Trong nhiều năm qua, nhất là từ khi nước ta chuyển từ mô hình kinh tế tập trung bao cấp sang mô hình kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, công ty Intimex đã chuyển hướng hoạt động phù hợp với cơ chế kinh tế mới và đã đạt nhiều kết quả khả quan trong hoạt động xuất nhập khẩu. Tuy nhiên, với xu thế hội nhập kinh tếchung của nền kinh tế đang diễn ra với mức độ ngày càng sâu, phạm vi ngày càng rộng đã tác động mạnh đến hoạt động của công ty, làm bộc lộ những khiếm khuyết, hạn chế do chính mô hình tổ chức mà công ty đang quản lý. Sự bất cập lớn nhất của mô hình quản lý của công ty là vấn đè sở hữu, vốn và công tác quản lý nguồn vốn. Điều này cũng là tình trạng chung của các công ty nhà nước hiện nay.
Về vấn đề sở hữu, bản chất tuy cơ quan quản lý cấp trên của công ty được coi là đại diện cho chủ sở hữu Nhà nước. nhưng nhiệm vụ, quyền hạn lại phân định chưa rõ ràng, vì thế cũng không chịu trách nhiệm đến cùng vói công ty. Về vốn, tuy công ty được Nhà nước giao vốn, nhưng thực tế nguồn vốn đó lại được giao cho các đơn vị thành viên trực thuộc Công ty. Việc Công ty nhận vốn và tài sản Nhà nước giao xuống cho các đơn vị thành viên chỉ mang tính hình thức vì thực tế phần vốn ấy do chính những đơn vị thành viên quản lý và sử dụng, trong khi văn phòng công ty (cơ quan đầu não) thì có rất ít vốn (chỉ khoảng 20%) vốn của Nhà nước.
132 trang |
Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1315 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Huy động và sử dụng vốn tại Công ty xuất nhập khẩu Intimex trong những năm gần đây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng các cơ sở sản xuất, chế biến các mặt hàng xuất khẩu, theo hướng nâng cao giá trị gia tăng của hàng xuất khẩu và giảm thiểu các chi phí trung gian. Đây là một định hướng rất phù hợp với chiến lược xuất khẩu của Quốc gia.
Một thực tế rất đáng khích lệ là giá trị kim ngạch xuất nhập khẩu nói chung cũng như giá trị kim ngạch xuất khẩu nói riêng của Intimex là rất lớn, lớn hơn hẳn Công ty XNK Tổng hợp III và Công ty Cổ phần Nam Tiến.
Xem bảng:
Bảng 2.11 : So sánh kim nghạch xuất nhập khẩu
Đơn vị: 1000 USD
Công ty
Chỉ tiêu
Intimex
Tổng hợp III
Cổ phần Nam Tiến
1.Kim nghạch xuất nhập khẩu
273.150
21.466
9.341
2. Kim nghạch xuất khẩu
153.650
6.433
338
Nguồn: Báo cáo tài chính tổng hợp của Bộ thương mại năm 2004
Nguồn: Bộ thương mại
Xem biểu đồ:
Biểu đồ 2.20: So sánh kim ngạch xuất nhập khẩu (1000 USD)
Biểu đồ 2.21: So sánh kim ngạch xuất khẩu (1000 USD)
Nguồn: Báo cáo tài chính tổng hợp của Bộ thương mại năm 2004
Hơn thế nữa, khi so sánh với cả Bộ thương mại, giá trị kim ngạch xuất khẩu của Intimex đạt cao nhất, chiếm hơn 17% kim ngạch xuất khẩu của cả Bộ. Xem bảng:
Bảng 2.12: bảng so sánh kim nghạch xuất nhập khẩu và xuất khẩu
Đơn vị: 1000 USD
Chỉ tiêu
Intimex
Bộ thương mại
Kim ngạch XNK
273.150
3.828.044
Kim ngạch XK
153.650
878.000
Nguồn: Báo cáo tài chính tổng hợp của Bộ thương mại năm 2004
Với một thành tích lớn như thế, với một thị trưòng xuất khẩu rộng khắp trên thế giới và trong khu vực, với đa dạng mặt hàng xuất khẩu, với uy tín của Intimex trên thị trường thế giới, thì có thể tin tưởng rằng hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản phục vụ cho tương lai lâu dài của công ty là một hưóng đi đúng dắn.
Tiếp đến, lại lấy các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động để phân tích. Qua bảng số liệu trên ta thấy:
*) Về chỉ tiêu số vòng quay vốn lưu động:
Trong năm 2004, vốn lưu động của công ty Intimex quay được 4,56 (vòng), vốn lưu động của công ty Tổng hợp III quay được 4,65 (vòng), vốn lưu động của công ty cổ phần Nam Tiến quay được 17,21 (vòng). Như vậy số vòng quay vốn lưu động của Intimex thấp hơn so với số vòng quay VLĐ của công ty Tổng hợp III và thấp hơn nhiều so với Công ty cổ phần Nam Tiến. Vốn lưu động của công ty lại chủ yếu được huy động từ nguồn vốn vay. Cho nên, có thể thấy được Intimex đã rất cố gắng trong hoạt động tạo vốn và quay vòng vốn nhanh, để đạt hiệu quả trong việc sử dụng đồng vốn vay, song vẫn chưa đạt tỷ lệ cao so với các doanh nghiệp cùng ngành. Cần tìm ra những nguyên nhân khiến cho sự quay vòng vốn lưu động của Intimex chưa cao bằng một số công ty khác cùng lĩnh vực.
*) Về chỉ tiêu sức sinh lời của vốn lưu động:
Năm 2004, tại Công ty Intimex một trăm đồng vốn lưu động tạo ra được 0,45 đồng lợi nhuận.Tại công ty Tổng hợp III, một trăm đồng vốn lưu động tạo ra được 4,82 đồng lợi nhuận, như vậy doanh lợi vốn lưu động của Intimex thấp hơn nhiều so với công ty Tổng hợp III. Tại Công ty cổ phần Nam Tiến một trăm đồng vốn lưu động tạo ra được 22 đồng lợi nhuận, vậy ta thấy rõ doanh lợi vốn lưu động của Nam Tiến gấp rất nhiều lần so với doanh lợi vốn lưu động của công ty Intimex.
Qua chỉ tiêu này ta thấy, hiệu quả sử dụng vốn lưu động của Intimex là quá thấp. Đây là chỉ tiêu liên quan đến lợi nhuận, tức là liên quan đến chi phí của công ty. Làm thế nào để giảm chi phí, tăng lợi nhuận trên một đồng vốn lưu động bỏ ra, cần phải tìm ra những chi phí bất hợp lý trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty Intimex.
Sau khi khảo sát số liệu trong phạm vi toàn Bộ thương mại, nếu chỉ lựa chọn các doanh nghiệp làm ăn có lãi, thì thấy công ty Intimex đạt mức doanh lợi vốn chủ sở hữu là 7.8% năm 2004 là thấp hơn (mức trung bình của ngành là 10,35 %). Điều này chứng tỏ để có được doanh thu cũng như kim ngạch xuất khẩu cao trong hiện tại và tăng mạnh trong tương lai, công ty Intimex đã phải chịu một mức chi phí rất cao. Tuy nhiên, nếu so sánh với mức lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước là 7.5%/năm thì chỉ tiêu doanh lợi vốn chủ sở hữu của công ty Intimex vẫn đạt ỏ mức cao hơn.
Như vậy, sau một số các tham chiếu cần thiết để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của công ty Intimex, ta đã thấy được những mặt tích cực và hạn chế trong việc sử dụng vốn của công ty. Song, sự đối chiếu so sánh này mới chỉ là “ta so với ta”. Nếu so sánh với một số doanh nghiệp cùng lĩnh vực, cùng thị trường xuất nhập khẩu của Trung Quốc và ấn Độ cho thấy, tỷ suất doanh lợi vốn chủ sở hữu của Intimex đạt mức 7,8% là thấp hơn nhiều so với mức 12% của các doanh nghiệp tham gia thị trường chứng khoán Trung Quốc và mức 24% của các doanh nghiệp tương tự ở Ân Độ.
