Bản luận văn này sẽ không được hoàn thành nếu thiếu sự giúp đỡ của ban lãnh đạo NHĐT&PTHN, của cô, chú, anh chị phòng nguồn vốn kinh doanh và các phòng nghiệp vụ khác của NHĐT&PTHN. Trong quá trình thực tập, tác giả đã được cán bộ của NHĐT&PTHN nhiệt tình hướng dẫn, cung cấp số liệu, đóng góp ý kiến để bản luận văn này được hoàn thành
68 trang |
Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1201 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Huy động vốn trung và dài hạn qua phát hành trái phiếu tại ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
- Trong đợt phát hành trái phiếu này, NHĐT&PTHN huy động 1000tỷ đồng trong đó, NHĐT&PTHN được giao chỉ tiêu là 200 tỷ đồng (VNĐ & USD) bằng 1/5 so với chỉ tiêu toàn bộ hệ thống.
Bảng 5: kết quả huy động vốn qua phát hành trái phiếu năm 2000
Kỳ hạn
VNĐ (triệu đồng)
USD (1000. USD)
1 năm
2 năm
3 năm
5năm
44.340
20.500
2.900
9.240
1220
732
130
360
(Nguồn số liệu:Phòng nguồn vốn kinh doanh NHĐTPTHN - NHĐT&PTVN)
Từ bảng trên cho chúng ta tình hình huy động vốn qua phát hành trái phiếu năm 2000 như sau:
Tính đến hết ngày 20/6/2000 số dư của NHĐT&PTHN huy động được là: 76.940 triệu VNĐ và 2.442 ngàn USD, trong đó loại kỳ hạn 1năm đạt doanh số cao nhất cụ thể :
Đối với trái phiếu VNĐ đạt 44.300 triệu đồng chiếm 58% trong tổng số trái phiếu VNĐ huy động được.
Đối với trái phiếu USD đạt 1220 ngàn, chiếm 50% trong tổng số trái phiếu USD huy động được.
Điều đó chứng tỏ rằng, trái phiếu loại 1 năm rất được khách hàng quan tâm và lựa chọn. Bởi vì trái phiếu loại này cũng có ưu điểm của nó:
Thứ nhất: Thời hạn của nó tương đối ngắn do đó khi khách hàng cần tiền đến một thời điểm nhất định thì có thể rút ra theo dự định.
Thứ hai: Với thời hạn ngắn như vậy thì nó có thể được dùng để làm quà tặng sinh nhật, lễ tết...
+ Ngoài ra, trái phiếu có kỳ hạn 2 năm đạt 20.500 triệu VNĐ và 732 ngàn USD.
+ Trái phiếu có kỳ hạn 3 năm đạt 2.900 triệu VNĐ và 130 ngàn USD.
+ Trái phiéu có kỳ hạn 5 năm đạt 9.240 triệu VNĐ và 360 ngàn USD.
Qua đó cũng cho ta thấy rằng, đối với trái phiếu VNĐ thì kỳ hạn loại 1 năm và 2 năm vẫn được ưa dùng, vì xét trên thực tế mức lãi suất của trái phiếu cao hơn rất nhiều so với các hình thức huy động khác.
Có thể nói rằng, cho đến nay NHĐT&PTHN vẫn là đơn vị dẫn đầu trong công tác huy động vốn. Năm 2000, do ảnh hưởng khủng hoảng tài chính khu vực, do đó tỷ giá ngoại tệ biến động đã gây tác động đến tâm lí người mua trái phiếu, đặc biệt là trái phiếu USD.
Có được kết quả như vậy là do sự chuẩn bị chu đáo cho đợt phát hành. NHĐT&PTHN đã điều động tổ chức cán bộ hỗ trợ cho các quầy giao dịch, tăng cường công tác kiểm ngân, kho quỹ, tuyên truyền hướng dẫn rộng rãi trên loa phát thanh, các khẩu hiệu, băng rôn, in ấn mẫu trái phiếu chống làm giả, đảm bảo an ninh cho khu vực bán trái phiếu...
