải thu hẹp
bớt ý nghiã và chức năng của nó ở những chỗ đó lại. Tư liệu cho thấy: nếu như
thời QA và HĐ bằng và như hoàn toàn thay thế được cho nhau, thì hiện nay, bên
cạnh nhiều chỗ chúng vẫn hoàn toàn có thể thay thế đựơc nhau, đã có nhiều chỗ
chúng không còn thay thế cho nhau được nữa. Chẳng hạn:
Thời QA và HĐ có những cách nói: Ngày tháng bằng thoi một phút cười
(QA, b. 22). Ngọt bằng mít mát bằng dừa (HĐ. PVM, b.38). Tỳ bà mấy khúc sầu
bằng bể (HĐ. NNCPT, b.50)...; đồng thời cũng có: Miệng người như mật mùi
qua ngọt (QA, b.91). Khua Ngô vỡ mật tan như ruốc (HĐ.NNCPT, B.81). Làu
làu đèn bụt rạng như tô (HĐ. NNCPT, b.81)... Ngày nay, chúng ta cũng có thể
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
12
gặp những cách nói: Cao bằng mái nhà // Cao như mái nhà... nhưng nói được:
Thị làm như không biết. Hai lần năm bằng mười... mà không nói được: Thị làm
bằng không biết. Hai lần năm như mười...
Thêm nữa, trong các câu như: Ngày tháng bằng thoi một phút cười (QA,
b. 22). Ngọt bằng mít mát bằng dừa (HĐ. PVM, b.38). Tỳ bà mấy khúc sầu bằng
bể (HĐ. NNCPT, b.50)... vừa kể trên, nếu nói theo cách của ngày hôm nay, chắc
chắn người Việt sẽ không nói với bằng mà nói với như.
Như vậy, so với thời QA và HĐ, bằng trong tiếng Việt ngày nay đã thu
hẹp bớt phạm vi hoạt động của nó lại, chủ yếu chỉ hoạt động trong những cấu
trúc có ý nghĩa so sánh định lượng về hình khối, số lượng, những so sánh logíc,
luận lý, nhằm nêu một thông báo cụ thể về một hiện thực cụ thể... còn những so
sánh thiên về "định tính" hơn, những cấu trúc so sánh có tính chất tu từ hơn thì
dường như đã được nhượng lại cho từ như (Chẳng hạn, ca dao nói: Đàn ông
nằm với đàn ông, như gốc như gác như chông như chà, đàn ông nằm với đàn
bà, như gấm như vóc như hoa trên cành mà không nói: ...* bằng gốc, * bằng
gác, * bằng chông, * bằng chà, *bằng gấm, * bằng vóc, * bằng hoa trên cành).
2.3. Loại hư từ thứ ba là những hư từ mà có thể nói rằng từ thời QA và HĐ
cho đến nay, hầu như không (hoặc về căn bản là không) có thay đổi gì về ý
nghĩa và chức năng. Đó là những hư từ như: nếu, thì, là, mới, nhưng, lại, của,
để, cho, vì, nên, cũng, còn, đều, đã, đang, chưa, hãy, chớ, càng, tuy, bởi, các,
những, chớ, mọi, từng... Chúng ta có thể quan sát một số câu sau đây:
Ngủ thì nằm đói lại ăn (QA, b.10)
Chẳng thấp thì cao ắt được dùng (QA, b.132)
Tranh tàn tuy cũ nhưng còn điếm (HĐ.NNCPTT, b.24)
Rõ ràng, các hư từ như thì, lại, chẳng, tuy, nhưng, ắt... trên đây hoàn toàn
không có gì khác so với tình trạng ý nghĩa, chức năng và hoạt động của chúng
trong tiếng Việt ngày nay. Trong số các hư từ loại thứ ba này, có:
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
13
- 04 hư từ có thể làm thành tố phụ trong các ngữ danh từ (danh ngữ),:
những (55), mọi (31), mỗi (2), các (5) ...
- 38 hư từ có thể làm thành tố phụ trong các ngữ vị từ (động ngữ và tính
ngữ) như: cũng (30), càng (62), cứ (2), chẳng (231), chưa (45), chửa (29), cực
(8), đã/đà (223), đều (27), đang/đương (6), hãy (38), đừng (4), chớ (53), hơi
(19), không (7), mãi (5), nhau (20), quá (5), rồi (8), sẽ (1), trong (75), trên (32),
trước (23), từng (22), vẫn/vuỗn (18), vào (5), về (12) ...
