Đề tài Huy động và sử dụng vốn đầu tư tại công ty đầu tư phát triển nhà và đô thị - Bộ Quốc Phòng - Thưc trạng và giải pháp

Tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư, bất kỳ đồng tư bản nào bỏ ra trong hiện tại để đầu tư thì nhất định nó phải sinh ra cho chủ tư bản một giá trị lớn hơn trong tương lai.Điều này đã hàm chứa đặc trưng cơ bản của vốn đầu tư là tính sinh lời. Bảy đặc điểm chính sau đây của vốn đầu tư sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về đặc điểm của vốn: Thứ nhất, Vốn là đại diện cho một lượng giá trị tài sản có nghĩa vốn là biểu hiện bằng giá trị của các tài sản hữu hình và vô hình như: nhà xưởng, đất đai, máy móc, thiết bị, chất xám, thông tin. Một lượng tiền phát hành đã thoát ly giá trị thực của hàng hoá để đưa vào đầu tư, những khoản nợ không có khả năng thanh toán thì không được coi là vốn. Thứ hai, vốn luôn vận động để sinh lời. Vốn được biểu hiện bằng tiền nhưng chỉ là dạng tiềm năng của vốn. Để biến thành vốn thì đồng tiền đó phải được đưa vào hoạt động kinh doanh để kiếm lời. Trong quá trình vận động vốn có thể thay đổi hình thái biểu hiện.

doc78 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1100 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Huy động và sử dụng vốn đầu tư tại công ty đầu tư phát triển nhà và đô thị - Bộ Quốc Phòng - Thưc trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
2.1. Chỉ tiêu hiệu quả sủ dụng vốn lưu động (H1) Bảng 13: Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động giai đoạn 2001-2004 Đơn vị; triệu đồng chỉ tiêu Năm Doanh thu Vốn lưu động H1 2001 60.007,832 35422,3 1,69 2002 80.616 36846 2,19 2003 60.612 207433 0,29 2004 50.100 456905 0,109 Nguồn : Phòng KH-TH Qua các con số trên ta thấy hiệu suất sử dụng tài sản lưu động trong 2 năm 2001 và 2002 là khá cao đều > 1. Nhưng từ 2003 lại có xu hướng giảm dần trong các năm tiếp theo. Nhưng điều này không có nghĩa là vốn lưu động sử dụng tại Công ty kếm hiệu quả hay các dự án đầu tư là không khả thi. Giai đọan 2001- 2004 đánh dấu một bước ngoặt trong quá trình phát triển của Công ty, Công ty đã đựoc Thủ Tướng Chính Phủ phê duyệt dự án khu đô thị mới Mỹ Đình1, thay vì các dự án cải tạo, nâng cấp nhỏ lẻ như trước. Vì vậy vốn đầu tư cho dự án này là rất lớn khoảng 676436 ( triệu đồng ). Trong khi đó doanh thu từ hoạt động quản lý và bán nhà theo NĐ 61/ CP có xu hướng ngày càng giảm dần. Chỉ tiêu này sẽ có xu hưóng tăng lên từ 2004 khi Công ty có doanh thu từ hoạt động bán nhà mới. 2.2. Chỉ tiêu mức sinh lời của vốn lưu động ( H2 ). H2 = Lợi nhuận ròng / Vốn lưu động Bảng 14: Sự biến động của chỉ tiêu H2 qua một số năm Đơn vị: Triệu đồng chỉ tiêu Năm Lợi nhuận ròng Vốn lưu động H2 2001 172.000 35422,3 4.86 2002 198.452 36846 5,39 2003 280.000 207433 1,35 2004 1000.000 456905 2,19 Nguồn: Phòng KH- TH Nhận thấy rằng mức sinh lời của 2 năm 2001, 2002 là rất hấp dẫn. Chỉ tiêu mức sinh lời đạt rất cao lần lượt là 4.86% và 5,39%, còn năm 2003 và 2004 chỉ tiêu này lại giảm xuống còn có 1,35%; 2,19%. Tức một đồng vốn lưu động năm 2001 tạo ra được 4,86 đồng doanh thu thì con số này năm 2004 chỉ là 2,19 đồng. Nguyên nhân của tình trạng này do vốn đầu tư cho các dự án lớn ngày càng nhiều nhưng chưa thu hồi vốn ngay được. Còn năm 2001 và 2002 Công ty đã đạt được những kết quả vượt trội trong doanh thu từ hoạt động quản lý và bán nhà theo NĐ 61/ CP như 2001 đạt khoảng 56,5 tỷ đồng còn 2002 đạt khoảng80,8 tỷ đồng. Xu hướng sinh lời của vốn lưu động là giảm dần đây là dấu hiệu không tốt cho một đơn vị sản xuất kinh doanh. Nhưng đối với Công ty thì không có gì đáng lo ngại, xét trên thực trạng hoạt động đầu tư thì điều này là hợp lý vì Công ty đang tập trung vào một số dự án lớn như: Mỹ Đình, Cổ Nhuế. Nhưng chưa mang lại doanh thu là bao nhiêu để bù đắp những chi phí đã bỏ ra vì dự án này chưa kết thúc. Bên cạnh đó Công ty cần tăng cường công tác quản lý vốn lưu động, lượng vốn bỏ ra phải đi đôi với tiến độ và chất lượng của các công trình. Phân bổ hợp lý giữa vốn từ các nguồn huy động khác nhau cho các lĩnh vực đầu tư khác nhau là hợp lý. 3. Đánh giá chung về tình hình sử dụng vốn 3.1 Kết quả đạt được Kết quả của việc phân bổ nguồn vốn đề cập ở phần trên được tập trung đánh giá dưới hai góc độ đó là kết quả đầu tư vào tài sản cố định và đầu tư xây dựng các dự án. Thời gian qua do trong hoạt động của công ty có nhiều thay đổi điều đó đã ảnh hưởng lớn đến phân bổ và sử dụng vốn đầu tư. Giá trị tài sản cố định đã tăng lên mặc dù lượng tăng là không đáng kể ngưng nó cũng thể hiện sự cố gắng của công ty trong vấn đề không ngừng nâng cao và hiện đại hoá trang thiết bị phục vụ cho công tác quản lý. Dự án Mỹ Đình sắp đi vào giai đoạn hoàn thành và hàng loạt các dự án khác đã đi vào hoạt động đạt kết quả tốt là minh chứng cho quá trình sử dụng vốn đạt hiệu quả cao của công ty giai đoạn vừa qua. Trong công tác tổ chức quản lý vốn đầu tư như: lập và xét duyệt dự án, lập kế hoạch vốn, điều chỉnh và bố trí vốn, phối hợp theo dõi tiến độ thực hiện đã dần đi vào nề nếp. Nguồn NS BQP và thành phố được quản lý chặt chẽ, tuân thủ cơ chế quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản của Nhà Nước. Các dự án chưa đủ thủ tục là chưa bố trí vốn đầu tư. Trên cơ sở phân bổ khá hợp lý giai đoạn 2001-2004 việc sử dụng vốn từ các nguồn huy động đạt kết quả khả quan, chúng ta có thể kiểm chứng điều này thông qua bảng số liệu sau: Bảng 15: Tình hình phân bổ vốn đầu tư tại Công ty giai đoạn 2001- 2004 Đơn vị: triệu đồng Năm Vốn Ngân sách BQP Vốn tín dụng và tự có Kế hoạch Thực hiện Tỷ lệ % Kế hoạch Thực hiện Tỷlệ % 2001 33.451 6.892 20,60 109.221 18.365 16.81 2002 40.378 7.259 17,98 118.574 29.574 29,94 2003 63.602 56.759 82,94 144.341 59.511 41,23 2004 57.020 48.001 84,18 401.238 205.433,85 51,2 Nguồn: Phòng KH-TH Kết quả phân bổ vốn tuy chưa năm nào đạt 100% nhưng đều có tiến triển tốt qua các năm đến năm 2004 tỷ lệ của vốn NS đạt khá cao là 84,18% và vốn vay tuy ở tỷ lệ thấp nhưng cũng đạt được 51,2%. Điều này chứng tỏ những cố gắng vượt bậc của công ty nhằm thay đổi tình trạng giải ngân vốn đầu tư và trên thực tế vốn đã đến các dự án một cách nhanh nhất nhằm đảm bảo duy trì tốc độ thi công của dự án. 3.2 Tồn tại Trong quá trình sử dụng vốn vẫn còn tình trạng thất thoát hao hụt, bộ phận quản lý còn cồng kềnh nên khi có vấn đề lãng phí trong sử dụng xảy ra thì không ai chịu trách nhiệm cụ thể. Vẫn còn tình trạng công trình phải chờ vốn không những ảnh hưởng tới kế hoạch hoàn thành mà còn làm cho thu nhập của người lao động không ổn định. Có một số lượng vốn bị sử dụng sai mục đích, vốn huy động cho xây dựng hạ tầng lại đi mua sắm tài sản cố định. Trên đây chỉ là những tồn tại điển hình nhất mà Công ty cần phải khắc phục ngay trong thời gian tới để làm cho công tác sử dụng vốn có hiệu quả hơn. IV. đánh giá chung về huy động & sử dụng vốn đầu tư của công ty giai đoạn 2001-2004. 