Đánh giá chung về tình hình sử dụng vốn của Công ty Intimex trong những năm gần đây cho thấy: công ty đã có những hướng đi đúng đắn khi sử dụng đồng vốn trong kinh doanh, đem lại cho công ty một giá trị doanh thu và giá trị kim ngạch xuất khẩu lớn, khẳng định được vị thế của mình trên thị trường quốc tế, góp phần nâng cao kim ngạch xuất khẩu của cả nước, góp phần đẩy mạnh quan hệ hợp tác kinh tế của Việt nam với các nứơc. Mặt khác Intimex luôn là công ty làm ăn có lãi, hoàn thành tốt các chỉ tiêu nộp Ngân sách. Song, cũng cần phải thấy rõ một vấn đề nổi cộm lên khi đi vào phân tích các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn, đó là: vì chi phí cao nên mặc dù doanh thu tăng qua các năm, kim ngạch xuất khẩu giữ vị trí lớn nhất trong Bộ thưong mại, nhưng lợi nhuận lại rất khiêm tốn so với doanh thu, không tăng cùng tỷ lệ với doanh thu. Dẫn đến, khi so sánh các chỉ tiêu đánh gía hiệu quả sử dụng vốn của Công ty Intimex, thấy rằng, Intimex chưa phải là một công ty sử dụng vốn có hiệu quả cao trong thời gian hiện tại. Nhưng, tin rằng, trong một vài năm tới, Intimex không chỉ là một công ty chiếm lĩnh thị trường xuất khẩu thế giới, mà là một công ty có lợi nhuận lớn, sử dụng vốn có hiệu quả cao.
2.3.3. Nguyên nhân của những tồn tại về sử dụng vốn tại Công ty xuất nhập khẩu Intimex thời gian qua:
-Việc đầu tư cho công nghệ ở công ty đã được quan tâm nhưng chưa thực sự thích đáng. Hầu hết trình độ trang bị máy móc ở các cơ sở sản xuất, chế biến còn chưa tiên tiến, dẫn đến tình trạng định mức tiêu hao về chi phí nguyên vật liệu lớn và phát sinh thêm nhiều chi phí cho sửa chữa, bảo dưỡng, hơn nữa đã làm hạn chế hiệu quả vận hành thiết bị và giảm mức độ tương thích, đồng nhất giữa sản phẩm đầu vào và đầu ra. Mặc dù công ty nhận thức được tầm quan trọng của công nghệ nhưng do thiếu vốn, phải đi vay vốn, chịu lãi suất nên: một mặt, mức độ đầu tư còn hạn chế, mặt khác làm tăng chi phí kinh doanh của công ty.
Các loại tài sản lưu động chiếm tỷ trọng lớn ở công ty là tiền mặt. hàng tồn kho. khoản phải thu. Muốn sử dụng vốn lưu động có hiệu quả cao thì các doanh nghiệp phải có biện pháp quản lý các loại tài sản này hợp lý.
Trong những năm gần đây, hàng tồn kho và các khoản phải thu chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng vốn lưu động của công ty, lại tăng dần qua các năm Xem bảng số liệu:
Bảng 2.13: So sánh chỉ tiêu về TSLĐ và Đầu tư ngắn hạn
Đơn vị: triệu đồng
Năm 2002
Năm 2003
Năm 2004
Giá trị
Tỷ lệ
Giá trị
Tỷ lệ
Giá trị
Tỷ lệ
I. Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn
531.621
100%
756.482
100%
852.995
100%
II.Tiền
14.344
2,70
247.533
32,72
27.981
3,28
III- Các khoản phải thu
286.058
53,81
396.878
52,46
459.969
53,92
IV- Hàng tồn kho
21.511
4,05
286.947
37,93
330.364
38,73
Nguồn: Báo cáo tài chính tổng hợp của công ty Intimex
Theo số liệu trên cho thấy lượng hàng tồn kho rât lớn. đặc biệt là năm 2004 (chiếm 38,73 tỷ trọng vốn lưu động). Hàng tồn kho dùng để chuẩn bị cho kỳ sau nhưng nếu tồn kho lớn sẽ làm ứ đọng vốn của doanh nghiệp và tăng chi phí bảo quản. Ngoài ra còn hiện tượng giảm giá, mất giá, biến chất và đặc biệt là chi phí về vốn. Dự trữ trở thành kết quả thụ động của hoạt động mua sắm dẫn đến lượng dự trữ thường lớn hơn nhu cầu, gây ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Hơn nữa, trong số hàng tồn kho lại có một số lượng lớn hàng tồn kho ứ đọng. Theo báo cáo của Bộ thương mại thì lưọng hàng tồn kho ứ đọng, chậm luân chuyển của Intimex là: 254.650 triệu đồng. chiếm một phần rất lớn trong tổng giá trị hàng tồn kho ( chiếm 77%). Bên cạnh đó là giá trị các khoản phải thu cũng đều tăng qua các năm, lớn nhất vào năm 2004 ( chiếm 53,92 tỷ trọng vốn lưu động), chứng tỏ mặc dù phải vay vốn ngân hàng rất nhiều nhưng công ty lại bị chiếm dụng một lượng vốn rất lớn.
Điều này cho thấy, Intimex chưa xây dựng được một chính sách bán chịu khoa học. Bán chịu là một hình thức tiêu thụ tất yếu trong cơ chế kinh doanh thị trường giữa các doanh nghiệp, thực hiện chính sách bán chịu khoa học được coi là một nội dung rất quan trọng của sử dụng vốn lưu động. Hiện nay. tỷ lệ các khoản phải thu trong công ty rất lớn và ngày càng tăng lên. Năm 2000 trung bình khách hàng trả tiền sau khi mua hàng là 92 ngày, con số này ngày càng tăng lên và đến năm 2002 kỳ thu tiền bình quân là 120 ngày. Việc quản lý và thu hồi các khoản phải thu có hiệu quả của quyết định rất nhiều tới việc tiết kiệm chi phí. tăng số vòng quay của vốn lưu động
Do thiếu các kiến thức cần thiết trong việc xây dựng chính sách bán chịu, trong việc ký kết hợp đồng và các chế định về nghĩa vụ thực hiện hợp đồng, tình trạng công nợ dây dưa giữa các doanh nghiệp đang là một vấn đề nghiêm trọng. Kinh doanh trong nền kinh tế thị trường thì việc chiếm dụng vốn của các doanh nghiệp khác luôn xảy ra. Việc bán chịu, bán chậm thanh toán sẽ giúp cho doanh nghiệp giảm chi phí tồn kho, thu hút được nhiều khách hàng, bán hàng với giá cao hơn....nhưng đồng thời cũng làm tăng chi phí đòi nợ. Thời hạn bán chịu càng dài thì thì rủi ro càng lớn. Với tác động nêu trên thì buộc doanh nghiệp phải so sánh giữa thu nhập và chi phí tăng thêm. doanh nghiệp có nên bán chịu hay không? Nếu bán thì điều kiện như thế nào?...Quản lý chặt chẽ các khoản phải thu. thực hiện thu đúng thời gian. thu hết các khoản nợ tới hạn sẽ làm giảm lượng vốn bị ứ đọng ở khâu thanh toán giúp cho doanh nghiệp tiết kiệm được vốn kinh doanh. hiệu quả sử dụng vốn cao hơn. Sự gia tăng các khoản phải thu là một nguyên nhân chính dẫn đến việc sử dụng vốn lưu động cũng như tổng vốn không hiệu quả. Vì vậy, các doanh nghiệp cần có biện pháp giảm bớt số dư tiền mặt. nâng cao việc quản lý công nợ để giảm bớt các khoản phải thu, dự trữ nguyên vật liệu, hàng hóa hợp lý làm tăng nhanh vòng quay vốn lưu động và nâng cao hiệu quả sử dụng tổng vốn.
Việc cải tiến tình hình sử dụng vốn lưu động để tăng tốc độ luân chuyển của vốn lưu động là vấn đề rất quan trọng. Khi tăng nhanh tốc độ chu chuyển vốn lưu động thì doanh nghiệp có thể giảm bớt được tổng số vốn. Việc tăng nhanh tốc độ chu chuyển vốn lưu động tức là sử dụng vốn một cách có hiệu quả bằng cách rút ngắn thời gian vốn lưu động dừng lại ở khâu sản xuất và lưu thông. Bên cạnh đó, việc chấp hành đúng thủ tục thanh toán và tìm mọi cách thu hồi nhanh tiền bán hàng cũng có ý nghĩa rất quan trọng để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp.