- 66 hư từ không làm thành tố phụ trong các ngữ danh từ và ngữ vị từ (số
này bao gồm cả những từ có thay đổi về nghĩa: mở rộng hoặc thu hẹp nghĩa). Ví
dụ: bằng (65), của (9), cùng (68), cùng nhau (6), cho (61), để (26), để mà (1),
mà (2), nhân (10), bởi (31), bởi vì (1), vì bởi (1), tại (3), vì (42), như (16), hơn
(36), với (2), là (80), mấy (103), hay (37), hay là (4), nhưng (5), ví dầu (2), nếu
(12), thì (124), hễ (4), tại (3), nên (107), vả (3), kẻo (21),, từ (31), chăng (80),
thay (41)...
Điều này cần được đặc biệt quan tâm phân tích chi tiết hơn trong nghiên
cứu lịch sử ngữ pháp tiếng Việt cũng như những nghiên cứu khác về ngữ nghĩa
và ngữ nghiã học lịch sử.
2.4. Bên cạnh những nhóm hư từ vừa được đề cập như trên đây, trong QA
và HĐ còn có một thực tế hết sức đáng chú ý nữa là: vào thời của hai tác phẩm
này, tiếng Việt đã có và sử dụng nhiều cặp hư từ kết hợp với nhau để tạo lập
những cấu trúc ngôn ngữ phức hợp, thể hiện những liên hệ phức hợp về ngữ
pháp, ngữ nghĩa và ngữ dụng.Ví dụ:
bao nhiêu ... bấy nhiêu ... Lộc được bao nhiêu ăn bấy nhiêu (QA, b.24)
bao giờ ... bấy giờ ... Mưa tưới bao giờ mát bấy giờ (HĐ.NNCPT, b.24)
cớ chi ... mà ... Cớ chi Cô Dịch khua lay cửa
mà giục Huyền Minh sớm gác yên(HĐ.PVM, b. 67)
càng ... càng ... Càng tiếc càng thương càng oán giận (HĐ.NNCPT,b.71)
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
14
chẳng ... thì ... Chẳng thấp thì cao ắt được dùng (QA, b.132)
dầu ... thì ... Dầu thác thì còn tạc đến xương (HĐ.NNCPT, b.17)
dầu ... vuỗn (vẫn) ... Nghìn kiếp dầu ăn vuỗn hãy còn (QA, b. 87)
đã ... thì ... Đã sinh thì dưỡng mặc lòng trời (HĐ.NNCPT, b.13)
nếu ... thì ... Nếu có ăn thì có lo (QA, b.20)
nhân ... phải ... Nhân chưng giận chuột phải nuôi mày (QA, b. 251)
vì ... phải ... Lo thay! vì luỵ phải thờ ơ (QA, b. 108)
vì ... cho ... Vì ai cho cái đỗ quyên kêu (QA, b.197)
hễ ... thì ... Hễ kẻ làm khôn thì phải khó (QA, b.176)
khi ... thì ... Khi dùng đến mới biết rằng mầu (HĐ.PVM, b.66)
ví ... thì ... Ví có anh hùng duyên định mấy
thì chi Đông Hán dám hung hăng (HĐ.NNCPT, b. 88)
từ ... tới/ nhẫn ... Trải từ lều cỏ tới nhà vàng (HĐ.NNCPT, b. 33)
Suốt từ một khắc nhẫn năm canh (HĐ.TĐM, b.22)
tuy (rằng) ... miễn ... Phận tuy rằng khó miễn yên lòng (QA, b.56)
tuy ... cũng ... Tuy rằng bốn bể cũng anh tam (QA, b.174)
tuy ... nhưng ... Tranh tàn tuy cũ nhưng còn điếm (HĐ.NNCPT, b.24)
hoà ... hoà ... Hoà cao hoà sáng vuỗn hoà thanh (TĐM, b.19)
Có thể nói rằng, từ thời QA và HĐ đến nay, nhìn chung các cặp đôi hư từ
đó không biến đổi hoặc rất ít khi có biến đổi. Trong phạm vi quan sát được của
chúng tôi, ngoại trừ cặp hư từ "hoà ... hoà..." đã biến đổi; số còn lại hiện vẫn
đang tồn tại, hoạt động trong tiếng Việt ngày nay và những ý nghĩa ngữ pháp,
những đặc điểm, thuộc tính, nội dung thuộc bình diện ngữ dụng do chúng biểu
thị cũng vẫn được giữ nguyên. Để biểu thị ý nghiã " có hành động, trạng thái
xảy ra đồng thời", trong HĐ nói, chẳng hạn "hoà cao hoà sáng vuỗn hoà thanh"
(TĐM, b.19). Sự biến đổi từ HOÀ sang VÀ, và kèm theo đó là những thay đổi,
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
15
"chuyển nhượng" ngữ nghĩa, chức năng của nó đã dẫn đến chỗ cặp "hoà ... hoà
..." nay được thay thế bằng cách dùng "vừa ... vừa ..." có ý nghĩa tương đương,
mà bước chuyển trung gian của chúng còn thể hiện rất rõ rệt trong ngôn ngữ văn
xuôi cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là cặp hư từ "và ... và ...", ví dụ như: và nói
và khóc, và đi và nói, và kêu và bay, và mầng và sợ, và thương và giận... [3. tr.
