Đề tài Huy động vốn đầu tư khu vực kinh tế tư nhân cho đầu tư phát triển ở nước ta hiện nay

Hiện nay nhu cầu đặt ra đối với nguồn vốn từ khu vực tư nhân khá lớn trong tổng vốn đầu tư toàn xó hội. Xuất phỏt từ thực tế hiện nay khả năng tiết kiệm của nguồn vốn này trong giai đoạn này nói chung là cao, song vấn đề quan tâm ở đây là huy động được nguồn vốn này đưa vào đầu tư phát triển Đảng và Nhà nước ta đưa ra một định hướng sau: * Đầu tư trực tiếp: Khuyến khích các nhà đầu tư tư nhân đưa vốn vào sản xuất kinh doanh. Bằng việc Chính phủ sẽ dùng các chính sách vĩ mô để tạo ra một môi trường đầu tư thông thoáng khuyến khích tư nhân đầu tư thông qua việc mở rộng các loại hỡnh doanh nghiệp, hỡnh thức kinh doanh đa dạng, tạo ra một sân chơi bỡnh đẳng giữa doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp tư nhân. * Đầu tư qua các kênh huy động của hệ thống tài chính – ngân hàng. Để tạo điều kiện cho tư nhân bỏ vốn ra đầu tư theo hướng này nhà ưnớc sẽ điều chỉnh: Thứ nhất là cơ chế lói suất sẽ trở thành một cụng cụ điều tiết cung cầu về vốn trên thị trường. Khắc phục các bất hợp lý trong chớnh sỏch trần lói suất cho vay đồng thời mở rộng và hoàn thiện thị trường thanh toán liên ngân hàng. Thứ hai: Đa dạng hoá các kênh huy động vốn bằng việc mở rộng cỏc hỡnh thức tiết kiệm, tăng cường các hỡnh thức phỏt hành kỳ phiếu trỏi phiếu với những kỳ hạn và nhiều mệnh giỏ khỏc nhau. Thứ ba: Xúc tiến cho ra đời một thị trường chứng khoán.

doc49 trang | Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1345 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Huy động vốn đầu tư khu vực kinh tế tư nhân cho đầu tư phát triển ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ó thể tận dụng tối đa nguồn nội lực để phát triển kinh tế đất nước lại càng quan trọng. Bởi làm được điều này đồng nghĩa với việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế một cách nhanh chóng, ổn định và không phụ thuộc vào nước ngoài. ở nước ta hiện nay, nguồn vốn khu vực kinh tế tư nhân vẫn còn một khối lượng lớn chưa được huy động. Và câu hỏi được đặt ra là tại sao tư nhân lại không muốn đưa những đồng vốn của mình vào đầu tư phát triển? Trong chương này chúng ta đi vào xem xét thực trạng, hạn chế và những nguyên nhân để có thể lý giải phần nào của câu hỏi trên. I. Tình hình chung về huy động vốn cho đầu tư phát triển 1. Thực trạng và hạn chế 11/9. Bàn về về việc huy động vốn cho đầu tư phát triển năm 2008, Bộ KH&ĐT cho biết, khả năng huy động vốn đầu tư khoảng 554 nghìn tỷ đồng (tương đương trên 34 tỷ USD). Số vốn huy động này tăng 19,6% so với ước thực hiện năm 2007 và bằng 41,5% GDP. Nguồn vốn đầu tư này sẽ được huy động từ nguồn ngân sách nhà nước, trái phiếu Chính phủ, tín dụng nhà nước, vốn ODA, khu vực doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp ngoài quốc doanh và dân cư… Trong đó, nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước sẽ đạt gần 97 nghìn tỷ đồng, chiếm 17,5% tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội; vốn tín dụng nhà nước khoảng 40 nghìn tỷ đồng (7,2%); vốn đầu tư của khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh và dân cư (dân doanh) hơn 201 nghìn tỷ đồng (36,4%)… Các nguồn vốn này được tập trung đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội trọng yếu, đặc biệt là các dự án phát triển giao thông, thủy lợi, điện, cảng biển; xây dựng các khu công nghiệp; phát triển nông nghiệp và nông thôn kết hợp giảm nghèo; phát triển giáo dục đào tạo; hỗ trợ hoạt động đầu tư … Huy động vốn cho đầu tư phát triển là một trong những biện pháp được Chính phủ hết sức quan tâm nhằm tạo sự phát triển ổn định của nền kinh tế. Mặc dù còn nhiều khó khăn, Nhà nước vẫn dành một tỷ lệ thích đáng nguồn ngân sách vốn hạn hẹp, Chính phủ cũng huy động một khối lượng đáng kể vốn nhàn rỗi bằng các hình thức phát hành công trái và trái phiếu Chính phủ, cho đầu tư phát triển. Ðáng tiếc là thời gian qua, nhất là từ đầu năm đến nay, việc giải ngân vốn đầu tư bằng vốn của Nhà nước bao gồm: Vốn NSNN; vốn trái phiếu Chính phủ, công trái, vốn tín dụng đầu tư nhà nước; vốn đầu tư của DNNN, triển khai rất chậm. Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Ðầu tư, sáu tháng đầu năm 2007, nhiều bộ, ngành, địa phương khối lượng thực hiện và giải ngân nguồn vốn đầu tư thuộc NSNN chỉ đạt dưới 10% như: Tập đoàn Ðiện lực Việt Nam 1,7%, tỉnh Hậu Giang 6,8%, tỉnh Vĩnh Long 7%... Các bộ Giao thông vận tải, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cũng chỉ mới giải ngân được 12,2% và 8,8% nguồn vốn trái phiếu Chính phủ được phân bổ. Việc chậm giải ngân các nguồn vốn nói trên không chỉ ảnh hưởng đến kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội nói chung, mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế, phá vỡ quy hoạch phát triển, gây lãng phí lớn nguồn lực của Nhà nước. Nguyên nhân của tình trạng nêu trên đã được chỉ ra một cách cụ thể. Thời gian qua, Chính phủ và các bộ, ngành đã chỉ đạo quyết liệt, ban hành khá nhiều văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến lĩnh vực này, tạo cơ sở pháp lý trong triển khai các dự án đầu tư xây dựng cơ bản. Tuy nhiên, nhiều văn bản hướng dẫn của các bộ, ngành còn có nội dung chồng chéo. Công tác xây dựng, thẩm định, phê duyệt dự án, tổng dự toán và thiết kế kỹ thuật... vừa chậm, vừa chưa bảo đảm yêu cầu chất lượng, làm cho việc triển khai xây dựng bị kéo dài. Những yếu kém nêu trên có thể khắc phục được nếu chúng ta thật sự làm tốt công tác cải cách hành chính trong xây dựng cơ bản. Nhiều khi chỉ vì các bộ, ngành liên quan không kịp thời ngồi lại với nhau để cùng tháo gỡ vướng mắc, làm cho một số dự án muốn triển khai nhanh cũng không thực hiện được. Do vậy, ngoài việc tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, cần nhanh chóng sửa đổi và hoàn thiện các quy chế quản lý, xác định rõ trách nhiệm, quyền hạn của từng ngành, từng cấp và của từng cá nhân, khắc phục tình trạng khép kín trong quá trình đầu tư. Ðã đến lúc cần áp dụng biện pháp hạn chế cấp vốn đầu tư  xây dựng cơ bản các công trình mới, các dự án mới cho những bộ, ngành, địa phương có tỷ lệ đầu tư quá dàn trải, các công trình có tốc độ xây dựng quá chậm. Biện pháp đó góp phần sớm khắc phục tình trạng vốn chờ công trình trong đầu tư bằng nguồn vốn Nhà nước Về hiệu quả thu hút vốn đầu tư nước ngoài của Việt Nam Năm 2006, tổng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam theo dự án đạt 10,2 tỷ USD, tăng 52% so với năm 2005, đạt mức cao nhất kể từ năm 1987 khi Việt Nam công bố Luật Đầu tư nước ngoài. Đồng thời, tổng vốn đầu tư thực tế của nước ngoài vào Việt Nam năm 2006 cũng lập kỷ lục cao mới, đạt 4,1 tỷ USD, tăng 24,2% so với năm 2005. Những năm gần đây, thu