1. Những kết quả đạt được Nhìn chung giai đoạn 2001-2004 việc huy động và sử dụng vốn tại Công ty đã đạt được những thành tựu quan trọng. Trước tiên phải kể đến việc Công ty được Thủ Tướng Chính Phủ phê duyệt là chủ đầu tư của khu đô thị mới Mỹ Đình I và tới đây là khu chung cư Cổ Nhuế và khu đô thị mới Vĩnh Phúc. Điều này đánh đấu một bước ngoặt trong quá trình phát triển tại Công ty và đi cùng với nó là cả những thay đổi lớn trong chính sách huy động và sử dụng vốn tại Công ty. 1.1 Đối với vấn đề huy động vốn Trong giai đoạn 2001-2004 với tổng số vốn huy động và thực hiện là 717031( triệu đồng), Công ty đã nâng cấp sửa chữa và cải tạo nhiều hạng mục quan trọng tại các khu tập thể quân đội, các khu nhà làm việc của BQP, học viện Quốc Phòng cũng như đầu tư vào các dự án tại các khu chung cư và khu đô thị mới. Hình thức và nguồn huy động vốn cũng ngày càng đa dạng hơn. Ngoài nguồn tự có và hỗ trợ từ ngân sách BQP Công ty đã tìm kiếm và huy động có hiệu quả các nguồn bên ngoài như: NHTM, khách hàng, tín dụng thương mại. 1.2 Đối với vấn đề sử dụng vốn Giai đoạn 2001-2004 tổng số vốn đầu tư cho tăng cường đổi mới trang thiết bị phục vụ cho công tác quản lý là 4586,088. Các thiết bị văn Phòng đã không ngừng được hiện đại hoá đem lại hiệu quả không nhỏ trong việc thu thập và xử lý các dữ liệu nhanh chóng phục vụ cho công tác nghiên cứu và lập các dự án đầu tư. Đã kịp thời huy động và giải ngân đúng tiến độ cho các dự án đầu tư đặc biệt là các dự án lớn như Cổ Nhuế, Mỹ Đình. Một số chỉ tiêu huy động và sử dụng vốn năm 2s004 đều vượt xa so với năm 2001 và đạt tốc độ tăng trưởng cao. 1.3 Các kết quả chung đạt được Các dự án đầu tư ngoài những giá trị kinh tế mang lại còn mang lại giá trị xã hội to lớn. Cải thiện cơ bản hệ thống hạ tầng kỹ thuật các công trình thuộc bộ quốc Phòng, nâng cấp điều kiện sống tại các khu tập thể quân độivà quan trọng hơn nữa góp phần tăng quỹ nhà ở của thành phố góp phần đẩy nhanh tốc độ đô thị hoá. Xét về lượng thì hiệu quả xã hội mang lại được xem xét qua hai nhóm chỉ tiêu như số lao động sử dụng trong dự án và đóng góp vào ngân sách nhà nước ( bao gồm đóng góp vào NS BQP, nộp tổng Công ty và nộp NSNN). Trong giai đoạn 2001-2004 Công ty ĐTPTN và ĐT –BQP đã đóng góp đáng kể vào ngân sách nhà nước. Cụ thể như sau: Bảng16:Tốc độ tăng nộp ngân sách qua một số năm Năm 2001 2002 2003 2004 Nộp ngân sách(tr.đ) 22.323.871 40.547.548 35.372.602 18.380.550 Tốc độ tăng (%) _ 81,63 -12,76 -48 Nguồn: Phòng KH-TH Tốc độ tăng của chỉ tiêu nộp NS tăng khá từ năm 2001 đến năm 2002, chỉ tiêu này có xu hướng sụt giảm trong năm 2003 và 2004 do doanh thu từ hoạt động bán nhà và quản lý nhà theo NĐ 61/ CP có xu hướng giảm và các dự án lớn đang trong giai đoạn thi công, tức đay chỉ là xu hướng tạm thời. Ngoài ra những đóng góp về mặt xã hội mà Công ty tạo ra không nhỏ còn thông qua việc giải quyết công ăn việc làm cho người lao động. Tính đến cuối 2004 tổng số lao động trong biên chế chính thức là 106 người, số lao động hợp đồng có thời hạn đống bảo hiểm xã hội là 10 người / năm và tạo việc làm cho hàng trăm lao động mùa vụ mỗi năm. Ngoài những hiệu quả định lượng được, Công ty còn tạo ra nhiều hiệu quả xã hội không thống kê được như giảm tải tình trạng thiếu nhà ở cho cán bộ trong quân đội và nhân dân thủ đô. Những tồn tại Qua phân tích thực trạng về tình hình huy động và sử dụng vốn trong thời gian qua tại Công ty, chúng ta nhận thấy rằng hoạt động huy động và sử dụng vốn đã đạt được những thành quả đáng ghi nhận. Nhưng bên cạnh đó còn tồn tại một số mặt đã hạn chế kết quả đầu tư của Công ty. Chưa đáp ứng được nhu cầu về vốn Mặc dù được ưu đãi rất nhiều trong vay vốn từ nguồn ngân sách BQP và được sự cộng tác rất tích cực từ phía khách hàng nhưng Công ty vẫn gặp rất nhiều khó khăn trong việc huy động vốn nhất là vốn dài hạn. Đây cũng là tình trạng chung của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay. Nguồn vốn huy động từ các NHTM hầu như là nguồn vốn ngắn hạn kèm theo các quy định và thủ tục phức tạp trong quá trình cho vay vốn. Nguồn vốn từ phía khách hàng lớn nhưng không ổn định. Điều này gây khó khăn cho việc đầu tư các dự án lớn có thời gian thi công dài và ảnh hưởng tới mức độ kịp thời giải ngân vốn cho các công trình. 2.2. Sử dụng vốn chưa hơp lý Nhưng đôi khi kế hoạch đầu tư còn dàn trải, tức tiến hành cùng một lúc nhiều dự án. Chưa tuân theo quy luật thứ tự ưu tiên cho đầu tư làm cho các công trình có thể là sửa chữa hay xây mới bị dàn trải không hoàn thành đúng tiến độ do thiếu nguồn lực. Công tác xây dựng kế hoạch huy động và sử dụng vốn vẫn chưa thật sự được quan tâm đúng mức, việc phối hợp kế hoạch giữa nguồn vốn đầu tư này với các nguồn vốn đầu tư khác (vốn tín dụng, vốn khách hàng) còn hạn chế. Công tác bố trí vốn tại một số dự án chưa đạt được kết quả như mong muốn , có một số dự án bố trí vốn nhưng chưa thực hiện được ngược lại một số khác có khối lượng hoàn thành cao nhưng chưa bố trí đủ vốn để cấp phát, thanh toán. Mặt khác, do chưa có sự phối hợp thật tốt giữa cơ quan tham mưu xét duyệt dự án và bộ phận quản lý huy động vốn tại công ty nên số dự án được duyệt không trùng với khả năng vốn hiện có. 2.3. Công tác quản lý sử dụng vốn của Công ty Công tác chuẩn bị đầu tư còn chưa được chú trọng đúng mức. Việc nghiên cứu xây dựng báo cáo tiền khả thi và khả thi còn mất nhiều thời gian, thiếu các cán bộ chuyên môn cho công tác thẩm định dự án đầu tư. Quá trình chuẩn bị hồ sơ thủ tục đệ trình cấp trên chờ phê duyệt còn chưa tốt, phải xem xét và làm lại nhiều lần. Công tác tổ chức đấu thầu: phạm vi mời thầu còn nhiều hạn chế chủ yếu ưu tiên cho các đơn vị thi công xây lắp thuộc Binh Đoàn 11. Chính điều này gây khó khăn cho Công ty trong việc tìm kiếm các nhà thầu có chất lượng thi công tốt với giá cả phù hợp, đôi khi còn tình trạng chỉ định thầu. Mặt khác tại Công ty chưa có bộ phận chuyên trách xét thầu, đây là một khó khăn ảnh hưởng lớn công tác xét thầu tại Công ty. 2.4. Tổ chức thực hiện dự án Mặc dù đều có ban quản lý dự án của mỗi công trình nhưng lại bị hạn chế về cán bộ có trình độ chuyên trách và điều kiện vật chất.Nên ảnh