278].
3. Xét về mặt nguồn gốc của các hư từ trong QA và HĐ, chúng tôi thấy có
một bộ phận đáng kể trong số các hư từ ấy xuất phát từ nguồn gốc Hán, bao gồm
cả cổ Hán Việt lẫn Hán Việt và Hán Việt Việt hoá: 38 trên tổng số 135 hư từ .
Đó là các hư từ: ắt, âu (hẳn, là), bằng, bèn, càng, các, cùng, cứ, cực, đang,
được, há, hoà, huống, khá, không, liền, miễn, mọi, mỗi, ngoại, ngoài, nhân, như,
phải, quá, tại, từ, tự, tựa, tuy, từng, thậm, thửa, vả, ví, vì, vốn [xem thêm 8].
Theo quan sát của chúng tôi, các hư từ đó đã được vay mượn từ tiếng
Hán vào tiếng Việt trong những thời kỳ khác nhau trước khi hai thi phẩm này ra
đời và chúng đã có những biến đổi khá nhiều so với nguyên gốc. Hiện nay, trừ
thửa và hoà đã không còn tồn tại và hoạt động nữa (hoà được thay thế bằng và;
theo [8] thì hoà có nguồn gốc là từ Hán Việt, và chính là dạng Hán Việt Việt hoá
của hoà), các trường hợp khác vẫn còn đang hoạt động. Cụ thể là:
a. Chúng ta gặp âu trong âu hẳn, âu là..., cực trong cực kỳ, hoặc trong
những kết cấu kiểu cực xấu, cực tốt, cực giỏi...; vả trong vả lại, vả chăng...;
huống trong huống hồ, huống chi...; ngoại trong ngoại thương, ngoại ngữ, ngoại
hối, ngoại tình... (hoặc những cách nói "nệ cổ" như ngoại ngũ tuần, ngoại lục
tuần...); thậm trong những cách nói như thậm khó, thậm khổ, thậm tệ..; ví trong
ví dầu, ví như, ví thử.., khá trong khá khen...
b. Các hư từ khác còn lại ( ắt, bằng, bèn, càng, các, cùng, cứ, đang, được,
há, không, liền, miễn, mọi, mỗi, ngoài, nhân, như, phải, quá, tại, từ, tự, tựa, tuy,
từng, vả, ví, vì) chẳng những đều đang tồn tại mà đại đa số trong số đó còn được
sử dụng với tần số cao hoặc khá cao. Đối chiếu với Từ điển tần số 1980 [5] để
tham khảo, chúng tôi thấy các số liệu như sau (con số ghi đằng trước trong dấu
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
16
ngoặc là tần số của từ; tiếp theo là độ phân bố của chúng): bằng (518, 268), bèn
(19,14), các (5257, 485), càng (459,236), cùng (720, 321), cứ (790, 274), đang
(1470,397), được (2815, 431), không (4185, 464), liền (53, 41), mọi (707, 287),
mỗi (598, 263), ngoài (501, 240), nhân (35, 32), như (2112, 426), phải (2524,
417), quá (459, 208), tại (158, 92), từ (1337, 425), tự (98, 66), tuy (85, 71),
từng (625, 270), vả (vả lại)(18, 26), vì (577, 223).