hút vốn đầu tư nước ngoài của Việt Nam có một số đặc điểm mới như sau: Thứ nhất, có nhiều dự án vốn đầu tư nước ngoài có quy mô trên 100 triệu USD, trong đó có những dự án đầu tư lớn trị giá từ 1 tỷ USD trở lên. Tiêu biểu là dự án của tập đoàn Intel Corp (Mỹ) đầu tư xây dựng nhà máy sản xuất vi mạch trị giá 1 tỷ USD tại TP. Hồ Chí Minh trong năm 2006; dự án xây dựng Nhà máy Sản xuất Gang thép (do tập đoàn POSCO (Hàn Quốc) đầu tư tại miền Nam) trị giá tới 1,126 tỷ USD. Năm 2006, vốn đăng ký đầu tư của 10 dự án đầu tư nước ngoài hàng đầu tại Việt Nam đạt trên 4 tỷ USD. Thứ hai, nội dung đầu tư có những thay đổi so với trước đây. Các dự án có đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực tin học và công nghệ cao tại Việt Nam tăng mạnh. Ngoài dự án của Intel còn có dự án sản xuất thiết bị y tế hiện đại do tập đoàn lớn Terumo (Nhật Bản) đầu tư; dự án đầu tư sản xuất thiết bị máy fax và máy in lade của tập đoàn công nghiệp Brothers-co; các dự án công nghệ cao liên doanh giữa Việt Nam và các doanh nghiệp Nhật Bản, như Canon, Toshiba. Mấu chốt của thành công bước đầu trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài của Việt Nam là sau khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO, Quốc hội Mỹ đã dành cho Việt Nam quy chế mậu dịch thông thường vĩnh viễn (PNTR), giúp cho môi trường quốc tế càng thuận lợi hơn cho kinh tế Việt Nam phát triển. Năm 2006, kinh tế Việt Nam tiếp tục duy trì đà tăng trưởng nhanh, với mức tăng trưởng GDP lên tới 8,17%, thu nhập quốc dân tăng, đời sống người dân cải thiện. Nhờ đó thị trường tiêu dùng tăng lên, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh. Theo dự thảo Chương trình Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thời kỳ 2006- 2010 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, giai đoạn này sẽ đặc biệt khuyến khích đầu tư vào các ngành công nghệ thông tin, điện tử, vi điện tử, công nghệ sinh học, công nghệ nguồn từ các nước phát triển, công nghiệp phụ trợ, chế biến nông- lâm- thuỷ hải sản. Dự thảo lần 3 Chương trình Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thời kỳ 2006- 2010 vừa được Bộ Kế hoạch và Đầu tư hoàn tất. Theo đó, dự kiến, tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đăng ký cấp mới và tăng vốn trong 5 năm 2006- 2010 đạt 30- 34 tỷ USD, trong đó vốn đăng ký cấp mới đạt 22- 24 tỷ USD, vốn tăng thêm đạt 8- 10 tỷ USD. Vốn FDI thực hiện trong giai đoạn này dự kiến đạt khoảng 24- 25 tỷ USD, trong đó FDI trong ngành công nghiệp chiếm 55%, dịch vụ 37% và nông- lâm- ngư nghiệp chiếm 8%. Về định hướng lĩnh vực thu hút đầu tư, sẽ đặc biệt khuyến khích đầu tư vào các ngành công nghệ thông tin, điện tử, vi điện tử, công nghệ sinh học, công nghệ nguồn từ các nước phát triển, công nghiệp phụ trợ, chế biến nông- lâm- thuỷ hải sản. Về dịch vụ, đặc biệt khuyến khích thu hút đầu tư vào các ngành kinh doanh bất động sản, du lịch, y tế, giáo dục- đào tạo… Theo số liệu tổng hợp của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, từ đầu năm đến nay, cả nước có thêm 421 dự án đầu tư nước ngoài được cấp phép đầu tư với tổng vốn đầu tư đăng ký hơn 2,9 tỷ USD, So với cùng kỳ năm trước, tuy ít hơn khoảng 200 dự án, đạt 66,5% nhưng về vốn đã vượt trội khoảng 45 triệu USD, tăng 1,5%. Ngoài ra, trong 8 tháng đầu năm nay, còn có 216 lượt dự án đang hoạt động được phép bổ sung vốn, với tổng vốn đăng ký tăng thêm khoảng 1,05 tỷ USD, bằng 86% so với cùng kỳ năm ngoái. Nếu tính gộp vốn cấp mới và tăng thêm, xu hướng chung của 8 tháng qua là giảm 1%, chỉ đạt hơn 4,08 tỷ USD, bằng 99% cùng kỳ năm trước. 8 tháng đầu năm nay, nhiều dự án được cấp phép đã tích cực triển khai thực hiện, ước tính số vốn đầu tư thực hiện của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đạt hơn 2,4 tỷ USD, tăng 10,6% so với cùng kỳ năm trước (2,2 tỷ USD). Tính chung cả vốn cấp mới lẫn vốn bổ sung, cả nước thu hút được trong 8 tháng qua đã đạt khoảng 4 tỷ USD. Tính riêng, trong tháng 8 đã có thêm 13 dự án được cấp phép tổng vốn đăng ký 54 triệu USD. Doanh thu của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài trong tháng 8/2006 ước đạt khoảng 3,1 tỷ USD, đưa tổng doanh thu trong 8 tháng đầu năm ước đạt 18,3 tỷ USD, tăng 24,7% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, giá trị xuất khẩu của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (trừ dầu thô) ước đạt 9,45 tỷ USD, tăng 37,6% so với cùng kỳ. Nhập khẩu của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài trong tháng 8/2006 ước đạt 1,55 tỷ USD, đưa tổng giá trị nhập khẩu trong 8 tháng đầu năm đạt khoảng 10,5 tỷ USD, tăng 22,2% so với cùng kỳ. Quy mô vốn đầu tư trung bình cho một dự án trong 8 tháng đầu năm đạt khoảng 7,5 triệu USD/dự án. Đặc biệt, trong số các dự án mới cấp phép có một số dự án có quy mô vốn đầu tư đăng ký lớn là: Công ty Intel vốn đầu tư 650 triệu USD; Công ty Tây Hồ Tây 314,1 triệu USD; Công ty Winvest Investment 300 triệu USD…/. Từ sự đánh giá về thực trạng huy động vốn cho đầu tư phát triển ở nước ta hiện nay, có thể thấy một số hạn chế sau: Trước khi rở thành những công ty mạnh, các doanh nghiệp mới thành lập, có quy mô nhỏ thường gặp khó khăn khi tiếp cận với khoa hoạ công nghệ. Điều này lên quan đến khả năng huy động vốn lớn để đáp ứng nhu cầu mở rộng quy mô, áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ mới của các doanh nghiêp tư nhân vừa và nhỏ Nguồn vốn cho hoạt động của các doanh nghiệp tư nhân có thể được trông đợi từ nhiều con đường khác nhau. Trong đó nguồn vốn vay chiếm vị trí khá quan trọng trong quá trình phát triển của mỗi daonh nghiệp. Có một kênh quan trọng để tạo vốn cho các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường đó là thị trường chứng khoán. Với chức năng cơ bản là đáp ứng nhu cầu về vốn trung và dài hạn cho các doanh nghiệp, thị trường chứng khoán mở ra cơ hội vô cùng lớn trong việc huy động vốn đầu tư của các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiêp thuộc khu vưc kinh tế tư nhân. Tuy nhiên do đặc thù của thị trường chứng khoán mà chỉ có các doanh nghiệp có quy mô lớn, có vị trí và đã khẳng định được uy tín trên thị trường mới có khả năng tiếp cận được với kênh huy động vốn này. Các doanh nghiệp nhỏ, mới hình thành có thể huy động vốn chủ yếu từ các trung gian tài chính. Các trung gian tài chính như ngân hàng thương mai, công ty tài chính, quỹ đầu tư…là những thể chế tài chính mà các doanh nghiệp có thể trông đợi được. Tuy nhiên trong các nền kinh tế mà khu vực kinh tế tư nhân chỉ được coi là một bộ phận thứ yếu, hỗ trợ cho kinh tế Nhà nước, khu vực kinh tế đóng vai trò chủ đạo dẫn dắt nền kinh tế phát triển, thì sự tiếp cận nguồn vốn từ các ngân hàng thương mại là rất khó khăn. Điều này xuất phát từ hai phương diện Khu vực kinh tế tư nhân chưa đủ mạnh, đủ niềm tin để có thể vay được vốn từ các ngân hàng thương mại. Nhìn chung ở các quốc gia này khu vực kinh tế tư nhân luôn thể hiện là bộ phận kinh tế còn rất yếu kém Cơ cấu ngân hàng thương mại trong các quốc gia này chủ yếu là ngân hàng thương mại nhà nước. Loại hình ngân hàng này chiếm tỷ trọng lớn trên cả thị trường cho vay và huy động vốn. Trong điều kiện đó mọi sự ưu tiên vốn vay chắc chắn sẽ dành cho các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế nhà nước. Một sự ưu tiên dựa vào loại hình sở hữu của doanh nghiệp cần vay vốn sẽ trở thành rào cản khó vượt qua được ngay cả khi doanh nghiệp tư nhân có thể chứng tỏ sức mạnh của mình trong joạt động kinh doanh. Và sẽ càng khó khăn cho các doanh nghiệp tư nhân mới thành lập, có quy mô nhỏ Đối với doanh nghiệp tư nhân lớn, có uy tín, khó khăn này sẽ không còn nữa. Song để có thể trở thành doanh nghiệp lớn về quy mô mạnh về uy tín, các doanh nghiệp lại trường phải khởi sự bằng những doanh nghiệp nhỏ non trẻ. Vì vậy, sự hỗ trợ của nhà nước đối với các doanh nghiệp cần phảI được coi là cần thiết cho tất cả các doanh nghiệp, vì sự lớn mạnh chung của nền kinh tế, không phân biệt loại hình doanh nghiệp đó thuộc hình sở hữu tư nhân hay Nhà nước 2. Nguyên nhân. Nhìn chung có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến việc hạn chế việc bỏ vốn ra để đầu tư ở nước ta, đặc biệt là khu vực kinh tế tư nhân. Tuy nhiên chúng ta chỉ đi vào xem xét một vài nguyên nhân chủ yếu sau: 2.1. Sự bất cập của hệ thống chính sách luật pháp. Do chúng ta đang trong qúa trình đổi mới nên việc xây dựng các chính sách pháp luật để có thể thích ứng với tình hình moứi là vấn đề hết sức quan trọng. Nhưng hiện nay hệ thống chính sách pháp luật của ta chưa tạo ra được sự đồng bộ, còn nhiều sự chồng chéo. Điều này gây ra những cản trở rất lớn trong qúa trình phát triển kinh tế đặc biệt là trong lĩnh vực huy động vốn để đầu tư. Nhiều khi quyết định của Bộ này lại ngược với Bộ kia làm cho nhà đầu tư không biết là theo ai. Các văn bản dưới luật để hướng dẫn thi hành luật ban hành không kịp thời, làm cho luật ra đời rồi, có hiệu lực rồi nhưng nhà đầu tư chẳng biết làm thế nào cả. 2.2. Thủ tục hành chính còn quá rườm rà. Tàn dư của cơ chế cũ đến nay vẫn còn tồn tại gây ảnh hưởng lớn đến hoạt động đầu tư. Bộ máy cồng kềnh nhiều cửa, đã gây cho nhà đầu tư nỗi ám ảnh khi muốn bỏ vốn ra để đầu tư, đặc biệt là đối với nhà đầu tư nước ngoài. Chúng ta vừa muốn người có tiền bỏ ra để đầu tư nhưng lại vừa cản trở họ bằng các thủ tục quá rườm rà, phải qua hết Bộ này đến Bộ khác mới có được tờ giấy phép đầu tư. Có những trường hợp nhà đầu tư làm xong thủ tục để được đầu tư thì cơ hội đầu tư không còn nữa. 2.3. Bối cảnh nền kinh tế thế giới, khu vực và trong nước có nhiều sự biến động. Chính sự biến động nền kinh tế làm cho nhà đầu tư thấy rằng bỏ vốn ra để đầu tư gặp rất nhiều rủi ro, đã làm giảm lượng vốn bỏ ra. Bỏ vốn ra để sản xuất mà sản phẩm làm ra không tiêu thụ được dẫn đến không thu hồi được vốn chính vì vậy các nhà đầu tư không dám bỏ vốn. 2.4. Cơ sở hạ tầng kinh tế kỹ thuật của đất nước còn thấp. Điều dễ thấy nhất đó là giao thông, theo như các nhà đầu tư nếu bỏ vốn để đầu tư ở những vùng được khuyến khích đầu tư thì chi phí để vận chuyển sản phẩm đi tiêu thụ quá lớn do đường xá đi lại khó khăn làm tăng giá thành của sản phẩm làm cho khả năng cạnh tranh của sản phẩm không còn, cho nên ở những vùng khó khăn thì vốn đầu tư bỏ ra lại càng ít. Nếu đã đầu tư rồi thì chỉ duy trì ở mức hiện có chứ không dám đầu tư mở rộng sản xuất. 2.5. Các kênh huy động vốn nhàn dỗi chưa thực sự phát triển để có thể thích ứng với điều kiện hiện nay. Hệ thống ngân hàng thương mại chưa phát triển hiện đại, mọi vấn để nhận tiền gửi chủ yếu được làm bằng sức người. Thị trường chừng khoán chưa phát triển, ở nước ta hiện nay mới chỉ có một trung tâm giao dịch chứng khoán hoạt động nhưng hiệu quả do nó mang lại còn rất hạn chế. Các quỹ đầu tư ở nước ta còn sơ khai, ở những nước phát triển được thành lập dưới dạng Công ty cổ phần phát hành cổ phiếu rộng rãi để có thể huy động mọi nguồn vốn nhàn dỗi từ trong dân. 2.6. Do sự đánh giá thấp vai trò của khu vực kinh tế tư nhân. Trước đây trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung thì mọi thành phần kinh tế hầu như không được phát triển mà chỉ có thành phần kinh tế Nhà nước phát triển. Chính điều này, cho đến nay nhiều người vẫn coi trọng thành phần kinh tế Nhà nước mà xem nhẹ vai trò của kinh tế tư nhân. Chúng ta cần phải có những nhìn nhận đúng đắn về vai trò của khu vực kinh tế tư nhân để từ đó có những chính sách khuyến khích khu vực này bỏ vốn để đầu tư. Hiện nay chúng ta đang phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng XHCN bên cạnh việc duy trì vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước nhưng cũng không được xem nhẹ vai trò của kinh tế tư nhân và các thành phần kinh tế khác. II. Huy động vốn đầu tư phát triển từ các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Đề tài của em là:” Huy động vốn đầu tư khu vực kinh tế tư nhân cho đầu tư phát triển ở nước ta hiện nay”.Vốn đầu tư của khu vực kinh tế tư nhân nhằm phuc vụ cho hoạt động đầu tư phát triển gồm có: Vốn đầu tư của doanh nghiệp ngoài quốc doanh, vốn của hộ gia đình và vốn huy động từ trong dân cư tuy nhiên ở đây em chỉ tập trung làm rõ : Huy động vốn đầu tư phát triển từ các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Doanh nghiệp ngoài quốc doanh bao gồm: + Doanh nghiệp tư nhân + Công ty TNHH + Công ty cổ phần Hiện nay ranh giới để phân biệt Công ty TNHH và Công ty cổ phần là của tư nhân hay của Nhà nước vẫn chưa được rõ ràng. Chính vì lẽ đó chúng ta chủ yếu đi sâu vào xem xét loại hình doanh nghiệp tư nhân. 1. Thực trạng và hạn chế. Cùng với những thay đổi mạnh mẽ của nền kinh tế, Luật Doanh nghiệp 1999 (có hiệu lực từ ngày 1/1/2000) ra đời được coi là một bước đột phá trong khâu cải cách hành chính và kinh tế, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho khu vực kinh tế tư nhân phát triển và góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Nếu trước năm 1999, số lượng các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân tăng không đều, thậm chí còn giảm dần (năm 1994 tăng 60% so với năm 1993, nhưng đến năm 1995 tốc độ gia tăng còn 41% và năm 1996 chỉ tăng 24%) thì sau 6 năm thi hành Luật Doanh nghiệp 1999, số lượng doanh nghiệp đăng ký mới đã gia tăng đáng kể.  Điều này được thể hiện rõ biểu đồ dưới đây:                 Nguồn: “6 năm thi hành Luật Doanh nghiệp - Những vấn đề nổi bật và bài học kinh nghiệm”, Viện Quản lý Kinh tế Trung ương và Tổ chức hợp tác kỹ thuật Đức, 2006.  