hưởng không nhỏ tới việc theo dõi và giám sát công trình. Mặt khác các dự án lại bị phân tán nhỏ lẻ ra nhiều nơi đặc biệt các công trình sửa chữa, kéo theo nó là phân tán lực lượng chuyên môn kỹ thuật. Nhiều dự án không đạt đúng tiến độ xây dựng ảnh hưởng đến việc nghiệm thu bàn giao và quyết toán công trình và điều này cũng làm chậm tiến độ các dự án đầu tư tiếp theo. 2.5. Công tác thanh quyết toán công trình Việc giải ngân vốn đầu tư của Công ty thường trải qua nhiều bước trình duyệt từ lãnh đạo cấp trên xuống rồi mới đến nhà thầu. Vì vậy, khâu này thường bị kéo dài, gây ứ đọng vốn. Mặt khác yêu cầu về quản lý đầu tư ngày càng chặt chẽ, cần nhiều thủ tục phức tạp nên việc giám sát thực hiện thủ tục cấp phát vốn cho các dự án gặp những khó khăn nhất định. Đôi khi Công ty còn quá chú trọng tới việc lập dự án mới mà chưa quan tâm đúng mức đến việc tổ chức giám sát, lập quyết toán còn chậm, nhiều công trình hoàn thành xong nhưng việc thanh toán chưa kết thúc. 2.6. Tình trạng giải ngân vốn đầu tư còn chậm. Hàng năm căn cứ vào tình hình sử dụng vốn kỳ kế hoạch và tiến triển của các dự án đầu tư mà Công ty lập kế hoạch huy động và sử dụng vốn cho mình dựa trên chỉ tiêu bền vững và hiệu quả. Theo đó Công ty sẽ có kế hoạch bố trí vốn phù hợp cho từng dự án. Tuy nhiên, số vốn đầu tư thực tế vẫn nhỏ hơn kế hoạch đề ra, việc giải ngân vốn còn chậm cả với vốn NS và vốn tín dụng, chúng ta sẽ thấy cụ thể hơn qua bảng số liệu sau đây: Qua đây ta có thể nhận thấy rằng tiến độ giải ngân vốn là chưa cao nhưng đã có mức tăng đáng kể qua từng năm. Đó là do cả nguyên nhân chủ quan và khách quan như sau: - Do thủ tục trình duyệt các dự án từ Công ty lên BQP sau đố lên các cơ quan có thẩm quyền còn mất nhiềuthời gian, thủ tục còn rườm rà. Ngoài ra sự phức tạp của công trình đầu tư cũng ảnh hưởng không nhỏ đến tiến độ công trình và tiến độ giải ngân vốn. Một khu nhà có thể phân ra làm nhiều gói thấu với nhiều nhà thầu thi công sự không đồng bộ giữa các hạng mục cũng là một nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên. - Về chủ quan còn do đội ngũ cán bộ thiếu và yếu về trình độ chuyên môn trong một số khâu như quản lý tài chính và đánh giá dự án. -Ngoài ra, giải ngân vốn chậm của Công ty còn do công tác giao kế hoạch, phân công triển khai kế hoạch vốn đầu tư chậm ảnh hưởng đến thanh toán vốn, phải tập trung thanh toán khối lượng của những năm trước, công tác giải phóng mặt bằng còn gặp nhiều khó khăn. - Cơ cấu tổ chức và chính sách thường xuyên thay đổi, kèm theo đó là quy trình quản lý của thành phố thay đổi cùng với đối tượng mua khó do vướng quy hoạch. Huy động vốn từ các đối tượng chính sách là rất khó khăn, danh sách giá bán do cơ quan chủ quản phê duyệt Công ty thiếu chủ động trong vấn đề này. Tất cả các vấn đề trên đêu ảnh hưởng đến tiến độ huy động và giải ngân vốn của Công ty. 3. Nguyên nhân Thứ nhất, Phải kể đến tác động của điều kiện kinh tế -xã hội, sự biến động của nền kinh tế với nhiều tác nhân bên trong có ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến việc huy động vốn tại công ty. Mặc dù trong thời gian qua thị trường vốn đã có nhiều cải cách nhưng để công ty có thể tiếp cận nhanh hơn đến các nguồn vốn lại là cả một vấn đề. Hơn nữa, thu nhập của người dân ngày càng được nâng cao nhưng bên cạnh đó vẫn còn nhiều người có thu nhập thấp và các đối tượng chính sách đời sống còn khó khăn có nhu cầu rất lớn về nhà ở nhưng chưa có khả năng chi trả. Tốc độ lạm phát quá cao trong thời gian qua làm cho lãi suất huy động cao dẫn đến lãi suất vay vốn cao, gây ra một chi phí tăng vọt khi sử dụng vốn vay NH tại công ty. Thứ hai, Các quy định chuẩn mực về đầu tư, quản lý các công trình xây dựng còn nhiều bất cập. Cho đến nay chưa có chính thức một định mức kinh tế kỹ thuật nào được đưa ra để cho công ty có thể căn cứ để đối chiếu với các hoạt động của mình. Thứ ba, Xét về nguyên nhân chủ quan công ty cần xem lại công tác quản lý sử dụng vốn đầu tư cũng như tổ chức thực hiện dự án của mình. Công tác này chưa được tốt do nhiều khía cạnh tạo nên trong đó có sự thiếu hụt của đội ngũ cán bộ, nhiều trong số đó từ các bộ phận khác chuyển sang nên trình độ chuyên sâu chưa thật vững vàng. Nhìn chung các dự án mà công ty đã tiến hành đều đạt chất lượng nhưng một số trong đó vấn phải có sự diều chỉnh sau quá trình thẩm tra dự án. Công tác đánh giá chất lượng gắn với từng giai đoạn thi công của công trình chưa được làm tốt. Thứ Tư, Một số khâu liên quan như tổ chức đấu thầu, giải phóng mặt bằng, giám sát dự án, thanh quyết toán công trình còn nhiều thiếu sót. Điều này ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn. Chương III một số giải pháp chủ yếu huy động và sử vốn đầu tư của Công ty đến năm 2010. I.định hướng huy động và sử dụng vốn của Công ty đến năm 2010. Để có thể đưa ra được phương hướng và các mục tiêu hành động cho vấn đề huy động và sử dụng vốn đầu tư tại công ty trong thời gian tới ta phải dựa trên kế hoạch sản xuất của Công ty. Kế hoạch này được xây dựng dựa trên những định hướng và mục tiêu cơ bản phù hợp với tình hình phát triển của ngành trong thời gian tới, các căn cứ đó là: - Căn cứ hướng dẫn xây dựng kế hoạch của Tổng Công ty về phát triển các loại hình hoạt động tại công ty bao gồm cả hoạt động công ích và hoạt động kinh doanh. Tổng công ty cho phép và ủng hộ công ty trong việc mở rộng hoạt động kinh doanh nhà theo hướng thị trường hoá và sang các tỉnh phụ cận thì cũng đồng nghĩa với việc lượng vốn cần có trong giai đoạn tới cũng nhiều hơn. - Căn cứ vào quỹ nhà Công ty quản lý và sự chỉ đạo của Ban chỉ đạo nhà ở đất ở BQP. Trong thời gian tới quỹ nhà quản lý sẽ bị thu hẹp, nếu BQP giao cho công ty nhiều quyền tự quyết hơn trong vấn đề bán nhà, cho thuê đất thì sẽ tăng thêm được một lượng vốn đáng kể cho NS Bộ cũng như quỹ vốn tại công ty. - Căn cứ vào mục tiêu về công tác phát triển nhà của từng dự án đã được các cấp có thẩm quyền phê duyệt và phương hướng chỉ đạo của Thủ trưởng BQP trong những năm tới. - Căn cứ khả năng thực tế của Công ty và kết quả thực hiện nhiệm vụ của các năm trước. Kinh nghiệm tích luỹ được sau quá trình triển khai thực hiện một số dự án có ý nghĩa quan trọng để công ty tiến hành các hoạt động đầu tư của mình trong các năm tiếp theo. Mỗi tồn tại còn đọng lại là một bài học được rút ra, nếu biết khắc phục kịp thời công ty sẽ không ngừng hoàn thiện cho mình 1. Phương hướng phát triển của Công ty đến năm 2010. Dựa trên các căn cứ trên Công ty đã xác lập mục tiêu và phương hướng phát triển