Như vậy, rõ ràng là trong vốn từ vựng tiếng Việt, không chỉ ở khu vực
thực từ, mà ngay cả ở khu vực hư từ, hiện tượng vay mượn cũng diễn ra rất
mạnh mẽ. Sau một thời gian "thử thách" đã đủ dài (ít nhất cũng là từ thế kỷ XV
và trước đó đến nay) các hư từ xuất phát từ nguồn gốc Hán đó về căn bản chẳng
những không mất đi vai trò và vị trí sử dụng của mình mà ngược lại, các vai trò
và vị trí sử dụng ấy lại càng ngày càng được tăng cường. Các hư từ gốc Hán
được vay mượn đã cung cấp thêm cho tiếng Việt một bộ phận công cụ ngữ pháp
cần thiết để góp phần phát triển bộ phận này, làm cho nó có đủ khả năng thể
hiện đầy đủ được các quan hệ ngữ pháp và ý nghĩa ngữ pháp của tiếng việt.
4. Từ những phân tích trình bày bên trên, tuy chưa được hoàn toàn đầy đủ
và chi tiết, nhưng chúng tôi thấy, bước đầu đã có thể có cơ sở để rút ra một vài
nhận xét như sau:
a. Từ thời Quốc âm thi tập và Hồng Đức quốc âm thi tập đến nay, hư từ
tiếng Việt đã có nhiều biến đổi về nhiều mặt. Đối với các hư từ cổ ở đây, tư liệu
khảo sát cho thấy: số từ bị "mất đứt" đi trong đời sống giao tiếp của tiếng Việt
ngày nay (14/135) và số còn để lại tàn dư của chúng (11/135), rõ ràng là không
nhiều. Trong các hư từ còn lại đến nay, có một số vẫn giữ y nguyên ý nghĩa,
chức năng của chúng như hồi thế kỷ XV. Một số khác, lớn hơn nhiều, đã có
những thay đổi và/hoặc phát triển bằng con đường bổ sung, mở rộng ý nghĩa,
chức năng (đây là con đường chủ yếu), hoặc thu hẹp ý nghĩa, chức năng của
chúng lại. Chính vì thế, có rất nhiều hư từ tồn tại và hoạt động liên tục từ QA và
HĐ đến nay nhưng hiện nay chúng đã có thêm những ý nghĩa và chức năng ngữ
pháp mà vào thời đó, chúng chưa hề có, hay ít nhất cũng có thể nói rằng những ý
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
17
nghĩa và chức năng ngữ pháp đó chưa được thể hiện trong nguồn ngữ liệu được
phân tích. Ngược lại, rõ ràng là cũng có những hư từ thu hẹp bớt ý nghĩa, chức
năng, hoặc cũng có khi, vừa mở rộng thêm ý nghĩa, chức năng này, vừa thu hẹp
ý nghĩa, chức năng khác. (Việc tạo lập thêm những hư từ mới để thể hiện những
ý nghĩa ngữ pháp, quan hệ và chức năng ngữ pháp mới được xác lập, lại là một
vấn đề riêng). Đây chính là một trong những biểu hiện của sự biến đổi đa dạng
và phức tạp của từ vựng tiếng Việt nói chung cũng như các hư từ tiếng Việt nói
riêng, cần được miêu tả, phân tích chi tiết hơn để góp phần làm rõ hơn quá trình
hình thành, diễn biến, phát triển của từng hư từ hoặc từng nhóm trong hệ thống
từ công cụ ngữ pháp từ thế kỷ XV đến nay.
b. Nguồn tư liệu khảo sát cũng cho chúng ta thấy: vào thế kỷ XV, hệ
thống hư từ của tiếng Việt chưa phong phú như bây giờ; và hồi đó đã có nhiều
hư từ đa nghĩa mà mỗi nghĩa của chúng lại tương đương, đồng nghĩa với một hư
từ khác, tạo thành những nhóm hư từ đồng nghĩa phản ánh những nét tương
đồng và dị biệt rất tế nhị về mặt ý nghĩa ngữ pháp, ngữ dụng.Chính điều này đã
dần dần dẫn đến sự phân bố lại về ý nghĩa, chức năng giữa chúng với nhau để
đáp ứng nhu cầu biểu thị, diễn đạt, khiến cho một hoặc vài từ trong các nhóm
(thường là hư từ đa nghiã) bị chèn lấn rồi kết cục đi đến chỗ bị loại trừ, trở thành
hư từ cổ. So sánh: hoà - và - cùng/cùng nhau, chăng - chẳng - không, sá - tua -
nên - hãy, mựa - đừng - chớ, nhẫn - đến - hơn- đành, tày - dường - như - bằng -
tựa, tại- bởi - vì...