2.2. Kết quả huy động vốn qua phát hành trái phiếu năm 2001
Nhu cầu về vốn trung và dài hạn của NHĐT&PTHN nói riêng và toàn bộ hệ thông NHĐT&PT nói chung còn rất lớn. Vì vậy NHĐT&PTVN đã xúc tiến cho đợt phát hành 2000 tỷ phục vụ kế hoạch năm 2001.
Căn cứ Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số: 13/ 2001/ QĐ- TTD ngày 04/02/ 2001 về công tác tín dụng đầu tư năm2001.
Căn cứ Quyết định số 212- QĐ/ NH1 ngày 22/ 9/ 1996 của Thống đốc ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành trái phiếu NHTM, NHĐT&PT.
Căn cứ Quyết định số 109/ 2001/ NHNN1 ngày 31/ 03/ 2001 của Thống đốc ngân hàng Nhà nước cho phép NHĐT&PTVN phát hành trái phiếu năm 2001.
+ Thời gian phát hành: Từ 17 tháng 4 năm 2001 đến ngày 17 tháng 6 năm 2001 tức là phát hành trong 60 ngày kể từ ngày bans và kết thúc khi đã bán đủ tổng mệnh giá được phép phát hành không quá ngày 17/06/2001. Với tổng mệnh giá toàn đợt phát hành là 2000 tỷ, trong đó 75- 80% VNĐ và 20- 25% USD.
- Mệnh giá VNĐ: 1triệu, 2 triệu, 5 triệu, 20 triệu, 50 triệu và 100 triệu.
- Mệnh giá USD: 100 USD, 500 USD, 1.000 USD và 5.000 USD.
Ngoài mục đích phát hành như đã nói ở trên, đợt phát hành trái phiếu này còn góp phần thực hiện các giải pháp của chính tiền tệ quốc gia, thực hiện tiết kiệm trong nước và đặc biệt là nâng cao uy tín của NHĐT&PTVN.
+ Căn cứ để xác định lãi suất:
Căn cứ vào mặt bằng lãi suất huy động tiết kiệm tại 4 NHTM quốc doanh trong toàn quốc, nhất là tại Hà Nội , Thành Phố Hồ Chí Minh tại thời điểm ngày 17/03/2001.
Căn cứ vào công văn 01/ 2001 (CT- NHNN1) ngày 20/ 01/ 2001 của NHNN về việc điều chỉnh giảm lãi cho vay bằng VNĐ của các NHTM quốc doanh.
Trên cơ sở đó kỳ hạn và lãi suất được qui định cụ thể như sau:
Bảng 6: Kỳ hạn và lãi suất
Kỳ hạn
VNĐ
USD
2 năm
11,5% năm trả lãi trước
(Tương đương 13% trả lãi sau)
5.3% năm trả lãi trước
(Tương đương 5,6% trả lãi sau)
3 năm
11,7% năm trả lãi trước
(Tương đương 13,25% trả lãi sau)
5,4%năm trả lãi trước
(Tương đương 5,7% trả lãi sau)
5 năm
12% năm trả lãi trước
(Tương đương 13,64% trả lãi sau)
5,65% năm trả lãi trước
(Tương đương 6% trả lãi sau)
+ Phương thức trả lãi:
Lãi suất được trả trước từng năm và trả song song từng lần/ năm.