của mình trong thời kỳ dài và trong từng giai đoạn cụ thể. Trong giai đoạn 2005- 2010, Công ty đã đưa ra định hướng phát triển của mình như sau: - Đổi mới và hiện đại hóa các thiết bị phục vụ cho công tác điều hành và quản lý các dự án đầu tư nhằm tăng cường chất lượng của hoạt động thu thập xử lý thông tin. - Nâng cao lực lượng lao động cả về số lượng và chất lượng nhằm đáp ứng tốt hơn yêu cầu phát triển của Công ty trong giai đọan tới. - Đẩy nhanh hơn nữa tiến độ của các dự án Cổ Nhuế và Mỹ Đình I hoàn tất các thủ tục pháp lý cần thiết để có thể sớm triển khai khi đô thị mới ở Vĩnh Phúc. - Một mặt vừa làm tốt công tác tiếp nhận và quản lý bán nhà theo NĐ61/ CP, một mặt phải đầu tư nhân lực và vật lực vào lĩnh vực phát triển chính của Công ty trong tương lai là đầu tư phát triển nhà ở. Không ngừng nâng cao các hoạt động thu hút và quản lý sử dụng vốn đầu tư cũng như nâng cao khả năng tự chủ về tài chính. Với tốc độ gia tăng nhu cầu vốn mỗi năm trung bình khoảng 11%/ năm và đặc biệt khi các dự án mới săp đi vào hoạt động thì nhu cầu về vốn trong giai đoạn tới ước tính khoảng gần 1000 tỷ đồng. Để đáp ứng đủ nhu cầu đó đòi hỏi Công ty phải có các giải pháp cho vấn đề huy động và sử dụng vốn đầu tư của mình. Đây là vấn đề không những ảnh hưởng đến tiến độ và chất lượng các dự án thi công mà còn ảnh hưởng tới uy tín và chất lượng phát triển của Công ty. 2.Phương hướng huy động và sử dụng vốn tại công ty 2.1 Quan điểm huy động và sử dụng vốn của công ty Các quan điểm huy động vốn đầu tư của Công ty: Quan điểm thứ nhất: Tăng cường khả năng huy động vốn gắn liền với việc sử dụng vốn đầu tư một cách hiệu quả. Theo quan điểm này huy động vốn luôn luôn phải đi đôi với kế hoạch quản lý và sử dụng vốn. Vốn được sử dụng vào mục đích nào, hiệu quả kinh tế, xã hội ra sao đều phải được tính toán song song với kế hoạch huy động vốn. Nếu tách rời kế hoạch huy động vốn và kế hoạch huy động vốn thì dễ dẫn đến tình trạng vốn huy động được rồi mà không biết sử dụng vào đâu hoặc sử dụng không đúng mục đích gây lãng phí không có hiệu quả . Vì vậy, phải lựa chọn hình thức đầu tư và thứ tự ưu tiên sao cho có hiệu quả nhất. Nguồn nào được sử dụng cho mục đích đầu tư nào là có hiệu quả nhanh thu hội vốn và có lãi để trả nợ đúng hạn gây được uy tín với BQP với khách hàng và với các tổ chữc tín dụng khác. Quan điểm thứ hai : Cải thiện cơ cấu vốn, tăng tỷ lệ vốn chủ sở hữu trong tổng vốn giảm tỷ lệ vay. Mục tiêu của quan điểm này là cân đối cơ cấu vốn của Công ty, giảm dần tỷ lệ vốn nợ, tăng tỷ lệ vốn có. Từ đó giúp Công ty chủ động hơn trong các hoạt động sản xuất kinh doanh và tránh được các rủi ro mà dự án có thể mang lại cũng như các rủi ro về tài chính. 2.2 Phương hướng huy động và sử dụng Phương hướng huy động Công việc đầu tiên phải tiến hành trước khi xây dựng cho mình bất kỳ phương án huy động nào đó là công ty phải xác định được nhu cầu vốn đầu tư trong kỳ kế hoạch. Nhu cầu vốn đầu tư trong kỳ kế hoạc được căn cứ trên các hoạt động sản xuất kinh doanh mà công ty tiến hành trong kỳ, trên cơ sở đó công ty dự toán xem mỗi dự án cần tổng bao nhiêu vốn trong đó phân ra từng giai đoạn thì mức độ cần phải đáp ứng là bao nhiêu? Công ty hiện nay đã có bao nhiêu vốn thuận lợi và khó khăn từ các nguồn ra sao trên cơ sở đó công ty sẽ đề ra được cho mình các phương án tối ưu trong vấn đề này. Trong giai đoạn 2005-2010 các hoạt động đầu tư cải tạo sửa chữa chỉ mang tính chất làm thêm, còn phát triển hạ tầng các khu chung cư và các khu đô thị mới sẽ giữ vị trí chiếm lĩnh trong hoạt động tạ công ty. Nhu cầu vốn đầu tư cho hoạt động này là rất lớn, với cơ cấu nguồn huy động như hiện nay trong tương lai công ty có chủ trương tập trung khai thác nhiều hơn nữa vốn vay từ phía NHTM và vốn vay ưu đãi từ BQP, đồng thời tập trung mọi biện pháp nâng dần tỷ lệ vốn tự có của công ty, dự tính đến năm 2010 đạt 15% trong tổng nguồn vốn tại công ty.Ngoài ra cần tranh thủ sự ủng hộ tối đa từ phía NS hỗ trợ của BQP. Phương hướng sử dụng vốn Huy động và sử dụng là hai mảng của chu trình vốn đầu tư, xác định được phương hướng huy động để huy động tốt các nguồn vốn thì cũng phải xác định được phương hướng sử dụng để sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn vốn huy động được. Dựa trên định mức kinh tế kỹ thuật của mỗi dự án công ty sẽ phân bổ vốn đầu tư vào các giai đoạn khác nhau sao cho đảm bảo đúng tiến độ nhưng không bị ứ đọng vốn. Vốn sẽ được tập trung chủ yếu vào xây dựng cơ bản, đặc biệt là các hoạt động đầu tư phát triển nhà. Sử dụng vốn phải tiết kiệm tránh các phát sinh không cần thiết, quá trình phân bổ vốn phải được sự giám sát của lãnh đạo công ty ,ban tài chính và các ban quản lý dự án. II. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả huy động và sử dụng vốn đầu tư vốn đầu tư tại Công ty ĐTPTN và ĐT- BQP. Các giải pháp vĩ mô 1.1. Vấn đề huy động vốn Để hỗ trợ cho Công ty nói riêng và các doanh nghiệp nhà nước khác nói chung trong việc tăng cường khả thu hút vốn đầu tư, nhà nước cần có các chính sách và biện pháp, cơ chế phù hợp. Muốn huy động vốn tốt thì cần phải kết hợp và phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống công cụ tài chính tiền tệ và các công cụ khác. Khai thác và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn vốn đòi hỏi phải kết hợp và phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn nền kinh tế. Điều đó đòi hỏi phải phối hợp và phát huy sức mạnh của hệ thống các công cụ quản lý kinh tế trong đó có sự phối hợp có hiệu quả các công cụ tài chính và tín dụng như chính sách thuế chính sách tiết kiệm chính sách lãi suất khập khiễng trong một chính sách sẽ gây ảnh hưởng xấu tới các chính sách khác và tới sự phát triển của nền kinh tế. Phát triển hệ thống ngân hàng tài chính: Một hệ thống Ngân hàng- tài chính phát triển với nghiệp vụ thanh toán được cải tiến đa dạng hóa. Thực hiện tốt vai trò là trung gian tài chính nhằm điều phối từ nơi thừa đến nơi thiếu, thực thi nhiệm vụ huy động vốn, chuyển vốn từ hình thức huy động ngắn hạn sang trung hạn và dài hạn sẽ có một vai trò to lớn thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp và của cả nền kinh tế. Hơn nữa xây dựng là một ngành thuộc lĩnh vực xây dựng cơ bản, sự phát triển của lĩnh vực này có ảnh hưởng rất lớn đến tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Chính vì vậy nhà nước cần có quy định chính sách ưu tiên về điều kiện cho vay vốn với chi phí thấp nhất có thể để tiến hành đầu tư, thu hồi đủ vốn và có lãi. Công ty ĐTPTN và ĐT- BQP là