Tuy nhiên, không phải bao giờ cũng xảy ra tình trạng loại trừ, triệt tiêu
nhau, mà ngược lại, có một điều rất đáng chú ý là nhiều khi chúng lại tổ hợp với
nhau (ngay từ thời QA và HĐ) tạo thành những "hư từ ghép" như ví dầu, dầu
nhẫn, dầu hoà, vì bởi, song le... và nay còn có thêm hơn nữa, cùng với, bởi vì,
tại vì, cho nên... Điều này không có gì lạ. Hiện tượng hình thành những "hư từ
ghép" như thế không nằm ngoài xu hướng tạo lập những đơn vị từ vựng song
tiết đẳng lập nói chung (bằng cách ghép những cặp yếu tố đồng nghĩa, gần nghĩa
hoặc trái nghĩa lại với nhau, cũng giống như: theo đòi, gánh vác, đổi chác, đôi
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
18
co, đầu đuôi, hỏi han trên dưới, đi về… vốn đã xuất hiện từ khá sớm trong tiếng
Việt mà cho đến nay, xu hướng ấy vẫn đang càng ngày càng phát triển 2. (*).
Nhìn từ bình diện phát triển mà nói, chính những trường hợp như vậy vừa
là nhân tố căn nguyên, lại vừa là kết quả của một tiến trình.
c. Ngôn ngữ trong QA và HĐ là ngôn ngữ thơ, do thi luật và thi pháp
trong biểu hiện nên ít dùng hư từ; và vì vậy, các hư từ trong nguồn ngữ liệu này
không phải là toàn bộ hệ thống hư từ tiếng Việt thế kỷ XV. Tuy nhiên, nếu so
với các hư từ tiếng Việt hiện đại, thì với tất cả những gì quan sát được, chúng tôi
cho rằng: hệ hư từ tiếng Việt thế kỷ XV đã đủ phong phú cả về số lượng và chất
lượng, đủ năng lực để phục vụ cho tiếng Việt lúc đó hành chức ở trình độ cao.
Điều này thể hiện rõ nhất ở những hư từ mà từ thế kỷ XV chúng đã mang những
phẩm chất ngữ pháp, ngữ nghĩa và ngữ dụng như ngày nay và hầu như không có
biến đổi từ đó đến nay. Loại này chiếm số lượng lớn và cùng với toàn hệ thống,
đóng vai trò làm bộ công cụ ngữ pháp có đủ năng lực để phục vụ cho hoạt động
ngôn ngữ, tạo lập văn bản, nhất là văn bản ngôn ngữ thơ ca - hình thức sớm của
ngôn ngữ văn hoá, văn học Việt. Vì thế, cũng có thể nói: vào thời kỳ của QA và
HĐ, hoặc sớm hơn chút ít, từ lúc ra đời của văn bản Khoá hư lục giải nghĩa (có
thể vào khoảng thế kỷ XIV. Xem [6]) hệ thống công cụ ngữ pháp hư từ của tiếng
Việt đã và đang vừa phát triển, vừa làm hoàn thiện và phong phú hơn cho mình
cả về năng lực biểu thị các nội dung, ý nghĩa, quan hệ, ngữ pháp lẫn số lượng
(gồm cả việc vay mượn, tiếp thu các hư từ gốc Hán - Đây là một vấn đề không
nhỏ, cần có những nghiên cứu riêng). Chính điều này là cơ sở thuận lợi bảo đảm
cho việc diễn đạt bằng ngôn ngữ văn xuôi trong giai đoạn bắt đầu hình thành
nền văn xuôi Việt, khởi thuỷ bằng những văn bản giải âm, diễn âm đầu tiên như
Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh, Truyền kỳ mạn lục, Thiên Nam ngữ
lục ... trong những thế kỷ tiếp theo./.