Một điểm đáng chú ý khác khi phân tích báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Intimex cho thấy: trị giá vốn của hàng đã tiêu thụ của công ty ở mức rất cao. Xem bảng:
Bảng 2.14: So sánh giá vốn và doanh thu của công ty qua các năm
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2002
Năm 2003
Năm 2004
Giá trị
Tỷ lệ
Giá trị
Tỷ lệ
Giá trị
Tỷ lệ
Doanh thu thuần
2.048.796
100%
2.986.736
100%
3.667.582
100%
Giá vốn hàng bán
1.964.700
95,9%
2.920.159
97,7%
3.542.884
96,6%
Nguồn: Báo cáo tài chính tổng hợp của công ty Intimex
Qua số liệu ở bảng trên thấy rằng: mặc dù công ty đã rất cố gắng để giảm tỷ lệ giá vốn hàng bán trên doanh thu nhưng vẫn luôn ở một mức rất cao. Điều này cho thấy mặc dù doanh thu của công ty cao song lợi nhuận lại thấp là một điều hiển nhiên. Dẫn đến, chỉ tiêu lợi nhuận trên vốn của công ty vẫn còn thấp.
Một lý do khác nữa khiến lợi nhuận của công ty đạt ở mức thấp, đó là chi phí vay vốn của công ty rất cao, chiếm một tỷ lệ lớn trong tổng chi phí kinh doanh của công ty. Xem bảng số liệu:
Bảng 2.15: Chi phí lãi vay và tỷ lệ chi phí lãi vay trong tổng chi phí
Chỉ tiêu
Năm 2002
Năm 2003
Năm 2004
Tổng chi phí (Tr.đ)
82.061
63.142
121.107
Chi phí lãi vay (Tr.đ)
16.412
18.772
38.512
Tỷ lệ chi phí lãi vay trên tổng chi phí (%)
20,9
29,73
33,8
Nguồn: Báo cáo tài chính tổng hợp của công ty Intimex
Qua bảng trên cho thấy: tỷ lệ chi phí lãi vay năm 2004 ở mức cao nhất. chiếm 33,8% trong tổng chi phí của doang nghiệp. Đây là một trong những nguyên nhân khiến năm 2004 chỉ tiêu doanh lợi vốn của công ty đạt thấp hơn năm 2003.
Ngoài chi phí lãi vay lớn, công ty còn tồn tại một số khoản chi phí chưa hợp lý, cần có những biện pháp giảm thiểu như: chi phí thu mua hàng hoá, chi phí nhập khẩu, chi phí lưu kho bãi vv...Chi phí sản xuất, chế biến của nhiều sản phẩm còn ở mức cao, chi phí nguyên liệu đầu vào cao do phụ thuộc vào thị trường nhập khẩu, nhiều chi phí dịch vụ bất hợp lý chưa giảm làm đội giá thành sản phẩm lên, hạn chế khả năng cạnh tranh.
Ngoài ra, do còn thiếu thông tin, chưa thực sự nắm vững nhu cầu của thị trường, trình độ tổ chức quản lý hoạt động xuất nhập khẩu đôi khi còn lỏng lẻo vv.... cũng là một trong những nguyên nhân làm giảm hiệu quả sử dụng vốn của công ty.
Nhìn chung, những nguyên nhân co bản khiến hiệu quả sử dụng vốn của công ty Intimex chưa cao là do: giá đầu vào cao, chi phí lãi vay lớn, còn có những chi phí bất hợp lý, nguồn nhân lực và trình độ quan lý chưa thực sự đủ mạnh để đáp ứng với nhu cầu của hoạt động kinh doanh trên thị trường thế giới.
Kết luận chương II
Trong những năm gần đây (từ 2002 đến 2004) công ty xuất nhập khẩu Intimex đã có rất nhiều cố gắng trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Công ty đã liên tục đạt chỉ tiêu kim ngạch xuất khẩu cao nhất Bộ thương mại. Năm 2004, kim ngạch xuất khẩu của công ty đạt 153.650.000 USD, chiếm hơn 17% kim ngạch xuất khẩu của Bộ thương mại. Doanh thu và lợi nhuận của công ty liên tục tăng qua các năm và luôn đạt vượt mức chỉ tiêu nộp ngân sách. Đấy là những kết quả rất đáng khích lệ trong điều kiện thị trường thế giới có nhiều diễn biến phức tạp ( như dịch bệnh SARD, dịch cúm gia cầm, giá dầu mỏ tăng...). Song, xét về hoạt động huy động và sử dụng vốn, qua việc tính toán và phân tích các chỉ tiêu tài chính cho thấy : công ty đã huy động được nhiều vốn đáp ứng cho nhu cầu kinh doanh nhưng hiệu quả của việc huy động vốn là chưa cao ; sử dụng vốn của công ty đạt hiệu quả thấp thể hịên ở chỉ tiêu doanh lợi vốn của công ty còn thấp. Sở dĩ như vậy là do công ty còn những mặt hạn chế như : chi phí hoạt động còn quá cao, (như : chi phí trả lãi vay ngân hàng ; chi phí đầu vào của quá trình thu mua hàng hóa, chi phí sản xuất chế biến, chi phí thu mua...), hàng tồn kho của công ty ở mức cao, đặc biệt là số tồn kho ứ đọng còn nhiều, vốn bị chiếm dụng lớn.
Tuy nhiên, qua kết quả phân tích cho thấy : các chỉ tiêu đánh gía hiệu quả sử dụng vốn của công ty vẫn cao hơn một số các công ty cùng loại khác trong Bộ thương mại. Hơn nữa, nếu lấy tỷ lệ lãi vay ngân hàng để so sánh thì tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu của công ty vẫn đạt ở mức cao hơn. Đặc biệt, với kim ngạch xuất khẩu lớn, công ty đã góp phần thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu của đất nước, dần dần khẳng định vị thế của quốc gia trên thị trường thế giới.
Chương 3: Một số kiến nghị và giải pháp nhằm huy động, sử dụng vốn có hiệu quả tại Công ty xuất nhập khẩu Intimex
3.1. Phương hướng hoạt động của công ty Intimex trong những năm tới
Phương hướng hoạt động của công ty Intimex trong những năm tới được xây dựng dựa trên cơ sở những thông tin về bối cảnh kinh tế trong nước và quốc tế như sau:
3.1.1. Bối cảnh trong nước và quốc tế trong những năm tới
a. Bối cảnh trong nước
Thuận lợi:
Sự ổn định về chính trị – xã hội là nền tảng vững chắc và nhân tố thuận lợi lớn nhất cho phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
Thể chế kinh tế thị trường đã bước đầu hình thành và vận hành có hiệu quả; những cơ chế chính sách ban hành đã đi vào cuộc sống, phát huy tích cực.
Năng lực và trình độ sản xuất của nhiều nghành kinh tế đã được cải thiện đáng kể; cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch tích cực; chất lượng tăng trưởng trong nhiều nghành, lĩnh vực được nâng cao.
Quan hệ quốc tế mở rộng, tạo cơ hội lớn về thị truờng cho hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam, góp phần thúc đẩy đầu tư và thương mại, tăng khả năng tiếp cận các công nghệ tiên tiến.
Việt Nam sẽ trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO), mở ra một sân chơi rộng lớn và bình đẳng hơn cho nước ta.
Khó khăn:
Nền sản xuất còn lạc hậu, quy mô sản xuất nhỏ bé, trình độ công nghệ nhìn chung còn tụt hậu khá xa so với khu vực và thế giới, khả năng cạnh tranh của hàng hóa sản xuất trong nước còn hạn chế.
Kết cấu hạ tầng chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển.
Nhiều yếu tố kinh tế thị trường chưa được thiết lập đồng bộ đang gây cản trở cho hoạt động sản xuất , kinh doanh và đầu tư phát triển trong nước.
Thời tiết, khí hậu thay đổi thất thường, các bệnh SARS, cúm gia cầm vẫn còn nguy cơ tái phát.
Khả năng hội nhập kinh tế thế giới và khu vực của các doanh nghiệp Việt Nam còn thấp so với yêu cầu trong khi hội nhập kinh tế đã bước sang giai đoạn mới quyết liệt và gay gắt hơn. Việc Việt Nam gia nhập WTO cũng đem lại nhiều thách thức to lớn hơn, cạnh tranh quyết liệt hơn.
b) Bối cảnh quốc tế:
Thuận lợi:
Xu hướng chung là kinh tế thế giới tiếp tục phục hồi và phát triển, tốc độ tăng trưởng kinh tế, thương mại toàn cầu, trong đó tốc độ tăng trưởng của các nước đối tác chính của Việt Nam cao hơn trước. Các luồng vốn đầu tư ODA, FDI và vốn gián tiếp dần phục hồi.