đơn vị trực thuộc Tổng Thành An và chịu sự chỉ đạo trực tiếp từ phía BQP, lĩnh vực mà Công ty đang tiến hành là một xu thế phát triển mới Tổng Công ty. Do vậy cần coi đây là một ngành công nghiệp hạ tầng cần được hưởng các ưu đãi tối đa về cơ chế và chính sách đối với vấn đề huy động vốn và cần có những hướng dẫn cụ thể trong vấn đề sử dụng vốn. Cũng như nhiều doanh nghiệp nhà nước khác Công ty ĐTPTN và ĐT được BQP và Tổng Thành An bỏ vốn thành lập nhằm phục vụ các hoạt động công ích và các hoạt động mang tính kinh doanh khác. Vì vậy về chiến lược phát triển lâu dài thì không có lý do gì cản trở sự giúp đỡ về vốn của BQP cũng như Tổng Thành An. Đây là nguồn vốn quan trọng không thể thay thế được cùng với vốn tự có của doanh nghiệp là nguồn vốn chính còn vốn tín dụng thương mại cũng như vay khách hàng chỉ là nguồn bổ xung. Ngoài nguồn tín dụng cho vay ưu đãi BQP và Tổng Thành An cần cho Công ty cơ chế tự quản cao hơn nữa trong vấn đề huy động các nguồn vốn đầu tư. Cả hai bên cần xác định mức thu hợp lý nhằm nâng cao nguồn được phép giữ lại của Công ty để Công ty có thể nâng dần tỷ lệ nguồn vốn tự bổ xung trong cơ cấu nguồn vốn đầu tư của Công ty. Vốn đầu tư đòi hỏi cho các công trình là rất lớn nhưng thủ tục vay lại gặp rất nhiều khó khăn trong vấn đề thế chấp tín dụng, vì vậy Tổng Thành An và BQP cần bảo lãnh đối với các khoản vốn vay lớn và dài hạn. 1.2 Vấn đề sử dụng vốn đầu tư. Quá trình đầu tư hoàn chỉnh của một dự án chia làm 3 giai đoạn gồm: chuẩn bị, thực hiện và tiến hành các hoạt động khai thác dự án. Mỗi một giai đoạn có tính chất đặc điểm khác nhau đối với hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Vì vậy việc đánh giá hiệu quả sử dụng vốn đầu tư cần phải được xem xét toàn diện ở cả 3 giai đoạn của quá trình đầu tư. Thực tế, nhiều dự án đầu tư trong thời gian qua chưa được quan tâm đúng mức nên hiệu quả sử dụng vốn đầu tư còn thấp. Quan điểm này đòi hỏi hệ thống chính sách pháp luật kinh tế phải đồng bộ, ổn định và nhất quán. 1.2.1 Bổ sung hoàn thiện và quản lý chặt chẽ hệ thống quy phạm, định mức kinh tế- kỹ thuật và đơn giản trong đấu thầu xây dựng. Thứ nhất, giao cho Bộ xây dựng là cơ quan quản lý nhà nước thống nhất và các quy định mức kinh tế kỹ thuật. Chấm dứt tình trạng thiếu thống nhất và khó kiểm soát do nhiều bộ, ngành tự ban hành các văn bản nói trên. Thứ hai, khẩn trương sửa đổi, ban hành hệ thống quy phạm, tiêu chuẩn kỹ thuật mới phù hợp với trình độ khoa học công nghệ hiện nay để tránh những bất cập, gây lãng phí trong đầu tư xây dựng. Thứ ba, nhanh chóng sửa đổi và bổ sung hệ thống định mức kinh tế kỹ thuật trong xây dựng. Hệ thống định mức kinh tế kỹ thuật hiện hành vừa lạc hậu vừa thiếu (chỉ có trên dưới 1500 định mức). Thực tế hiện nay, lĩnh vực công nghiệp xây dựng nước đã đuổi kịp nhiều nước chủng loại vật liệu xây dựng mới, nhiều loại xe máy thi công hiện đại, nhiều loại hình công tác xây lắp tiên tiến v.v ở các nước có trình độ kỹ thuật công nghệ như nước ta, họ đã ban hành và sử dụng hàng ngàn định mức kinh tế kỹ thuật. Hệ thống định mức này trong thực tế không đủ và không phù hợp, tạo ra nhiều khe hở khi tính dự toán và tổng dự toán công trình, gây lãng phí, thất thoát và tiêu cực trong đầu tư xây dựng. 1.2.2 Chấn chỉnh và nâng cao hiệu lực công tác thanh tra, kiểm tra trong đầu tư xây dựng. Công tác kiểm tra, thanh tra trong đầu tư xây dựng từ trước đến nay vẫn được thực hiện, nhưng thường chỉ đối với từng việc riêng lẻ và thường xử lýchưa nghiêm minh, đúng người, đúng tội. Lực lượng thanh tra, kiểm tra vừa thiều về số lượng, vừa yếu về chất lượng nên hiệu lực công tác chưa cao. Để phát huy vai trò quản lý vĩ mô của nhà nước trong nền kinh tế thị trường, công tác này cần được coi trọng, phải tiến hành thường xuyên, sâu rộng. Thứ nhất: Thanh tra, kiểm tra cần kết hợp chặt chẽ với giám định đầu tư, tiến hành từ khâu xem xét lại quyết định đầu tư có phù hợp với chiến lược và kế hoạch đầu tư. Đến các khâu thực hiện và khai thác dự án có đúng trình tự, thủ tục theo luật định. Từ đó đưa ra kết luận và kến nghị với các cấp có thẩm quyền xem xét, để xử lý ở các mức độ khác nhau nênù có sự vi phạm. Thứ hai: Thanh tra, kiểm tra trong đầu tư xây dựng cần kết hợp với việc phổ biến giải thích pháp luật, để ngăn ngừa các hành vi phạm luật. Đồng thời, phát hiện những sơ hở trong các văn bản pháp luật về đầu tư xây dựng để kiến nghị với các cấp có thẩm quyền bổ sung, sửa đổi, thay thế bằng văn bản mới cho phù hợp, phục vụ cho việc quản lý đầu tư xây dựng, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Muốn làm tốt các nội dung trên, phải hoàn thiện hệ thống thanh tra, kiểm tra từ Trung Ương đến địa phương. Phải nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật của các tổ chức kinh tế tiến hành đầu tư xây dựng. Phải tăng cường đào tạo trình độ chuyên môn và coi trọng phẩm chất đạo đức thông qua quá trình thử thách rèn luyện đội ngũ cán bộ thanh tra, kiểm tra. 1.2.3. Tạo lập các khu nhà ở hoàn chỉnh Hiện tại, nhiều khu nhà ở đô thị mới của nước Tổng Thành An đang gặp phải nhiều vấn đề mà nguyên nhân là thiếu sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý đô thị, giữa chủ đầu tư, các chủ sở hữu, dẫn đến nhiều khu nhà ở mới không hoàn chỉnh về kết cấu hạ tầng và các dịch vụ xã hội, không có diện mạo thống nhất và nhanh chóng bị xuống cấp vì không được quản lý tốt. Để khắc phục tình trạng trên thì nhà nước và cụ thể là thành phố Hà Nội phải áp dụng nguyên tắc thống nhất giữa quy hoạch, thiết kế, đầu tư, giải phóng, mặt bằng, thi công và quản lý. Vấn đề lập và quản lý dự án phát triển tổng hợp như đã nói ở trên có ý nghĩa then chốt đối với việc thực hiện các đồ án quy hoạch đô thị nhằm phát triển đô thị hiện đại bền vững. Đây là chủ đề lớn và quan trọng. 