Giai đoạn 1995-1999, khu vực kinh tế tư nhân phát triển mạnh về số lượng nhưng không đều và thiếu sự phù hợp về quy mô, số lượng doanh nghiệp thì nhiều mà số vốn lại hạn chế. Do đó, có thể thấy, vào giai đoạn này, các doanh nghịêp phát triển còn manh mún với quy mô nhỏ, dẫn đến hoạt động kinh doanh không hiệu quả. Bước sang giai đoạn 2000-2005, tình trạng này đã được cải thiện nhiều. Số lượng doanh nghiệp gia tăng đều đặn và đây cũng là khoảng thời gian ghi nhận một làn sóng đầu tư mạnh mẽ thể hiện ở tốc độ gia tăng về vốn đăng ký. Điều đó chứng tỏ hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp đã mang tính ổn định và quan trọng hơn là đã có những kế hoạch dài hạn khi tham gia thị trường. Sự phát triển mạnh mẽ của khu vực kinh tế tư nhân còn thể hiện ở tốc độ gia tăng về doanh thu trong bảng số liệu dưới đây: Doanh thu của các khu vực kinh tế giai đoạn 2000- 2004 Đơn vị: triệu USD Năm Khu vực doanh nghiệp nhà nước Khu vực kinh tế tư nhân Khu vực doanh nghiệp ĐTNN Tổng cộng 2000 444.673.268 203.155.309 161.957.112 809.785.689 2001 482.446.592 273.878.908 179.889.902 936.215.402 2002 622.812.724 365.717.450 226.357.837 1.214.888.011 2003 680.820.722 487.058.973 295.975.938 1.463.837.633 2004 708.044.233 637.371.250 373.985.238 1.719.400.721 2005 (ước) 743.446.444 777.595.925 430.083.023 3.094.921.297     Nguồn: “6 năm thi hành Luật Doanh nghiệp - Những vấn đề nổi bật và bài học kinh nghiệm”, Viện Quản lý Kinh tế Trung ương và Tổ chức hợp tác kỹ thuật Đức, 2006.  Như vậy, có thể thấy doanh thu của khu vực kinh tế tư nhân không ngừng tăng trưởng với tốc độ cao hơn nhiều so với hai khu vực còn lại, cụ thể là: năm 2001 tăng 26%, năm  2002 tăng 25,11%, năm 2003 tăng 25%, năm 2004 tăng 23,5%. Trong khi đó, những con số này ở khu vực kinh tế nhà nước lần lượt là: 7,8%, 22,5%, 8,5%, 3,8% và ở khu vực có vốn đầu tư nước ngoài là: 9,9%, 20,5%, 23,5% và 20,7%. Bên cạnh chỉ tiêu doanh thu, hiệu quả sử dụng vốn cũng là một yếu tố đáng chú ý khi nghiên cứu về tốc độ phát triển của khu vực kinh tế tư nhân. Chỉ số này của khu vực kinh tế tư nhân luôn luôn cao hơn so với khu vực doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Trung bình một năm, mỗi đồng vốn của các doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân đạt 1,62 đồng doanh thu trong khi con số này tại khu vực doanh nghiệp nhà nước là 0,67 và tại khu vực có vốn đầu tư nước ngoài là 0,72. Những thực tế trên đã cho thấy khu vực kinh tế tư nhân đang ở giai đoạn phát triển mạnh mẽ và vượt trội so với các khu vực kinh tế khác nhờ vào hiệu quả sử dụng đồng vốn của mình. Đi liền với bước phát triển ngoạn mục nêu trên là sự bùng nổ trong các hoạt động đầu tư của khu vực kinh tế tư nhân. Tỷ trọng đầu tư của khu vực dân cư và doanh nghiệp trong tổng đầu tư phát triển toàn xã hội đã tăng từ 22,6% năm 2000 lên 26,2% năm 2002. Năm 2003, tỷ trọng này đạt 29,7%, năm 2004 tăng lên 30,9% và năm 2005 ước đạt khoảng 32,2%. Tỷ trọng đầu tư của các doanh nghiệp tư nhân trong nước liên tục gia tăng. Vốn đầu tư của các doanh nghiệp tư nhân đóng vai trò quan trọng, thậm chí là nguồn vốn đầu tư chủ yếu, đối với phát triển kinh tế địa phương. Trong giai đoạn kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010, chỉ tiêu về tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam được đặt ra là 8%. Kinh nghiệm và những bài học trong quá trình đổi mới 20 năm qua cho thấy, 3 yếu tố có vai trò quyết định đối với việc hoàn thành kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội là đầu tư nước ngoài, xuất khẩu và khu vực kinh tế tư nhân. Sự đóng góp cho tốc độ tăng trưởng kinh tế của khu vực kinh tế tư nhận đã và đang được khẳng định thông qua những “con số biết nói”. Năm 2005, khu vực kinh tế tư nhân chiếm 38,5% GDP, cao gấp 5,4 lần tỷ trọng của khu vực kinh tế tập thể (7,11%), gấp hơn 2,5 lần tỷ trọng của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (5,17%) và đạt xấp xỉ tỷ trọng của khu vực kinh tế nhà nước (39,22%). Có thể nói rằng, thành tựu phát triển kinh tế - xã hội nói chung của cả nước trong những năm qua có sự đóng góp rất lớn của khu vực kinh tế tư nhân và nếu tiếp tục giữ vững được tốc độ phát triển như hiện nay thì khu vực này sẽ là một trong những động lực mạnh mẽ nhất thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng, tạo đà cho những giai đoạn tiếp theo. Hơn thế nữa, khu vực kinh tế tư nhân còn góp phần mang lại việc làm cho 89% tổng số lao động trong xã hội; con số này cao hơn rất nhiều so với 9,7% của khu vực kinh tế nhà nước. Trong tổng số lao động làm việc ở khu vực doanh nghiệp thì doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân chiếm 43%, cao hơn tỉ lệ 39,9 % của doanh nghiệp nhà nước (Theo www.mof.gov.vn) . Cùng với sự tăng trưởng và phát triển, các khoản đóng góp vào ngân sách nhà nước của khu vực kinh tế tư nhân cũng gia tăng theo thời gian từ năm 2000 với 6% đến 7,5% của năm 2005. Ngoài ra, đây cũng là một nhân tố quan trọng góp phần thúc đẩy các thị trường phát triển như thị trường vốn, thị trường bất động sản, thị trường công nghệ –  là những vấn đề quan trọng luôn được quan tâm xem xét tại các vòng đàm phán gia nhập WTO của Việt Nam. Do đó, có thể nói, việc phát triển khu vực kinh tế tư nhân là yếu tố quan trọng góp phần mở rộng cánh cửa hội nhập kinh tế quốc tế đối với Việt Nam Kể từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI, với chủ trương tiến hành đổi mới nền kinh tế thì khu vực kinh tế tư nhân mới thực sự được phát triển một cách toàn diện trong khuôn khổ của pháp luật và theo định hướng XHCN. Năm 1990 Nhà nước ban hành luật Công ty và luật doanh nghiệp tư nhân có hiệu lực năm 1991, cũng vào năm1991 theo thống kê thì cả nước có 494 doanh nghiệp tư nhân, Công ty TNHH, Công ty cổ phần. Năm 1995 có 15.276 doanh nghiệp, năm 1999 số doanh nghiệp được thành lập là 30.500, tăng 74 lần so với năm 1991 như vậy bình quân mỗi năm trong giai đoạn 1991 - 1999 tăng thêm 3388 doanh nghiệp. Khi luật doanh nghiệp mới được áp dụng (1.1.2000) thì số doanh nghiệp đăng ký thành lập là 14.443 doanh nghiệp với tổng vốn đầu tư là 24.000 tỷ đồng chiếm 16% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Hàng năm số doanh nghiệp đăng ký thành lập tăng nhanh cùng với sự gia tăng về mặt số lượng thì khối lượng vốn đưa vào đầu tư cũng tăng nhanh qua các năm. Tuy nhiên các doanh nghiệp được thành lập chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực thương mại, tiếp đó là sản xuất công nghiệp và cuối cùng là nông lâm ngư nghiệp… Giai đoạn 1991 - 1996 số doanh nghiệp đăng ký trong lĩnh vực thương mại là 39%, giai đoạn 1997 - 1998 là 49%, giai đoạn 1999 - 2000 là 54%. Số doanh nghiệp đăng ký hoạt động trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp là 35% giai đoạn 1991 - 1996, là 22% giai đoạn1997 - 1998 và 15% giai đoạn 1999 - 2000. Các ngành khác chiếm 26% giai đoạn 1991 - 1996 ; 29% giai đoạn 1997 - 1998 và 31% giai đoạn 1999 - 2000. Như vậy doanh nghiệp tư nhân hoạt động trong mọi lĩnh vực của nền kinh tế. Giá trị sản lượng công nghiệp của khu vực kinh tế tư nhân có xu hướng giảm. Cụ thể: Năm 1997 đạt 27,3% tổng giá trị sản lượng công nghiệp đến năm 2000 giảm xuống còn 22,44%. Như vậy, có nghĩa là vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh lại giảm. Phần lớn vốn đầu tư huy động được dùng để đầu tư thương mại. Cũng dễ thấy rằng vốn đầu tư cho các doanh nghiệp thương mại thường nhỏ, độ rủi ro thấp trong khi đó để có thể đầu tư sản xuất hàng hoá cần lượng vốn rất lớn và có độ rủi ro cao. Mặc dù, khả năng sinh lời của các doanh nghiệp sản xuất thường lớn hơn các doanh nghiệp thương mại, cũng biết rằng mục tiêu của kinh doanh là nhằm tối đa hoá lợi nhuận, song tâm lý các nhà đầu tư Việt Nam không thích quá mạo hiểm với đồng vốn mình bỏ ra Qua đây ta thấy hình thức Công ty TNHH đều giữ vị trí cao nhất trong cả hai ngành thương mại và sản xuất với tỉ lệ lần lượt là 65,7% và 78,4% Công ty cổ phần là thấp nhất. Một số hạn chế đối với việc huy động vốn từ các doanh nghiệp: * Vốn đầu tư được huy động ngày càng tăng nhưng số vốn đưa vào đầu tư phát triển ít. Chủ yếu vốn được sử dụng cho đầu tư thương mại, trong khi đó đầu tư thương mại chỉ là hoạt động mua đia bán lại nên nó không làm tăng thêm của cải cho nền kinh tế. * Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp tư nhân với các loại hình doanh nghiệp khác còn rất thấp, sở dĩ là doanh nghiệp tư nhân có vốn do một cá nhân bỏ ra nên tiềm lực về vốn không lớn không có khả năng mua sắm những công nghệ hiện đại. Hiện nay các doanh nghiệp tư nhân vẫn sản xuất theo kiểu thủ công là chính, sử dụng công nghệ ở những năm 60 - 70 của thế kỷ trước do đó sản phẩm làm ra không đủ sức để cạnh tranh. * Trong nền kinh tế do còn tồn tại nhiều vấn đề đưa cơ chế cũ để lại như o ép các doanh nghiệp tư nhân trong việc làm thủ tục thành lập, thủ tục vay vốn…, khiến cho các nhà đầu tư tư nhân chưa thực sự yên tâm đầu tư vào sản xuất kinh doanh làm cho năng lực nội sinh của nền kinh tế chưa được phát huy tối đa để đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng, phát triển kinh tế. * Còn một khối lượng lớn vốn đầu tư còn chưa được huy động cho đầu tư. 2. Nguyên nhân. * Chính sách luật pháp của Nhà nước chưa thực sự đi vào đời sống của doanh nghiệp. ở đây chúng ta xem xét luật khuyến khích đầu tư trong nước. Nhằm phát huy tối đa nguồn nội lực trong nước để đầu tư phát triển, Nhà nước đã tiến hành xây dựng lên luật khuyến khích đầu tư trong nước. Cho đến nay luật này đã đi vào thực thi được 6 - 7 năm (1/1/1995) nhưng hiệu quả của luật này vẫn chưa đạt được như mong muốn. Trong luật vẫn còn có những điểm chưa rõ ràng về đối tượng và lĩnh vực được hưởng ưu đãi đầu tư dẫn đến sự ái ngại của chủ đầu tư khi muốn bỏ vốn vào đầu tư. * Nhà đầu tư là tư nhân chưa được cung cấp thông tin một cách đầy đủ về hoạt động của các dự án, kế hoạch đầu tư vào các ngành, các lĩnh vực và các địa phương. Cho nên nhiều khi nhà đầu tư không biết đầu tư vào đâu. * Do sự phân biệt giữa thành phần kinh tế tư nhân với thành phần kinh tế Nhà nước. Thấy rõ nhất về vấn đề này là trong các cuộc đấu thầu thì hầu hết phần thắng thuộc về các doanh nghiệp Nhà nước. Trong lĩnh vực này vốn cũng vậy, các ngân hàng vẫn thích cho các doanh nghiệp Nhà nước vay hơn là các doanh nghiệp tư nhân. Bởi ngân hàng sợ rằng nếu cho tư nhân vay khi doanh nghiệp phá sản rồi thì khó thu hồi vốn trong khi đó doanh nghiệp Nhà nước nếu chẳng may bị phá sản thì Nhà nước đứng ra trả như vậy thì chẳng sợ không thu hồi được vốn. Vốn đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất thường rất lớn. Đơn giản chúng ta thử nghĩ xem giữa đầu tư bỏ vốn ra để thành lập một doanh nghiệp sản xuất xe đạp với việc bỏ vốn thành lập doanh nghiệp chuyên kinh doanh mua bán xe đạp thì chỉ cần bỏ tiền thuê một địa điểm có diện tích khoảng 50m2 mua khoảng 100chiếc xe, tổng cộng chỉ cần bỏ vốn ra khoảng 200 triệu VNĐ thì đã có thể thành lập một doanh nghiệp kinh doanh mua bán xe đạp trong khi đó 200 triệu thì làm được gì trong doanh nghiệp sản xuất xe đạp. Mặt khác chính sách lãi ngân hàng chưa thực sự khuyến khích nhân dân đầu tư sản xuất mà lại khuyến khích nhân dân gửi tiền vào. Đầu tư sản xuất thì vốn lớn nếu dùng vốn tự có thì không đủ nên phải vay thêm vậy nhưng lãi suất cho vay của Ngân hàng vừa được lãi suất lại vừa thu được phần chênh lệch do giá trị của đồng tiền gửi luôn ổn định (xu hướng nếu gửi tiết kiệm thìngười dân hay gửi hàng đô la thay cho việc gửi tiền Việt Nam). * Chưa có một cơ quan đứng ra để liên kết các doanh nghiệp tư nhân với nhau trong lĩnh vực huy động vốn. Bởi hiện nay rất nhiều doanh nghiệp về vốn đầu tư nhưng không đủ vốn. Giả sử bây giờ có một tổ chức đứng ra làm cầu nối giữa các doanh nghiệp này với nhau thì có một lượng vốn được sử dụng vào đầu tư phát triển không phải là nhỏ. Chương III Một vài biện pháp nhằm thúc đẩy hoạt động huy động vốn khu vực kinh tế tư nhân cho đầu tư phát triển I. Định hướng thu hút vốn của khu vực kinh tế t ư nhân . Hiện nay nhu cầu đặt ra đối với nguồn vốn từ khu vực tư nhân khá lớn trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Xuất phát từ thực tế hiện nay khả năng tiết kiệm của nguồn vốn này trong giai đoạn này nói chung là cao, song vấn đề quan tâm ở đây là huy động được nguồn vốn này đưa vào đầu tư phát triển Đảng và Nhà nước ta đưa ra một định hướng sau: * Đầu tư trực tiếp: Khuyến khích các nhà đầu tư tư nhân đưa vốn vào sản xuất kinh doanh. Bằng việc Chính phủ sẽ dùng các chính sách vĩ mô để tạo ra một môi trường đầu tư thông thoáng khuyến khích tư nhân đầu tư thông qua việc mở rộng các loại hình doanh nghiệp, hình thức kinh doanh đa dạng, tạo ra một sân chơi bình đẳng giữa doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp tư nhân. * Đầu tư qua các kênh huy động của hệ thống tài chính – ngân hàng. Để tạo điều kiện cho tư nhân bỏ vốn ra đầu tư theo hướng này nhà ưnớc sẽ điều chỉnh: Thứ nhất là cơ chế lãi suất sẽ trở thành một công cụ điều tiết cung cầu về vốn trên thị trường. Khắc phục các bất hợp lý trong chính sách trần lãi suất cho vay đồng thời mở rộng và hoàn thiện thị trường thanh toán liên ngân hàng. Thứ hai: Đa dạng hoá các kênh huy động vốn bằng việc mở rộng các hình thức tiết kiệm, tăng cường các hình thức phát hành kỳ phiếu trái phiếu với những kỳ hạn và nhiều mệnh giá khác nhau. Thứ ba: Xúc tiến cho ra đời một thị trường chứng khoán. II. Vị thế của kinh tế tư nhân Phát triển kinh