Quá trình toàn cầu hóa, khu vực hóa, tự do hóa thương mại và đầu tư sẽ được đẩy nhanh hơn, tạo điều kiện cho tăng cường hợp tác giữa các nước, mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa và đầu tư.
Khó khăn:
Tình hình chính trị thế giới và khu vực sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường; các thế lực phản động quốc tế tiếp tục tìm các chống phá hòng gây mất ổn định chính trị – xã hội nước ta.
Cuộc khủng hoảng năng lượng dẫn đến khủng hoảng kinh tế toàn cầu có khả năng xẩy ra.
Quá trình phân công lại lao động quốc tế và tổ chức nền kinh tế thế giới sẽ là một thách thức lớn đối với các nước đang phát triển.
Cạnh tranh quốc tế sẽ gay gắt và quyết liệt hơn do trình độ hội nhập kinh tế quốc tế cao hơn một bước.
3.1.2. Phương hướng hoạt động của công ty trong những năm tới
Công ty đã đề ra phương hướng để phát triển hoạt động kinh doanh của công ty trong thời gian từ nay đến 2010 như sau:
- Về tổ chức quản lý doanh nghiệp : thay đổi mô hình quản lý nhằm nâng cao khả năng huy động và sử dụng vốn.
- Về huy động vốn: đa dạng hóa các hình thức huy động vốn.
- Về doanh thu của công ty: đẩy mạnh tốc độ tăng doanh thu của công ty. Công ty coi đây là điều kiện để tăng lợi nhuận, mở rộng thị trường tiêu thụ tạo ra vị thế vững mạnh của công ty trên thị trường. Công ty dự kiến tăng tốc độ doanh thu mỗi năm đạt từ 14% trở lên. Đây là một tiêu chí không quá cao so với tiềm năng của công ty. Nhưng để thực hiện được, cán bộ công nhân viên trong công ty phải có tinh thần trách nhiệm cao, tận dụng được các cơ hội của thị trường.
- Về mặt hàng kinh doanh: chủ trương đa dạng hóa mặt hàng kinh doanh, bổ sung một số mặt hàng mới. Đồng thời, nâng cao chất lượng mặt hàng xuất khẩu, đảm bảo được những tiêu chuẩn khắt khe về an toàn thực phẩm của thị trường thế giới. Trước nhu cầu đa dạng và phát triển ngày càng cao của người tiêu dùng, việc đa dạng hóa các mặt hàng kinh doanh giúp công ty khai thác hiệu quả từng đoạn thị trường, tăng doanh số bán hàng của toàn công ty.
- Về thị trường xuất khẩu: Hiện nay công ty có một số thị trường xuất khẩu như Mỹ, Nhật, EU, Trung Quốc, Hồng Công, Hàn Quốc......Nhưng vẫn có một số thị trường tiềm năng ở Đông Âu, Châu Phi, Nga, Singapo mà công ty cần mở rộng. Đây là những thị trường đầy hứa hẹn mang lại cho công ty lợi nhuận cao.
- Về lợi nhuận: dự kiến tốc độ tăng lợi nhuận phải cao hơn tốc độ doanh thu nói chung của toàn công ty. Công ty chủ trương tốc độ của lợi nhuận trung bình trong các năm tới tăng 15%.
- Về các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn: dự kiến hiệu suất sử dụng vốn tăng lên trung bình17 %sức sản xuất của vốn cố định và vốn lưu động tăng bình quân 16% một năm.
3.2. Giải pháp từ doanh nghiệp
3.2.1. Thay đổi mô hình tổ chức quản lý doanh nghiệp
Trong nhiều năm qua, nhất là từ khi nước ta chuyển từ mô hình kinh tế tập trung bao cấp sang mô hình kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, công ty Intimex đã chuyển hướng hoạt động phù hợp với cơ chế kinh tế mới và đã đạt nhiều kết quả khả quan trong hoạt động xuất nhập khẩu. Tuy nhiên, với xu thế hội nhập kinh tếchung của nền kinh tế đang diễn ra với mức độ ngày càng sâu, phạm vi ngày càng rộng đã tác động mạnh đến hoạt động của công ty, làm bộc lộ những khiếm khuyết, hạn chế do chính mô hình tổ chức mà công ty đang quản lý. Sự bất cập lớn nhất của mô hình quản lý của công ty là vấn đè sở hữu, vốn và công tác quản lý nguồn vốn. Điều này cũng là tình trạng chung của các công ty nhà nước hiện nay.
Về vấn đề sở hữu, bản chất tuy cơ quan quản lý cấp trên của công ty được coi là đại diện cho chủ sở hữu Nhà nước. nhưng nhiệm vụ, quyền hạn lại phân định chưa rõ ràng, vì thế cũng không chịu trách nhiệm đến cùng vói công ty. Về vốn, tuy công ty được Nhà nước giao vốn, nhưng thực tế nguồn vốn đó lại được giao cho các đơn vị thành viên trực thuộc Công ty. Việc Công ty nhận vốn và tài sản Nhà nước giao xuống cho các đơn vị thành viên chỉ mang tính hình thức vì thực tế phần vốn ấy do chính những đơn vị thành viên quản lý và sử dụng, trong khi văn phòng công ty (cơ quan đầu não) thì có rất ít vốn (chỉ khoảng 20%) vốn của Nhà nước.
Vì vậy công ty gặp không ít khó khăn khi có nhu cầu đầu tư vào một dự án nào đó vì vốn đang bị phân tán ở các đơn vị thành viên. Ngoài ra, việc giao vốn của Công ty cho các đơn vị cấp dưới quản lý và sử dụng lại phải thực hiện theo phương thức không thanh toán, nên tạo ra tính ỷ lại cho các đơn vị thành viên. Hơn nũa, với cách thức quản lý vốn hiện tại, công ty không thể thực hiện huy động vốn qua thị trường chứng khoán, một kênh huy động vốn rất linh hoạt.
Để khắc phục những bất cập trên, công ty Intimex cần phải sắp xếp và xây dựng lại mô hình tổ chức doanh nghiệp theo mô hình mới, đó là mô hình Công ty mẹ – Công ty con. Mô hình này đã được thí điểm áp dụng ở nước ta từ năm 2001 đến năm 2004 và đó kết thỳc quá trình thí điểm đi vào thực hiện sau khi Nghị định số 153/2004/NĐ-CP về tổ chức, quản lý tổng cụng ty nhà nước và chuyển đổi tổng cụng ty nhà nước, cụng ty nhà nước độc lập theo mụ hỡnh cụng ty mẹ - con được ban hành ngày 9/8/2004, chớnh thức hoỏ cỏc quy định liờn quan đến việc chuyển đổi và hoạt động của mụ hỡnh này.
Theo Nghị định, cụng ty mẹ cú quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của mỡnh. Cụ thể, cụng ty mẹ cú quyền thay đổi cơ cấu tài sản để phỏt triển kinh doanh, chuyển nhượng, cho thuờ, cầm cố, thế chấp toàn bộ tài sản (hiện tại, đối với cỏc tài sản quan trọng, cỏc quyền này chỉ được thực hiện khi được cơ quan cú thẩm quyền cho phộp). Trong quan hệ với cụng ty con, cụng ty mẹ sẽ nắm giữ toàn bộ vốn điều lệ hoặc nắm giữ tỷ lệ cổ phần chi phối, vốn gúp chi phối ở cụng ty con, cú quyền chi phối đối với cỏc cụng ty con. Cũn cụng ty con chỉ là là doanh nghiệp do cụng ty mẹ sở hữu toàn bộ hoặc một phần vốn điều lệ và bị cụng ty mẹ chi phối. Mục tiờu quan trọng của sự chuyển đổi là thỳc đẩy nhanh quỏ trỡnh đa dạng hoỏ sở hữu, đặc biệt là quỏ trỡnh cổ phần hoỏ cỏc cụng ty nhà nước, tạo điều kiện cho cỏc tổng cụng ty, cụng ty nhà nước độc lập huy động rộng rói tiềm năng về vốn ngoài xó hội cho sự phỏt triển của mỡnh, linh hoạt hơn trong điều chỉnh vốn từ những nơi kộm hiệu quả, những cụng ty con, cụng ty liờn kết kinh doanh thua lỗ đến doanh nghiệp cú hiệu quả hơn. Hơn nữa, việc chuyển sang hoạt động theo mụ hỡnh mới cú nghĩa là cỏc cụng ty con, cụng ty liờn kết sẽ chuyển sang hoạt động theo Luật Doanh nghiệp, trờn cựng mặt bằng với cỏc thành phần kinh tế tư nhõn. Cỏc doanh nghiệp và những nhà quản lý sẽ được tăng quyền tự chủ, tự chịu trỏch nhiệm đối với cỏc quyết định của mỡnh, tạo ra tớnh linh hoạt và hiệu quả hơn. Sự đào thải cũng tất yếu xảy ra đối với những doanh nghiệp làm ăn khụng hiệu quả. Khi đú, nguồn vốn sẽ được tập trung vào những khoản đầu tư cú hiệu quả hơn.