1.2.4 Đưa tiến bộ kỹ thuật vào công nghệ xây dựng nhà ở Trong mười năm tới, nhà ở đô thị nước ta sẽ tăng trưởng nhanh về số lượng, có yêu cầu ngày càng cao về tiêu chuẩn, chất lượng và thẩm mỹ, sử dụng một số lượng lớn vật liệu, xe máy và nhân công, huy động một lượng vốn đầu tư là rất lớn. Vì vậy để lĩnh vực nhà ở đạt hiệu quả cao thì cần chăm lo đưa tiến bộ kỹ thuật vao công nghệ xây dựng để giảm nhẹ trọng lượng nhà; tiế kiệm đất xây dựng; năng cao năng suất lao động; năng cao tiêu chuẩn môi trường sống; cung cấp các trang thiết bị hiện đại với giá cả phù hợp. Để đạt được các mục tiêu trên thì Bộ Khoa Học Công Nghệ, nên lập ra chương trình quốc gia về tiến bộ ký thuật phục vụ xây dựng nhà ở nói chung và nhà chung cư cao tầng nói riêng. Nhà chung cư cao tầng đã bắt đầu được xây dựng tại các đô thị lớn, cần tổ chức nghiên cứu tổng kết vấn đề quy hoạch, kiến trúc, nền móng, công nghệ thi công và phòng chống cháy nổ cho loại công trình này. Để xây dựng một dự án đầu tư xây dựng nhà ở dù muốn hay không, vô tình hay hữu ý người ta cũng giải quyết nhiều bài toán về xác suất và thống kê ở các cấp quản lý khác nhau. Các chỉ tiêu kỹ thuật, các chỉ số tăng giá vật liệu cho phép được ban hành là kết quả của các bài toán ước lượng và dự báo ở cấp nhà nước. Để xây dựng một dự án nhà ở, dù muốn hay không, vô tình hay hữu ý người ta cũng phải giải quyết nhiều bài toán về xác suất thống kê ở các cấp quản lý khác nhau. Các chỉ tiêu kỹ thuật, các chỉ số tăng giá vật liệu cho phép được ban hành là kết quả các bài toán ước lượng và dự báo ở các cấp nhà nước. Người lập dự án đầu tư căn cứ vào các số liệu đo đạc khảo sát để vận dụng các chỉ tiêu kỹ thuật vào các dự án đầu tư của mình thực chất đã làm công tác ước lượng. Khi điều tra và kết luận về ý kiến người dân trong việc đền bù giải phóng mặt bằng và ý kiến khách hàng về sản phẩm xây dựng mà mình đưa ra cũng gặp bài toán ước lượng và kiểm định giải thuyết. Đối với cán bộ quản lý, việc biết được các bài toán nói trên để rút ra các kết luận đúng đắn và khắc phục các loại rủi ro gặp phải là một điều cần thiết. Để có thể xác định được độ tin cậy của một dự án đầu tư xây dựng trước hết cần phải xem xét các bộ phận của dự án đầu tư và xác định độ tin cậy riêng từng phần của dự án, nghĩa là ước lượng xác định xác suất hoàn thành riêng từng phần một. Để một dự án đầu tư trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản sau khi thực hiện đạt dược mục tiêu đề ra, cần phải thực hiện và xác định được các yếu tố: phải lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi và khả thi trong đó xác định được: quy mô đầu tư, tổng mức đầu tư, nguồn vốn, địa điểm đầu tư, thời gian hoàn thành, công tác đền bù giải phóng mặt bằng- tái định cư, mua sắm máy móc thiết bị công nghệ, khảo sát thiết kế xây dựng, thiết kế sơ bộ, thiết kế kỹ thuật và tổng dự toán Phải đảm bảo đủ các điều kiện để trình duyệt được: báo cáo nghiên cứu khả thi, thiết kế kỹ thuật và tổng dự toán sơ bộ, được cấp giấy phép xây dựng, khai thác tài nguyên, quyết định cho thuê đất, giao đất, Trong các nội dung trên có các nội dung có thể đựơc phân loại như sau: a. Nội dung đảm bảo về pháp lý: Việc chấp hành đúng các chủ trương chính sách, các chỉ thị nghị quyết bao gồm các văn bản cảu chính phủ, của cấp trên trực tiếp, quyết định phê quyệt báo cáo nghiên cứu khả thi, quyết định cấp đất cảu chính quyền địa phương, quyết định của sở kiến trúc- quy hoạch về mặt quy hoạch.. Nội dung thiết kế kỹ thuật về tổng thể, các giải pháp lớn: lưu ý tới các khâu khảo sát, đo đạc và việc vận dụng các chỉ tiêu kỹ thuật, các biện pháp thi công, an toàn lao động, trình độ kỹ thuật được trang bị Các giải pháp kinh tế: Tổng mức đầu tư, nguồn vốn đầu tư, phương án quản lý và sử dụng vốn, sử dụng lao động, chi phí cho công tác đền bù giải phóng mặt bằng, sắp xếp chỗ tái định cư tình hình tăng trưởng của khu vực nơi Công ty tiến hành dự án. Các vấn đề về xã hội và môi trường: Công tác đền bù giải phóng mặt bằng, đền bù tái định cư, hiệu quả đối với xã hội, đối với môi trường. Tất cả các nội dung trên có liên quan đến việc xác định độ tin cậy của một dự án đầu tư. Một dự án có độ tin cậy cao thì cũng có nghĩa là khả năng thu hồi vốn và lợi nhuận mang lại cũng cao, tức hiệu quả sử dụng vốn là đáng tin cậy. 2. Giải pháp vi mô 2.1 Huy động động vốn Nhu cầu vốn cho hoạt động đầu tư trong thời gian tới là rất lớn, Công ty sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc thu xếp đủ vốn. Nếu thỏa thuận được với nhà thầu, khách hàng thì giảm được một phần quan trọng lượng vốn tự thu xếp. Tuy nhiên khó khăn hiện nay khi thị trường nhà chung cư và biệt thự đang dần ở ngưỡng bão hòa vì vậy khách hàng có thể mua bằng nhiều hình thức trả góp khác nhau nên nguồn này có xu hướng ngày một giảm dần. Từ những khó khăn trên Công ty cần xây dựng cho mình phương án huy động tối đa các nguồn vốn với chiến lược dài hạn là phát huy tối đa nguồn vốn nội lực, tích cực tìm kiếm các khoản vay trên thị trường vốn và tranh thủ sự giúp đỡ của Tổng Thành An và BQP. Đồng thời cần can nhắc mối quan hệ phân bổ vốn đầu tư giữa các loại dự án nhằm đem lại hiệu quả tài chính cao nhất, với các dự án công ích hay hỗ trợ ít có giá trị thu hồi vốn để xác định các nguồn vốn cho phù hợp. Để huy động các nguồn vốn phục vụ cho đầu tư phát triển một cách có hiệu quả. Cần xây dựng cho mình một chính sách và cơ chế huy động vốn đầu tư một cách hiệu quả nhất dựa trên các nguyên tắc sau đây: + Phải có sự tính toán phù hợp và cân đối cung cầu của vốn đầu tư , nhận biết được khả năng cung ứng vốn, xác định chính xác nhu cầu về vốn. Đây là công việc đầu tiên ảnh hưởng đến việc huy động và sử dụng vốn đầu tư tại Công ty. Nó sẽ giúp định hướng cho việc huy động vốn. Để xác định một cách chính xác nhu cầu về vốn thì cần có sự phối hợp tổ chức chặt chẽ giữa các phòng ban, giữa bộ máy lãnh đạo của Công ty. Phòng KH-TH và phòng tài chính kế toán có nhiệm vụ trước tiên trong việc xác định vốn. Phòng KH-TH sẽ đưa ra các kế hoạch về sản xuất kinh doanh, danh mục các dự án đầu tư trong thời gian tới, số lượng các dự án đang thi công và sắp thi công trong thời gian tới. Qua đây sẽ xác định được lượng vốn cần thiết cho công tác đầu tư tại Công ty trong năm kế hoạch. Phòng kế toán có nhiệm vụ thống kê số vốn hiện có của Công ty thông qua sổ sách kế toán. Từ đó có nhu cầu vốn cần được cung ứng trong năm = Nhu cầu sử dụng vốn trong năm – Khối lượng vốn đang có đầu năm. + Phải đảm bảo mối quan hệ giữa nguồn vốn nội bộ và bên ngoài, vốn nội bộ là quan trọng vốn bên ngoài là quyết định. + Cần phải đa dạng hóa và hiện đại hóa các hình thức và phương tiện huy động vốn. Tiếp tục mở rộng các hình thức huy động tín dụng đầu tư phát triển của BQP và của nhà nước. + Các chính sách huy động vốn phải được tiến hành đồng bộ cả về nguồn vốn và biện pháp thực hiện. Đảm bảo sự bình đẳng, gắn bó và tạo điều kiện lẫn nhau cùng phát triển giữa các nguồn vốn. 2.1.1 Đối với nguồn vốn nội bộ Công ty Công ty cần xác định trong chiến lược dài hạn của mình nguồn vốn tự có sẽ đóng vai trò quan trọng là nguồn vốn đối ứng để thu hút có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài. Yêu cầu đặt ra với Công ty là thường xuyên tăng cường công tác thu hồi công nợ, chú trọng