Lãi suất từ năm thứ hai trở đi được xác định cụ thể như sau:
- Đối với VNĐ: bằng lãi suất (trả trước) tiết kiệm 12 tháng của NHĐT&PTVN
+0,6%/ năm (đối với trái phiếu kỳ hạn 2 năm)
+0,8%/ năm (đối với trái phiếu có kỳ hạn 3 năm) và
+ thêm 1%/ năm (đối với trái phiếu có kỳ hạn 5 năm)
- Đối với USD: bằng lãi suất (trả trước) tiết kiệm 12 tháng của NHĐT&PTVN
+0,1%/ năm (đối với trái phiếu có kỳ hạn 2 năm)
+0,2%/ năm (đối với trái phiếu có kỳ hạn 3 năm)
+0,4%/ năm (đối với trái phiếu có kỳ hạn 5 năm)
Tiền lãi năm sau được trả vào thời điểm đúng 1 năm từ ngày mua. Nếu khách hành cần tiền mà rút trước thời hạn thì ngân hàng sẽ trả mức lãi như sau:
Nếu rút dưới 12 tháng thì được hưởng lãi suất huy động tiết kiệm không thời hạn.
Nếu rút vào thời điểm 12 tháng, 24 tháng, 36 tháng, 48 tháng thì được hưởng lãi suất tiết kiệm 12 tháng.
Sau đây là kết quả huy động qua phát hành trái phiếu năm 2001
Bảng 7: Kết quả huy động vốn qua phát trái phiếu năm 2001
Kỳ hạn
VNĐ (triệu đồng)
USD (1000 USD)
2 năm
89.400
2.700
3 năm
2.700
425
5 năm
3.000
395
(Nguồn số liệu: phòng nguồn vốn kinh doanh NHĐT&PTHN)
Đến hết ngày 17/ 06/ 2001 toàn NHĐT&PTHN đạt số dư huy động trái phiếu là 95.100 triệu VNĐ và 3.520 ngàn USD. Như vậy so với năm 2000, cùng với khoảng thời gian đó thì huy động trái phiếu đạt két quả cao hơn.
Năm 2001 chỉ có 3 loại kỳ hạn trái phiếu, do đó khách hàng đã lựa chọn loại kỳ hạn 2 năm khá nhiều: loại kỳ hạn 2 năm đạt: 89.400 triệu VNĐ (số dư huy động) và 2.700 ngàn USD, trong khi loại kỳ hạn 3 năm và 5 năm huy động không đáng kể, so với năm 2000 loại kỳ hạn 3 năm có tăng nhưng so với mức huy động chung của NHĐT&PTHN là không lớn. Năm 2001 loại kỳ hạn 3 năm đạt 2. 700 triệu VNĐ và 425 ngàn USD.
Đối với trái phiếu laọi kỳ hạn 5 năm chỉ đạt 3000 triệu VNĐ và 395 ngàn USD, so với năm 2000 thì giảm hẳn (2000: 9.240 triệu VNĐ và 360 ngàn USD).
Mặc dù như vậy, nhưng nhìn chung toàn bộ mặt bằng năm 2001 NHĐT&PTHN vẫn đạt vượt mức chỉ tiêu mà NHĐT&PTVN giao cho.
NHĐT&PTHN với tư cách là đơn vị đầu tàu của toàn ngành trong công tác huy động vốn, năm 2001 mặc dù vẫn gặp không ít khó khăn nhưng NHĐT&PTHN đã hoàn thành nhiệm vụ kế hoạch. Đạt được kết quả đó là do NHĐT&PTHN đã làm tốt những khâu như: công tác chuẩn bị, khâu điều động tổ chức cán bộ, hỗ trợ quầy giao dịch khá chu đáo, thực hiện công tác tổ chứchọc tập nghiệp vụ, đánh giá cao vai trò của công tác tuyên truyền, quoảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng, đảm bảo tình hình an ninh xung quanh khu vực bán trái phiếu,...
2.3. Kết quả huy động vốn qua phát hành trái phiếu năm 2002
Việc thực hiện các giải pháp của chính sách tiền tệ, góp phần ổn định tiền tệ, kìm chế lạm phát, tiếp tục thực hiện sự nghiệp CNH- HĐH đất nước, thực hiện chu trương nguồn vốn trong nước là chủ yếu, góp phần từng bước phát triển thị trường vốn trong nước, tạo hàng hoá tham gia thị trường chứng khoán hoạt động khi được phép của UBCK Nhà nước.