3.2.2. Đa dạng hóa hình thức huy động vốn huy động vốn:
Công ty cần phải kết hợp huy động vốn từ nhiều nguồn vốn khác nhau: nguồn huy động trong nước và từ phía nước ngoài. Công ty cần khai thác đa dạng các nguồn vốn bằng cách:
- Để các công ty con phát hành cổ phiếu, trái phiếu.
- Tiến hành liên doanh liên kết với các cơ sở sản xuất, chế biến có tiềm lực tài chính.
- Quan hệ chặt chẽ với những tổ chức tín dụng, tận dụng các điều kiện vay vốn lãi suất ưu đãi của các tổ chức này.
- Thực hiện mua chịu hoặc giãn thời gian thanh toán đối với các khoản nợ đến hạn của công ty.
3.2.3. Đẩy mạnh hoạt động Marketing.
Marketing là làm việc với thị trường để thực hiện các cuộc trao đổi với mục đích thoả mãn những nhu cầu và mong muốn của con người. Ngày nay không một doanh nghiệp nào bắt tay vào kinh doanh lại không muốn gắn kinh doanh của mình với thị trường. Vì lẽ đó mà Marketing có một chức năng quan trọng bởi lẽ Marketing là cầu nối gắn kết công ty với thị trường. Công việc Marketing được thực hiện tốt sẽ giúp công ty mở rộng, khai thác thị trường, tận dụng tốt các cơ hội thị trường. Do đó, công ty Intimex muốn nâng cao hiệu quả kinh doanh của mình trên thị trường nước ngoài thì phải đẩy mạnh Marketing.
Đẩy mạnh hàng hoá Marketing công ty cần phải tiến hành các công việc sau:
* Nghiên cứu và lựa chọn thị trường mục tiêu.
Trước hết công ty phải ước tính quy mô chung của thị trường, mức tăng trưởng, khả năng sinh lời và rủi ro. Trên cơ sở đó xem kết luận thị trường cần sản phẩm gi, sản phẩm của công ty có phù hợp không, khả năng tiêu thụ của công ty này trên thị trường là như thế nào. Tăng cường các hoạt động xuất khẩu.
* Thiết lập chiến lược Marketing.
Sau khi xác định được thị trường mục tiêu, công ty cần phải thiết lập chiến lược Marketing nhằm tiếp cận thị trường. Đối với thị trường có quy mô lớn, nhu cầu đa dạng công ty nên áp dụng chiến lược phân tán. Đối với thị trường nhỏ, cạnh tranh cao thì công ty nên áp dụng chiến lược tập trung.
Trên cơ sở xác định các sản phẩm của các công ty khác trên thị trường, công ty cần so sánh sản phẩm của mình với các công ty đó, từ đó xác định vị trí sản phẩm của công ty trên thị trường, xác định xem sản phẩm của mình được hách hàng nhìn nhận ở tầm cỡ nào. Từ đó công ty đưa ra các mặt hàng xuất khẩu phù hợp hơn, mang tính cạnh tranh hơn và tạo một ấn tượng riêng đối với khách hàng.
* Hoạch định các chương trình Marketing.
Sau khi xác định được chiến lược Marketing, công ty cần đưa ra kế hoạch. Chương trình cụ thể nhằm thực hiện chiến lược Marketing. Đối với mỗi nhiệm vụ Marketing công ty cần xác định rõ ai làm, làm như thế nào, mục đích là gì, kết quả phải đạt được là gì. Bên cạnh đó công ty cần phải phân bổ chi phí cho các hoạt động Marketing một cách hợp lý, để cho các hoạt động Marketing phối hợp nhịp nhàng và đạt hiệu quả.
* Tổ chức thực hiện và kiểm tra nỗ lực Marketing.
Bước này rất quan trọng, quyết định tới việc công ty có triển khai thành công hay không các kế hoạch Marketing của mình. Để là được điều này, công ty phải sự dụng hợp lý các nguồn lực đã được phân bổ cho hoạt động Marketing. Phải kết hợp hoạt động Marketing với các hoạt động khác như hoạt động tài chính, hoạt động tổ chức cán bộ. Hơn nữa, phải thành lập bộ phận chuyên trách Marketing nhằm định ra chiến lược Marketing và kiểm tra thường xuyên việc thực hiện các Marketing.
3.2.4. Duy trì nguồn hàng ổn định, chất lượng cao.
Trong thời gian vừa qua công ty đã xuất khẩu sang nhiều thị trường và bước đầu đã đạt được uy tín của mình trên thị trường. Tuy nhiên, doanh thu hàng năm biến đổi thất thường, đó là do chưa duy trì được nguồn hàng ổn định, chất lượng cao. Điều này có thể làm mất thị phần cũng như uy tín của công ty trong thời gian tới.
Để có một nguồn hàng ổn định công ty phải mở rộng việc liên kết đối với các cơ sở qua việc đảm bảo cung cấp nguồn nguyên liệu đầu vào và bao tiêu sản phẩm đầu ra cho họ về chất lượng của sản phẩm, là một công ty thương mại việc nâng cao chất lượng sản phẩm được thực hiện ở khâu mua hàng và đặt hàng.Khi mua hàng công ty phải lựa chọn người cung ứng là những đơn vị sản xuất kinh doanh có uy tín, có trình độ công nghệ máy móc thiết bị cao, sản phẩm có chất lượng cao.
3.2.5. Tổ chức quảng cáo giới thiệu các mặt hàng xuất khẩu của Công ty.
Để có thể giới thiệu các mặt hàng của mình đến với khách hàng thì quảng cáo là một hình thức mang lại hiệu quả cao. Trong thời đại ngày nay có rất nhiều hình thức quảng cáo mà Công ty có thể áp dụng đó là:
- Tiến hành các hoạt động quảng cáo về các mặt hàng xuất khẩu của công ty qua các phương tiện thông tin đại chúng, tích cực hơn nữa trong công tác tham gia triển lãm bán và giới thiệu sản phẩm.
- Xuất bản catalog: catalog phải giới thiệu toàn bộ nội dung, về chức năng nhiệm vụ của công ty, các mẫu hàng xuất khẩu được in thành trang ảnh. Từng mẫu hàng phải có sự chú thích rõ ràng. Catalog phải được trình bày hấp dẫn, lôi cuốn khách hàng, dẫn người mua đến thái độ muốn mua và đến quyết định mua hàng.
- Hiện nay, công nghệ thông tin rất phát triển. Do đó, công ty có thể tham gia vào mạng thương mại điện tử. Đó là hệ thống catalog doanh nghiệp và sản phẩm Việt Nam của phòng Thương mại Công nghiệp Việt Nam.
3.3. Kiến nghị đối với Nhà nước
3.3.1. Phát triển và hoàn thiện các tổ chức trung gian tài chính
Trước hết, cần nâng cao tác động của hệ thống các tổ chức tài chính trong việc huy động và tạo kênh dẫn vốn cho doanh nghiệp.
Thời gian qua, dù hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng ở Việt nam đã đựơc cải tổ, hòan thiện và phát triển một cách tích cực trong những, tuy nhiên hoạt động của các ngân hàng chưa thực sự hiệu quả. Chính vì vậy, để tăng cường vai trò là kênh dẫn vốn cho doanh nghiệp, cần tạo quan hệ tài chính lành mạnh và tích cực giữa các doanh nghiệp (người cần vay vốn) với các tổ chức tín dụng (người cần cho vay vốn), trong đó đặc biệt quan trọng là sự phối hợp hoạt động bằng nhiều hình thức, nhằm tạo cơ hội tăng cường tác dụng của hệ thống tài chính chính thức và giám sát hiệu quả sử dụng vốn của các doanh nghiệp, xóa bỏ nghịch lý “đóng băng vốn” và giảm rủi ro cho các tổ chức tài chính, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong việc sử dụng các nguồn lực tài chính của đất nước.