vào các khoản nợ có số lượng lớn. Mạnh dạn thanh lý hoặc chuyển nhượng những thiết bị không sử dụng được để giải phóng vốn, tìm cách rút ngắn thời gian khấu hao bằng cách tăng dần tỷ lệ tính khấu hao để có thể tái đầu tư trang thiết bị . Giảm lượng vốn lưu động ứ đọng tại các công trình, nghĩa là tăng nhanh vòng quay của vốn. Ngoài ra Công ty cũng cần có một nguồn vốn tập trung đủ mạnh để có thể quyết định kịp thời việc chuyển vốn vào những nơi có khả năng sinh lời cao, giành ưu thế trong cạnh tranh chiếm lĩnh cơ hội đầu tư. Vì vậy, một đòi hỏi đặt ra là phải có cơ chế điều hòa vốn, quản lý và sử dụng quỹ khấu hao cơ bản và các quỹ tập trung khácTừ đó Công ty có thể hình thành nên quỹ tài chính tập trung, muốn vậy phải thành lập ban tài chính có thể trực thuộc phòng tài chính nhưng đảm nhận riêng một chức năng đó là huy động và quản lý vốn của các dự án đầu tư. Do thiếu vốn Công ty phải huy động từ nhiều nguồn, trong đó chủ yếu là vay NHTM hàng kỳ phải trả một khoản tiền lãi khá lớn. Điều này làm giảm hiệu quả sử dụng vốn đầu tư cũng như hiệu quả của các hoạt động sản xuất kinh doanh. Để năng cao tính linh hoạt và khả năng sinh lời của đồng vốn đầu tư thì sự ra đời của hình thức “tín dụng nội bộ “là cần thiết tức là Công ty sẽ huy động tiền gửi của cán bộ công nhân viên. Muốn vậy phải xác định được lãi suất cả lãi suất huy động và tạo một sự đoàn kết giữa cán bộ công nhân viên và Công ty. Ta nhận thấy trong thời gian qua nguồn vốn tự có của Công ty hầu như không tăng và nếu có thì không đáng kể. Vì vậy để cải thiện tình hình thì có các biện pháp như: tăng tỷ lệ trích từ lợi nhuận để lại, để làm tốt biện pháp này thì cần tăng năng suất của các hoạt động sản xuất kinh doanh ở tất cả các khâu của quá trình đầu tư Đối với nguồn vốn bên ngoài Công ty Thứ nhất, Công ty cần có chính sách và cơ chế huy động thích hợp mở rộng mối quan hệ với các đối tượng tín dụng trong và ngoài đồng thời không ngừng nâng cao chữ tín trong kinh doanh để có thể mở rộng hoạt động đầu tư phát triển trên nhiều lĩnh vực và trên nhiều địa bàn. Thứ hai,Tận dụng một cách tối đa nguồn vốn từ ngân sách BQP theo NĐ/61CP vì đây là nguồn vốn được ưu đãi có lãi suất thấp hơn lãi suất huy động trên thị trường tiền tệ. Ngoài ra Công ty cò có thể kêu gọi vốn hỗ trợ đầu tư từ Tổng Thành An đối với các dự án nằm trong khuôn khổ đầu tư của Tổng Công ty. Để huy động nguồn vốn hỗ trợ từ phía ngân sách BQP là rất khó khăn, trước hết Công ty phải hoàn trả các khoản nợ đén hạn để giữ uy tín với BQP và chứng minh được các hoạt động đầu tư của mình là khả thi. Thứ ba, liên doanh liên kết với các nhà thầu cũng được coi là hình thức tiềm năng nhằm thu hút vốn đầu tư cho các hoạt động đầu tư phát triển của mình. Theo đó Công ty sẽ thỏa thuận với nhà thầu chịu một tỷ lệ thích hợp cho hoạt động xây lắp. Hình thức này vừa làm tăng trách nhiệm của nhà thầu vừa giải quyết được khâu thiếu vốn của Công ty tại những thời điểm nhất định. 2.2 Sử dụng vốn đầu tư 2.2.1 Các hoạt động nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư . Như ta đã biết mục đích của đầu tư là sinh lời, khả năng sinh lời là điều kiện tiên quyết để đầu tư - không ai đầu tư vào một dự án không có mấy triển vọng. Tại Công ty ĐTPTN và ĐT - BQP cũng vậy, là một doanh nghiệp vừa kinh doanh vừa công ích vì vậy nmục tiêu kinh tế và xã hội luôn được Công ty đặt lên hàng đầu, để tránh những cuộc đầu tư mang tính rủi ro cao thì các hoạt động chuẩn bị cho quá trình đầu tư được tiến hành một cách rất kỹ càng. Công tác chuẩn bị dự án - Lập dự án: Đây là công tác rất quan trọng đã được Công ty thực hiện tốt trong suốt thời gian qua. Nhiệm vụ của công tác này là phải khảo sát về địa điểm địa chất công trình song song với nó là tiến hành các hoạt động khảo sát về thị trường nguyên vật liệu đầu vào của một công trình. - Thẩm định dự án: Với chức năng quản lý và tiến hành các hoạt động đầu tư, Công ty sẽ xem xét thẩm định thiết kế kỹ thuật, tổng dự toán các dự án do Công ty làm chủ đầu tư. Từ đó đệ trình BQP xin ý kiến chỉ đạo trực tiếp sau đó trình các cấp bộ ngành có liên quan xem xét và phê duyệt. Nhìn chung công tác thẩm định đã được Công ty quan tâm đúng mức với sự đầu tư vào đào tạo đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn cao. Vì vậy, các dự án Công ty thẩm định chờ phê duyệt đều có tính khả thi rát cao và thực tế trong thời gian qua một số dự án lớn của Công ty đã được Thủ Tướng Chính Phủ và UBND Thành Phố Hà Nội phê duyệt. b. Công tác thực hiện dự án hay tiến hành các hoạt động đầu tư. Sau khi đã nghiên cứu và đánh giá các cơ hội đầu tư cùng việc luận chứng kinh tế - kỹ thuật được các cấp có thầm quyền phê duyệt, Công ty sẽ tổ chức đấu thầu, đàm phán, ký hợp đồng xây dựng. Với tư cách là chủ đầu tư để theo dõi sát sao hơn quá trình thi công dự án của các chủ thầu cũng như kiểm tra một cách tốt nhất về tiến độ, chất lượng dự án từ đó có thể cung ứng lượng vốn kịp thời cho các bên thi công, Công ty thường thành lập các ban quản lý dự án ngay tại công trường với đội ngũ cán bộ có chuyên môn và trách nhiệm cao. c. Nghiệm thu, bàn giao, thanh quyết toán công trình. Đây là giai đoạn cuối cùng của một dự án đầu tư trước khi bàn giao cho khách hàng,tại thời điểm này Công ty cũng như bên thi công phải làm nốt những phần việc cuối cùng của mình.Với tư cách là chủ đầu tư Công ty sẽ thực hiện các cam kết giải ngân những phàn vốn còn lại còn chủ thầu sẽ phải hoàn thành những chi tiết cuối cung trứoc khi bàn giao cũng như thực thi các điều khoản về bảo hành trong thời hạn hai bên đã thoả thuận. Trong thời gian qua công tác này đã được thực hiện tốt và ngày càng có nhiều cải tiến đối với các công trình cả sửa chữa và xây mới. Một mặt thanh quyết toán đúng theo tíên độ cam kết, một mặt kiểm tra và quản lý công trình được bàn giao theo đúng mục tiêu đã đề ra. 2.2 Hoàn thiện công tác trong quá trình thực hiện dự án đầu tư: 2.2.1 Quy trình xây dựng quy hoạch và kế hoạch đầu tư phát triển phải coi trọng hơn nữa đến tính hiệu quả. Một bản quy hoạch và kế hoạch chi tiết sẽ chỉ ra định hướng phát triển của Công ty, các mục tiêu định tính và định lượng được đưa ra sẽ nêu ra được các trong thời gian tới Công ty cần phải làm gì để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của mình. Với một kế hoạch tin cậy và công khai cùng với các chính sách huy động vốn tích cực sẽ làm tăng thêm độ tin cậy cũng như mức an toàn của đồng vốn bỏ ra. Một phương án phân bổ tối ưu vốn đầu tư cho các dự án sẽ là căn cứ quan trọng giúp cho người sử dụng vốn biết làm thế nào để hiệu quả một đồng vốn mang lại là cao nhất. Khâu quan trọng nhất mà công tác kế hoạch có thể làm là xây dựng kế hoạch triển khai dự án gắn liền với việc phân bổ tối ưu tổng lượng vốn đầu tư có thể huy động đựơc trong kỳ kế hoạch. Đây là khâu mở đầu của cả quá trình đầu tư phát triển, có tác động chi phối đến tất cả các giai đoạn tiếp theo sau nó. Cần hoàn chỉnh tốt công tác kế hoạch thông qua việc cập nhật các thông tin liên quan làm cho công tác kế hoạch không chỉ dừng lại ở việc định hướng. 