tế nhiều thành phần nói chung và phát triển kinh tế tư nhân nói riêng là một trong những nội dung quan trọng của đường lối đổi mới kinh tế của Đảng ta. Trước đổi mới, kinh tế tư nhân chủ yếu giới hạn trong khu vực hộ kinh doanh cá thể, hoạt động chủ yếu ở thị trường tự do, tức là ở khu vực không chính thức. Cho đến năm 1990, ngoài hộ nông nghiệp cá thể, số hộ công thương nghiệp kinh doanh cá thể mới có khoảng 840 nghìn; đến năm 1996 đã tăng lên 2,2 triệu hộ và đến cuối năm 2004 đã có 3 triệu hộ. Đó là chưa kể có khoảng 130 nghìn trang trại và trên 10 triệu hộ nông dân sản xuất hàng hoá theo mô hình kinh tế hộ tự chủ. Doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân đã qua 3 giai đoạn phát triển. Trước năm 1991 hầu như không có, nếu có thì chủ yếu ở khu vực hộ kinh doanh, hoạt động ở thị trường ngầm, không được chấp nhận chính thức. Từ 1991, sau khi có Luật công ty (năm 1990), doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân mới chính thức ra đời và tăng lên nhanh chóng. Song, doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân thực sự tăng lên nhanh chóng từ sau khi Luật doanh nghiệp ra đời. Sau 5 năm thi hành Luật Doanh nghiệp, số doanh nghiệp đăng ký mới đạt gần 110 nghìn, cao gấp hơn 2,4 lần so với thời kỳ 1991-1999 (bình quân 1 năm từ 2000-2004 có 22.000 doanh nghiệp, còn từ 1991-1999 là gần 9.000 doanh nghiệp). Tuy số doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân đăng ký mới khá nhiều, nhưng số doanh nghiệp thực tế đang hoạt động sản xuất kinh doanh còn ít. Cụ thể: số doanh nghiệp nói trên là số doanh nghiệp đang hoạt động và là đơn vị kinh tế hạch toán kinh tế độc lập, không bao gồm các doanh nghiệp đã được cấp phép, cấp mã số thuế nhưng chưa đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp đã giải thể, sáp nhập, chuyển đổi loại hình, các doanh nghiệp đã được cấp đăng ký kinh doanh nhưng không có tại địa phương, các đơn vị không phải là doanh nghiệp hạch toán kinh tế độc lập, như các chi nhánh, đơn vị phụ thuộc, các đơn vị sự nghiệp. Khu vực kinh tế tư nhân năm 2004 đã chiếm 38,5% GDP, cao gấp 5,4 lần tỷ trọng 7,11% của khu vực kinh tế cá thể, cao gấp hơn 2,5 lần tỷ trọng, 15,17% của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, và đạt xấp xỉ với tỷ trọng 39,22% của khu vực kinh tế Nhà nước. Tỷ trọng trong GDP của các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân nhìn chung đã tăng lên qua các năm. Đáng lưu ý, tốc độ tăng trưởng GDP do các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân luôn luôn cao hơn tốc độ tăng chung cũng như của các khu vực khác. Khu vực kinh tế tư nhân chiếm tỷ trọng cao trong tổng số lao động đang làm việc (88,2%), cao hơn rất nhiều so với tỷ trọng 10,3% của khu vực Nhà nước và tỷ trọng 1,5% của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Trong tổng số lao động làm việc ở khu vực doanh nghiệp (5.175 nghìn lao động), thì doanh nghiệp của khu vực kinh tế tư nhân có 1.889 người, chiếm 36,5% tổng số, cao gấp nhiều lần tỷ trọng 3,1% của kinh tế tập thể, cao hơn tỷ trọng 16,6% của khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và chỉ thấp hơn tỷ trọng 43,8% của khu vực doanh nghiệp Nhà nước. Bình quân 1 doanh nghiệp của khu vực kinh tế tư nhân có 31,3 lao động. Vốn đầu tư của khu vực kinh tế tư nhân năm 2004 ước đạt 69,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 26,9% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, cao hơn nhiều so với tỷ trọng 22,6% của năm 1997 và tỷ trọng 23,8% của năm 2000, cũng cao hơn tỷ trọng 17,1% của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trong tổng số vốn sản xuất kinh doanh bình quân hàng năm của khu vực doanh nghiệp, số vốn của doanh nghiệp của khu vực kinh tế tư nhân đã đạt 278,7 nghìn tỷ đồng, chiếm 17,8% tổng số. Bình quân 1 doanh nghiệp có 4,62 tỷ đồng ®ồng. Trong tổng giá trị tài sản cố định và đầu tư tài chính dài hạn của các doanh nghiệp, thì doanh nghiệp của khu vực kinh tế tư nhân đạt 98,3 nghìn tỷ đồng, chiếm 15,2% tổng số. Bình quân 1 doanh nghiệp đạt 1,63 tỷ đồng; bình quân 1 lao động đạt 52 triệu đồng. Tổng doanh thu thuần của doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân năm 2003 đạt 469,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 32,7% tổng doanh thu của tất cả các doanh nghiệp; bình quân 1 lao động đạt 248,6 triệu đồng; bình quân 1 đồng vốn đạt 1,68 đ doanh thu thuần. Trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp tính theo giá thực tế, doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân chiếm khoảng 28%, cao hơn tỷ trọng 24,5% trong năm 2000. Trong tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng, doanh nghiệp của khu vực kinh tế tư nhân đã chiếm 18,3% cao hơn tỷ trọng 15,4% của khu vực kinh tế Nhà nước, cao hơn nhiều tỷ trọng 2,3% của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài và tỷ trọng 1% khu vực kinh tế tập thể. Nếu kể cả khu vực cá thể thì tỷ trọng lên đến 81,3%, cao hơn tỷ trọng 79,8% trong năm 2000. Tuy chiếm vị trí ngày một quan trọng và đang trong xu thế tăng lên, nhưng nhìn chung quy mô còn nhỏ, hiệu quả và sức cạnh tranh còn thấp. Cần phải tạo điều kiện cho doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân ra đời nhiều hơn nữa, đồng thời tạo môi trường sản xuất kinh doanh bình đẳng và lành mạnh cho các doanh nghiệp này hoạt động cả về đất đai, vay vốn... III. Một số biện pháp. Với sự phát triển mạnh mẽ trong thời gian qua, khu vực kinh tế tư nhân đã khiến chúng ta phải nhìn nhận lại vai trò và vị thế của nó trong nền kinh tế quốc dân. Không thể phủ nhận rằng, hơn 20 năm qua, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được những thành tựu lớn lao dẫn đến những thay đổi căn bản trong đời sống kinh tế và xã hội, mà trong đó có sự đóng góp không nhỏ của khu vực kinh tế tư nhân. Tuy nhiên, bên cạnh những đóng góp trên, khu vực kinh tế tư nhân vẫn đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Quy mô nhỏ và khả năng về vốn là yếu kém là nguyên nhân khiến sự hoạt động của các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế này không lâu dài và ổn định. Để khu vực kinh tế tư nhân thật sự phát huy được hết tiềm năng và trở thành động lực mạnh mẽ cho sự phát triển của nền kinh tế trước mắt còn rất nhiều việc phải làm. Sau đây là một số kiến nghị về giải pháp chính sách phát triển khu vực kinh tế tư nhân trong thời gian tới. Phát triển một môi trường kinh doanh thuận lợi Việc ban hành và thực hiện Luật Doanh nghiệp đã đơn giản hóa thủ tục đăng ký kinh doanh, giảm một phần khá lớn chi phí gia nhập thị trường, bao gồm chi phí thành lập doanh nghiệp, đăng ký kinh doanh và xin giấy phép kinh doanh. Tuy vậy, so với nhiều nước khác, thủ tục và chi phí gia nhập