Hơn nữa, để nhằm huy động vốn, nhất là vốn ngoại tệ nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư để chuẩn bị vốn phục vụ kế hoạch tín dungj đầu tư phát triển theo kế hoạch năm 2001, chuẩn bị cho năm 2002 mà trước hết là các dự án trọng điểm then chốt theo định hướng của Đảng và Nhà nước: như dầu khí, điện lực, giao thông... tạo nền vốn ổn định dài hạn cho các năm sau.
Căn cứ Nghị quyết của Hội đồng Quản trị NHĐT&PTVN về việc phát hành trái phiếu NHĐT&PTVN số 56/HĐQT- NQ ngày 08/ 01/ 2001, NHĐT&PTVN tiếp tục phát hành trái phiếu đợt 1 năm 2002 để huy động vốn trung và dài hạn, đồng không ngừng nâng cao tín nhiệm của NHĐT&PTVN.
- Thời gian phát hành:từ ngày 26/11/2001 đến hết ngày 31/ 01/ 2002. Ngày 26/ 01/ 2002 được thống nhất chọn là ngày phát hành, và ngày đáo hạn thanh toán là ngày 26/ 01/ 2005. Mục tieu phát hành đợt này chủ yếu là tạo hàng hoá cho thị trường chứng khoán và chinh ngày này cũng được chọn là ngày thành lập thị trường chứng khoán. Trái phiếu sẽ được phát hành tại các chi nhánh NHĐT&PT trong cả nước. Đợt phát hành này chỉ có duy nhát một loại mệnh giá cho cả hai hình thức vô danh và ghi danh:
Đối với trái phiếu VNĐ là 10.000.000 đồng
Đối với trái phiếu USD là 1.000 USD
Để thuận lợi cho khách hàng khi lựa chọn để quyết định mua loại trái phiếu nào, NHĐT&PTVN đã phát hành trái phiếu đợt này dưới 3 hình thức sau:
Trái phiếu vô danh
Trái phiếu ghi danh
Trái phiếu ghi sổ
NHĐT&PTVN quyết định phát hành phát 2.000 tỷ đồng vào đợt này. Trong đó VNĐ là 600 tỷ và 100 triệu USD (có thể cơ cấu thay đổi tuỳ theo diễn biến của thị trường và thực tế sẽ được điều chỉnh).
- Lãi suất, phương thức trả lãi và kỳ hạn trả lãi:
+ Lãi suất: áp dụng lãi suất thay đổi (có thể điều chỉnh hàng năm).
Bảng 8: Lãi suất trái phiếu năm 2002
Năm
VNĐ
USD
Năm đầu
Lãi suất trả trước 6,5%/ năm
Tương đương trả sau 6,95%/năm
Lãi suất trả trước 5%/ năm
Tương đương trả sau 5,26%/năm
Năm thứ hai trở đi
Bằng lãi suất trả trước tiết kiệm 12 tháng + 0,5%/năm
Bằng lãi suất trả trước tiết kiệm 12 tháng + 0,3%/năm
Trong trường hợp lãi suất các năm sau được tính như trên mà thấp hơn lãi suất trái phiếu năm đầu thì được giữ bằng như mức lãi suất năm đầu, trong trường hợp lãi suất cao hơn thì khách hàng được hưởng cao hơn.
+ Dự kiến lãi suất năm đầu:
Đối với trái phiếu VNĐ: trả lãi trước năm đầu 6,5%/ năm tương ứng với lãi suất trả sau 6,95%/ năm. Lãi suất tiết kiệm VNĐ 12 tháng hiện tại là 6%/ năm.