Chính vì yêu cầu trên, Nhà nước không nên chần chừ trong việc cải tổ căn bản hệ thống ngân hàng. Hiện nay, một hệ thống ngân hàng được tổ chức với tên gọi là ngân hàng thương mại nhưng thực tế hoạt động thì vẫn là mang tính chất của ngân hàng Nhà nước. Điều này gây khó khăn cho việc hình thành hạt nhân để tổ chức thị trường tiền tệ, thị trường vốn hoàn chỉnh và thống nhất trong phạm vi cả nước. Bởi vậy, các ngân hàng cần được tăng cường hòan thiện theo hướng tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp. Coi doanh nghiệp là khách hàng, nghĩa là đối tượng cần được quan tâm của ngân hàng. Để làm được điều đó cần chú ý một số vấn đề chính:
- Tăng cường năng lực của cán bộ ngân hàng trong việc xem xét và ra quyết định một cách khoa học.
- Người làm nhiệm vụ cho vay cũng giống như người bán hàng, cần làm cho khách hàng hiểu được đặc điểm hàng hóa của mình nhưng quan trọng hơn cả là cần hiểu được nhu cầu của khách hàng để đáp ứng nhu cầu đó một cách tốt nhất.
- Tăng cường công tác thông tin và hệ thống cung cấp thông tin nhằm tạo điều kiện giảm bớt tình trạng thông tin không hoàn hảo. Một trong những phương thức tích cực, chủ động để đáp ứng yêu cầu đó là các ngân hàng nên chuyển sang phương thức đa năng, nghĩa là bên cạnh các nghiệp vụ truyền thống nên thực hiện cả nghiệp vụ khác, như cổ phiếu của các doanh nghiệp nhằm có cơ hội nắm bắt thông tin của doanh nghiệp chính xác hơn.
- Thay đổi phong cách làm việc trong quan hệ với các doanh nghiệp, tạo lập quan hệ dài hạn nhằm xây dựng mạng lưới khách hàng ổn định, đồng thời bảo đảm hơn mức độ an toàn trong hoạt động tín dụng. Điều này cũng tạo điều kiện để các doanh nghiệp giảm chi phí giao dịch trong huy động vốn.
- Tăng cường tính cạnh tranh giữa các ngân hàng nhằm làm cho thị trường tài chính hoàn hảo hơn. Điều này đòi hỏi Nhà nước giảm bớt mức độ can thiệp vào hoạt động kinh doanh của ngân hàng, tạo thế chủ động hơn cho các ngân hàng trong việc ra quyết định cho vay vốn.
- Cải tiến thủ tục cho vay sao cho gọn nhẹ, hiệu quả và nhanh nhất.
- Cần phát huy và liên kết chặt chẽ 4 loại thị trường nhằm huy động vốn có hiệu quả,đó là: Thị trường liên ngân hàng, thị trường hối đoái, thị trường tín phiếu kho bạc, thị trường chứng khoán.
- Có chính sách lãi suất ngân hàng hợp lý nhằm bắt buộc các ngân hàng phải triệt để tiết kiệm chi phí trong kinh doanh nhằm giảm lãi suất cho vay
Đối với các tổ chức tài chính phi ngân hàng cần chú ý một số điểm sau:
- Tăng cường khai thông nguồn vốn của hệ thống các tổ chức bảo hiểm, các công ty tài chính.
- Làm tốt công tác thông tin và hỗ trợ doanh nghiệp trong việc sử dụng các hình thức huy động vốn không truyền thống đối với các doanh nghiệp Việt Nam như: thuê mua tài chính, huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu, cổ phiếu, kể cả trái phiếu theo dự án và các hình thức huy động vốn khác.
- Có thể kết hợp hình thức đồng tài trợ đối với các dự án lớn, thời gian dài hoặc rủi ro cao nhằm giảm bớt rủi ro trong hoạt động cho vay.
3.3.2. Hoàn thiện chính sách tài chính, tiền tệ
Chính sách tài chính của Nhà nước là một công cụ quan trọng để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế và xã hội, thực hiện chíh sách công bằng. Với vai trò đó, chính sách tài chính phải được xây dựng trên những cơ sở sau:
- Phải thực sự tạo ra hành lang pháp lý thuận lợi để doanh nghiệp hướng các hoạt động của mình, nâng cao quyền tự chủ của doanh nghiệp trong các hoạt đọng tài chính, từ khi tạo lập, phân phối và sử dụng các nguồn lực tài chính, phải gắn quyền tự chủ, tinh thần trách nhiệm của chủ doanh nghiệp với kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Phải là cơ sở để khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng lợi nhuận ròng để thực hiện các hoạt động đầu tư phát triển, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường
- Phải bù đắp được chi phí và giải quyết việc làm cho người lao động, phải tạo cho doanh nghiệp phòng ngừa được các rủi ro trong quá trình sản xuất kinh doanh.
- Hoàn thiện các loại thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu theo yêu cầu của hội nhập khu vực và quốc tế theo hướng đảm bảo nguồn thu cho NSNN nhưng phải ưu tiên đầu tư, khuyến khích phát triển sản xuất hướng về xuất khẩu. Ban hành các chuẩn mực kế toán, kiểm toán phù hợp với thông lệ quốc tế.
Về chính sách tiền tệ: Nhà nước cần có những chính sách phát triển thị trường tiền tệ, thị trường ngoại hối, sử dụng công cụ lãi suất và tỷ giá làm phương tiện điều hành và kiểm soát mọi hoạt động diễn ra trên thị trường, tác động đến mức cung và cầu tiền, ngoại hối trong nền kinh tế, đảm bảo sự phát triển ổn định bằng hệ thống ngân hàng quốc doanh, khung lãi suất và tỷ giá liên ngân hàng. Nhà nước cần thiết lập một tỷ giá hối đoái thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu. Mục đích của chính sách này nhằm hỗ trợ nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp. Đây là điều rất cần thiết đối với các doanh nghiệp Việt Nam bởi vì các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay không những thiếu vốn, thiếu kinh nghiệm trong hoạt động kinh doanh quốc tế mà còn đang gặp phải sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường thế giới. Chính sách này muốn đạt hiệu quả phải phối hợp các chính sách khác như chính sách hỗ trợ về vốn, thông tin của nhà nước, tuỳ theo từng thời điểm, thời kỳ mà thiết lập chế độ tỷ giá hối đoái có lợi và không chênh lệch quá lớn so với giá trị thực tế trên thị trường.
Thực tiễn các nước trên thế giới trong những năm vừa qua thường thiết lập chế độ tỷ giá hối đoái nhằm tăng khả năng xuất khẩu và hạn chế hàng xuất khẩu. Thông qua việc thiết lập chế độ tỷ giá hối đoái mới, họ sẽ làm cho đồng nội tệ trở nên rẻ hơn một cách tương đối so với đồng ngoại tệ, điều này sẽ dẫn đến giá cả hàng hoá của nước họ trở nên rẻ hơn trên thị trường trong khi chất lượng hàng hoá vẫn ở mức cũ. Do đó tính cạnh tranh hàng hoá của nước đó sẽ tăng lên, tạo điều kiện đẩy mạnh việc tiêu thụ hàng hoá của các doanh nghiệp trong nước trên thị trường thế giới.
3.3.3. Tăng cường sự hỗ trợ của Nhà nước đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu
* Sự trợ giúp của Nhà nước trong việc huy động vốn nên tập trung vào một số khía cạnh sau:
- Hỗ trợ doanh nghiệp trong việc tiếp cận thông tin về các hình thức huy động vốn.
- Tư vấn và xây dựng mạng lưới tư vấn cho các doanh nghiệp về các lĩnh vực liên quan đến huy động vốn
- Hỗ trợ doanh nghiệp trong công tác đào tạo, nâng cao năng lực xây dựng và đánh giá các dự án vay vốn, tạo điều kiện tiếp cận tốt hơn các tổ chức tín dụng ngân hàng và phi ngân hàng.