thị trường tại Việt Nam vẫn còn cao.Do vậy, cần triển khai các biện pháp nhằm giảm gánh nặng cho doanh nghiệp trong việc tuân thủ các quy định liên quan đến gia nhập thị trường. Nhiều nghiên cứu gần đây đã chi rõ kinh tế tư nhân Việt Nam tuy lớn về số lượng nhưng về bản chất là quy mô nhỏ và đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức như phân bổ không hợp lý, năng lực cạnh tranh thấp, hạn chế trong việc tiếp cận các nguồn lực như tài chính, đất đai, lao động, công nghệ. Gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn tài chính chính thức như vay vốn ngân hàng hoặc của các tổ chức tín dụng khác, các doanh nghiệp tư nhân thường phải huy động vốn từ các kênh phi chính thức, cụ thể là trong gia đình, bạn bè hoặc dựa vào vốn của nhau, với lãi suất cao hơn từ 3 đến 6 lần so với lãi suất chính thức. Tình trạng thiếu vốn sản xuất, kinh doanh là một trong số nguyên nhân chủ yếu hạn chế doanh nghiệp tư nhân trong việc đầu tư cải tiến công nghệ, tiếp cận các nguồn thông tin (bao gồm cả thông tin liên quan đến chính sách của Nhà nước dành cho khu vực này, thông tin về công nghệ, về thị trường..) và thực hiện cải cách doanh nghiệp. Vấn đề hiện nay là phải tạo được hành lang pháp lý thuận lợi để các doanh nghịêp huy động nguồn vốn còn khá dồi dào của dân cư; chuyển biến nhận thức của người dân từ việc chỉ gửi tiền tiết kiệm, hoặc tập trung quá mức vào tiêu dùng trước mắt, sang tìm kiếm cơ hội sử dụng tiền nhàn rỗi vào đầu tư, trong đó có việc góp vốn thành lập doanh nghịêp mới, mua cổ phần triên thị trường chứng khoán… Để làm được điều đó, cần tạo ra được môi trường kinh doanh và đầu tư thuận lợi nhất, khai thông nhiều kênh để khơi dòng chảy nguồn tiết kiệm từ dân cư vào đầu tư phát triển, tạo nhiều phương thức hấp dẫn với những lợi ích có thể đo đếm được để người dân nhận biết được đồng tiền của họ sẽ sinh lợi hơn khi tham gia các họat động có liên quan đến đầu tư phát triển. Hoàn chỉnh khuôn khổ pháp lý về phát triển doanh nghiệp Tuy hệ thống pháp luật hiện hành về phát triển doanh nghiệp bước đầu được đánh giá là phù hợp song trong qúa trình thực hiện vẫn tồn tại một số vấn đề cần được tiếp tục hoàn thiện. Hiện nay, vẫn tồn tại hệ thống các văn bản khác nhau điều chỉnh các thành phần kinh tế khác nhau như Luật Doanh nghiệp nhà nước điều chỉnh các doanh nghiệp nhà nước, Luật Đầu tư nước ngoài điều chỉnh các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, Luật Doanh nghiệp điều chỉnh các doanh nghiệp tư nhân, Luật Hợp tác xã điều chỉnh khu vực kinh tế tập thể và Nghị định về hộ kinh doanh cá thể… Điều này đã tạo ra những sân chơi khác nhau, không bình đẳng cho các đối tượng tham gia kinh doanh và cũng gây khó khăn cho công tác quản lý, phát triển doanh nghiệp. Thêm vào đó, hiệu lực của Luật Doanh nghiệp đang bị hạn chế đáng kể bởi sự không đồng bộ, thiếu thống nhất và các quy định không còn phù hợp, nhất là các văn bản liên quan trực tiếp đến hoạt động của doanh nghiệp như pháp luật về quyền sử dụng đất, pháp luật về huy động vốn, pháp luật về lao động, pháp luật về thuế, đặc biệt là cách thức tính thuế và thu thuế... Để khắc phục tình trạng này, cần tiến tới ban hành một hệ thống pháp luật chung cho các thành phần kinh tế, đồng thời đảm bảo tính đồng bộ của hệ thống pháp luật. Việc ban hành Luật Đầu tư chung và Luật Doanh nghiệp thống nhất hy vọng sẽ tạo dựng được một sân chơi chung cho các loại hình doanh nghiệp: doanh nghiệp dân doanh trong nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp nhà nước. Đẩy mạnh chức năng hỗ trợ doanh nghiệp của Nhà nước Tuy có tiến bộ so với trước đây, nhưng công tác quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp vẫn còn bộc lộ lúng túng trên nhiều mặt. Cơ quan nhà nước, một mặt, chưa làm đúng và đủ chức năng quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp; mặt khác, lại can thiệp hành chính trái pháp luật vào công việc kinh doanh và quản trị nội bộ của doanh nghiệp khiến cho hiệu lực quản lý nhà nước chưa cao. Trong thời gian tới, các cơ quan nhà nước sẽ vừa phải xóa bỏ hoàn toàn sự phân biệt đối xử đối với khu vực kinh tế tư nhân vừa cần xây dựng và triển khai hiệu quả các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp sau đây: Một là, tăng cường hoạt động trợ giúp đào tạo nguồn nhân lực cho doanh nghiệp tư nhân, kể cả đối tượng là chủ và người lao động trong doanh nghiệp. Khai thác năng lực của các trường nghề, các cơ sở đào tạo của các bộ, ngành để đào tạo cơ bản các cán bộ quản lý và cán bộ kỹ thuật cho các doanh nghiệp dân doanh. Hai là, đẩy mạnh khả năng tiếp cận các nguồn tài chính chính thức cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa: phát triển thị trường cổ phiếu, trái phiếu, tín dụng; tiếp tục đổi mới các cơ chế đầu tư, tín dụng; ban hành đồng bộ cơ chế về các hình thức cấp tín dụng của hệ thống tài chính - tín dụng. Ba là, thường xuyên tổ chức các hoạt động thông tin thị trường, xúc tiến thương mại, xây dựng thương hiệu, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận được các thông tin về công nghệ, khoa học – kỹ thuật, thị trường, thông tin quản lý..., giới thiệu được sản phẩm và năng lực của mình. Bốn là, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thành lập và hoạt động của các hội, hiệp hội doanh nghiệp; tạo mối liên kết hữu cơ, cộng đồng trách nhiệm và quyền lợi giữa các doanh nghiệp nhỏ và vừa với nhau và với các khu vực khác. Nghiên cứu và bước đầu trợ giúp thí điểm hình thành một số cụm liên kết công nghiệp của các doanh nghiệp nhỏ và vừa trên cơ sở tính kinh tế của quy mô, một số “vườn ươm doanh nghiệp”. Tăng cường liên kết doanh nghiệp và các tổ chức nghiên cứu Trong những năm qua, liên kết giữa trường đại học, cao đẳng, viện nghiên cứu, các cán bộ làm công tác nghiên cứu khoa học, giảng dạy với quá trình phát triển doanh nghiệp còn lỏng lẻo, do đó nhiều kết quả nghiên cứu khoa học không được áp dụng vào thực tế, gây lãng phí, trong khi doanh nghiệp vẫn phải sản xuất với công nghệ lạc hậu. Trong thời gian tới, Nhà nước cần có chính sách tạo điều kiện khuyến khích, hỗ trợ các trường đại học, các viện nghiên cứu, nhà nghiên cứu khoa học, cán bộ giảng dạy lập doanh nghiệp hoặc liên kết với doanh nghiệp theo nhiều hình thức để họ vừa nghiên cứu khoa học, vừa có điều kiện áp dụng nhanh chóng các kết quả nghiên cứu vào thực tiễn kinh doanh. Ngoài việc tăng cường liên kết giữa doanh nghiệp và các tổ chức nghiên cứu việc, cần dựng mối liên kết kinh tế thực sự giữa các doanh nghiệp, giữa các tổng công ty, công ty lớn của Nhà nước, các doanh nghiệp lớn thuộc các thành phần kinh tế khác trong các ngành với các doanh nghiệp nhỏ tư nhân trong ngành để phát huy lợi thế của cả hai bên. Giáo dục, tuyên truyền về