2.2.2 Công tác chuẩn bị đầu tư Thứ nhất, việc lập hồ sơ dự án:Một dự án được soạn thảo tốt sẽ là kim chỉ nam, là tiền đề cho việc thực hiện các công cuộc đầu tư đạt hiệu quả, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Tuy vậy, việc lập hồ sơ đôi khi còn thiếu sót, trình bầy không thống nhất, gây khó khăn cho công tác thẩm định, ảnh hưởng đến tiến độ dự án làm tăng chi phí đầu tư. Để hoàn thiện công tác lập dự án nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư, hiệu quả sử dụng vốn Công ty nên áp dụng các hồ sơ dự án đã có mẫu sẵn vì theo quy định hiện hành thì tất cả các dự án đều phải làm luận chứng kinh tế kỹ thuật cùng một mẫu. Cần nâng cao hơn nữa chất lượng lập dự án bằng các quy định, chế độ trách nhiệm với các Công ty tư vấn thiết kế hoặc đơn vị nhận hợp đồng thiết kế với các dự án ccàn thuê lập các báo cáo chuẩn bị đầu tư. Về công tác thẩm định quyết định dự án: Việc đánh giá tính khả thi của dự án sẽ thiếu tính khách quan nếu chỉ thẩm định, nghiên cứu, xử lý thông tin mà Công ty thu thập đựơc, mà cần tiếp nhận ý kiến chỉ đạo từ cấp trên. Mặt khác, trên thực tế đôi khi người lập dự án chủ nêu ra những ưu điểm mà không nêu ra khuyết điểm dẫn đến kết luận còn mang tính chủ quan. Quyết định cuối cùng của công tác này là chọn ra những dự án đầu tư đảm bảo có thị trường chắc chắn, mang lại hiệu quả cao cả về khía cạnh kinh tế và xã hội. Quá trình thẩm định dự án và dự toán thiết kế phải bám sát các định mức kinh tế, kỹ thuật của Nhà Nước, giả cả các vật liệu cần thiết cho công đoạn thi công trên thị trường. Bổ sung thêm những chuyên gia giỏi chuyên về lĩnh vực thẩm định như kỹ thuật, tài chính, đồng thời nghiên cứu các tiêu chuẩn thẩm định để nâng cao chất lượng thẩm định. 2.2.3 Công tác tiến hánh dự án: - Công tác đấu thầu: làm tốt công tác lựa chọn nhà thầu, quản lý chặt chẽ việc thực hiện của nhà thầu, tránh việc kéo daì tiến độ và phát sinh chi phí, không đảm bảo chất lượng công trình sau này, ảnh hưởng đến kết quả thực hiện vốn và hoạt động của công trình sau này. Cần có quy định rõ trong hợp đồng giao thầu chỉ tính khối lượng phát sinh khi có sửa đổi bản vẽ để Công ty có thể theo dõi tình hình thực hiện của các công trình đượct huận lợi. - Công tác giai đoạn vận hành kết quả đầu tư: Cần quan tâm đến hoạt động quản lý sau khi thực hiện dự án, bán cho người tiêu dùng không có nghĩa là Công ty hết trách nhiệm mà cần phải nâng cao hơn nữa quy hoạch tổng thể các loại dịch vụ nhằm cung ứng một cách tôt nhất nhu cầu của khách hàng. 3. Giải pháp về nguồn nhân lực Do yêu cầu về trình độ của nguồn lao động ngày càng tăng nên Công ty cần bổ sung một lực lượng có trình độ chuyên môn trong mọi lĩnh vực từ các chuyên viên kinh tế đến các nhân viên kỹ thuật để có thể nắm bắt phân tích cà đánh giá các dự án đầu tư trên mọi khía cạnh trong đó có vấn đề về huy động và sử dụng vốn làm sao cho đạt hiệu quả cao nhất. Tăng cường công tác đào tạo và tái tạo đội nhũ lao động hiện có, tổ chức nhiều loại hình đào tạo, bồi dưỡng như tổ chức lớp huấn luyện chuyên môn, gửi đi đào tạo. Có chính sách tuyển mới, bổ sung liên tục, thu hút lao động có kinh nghiệm và có trình độ học vấn để đồng bộ hóa giữa nguồn nhân lực và yêu cầu phát triển của Công ty trong giai đoạn tới. Ngoài ra cần có các chính sách đãi ngộ phù hợp để khuyến khích sự đóng góp của họ vào sự phát triển của Công ty. Các giải pháp em đưa ra trên đây là những giải pháp chung nhất đối với vấn đề huy động và sử dụng vốn của Công ty. Với xuất phát điểm còn thấp vẫn chịu nhiều bao cấp từ phía BQP, do vậy để ngày càng phát triển một cách vững chắc với các hoạt động đầu tư của mình thì Công ty cần phải dùng mọi biện pháp cả huy động các yếu tố bên ngoài và phát huy lợi thế của các yếu tố bên trong. Quá trình đầu tư phát triển luôn luôn đi kèm với quá trình huy động và sử dụng các yếu tố nguồn lực và trong đó vốn là thành phần quan trọng không thể thiếu đựơc của bất kỳ công cuộc đầu tư nào đó chính là vốn. Các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả huy động và sử dụng vốn cũng có nghĩa là nâng cao hiệu quả đầu tư, nâng cao vị thế của Công ty trong lĩnh vưc phát triển cơ sở hạ tầng tạo các khu chung cư và các khu đô thị. Kết luận Những phân tích về thực trạng huy động và sử dụng vốn tại Công ty thời gian qua đã cho chúng ta biết được phần nào thế mạnh và điểm yếu của Công ty trong hoạt động này. Đối với Công ty ĐTPTN và ĐT-BQP vốn là yếu tố quan trọng nhất tạo nên thế mạnh và sự phát triển của Công ty trong tương lai. Có thể thấy vấn đề quan trọng hiện nay là phải hoàn thiện cơ chế chính sách cho vấn đề này. Để cho hoạt động sản xuất kinh doanh ngày càng đạt hiệu quả cao cần có sự phối hợp giữa Công ty, Tổng công ty và BQPmột cách chặt chẽ nhằm đạt được các mục tiêu đề ra. Là một Công ty chuyên kinh doanh nhà và tiến hành các hoạt động công ích, vì vậy Công ty phải biết phối hợp giữa hai hoạt động kinh doanh và công ích sao cho đạt hiệu quả cao nhất. Khai thác tối đa các nguồn vốn hiện có, nâng cao hơn nữa hiệu quả kinh doanh, tranh thủ nguồn vốn ngan sách BQP, hoàn thiện hơn nữa cơ chế quản lý và sử dụng vốn sẽ tạo cho Công ty thêm nhiều thuận lợi để đạt kết quả cao hơn trong hoạt động mang tính cốt lõi này. Tất cả các hoạt động trên đều nhằm một mục tiêu duy nhất là nâng cao chất lượng các dự án đầu tư. Danh mục tài liệu tham khảo I. Sách 1. Giáo trình Kinh tế phát triển Khoa Kế hoạch và Phát triển 2.Giáo trình Chương trình và dự án phát triển kinh tế xã hội Khoa Kế hoạch và Phát triển 3. Giáo trình Kế hoạch hoá phát triển kinh tế xã hội Khoa Kế hoạch và Phát triển 4. Giáo trình Kinh tế chính trị Trường đại học Kinh tế Quốc dân 5. Giáo trình kinh tế đầu tư Bộ môn Kinh tế đầu tư 6. Giáo trình thống kê và xây dựng Bộ môn kinh tế đầu tư II. Tạp chí 1. T/c Ngân hàng 2. T/c Kinh tế và dự báo 3. T/c Thông tin thị trường vốn 4. T/c Xây dựng 5. T/c Công nghiệp Mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc3059.doc
Tài liệu liên quan