Đối với trái phiếu USD: trả lãi trước năm đầu là 5%/ năm tương ứng với lãi suất trả sau 5,26%/ năm. Lãi suất tiết kiệm USD 12 tháng hiện tại là 4,5%/ năm.
Nếu khách hàng mua trái phiếu trong thời gian phát hành từ 26/ 11/ 2001 đến ngày 25/ 01/ 2002 được NHĐT&PTVN tính lãi cụ thể trên số ngày thực tế (từ ngày mua đến hết hạn ngày 25/ 01/ 2002), áp dụng theo mức lãi suất năm đầu được công bố cho cả trái phiếu VNĐ và USD. Số tiền trả lãi trên cùng với số lãi trả trước sẽ được trừ lùi vào mệnh giá khi mua trái phiếu.
Cách tính số tiền mua trái phiếu:
Số tiền Tổng mệnh Lãi tráiphiếu Số tiền lãi từ
thực = giá trái - trả trước - ngày mua đến
nộp phiếu năm đầu 25/01/2002
Trong đó
Số tiền lãi từ ngày Số tiền Lãi suất trả trước Số ngày từ ngày
mua đến ngày = x x mua đến
25/01/2002 phải nộp 360 ngày 25/01/200
Ví dụ: Khách hàng mua 100 triệu đồng trái phiếu VNĐ vào ngày 12/01/2002,lãi suất trả trước năm đầu là 6,5%/năm
Ta sẽ có có như sau:
Số tiền khách hàng
= 100.000.000 -6,5%x 100.000.000 = 93.500.000
nộp mua trái phiếu
Số tiền lãi từ ngày 6,5%
mua đến ngày =93.500.000 x x 14 ngày =236.347 đ
25/01/2002 360 ngày
Số tiền khách hàng thực nộp: 93.500.000đ- 236.347= 93.263.653đ
Trong trường hợp khách hàng bán trái phiếu lại cho NHĐT&PTVN thì ssẽ được mua lại theo nguyên tắc:
+ Đối với trái phiếu mua tròn năm: 1, 2, 3, 4 năm (1 năm 365 ngày) thì Ngân hàng sẽ mua như sau:
Lãi suấtcó kỳ hạn
Số tiền gốc 12 thángđược công Phí
Giá mua= x - (0.5% mệnh giá
thực nộp bố vào ngày 26/01 trái phiếu)
hàng năm
+ Đối với thời gian không đủ 1 năm thì được tính:
Giá tiền gốc thực nộp x lãi suất tiết kiệm không kỳ hạn(tại thời điểm thanh toán)
Bảng 9: Kết quả huy động vốn qua phát hành trái phiếu năm 2002
Loại trái phiếu
Kỳ hạn
VNĐ (triệu đồng)
USD (1.000 USD)
Vô danh
5
26.620
4.000
Ghi danh
5
38.020
3.900
Ghi sổ
5
1.145
1.362
(Nguồn số liệu: Phòng nguồn vốn kinh doanh NHĐT&PTHN )
Qua bảng trên cho ta thấy tình hình huy động vốn qua phát hành trái phiêú của NHĐT&PTHN năm 2002 như sau:
Đây là đợt huy động cuối năm 2001và đầu năm 2002. Mặc dù vẫn còn gặp nhiều khó khăn trong công tác phát hành nhưng với kết quả đạt được đã nói lên sự cố gắng và nỗ lưcj rất lớn của NHĐT&PTHN : đợt huy động này chỉ có duy nhất một loại kỳ hạn là 5 năm, do đó khách hàng sẽ không có sựlựa chọn, mà chỉ được lựa chọn loại trái phiếu như thế nào để mình đầu tư vào mang lại mục đích sinh lời cao nhất và thuận tiện nhất.
đến hết ngày 31/ 01/ 2002, số dư huy động vốn của NHĐT&PTHN .