- Tiếp tục đổi mới và sắp xếp lại khu vực kinh tế quốc doanh theo hướng tinh gọn, hiệu quả, năng động. Muốn vậy, phải xây dựng và phát triển kinh tế quốc doanh, để có những tập đoàn kinh tế đầu đàn mang tầm cỡ quốc gia và quốc tế ở một số lĩnh vực kinh tế mũi nhọn và then chốt. Những doanh nghiệp này chẳng những sẽ là đối tác quan trọng trong việc cạnh tranh với doanh nghiệp nước ngoài mà còn là công cụ giúp Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế, vì nó còn phải hướng dẫn các ngành kinh tế khác trong nước.
- Nhà nước cần đẩy mạnh quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp quốc doanh, tạo ra xã hội hóa về mặt sở hữu trong các doanh nghiệp cổ phần, đây vừa là điều kiện để nâng cao hiệu quả của quá trình tập trung vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh, vừa tạo điều kiện để thị trường chứng khoán phát triển. Mặt khác, việc chuyển các doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần sẽ là một trong những kênh quan trọng để phát triển kinh tế đất nước do giảm bớt gánh nặng tài chính cho Chính phủ, phát huy cạnh tranh và nâng cao hiệu quả của khu vực kinh tế quốc doanh . Nhà nước chỉ nên giữ một số lượng ít doanh nghiệp hoạt động trong những lĩnh vực quan trọng, nắm giữ những ngành mũi nhọn. Với những doanh nghiệp Nhà nước chưa thể tiến hành cổ phần hóa ngay nếu đủ điều kiện thì thực hiện chuyển sang mô hình công ty mẹ – công ty con.
* Hỗ trợ sử dụng vốn có hiệu quả đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu :
• Hoạt động hỗ trợ nghiên cứu thị trường:
Hiện nay, công tác nghiên cứu thị trường của các doanh nghiệp thương mại nước ta còn rất yếu do bản thân các doanh nghiệp không đủ khả năng về kinh phí, phương tiện kỹ thuật cũng như trình độ chuyên môn trong công tác nghiên cứu thị trường nhất là thị trường nước ngoài. Do đó, việc nhà nước hỗ trợ cho các doanh nghiệp có được các thông tin về thị trường là rất thiết thực và cần thiết. Với khả năng của mình, Nhà nước có thể:
- Thành lập các trung tâm nghiên cứu thị trường thế giới. Các trung tâm này có nhiệm vụ thu nhập, xử lý, phân tích và dự báo các biến động diễn ra trên thị trường thế giới, có nhiệm vụ cung cấp các thông tin và tư vấn thị trường cho các doanh nghiệp.
- Thiết lập hệ thống thông tin hai chiều giữa cơ quan quản lý kinh tế của Nhà nước và doanh nghiệp xuất nhập khẩu . Đảm bảo hệ thống thông tin luôn được thông xuất và chính xác. Trong thời gian tới Nhà nước cần chú trọng với việc thăm dò, khảo sát thị trường thế giới để đưa ra các thông tin về cung cầu, đối với các mặt hàng, sự biến động giá cả và các đối thủ cạnh tranh.
• Hoạt động hỗ trợ và đào tạo cán bộ quản lý :
Con người chính là nhân tố hàng đầu quyết định sự thành bại trong kinh doanh. Vì vây, việc đào tạo và nâng cao trình độ cán bộ quản lý là hết sức cần thiết. Hiện nay, để đáp ứng yêu cầu quản lý ngày càng cao, các doanh nghiệp đã liên tục đầu tư vào việc đào tạo và nâng cao trình độ cán bộ quản lý của mình. Song việc nhà nước quan tâm và hỗ trợ đối với các doanh nghiệp trong công tác đào tạo cán bộ quản lý cũng là một điều tất yếu. Nhà nước có thể hỗ trợ doanh nghiệp thông qua một số phương pháp sau:
- Mở các trung tâm đào tạo cán bộ quản lý cho doanh nghiệp. Trong đó, nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí, còn lại sẽ do các doanh nghiệp tham gia đóng góp.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp thương mại cử cán bộ đi học tập nghiên cứu ở nước ngoài.
- Tiến hành mở các cuộc hội thảo, thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực quản trị kinh doanh, nghiệp vụ ngoại thương, Marketing nhằm nghiên cứu và phổ biến cho các doanh nghiệp.
- Bảo toàn vốn cho các công ty xuất khẩu:
Trong hoạt động xuất khẩu, để mang về lợi nhuận cao, bán được nhiều hàng hoá thì công ty phải chịu đựng một mức rủi ro cao hơn. Chẳng hạn như nếu sử dụng phương thức thanh toán bán chịu trong xuất khẩu thì công ty sẽ bán được nhiều hàng hoá hơn khi mà công ty sử dụng phương thức trả tiền ngay, nhưng mà lại chịu rủi ro nhiều hơn khi mà đối tác không trả tiền hàng. Do vậy Nhà nước cần lập nên quỹ bảo hiểm để khuyến khích công ty xuất khẩu hàng hoá của mình
đồng thời giúp công ty bảo toàn vốn khi gặp rủi ro.
3.3.4. Hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý xuất khẩu
Chính sách và cơ chế xuất khẩu của doanh nghiệp là các yếu tố tác động mạnh mẽ tới hoạt động xuất khẩu cũng như hiệu quả xuất khẩu của một công ty.
Trước sự phát triển mạnh mẽ của hoạt động xuất khẩu đòi hỏi Nhà nước phải không ngừng đổi mới và hoàn thiện các chính sách và cơ chế xuất khẩu. Để làm được điều này Nhà nước cần phải:
- Đảm bảo tính đồng bộ các văn bản pháp lý của xuất khẩu
Tính đồng bộ của văn bản pháp lý thể hiện khi đưa ra một văn bản pháp lý về xuất khẩu thuộc một lĩnh vực nào đó phải xem xét sự liên quan tới các lĩnh vực khác. Tránh tình trạng một văn bản pháp lý tạo hiệu quả cho hoạt động xuất khẩu này lại làm mất tính hiệu quả của các hoạt động xuất khẩu khác, chẳng hạn như một văn bản pháp lý đưa ra để khuyến khích xuất khẩu một mặt hàng nào đó. Điều này tạo nên sự mâu thuẫn trong văn bản pháp lý, làm giảm hiệu quả xuất khẩu nói chung của toàn bộ các công ty.
Đơn giản hoá các thủ tục hành chính liên quan đến xuất khẩu. Hiện nay về mặt thủ tục hành chính trong hoạt động xuất khẩu vẫn còn rất rườm rà và phức tạp, gây lãng phí thời gian và công sức cho các công ty xuất khẩu. Điều này tác động nghiêm trọng đến hiệu quả xuất khẩu của công ty.Bên cạnh việc đơn giản hoá các thủ tục hành chính Nhà nước cần phải tăng cường kiểm tra, giám sát chặt chẽ các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu nhằm đảm bảo sự công bằng giữa các công ty tham gia xuất khẩu.
3.3.5. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế.
Để có thể thâm nhập vào thị trường thế giới, bên cạnh những lỗ lực từ phía công ty, Nhà nước cũng cần phải tăng cường các hoạt động ngoại giao, hợp tác quốc tế nhằm tạo khuôn khổ pháp lý cho các công ty tham gia xuất khẩu. Đó là việc nhà nước ký kết các điều ước quốc tế, ký kết các hiệp định chung và Nghị định thư trao đổi với các Chính phủ khác. Một khía cạnh nữa của hợp tác quốc tế là việc tích cực tham gia các tổ chức trong khu vực cũng như trên thế giới.
Kết luận chương III
Trong điều kiện phát triển mới, các mục tiêu và chiến lược phát triển đến năm 2010 đã và đang đặt ra nhiều thách thức lớn đối với việc huy động và sử dụng vốn có hiệu quả cho công ty Intimex. Việc tìm ra các giải pháp hữu hiệu nhằm huy động vốn và sử dụng vốn có hiệu quả là hết sức cần thiết. Trong thời gian tới, Nhà nước cần : phát triển và hoàn thiện các tổ chức trung gian tài chính ; hoàn thiện chính sách tài chính, tiền tệ ; tăng cường sự hỗ trợ của Nhà nước đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu ; hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý xuất khẩu. Công ty Intimex cần : thay đổi mô hình tổ chức quản lý doanh nghiệp ; đa dạng hóa hình thức huy động vốn; đẩy mạnh hoạt động Marketing; duy trì nguồn hàng ổn định, chất lượng cao; tổ chức quảng cáo giới thiệu các mặt hàng xuất khẩu....để tăng cường huy động vốn, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tạo điều kiện cho công ty Intimex phát triển nhanh, chiếm lĩnh thị trường quốc tế, tăng nguồn thu cho Ngân sách.