2 Xem thêm: Vũ Đức Nghiệu: Các đơn vị từ vựng song tiết đẳng lập tiếng Việt trong bối cảnh một số ngôn
ngữ Đông Nam Á. Ngôn ngữ số 5-1999; tr. 22-34; Đơn tiết, đơn tiết hoá và đa tiết, đa tiết hoá trong quá trình
phát triển của tiếng Việt. Kỷ yếu hội thảo Ngôn ngữ và ngôn ngữ học Liên Á lần thứ 6. Hà Nội, 2005, tr.202-
213.
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
19
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Diệp Quang Ban: Ngữ pháp tiếng Việt. Nxb. Giáo dục. Hà Nội, 2005.
2. Nguyễn Tài Cẩn: Từ loại danh từ trong tiếng Việt. Nxb. KHXH. Hà Nội,1975.
3. Nguyễn Tài Cẩn: Một số chứng tích về ngôn ngữ, văn tự và văn hoá. Nxb. Đại học
Quốc gia Hà Nội, 2002.
4. Trương Văn Chình, Nguyễn Hiến Lê: Khảo luận về ngữ pháp Việt Nam. Đại học
Huế,1963.
5. Nguyen Duc Dan: Dictionnaire de frequence du Vietnamien. Universite de Paris VII,
1980.
6. Trần Trọng Dương: Nghiên cứu các bản dịch "Khoá hư lục": chữ Nôm và tiếng Việt.
Luận văn Thạc sĩ; Đại học quốc gia, Hà Nội, 2005.
7. Cao xuân Hạo: Tiếng Việt- Mấy vấn đề ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa. Nxb. GD, 1998.
8. Lý Lạc Nghị, Jim Waters: Tìm về cội nguồn chữ Hán. Nxb. Thế giới, Hà Nội, 1998.
9. Nguyễn Anh Quế: Hư từ trong tiếng Việt hiện đại. Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội,
1988.
10. Stankievich, N. Vài nhận xét về các hư từ tiếng Việt thế kỷ 16 (Tư liệu rút từ Truyền
kỳ mạn lục giải âm). Ngôn ngữ, số 9-2006, tr.1-9.
11. Stankievich, N. Hiện tượng giao thoa từ ngữ pháp tiếng Hán sang ngữ pháp tiếng Việt
(qua cứ liệu “Khoá hư lục giải âm”). Ngôn ngữ, số 1-1988, tr. 31 - 35.
12. Stankievich, N. Về sự diễn biến của những hư từ chỉ nguyên nhân. Ngôn ngữ, số 4-1985,
tr. 58 - 59.
13. Stankievich, N. Một vài suy nghĩ bước đầu về việc nghiên cứu ngữ pháp lịch sử tiếng
Việt, T/c Ngôn ngữ, số 4, 1978, tr. 27 - 34.
14. Nguyễn Kim Thản: Nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt. NXB GD. Hà Nội, 1997.
15. Bùi Đức Tịnh: Văn phạm Việt nam. NXB. Văn hoá.1996.
16. Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia: Ngữ pháp tiếng Việt. NXB KHXH.
Hà Nội, 2000.
17. IS. Bưstrov, Nguyen Tai Can, NV. Stankievich: Grammatika Vietnamskogo Jazyka.
Leningrad, 1975.
18. Krifka M: Common nouns: A contrastive analysis of Chinese and English. In: Carlson
and Pelletier (eds.). Chicago & London, 1995. 398-411 pp.
19. Viktor Krupa: Classifiers in the languages of Southeast Asia. Evolution of a lexico-
syntactic category. Asian and African studies, XIV. 1978. 119-124 pp
NGUỒN NGỮ LIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT
1. Quốc âm thi tập (QA). Trong sách: Nguyễn Trãi toàn tập. Nxb. Khoa học xã hội, Hà
Nội, 1976.
2. Hồng Đức quốc âm thi tập (HĐ). Nxb. Văn học, Hà Nội, 1982.
TĐM: Thiên địa môn;
NĐM: Nhân đạo môn;
PCM: Phong cảnh môn;
PVM: Phẩm vật môn;
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
20
NNCPT: Nhàn ngâm chư phẩm tập.
T/c Ngôn ngữ, Số. 12, 2006, tr. 1 – 14.
Từ khoá: hư từ, hư từ cổ, ý nghĩa ngữ pháp, chức năng, Quốc âm thi tập, Hồng Đức quốc âm thi tập,
thành tố phụ, danh ngữ.
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 22.Hu tu tieng viet TK 15.pdf