tinh thần doanh nghiệp Hiện nay, công tác phổ biến, tuyên truyền pháp luật về kinh doanh chưa sâu rộng, mới chỉ chủ yếu tập trung ở khu vực thành thị, khu vực tập trung nhiều doanh nghiệp lớn mà chưa chú trọng đến các hộ kinh doanh cá thể, các hộ trang trại ở nông thôn. Vì vậy, cần có sự góp sức của các phương tiện thông tin đại chúng trong việc tuyên truyền, giáo dục giá trị, vai trò xã hội của doanh nhân trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước để thu hút được ngày càng nhiều người, nhất là giới trẻ, định hướng lập nghiệp bằng con đường kinh doanh. Việc tuyên truyền phổ biến luật pháp về phát triển doanh nghiệp còn cần được thực hiện ngay trong đội ngũ cán bộ, công chức tại các cơ quan quản lý các cấp để quán triệt đầy đủ các nội dung về quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp và của cơ quan nhà nước liên quan. Bên cạnh những giải pháp đã nêu ở trên em cũng xin đưa thêm một số giải pháp nữa xúc tiến mở rộng thị trường trong và ngoài nước nhà nước cần hỗ trợ để sản phẩm do khu vực tư nhân sản xuất tham gia vào thị trường khu vực và thế giới. Có thể thấy rằng thị trường tiêu thụ sản phẩm là vấn đề hết sức quan trọng đối với mọi thành phần kinh tế chứ không riêng gì thành phần kinh tế tư nhân. Có tiêu thụ được sản phẩm thì mới thu hồi được vốn thì mới có thể thực hiện tái đầu tư mở rộng sản xuất. Nhà nước cần hỗ trợ các doanh nghiệp, các đơn vị tổ chức cá nhân thuộc thành phần kinh tế tư nhân có thể nắm bắt được những thông tin cần thiết có liên quan. Giúp đỡ trong việc cải thiện, đổi mới trang thiết bị công nghệ nhằm tăng khả năng cạnh tranh của khu vực này. đầu tư đào tạo đội ngũ lao động trong khu vực kinh tế tư nhân đặc biệt là những lao động làm việc trong các hộ kinh doanh cá thể. Từ đó giúp cho những người quản lý có thể quản lý tốt hơn quá trình sản xuất kinh doanh của dơn vị góp phần tạo ra sự tin tưởng kho những người đã và đang có ý định bỏ vốn ra để đầu tư . tăng cường hỗ trợ các đơn vị kinh tế tư nhân phát triển ổn định và hiệu quả như: hỗ trợ về tài chính trong việc thành lập doanh nghiệp, hỗ trợ tư vấn thiết kế, thị trường và hỗ trợ các kênh phân phối sản phẩm. tạo điều kiện thuận lợi để khu vực này tiếp cận với nguồn thực dụng ngân hàng giảm dần tiến tới xoá bỏ hoàn toàn sự phân biệt trong và ngoài quốc doanh đối với đối tượng vay vốn đặc biệt là đối với những dự án vay vốn mở rộng sản xuất kinh doanh và đầu tư đổi mới công nghệ. phát triển thị trường bất động sản để có thể giải phóng những tiềm lực tài chính đang bị kìm hãm, tạo ra những nguồn lực đầu tư mới linh hoạt hơn. Mặt khác thị trường bất động sản phát triển cũng tác động tích cực tới tín dụng ngân hàng, giúp giải quyết các vấn đề về thế chấp, thanh toán nợ quá hạn, làm những căn bản cơ cấu vốn khu vực tư nhân và làm tăng tính thanh khoản của chúng. triển khai và đẩy mạnh việc phát hành trái phiếu của doanh nghiệp. Việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp tạo ra sức ép trả nợ lên người đi vay nhưng lại không gây ảnh hưởng tới quyền chủ động sáng tạo của chủ doanh nghiệp không tạo ra nguy cơ đe dọa phát triển sở hữu đối với doanh nghiệp cũng như đảm bảo quá trình ra quyết định của chủ doanh nghiệp vẫn được diễn ra kịp thời, nhanh chóng. Bên cạnh đó, việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp tránh được sự chia sẽ quyền lực đối với đồng vốn của mình bỏ ra . Tuy nhiên để tạo ra được kênh huy động vốn khu vực tư nhân từ việc phát hành trái phiếu phải giải quyết nhiều vấn đề liên quan đến phát hành và trình thanh khoản của trái phiếu được phát hành như: Đẩy mạnh việc mua bán trái phiếu trên thị trường chứng khoán chính thức (Sở giao dịch chứng khoán), thị trường phi chính thức (OTC), công khai hoá tài chính của doanh nghiệp, bảo lãnh phát hành hệ thống phát luật liên quan đến việc giải quyết các tranh chấp về mua bán… Nhà nước cần phải tuyên truyền, khuyến khích tạo ra sự tin tưởng của nhân dân, thông qua các chính sách đẻ có thể làm những tâm lý của nhân dân từ chỗ thích giữ tiền sang bỏ tiền ra để đầu tư làm cho người dân yên tâm bỏ vốn ra đầu tư mà không sợ gặp rủi ro, khi có sự biến động của cơ chế chính sách. Hiện nay, vốn trong nhân dân có bao nhiêu khối lượng bao nhiêu chắc chắn rằng không có ai có thể xác định được. Vốn trong dân có thể xem như đó là một nguồn tài nguyên trực tiếp có thể khai thác sử dụng được ngay ít phải qua chế biến. Thực tế trong những năm gần đây đời sống nhân dân được nâng lên rõ rệt, nhiều nhà cửa được xây dựng, mua sắm tư liệu tiêu dùng và đầu tư kinh doanh chứng tỏ trong dân có một khối lượng dự trữ rất lớn và nó đang lớn dần lên. Vậy làm thế nào để có thể huy động được nguồn vón này? Câu trả lời đó là phải củng cố lòng tin của dân đối với chủ trương và chính sách của Chính phủ làm cho đồng của cải đang nằm im không sinh lời dưới dạng vàng bạc, đá qúy…phải được vận động và đi vào cuộc sống kinh doanh. Khi dân đã tin thì dân sẽ bỏ vốn ra để kinh doanh còn bỏ bao nhiêu thì còn tuỳ thuộc vào mức độ tin tưởng. Đây là một giải pháp mang tính chính trị xã hội và tâm lý, nhưng lại đưa lại một kết quả lớn: Kết luận Khu vực KTTN ngày càng thể hiện vị trí không thể thiếu được trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Trên lý thuyết, Đảng và Nhà nước không hề phủ nhận vai trò quan trọng của KTTN song trên thực tế đôi khi các chủ trương đường lối đưa ra lại không dành một sự ưu đãi đáng có cho khu vực KTTN như trong bài viết đã đề cập. Thiết nghĩ chúng ta cần phải xem xét lại ngay cách nhìn đối với KTTN để không “bỏ đi” một lực lượng nguồn vốn dồi dào và quan trọng đóng góp đáng kể cho quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá nước nhà. KTTN phải có một vị trí xứng đáng trong nền kinh tế. Chúng ta phải tôn trọng sự tồn tại và phát triển của KTTN. Nhà nước cần phải có những chính sách cụ thể, thiết thực để huy động tối đa nguồn lực này cho đầu tư phát triển để từ đó giúp nền kinh tế phát triển Danh mục tài liệu tham khảo 1. Giáo trình Kinh tế đầu tư Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân T 2. Giáo trình Lập và Quản lý Dự án đầu tư Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân.T 6. Tạp chí Tài chính 7. Thời báo Kinh tế Việt Nam 8. Niên giám Thống kê 9. Kinh tế tư nhân Việt Nam trong tiến trình hội nhập – PGS.TS Trịnh Thị Hoa Mai 10. Trang thông tin điện tử của Tổng cục thống kê 11. Trang thông tin điện tử của Bộ Kế hoạch và đầu tư( 12. Phần giải pháp _ Lê Quang Mạnh - Nguyễn Minh Thuỷ - Cục Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, Bộ Kế hoạch và Đầu tư Bài đăng trên Tạp chí Thông tin và Dự báo Kinh tế - xã hội, số 8/2006 Mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docC0253.doc
Tài liệu liên quan