Kết luận chung
Khi nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế thị trường thì việc huy động và sử dụng vốn trong các doanh nghiệp là vấn đề quan trọng, quyết định sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp. Trên cơ sở kế thừa và tiếp thu có chọn lọc các kiến thức lý luận và thực tiễn luận văn đã hệ thống hóa được một số vấn đề về doanh nghiệp xuất nhập khẩu, vốn, các hình thức huy động vốn và chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Việc nghiên cứu hoạt động huy động và sử dụng vốn của công ty Intimex trong những năm gần đây cho phép rút ra nhận xét: bên cạnh những thành tựu to lớn mà các công ty đạt được (tốc độ tăng kim ngạch xuất nhập khẩu cao, doanh thu lớn, thị trường tiêu thụ rộng khắp, sức cạnh tranh được cải thiện,....), vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế. Luận văn cũng đã đi sâu phân tích các nguồn vốn và khả năng huy động vốn của công ty Intimex, chỉ ra những khó khăn của công ty trong quá trình huy động vốn. Ngoài những nhân tố mang tính vĩ mô tác động đến việc huy động vốn của công ty, còn nhiều nhân tố khác thuộc về bản thân công ty. Công tác huy động vốn của công ty còn chưa đa dạng, chi phí huy động vốn lớn, việc sử dụng vốn kinh doanh chưa đạt hiệu quả cao. Trong điều kiện phát triển mới, các mục tiêu và chiến lược phát triển đến năm 2010 đã và đang đặt ra nhiều thách thức lớn đối với việc huy động và sử dụng vốn có hiệu quả cho công ty. Việc tìm ra các giải pháp hữu hiệu nhằm huy động vốn và sử dụng vốn có hiệu quả là hết sức cần thiết. Trong thời gian tới, Nhà nước cần : Phát triển và hoàn thiện các tổ chức trung gian tài chính ; hoàn thiện chính sách tài chính, tiền tệ ; tăng cường sự hỗ trợ của Nhà nước đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu ; hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý xuất khẩu. Công ty Intimex cần : thay đổi mô hình tổ chức quản lý doanh nghiệp ; đa dạng hóa hình thức huy động vốn; đẩy mạnh hoạt động Marketing; duy trì nguồn hàng ổn định, chất lượng cao; tổ chức quảng cáo giới thiệu các mặt hàng xuất khẩu....để tăng cường huy động vốn, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tạo điều kiện cho công ty Intimex ngày càng chiếm lĩnh thị trường Quốc tế, tăng nguồn thu cho Ngân sách, phục vụ tích cực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Danh mục tài liệu tham khảo
Nguyễn Hải Sản (2001), Quản trị tài chính doanh nghiệp, Nhà xuất bản Thống kê.
Trường ĐH Tài chính kế toán HN (1999), Quản trị tài chính doanh nghiệp, Nhà xuất bản tài chính.
Đại học Kinh tế Quốc dân (1998), Quản trị tài chính doanh nghiệp, NXB Thống kê.
Nguyễn Văn Tiến (2001), Tài chính quốc tế hiện đại trong nền kinh tế mở, Học viện Ngân hàng, Nhà xuất bản thống kê.
Nguyễn Thị Thu Thảo (2004), Ngiệp vụ thanh toán quốc tế, Nhà xuất bản lao động xã hội.
Lê Văn Tư (1999) Tín dụng tài trợ xuất nhâp khẩu thanh toán quốc tế và kinh doanh ngoại tệ, NXB Thống kê.
Chính phủ, Quyết định của Thủ tướnh Chính phủ về xuất nhập khẩu hàng hoá thời kỳ 2001-2005 (Số 46/2001/QĐ-TTg).
Trường Đại học Ngoại thương (2000), Giáo trình Tổ chức quản lý nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu, NXB giáo dục.
Ngô Đình Giao (2004), Quản trị kinh doanh tổng hợp trong các doanh nghiệp, NXB Khoa học kỹ thuật.
Nguyễn Thứ Lộc, Hoàng MInh Đường (2003), Quản trị kinh doanh Thương mại , NXB Giáo dục.
Trần Chí Thành (2001), Tổ chức nghiệp vụ kinh doanh thương mại quốc tế, NXB Thống kê Hà Nội.
Trần Chí Thành (1995), Kinh doanh thương mại trong cơ chế thị trường, NXB Thống kê Hà Nội.
Đỗ Đức Bình, Nguyễn Thường Lạng (2004), Giáo trình Kinh tế Quốc tế, NXB Lao động – xã hội.
Nguyễn Thị Hường (2003), Giáo trình Kinh doanh Quốc tế (tập 2), NXB Lao động – xã hội.
Tô Xuân Dân (1998), Chính sách kinh tế đối ngoại, NXB Thống kê.
Vũ Hữu Tửu (2002), Kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương, NXB Giáo dục.
Đinh Xuân Trình (2002), Thanh toán Quốc tế trong ngoại thương, NXB Giáo dục.
Trần Văn Chu (1998), Giáo trình Kinh doanh Thương mại Quốc tế, Đại học Quản lý Kinh doanh Hà Nội.
Trần Minh Đạo (1999), Giáo trình marketing, NXB Thống kê, Hà Nội.
Nguyễn Duy Bột (1997), Giáo trình thương mại Quốc tế, NXB Thống kê, Hà Nội.
Dương Đình Chiến (2002), Giáo trình thương mại Quốc tế, NXB Thống kê, Hà Nội.
Nguyễn Cao Văn (1999), Giáo trình marketing Quốc tế, NXB Giáo dục, Hà Nội.
Nguyễn Thị Khế, Bùi Thị Khuyên (1999), Luật Kinh doanh, NXB Thống kê, Hà Nội.
Bộ Lao động – Thương binh và xã hội (2002), Hệ thống văn bản pháp luật hiện hành về: Tổ chức hoạt động và quản lý tài chính doanh nghiệp nhà nước, NXB Lao động – xã hội.
Nguyễn Thu Thủy (2003), Thị trường thế giới, một số mặt hàng đang có nhiều biến động, Tạp chí Quốc tế (số 1, 2/2003), Tr. 34.
Phạm Văn Linh (2003), Xuất khẩu Việt nam 2003: “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”, Vietnam Trade Review (số 3, 4, 5/2003), Tr. 62.
Đức Tín (2003), Siêu thị INTIMEX xuân về, Thương mại (số 3, 4, 5/2003), Tr. 98.
Tạp chí Thương mại (2003), Đánh giá hoạt động xuất khẩu năm 2002 - Định hướng và giải pháp phát triển xuất khẩu năm 2003, Thương mại (số 7/2003), Tr. 2 – 14.
Đỗ Thị Tuyết (2003), Suy nghĩ về việc: Chuyển đổi công ty nhà nước sang mô hình công ty mẹ – công ty con, Thương mại (số 11/2003), Tr.7–8.
Lê Phương Dung (2003), Biến động về giá USD, Thương mại (số 12/2003). Tr. 23 – 24.
Trọng Văn (2004), Thấy gì qua biến động của EURO, Thương mại (số 11/2004), Tr. 6.
Hương Lan (2004), Kênh dẫn vốn mới của Ngân hàng, Thương mại (số 12/2004), Tr. 22.
P.V (2004), An toàn vốn là nhiệm vụ trọng tâm, Thương mại (số 12/2004), Tr. 15.
Nguyễn Duy Nghĩa (2004), Làm gì để xuất khẩu năm 2004 tăng 12%, Thương mại (số 3, 4, 5/2004), Tr. 17 – 18.
Nguyễn Tiến (2004), Hoàn thiện hệ thống Pháp luật để tham gia Hội nhập kinh tế Quốc tế, Thương mại (số 3, 4, 5/2004), Tr. 28 – 29.
Trọng Hồ (2004), Những thách thức còn đó đối với xuất khẩu năm 2004, Thương mại (số 7/2007), Tr. 3 – 4.
Hồ Ngọc Cẩn (2004), Nhìn nhận thế nào về hoạt động tiền tệ thời gian qua?, Thương mại (số 8/2004), Tr. 8 – 9.
Báo cáo tài chính tổng hợp của công ty Intimex năm 2002, 2003, 2004
Báo cáo tài chính tổng hợp của Bộ thương mại năm 2004
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- C0115.doc