Đối với trái phiếu là VNĐ: thì loại trái phiếu ghi danh đạt kết quả cao nhất: 38.020 triệu, trong đó loại trái phiếu ghi sổ chỉ đạt 1.145 triệu và loại trái phiếu vô danh cũng đạt xấp xỉ 25.280triệu. Từ kết quả trên cũng cho ta thấy rằng loại trái phiếu ghi sổ được khách hàng lựa chọn nhiều nhất, vì mua trái phiếu ghi sổ thì khách hàng lựa chọn: mở tài khoản và có thể chứng nhận, vì thế sẽ đảm bảo cho số lượng tiền của mình không xẩy ra khả năng mất mát và độ an toàn là tuyệt đối.
Còn trái phiếu vô danh và trái phiếu ghi danh có số dư thấp hơn thì cũng có những lý do riêng nên khách hàng lựa chọn hai loại trái phiếu này không nhiều:
+ Đối với trái phiếu vô danh, khi khách hàng làm mất, về nguyên tắc được xem là mất tiền, khả năng tìm lại là không thể xẩy ra..."mất cả chì lẫn chài".
+ Nếu xảy ra mất mát đối với trái phiếu ghi danh thì khả năng mất tiền là không có nhưng xét về thủ tục để trình báo việc mất trái phiếu là khá phức tạp vì thông thường rất ít khách hàng có thể nhó số sê ri, ngày mua..., cũng như là nơi mất tờ trái phiếu là khá phức tạp vì thông thường rất ít khách hàng có thể nhớ số sê ri, ngày mua, ... cũng như là nơi mất tờ trái phiếu của mình.
Do đó, NHĐT&PTVN đã đưa ra một dịch vụ rất thuận tiện cho khách hàng đó là mở dịch vụ bảo quản cất, giữ hộ trái phiếu trong két miễn phí. Đây là dịch vụ mới và gây được uy tín và thành công rất lớn của NHĐT&PTVN.
- Đối với trái phiếu là USD thì loại trái phiếu ghi danh có số dư cao nhất: 7.832 ngàn USD, trong đó trái phiếu vô danh đạt 6.551 ngàn nhưng trái phiếu ghi sổ chỉ đạt 1.362 ngàn. Điều này cũng dễ hiểu bởi vì khách hàng lo sợ tỷ giá giữa VNĐ so với đồng USD không ổn định, xác suất trượt giá có thể xẩy ra.
Để có được kết quả như trên NHĐT&PTHN đã mở rộng địa bàn hoạt động tổ chức huy động trái phiếu, tách riêng các bàn phát hành trái phiếu vô danh, ghi danh, ghi sổ nhằm đảm bảo an toàn trong công tác phát hành; mặt khác NHĐT&PTHN còn tổ chức học tập nghiệp vụ hướng dẫn chế độ, hàng ngày bố trí các cán bộ phòng tín dụng trực tiếp xuống các cơ sở tiếp thị trái phiếu; tập trung nhấn mạnh điểm khác biệt khác biệt của trái phiếu đợt này so với những đợt trước. Tập trung quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng.
3. Đánh giá chung về hiệu quả huy động vốn trung và dài hạn qua phát hành trái phiếu tại NHĐT&PTHN.
3.1. Những thành công qua các đợt phát hành trái phiếu tại NHĐT&PTHN.
Qua những lần đấu thầu trái phiếu và sự thành công trong việc trúng thầu đã nói lên sự lớn mạnh và uy tín của NHĐT&PTVN và NHĐT&PTHN, với tư cách là đơn vị đầu tàu hoạt động rất tích cực và đạt được những kết quả cao trong công tác huy động vốn đặc biệt là huy động vốn qua phát hành trái phiếu.
Từ khâu bắt đầu phát hành trái phiếu cho đến khâu kết thúc quá trình bán trái phiếu, NHĐT&PTHN đã chuẩn bị rất chu đáo và đảm bảo an toàn.
Công tác chuẩn bị, tổ chức.
+ Trên cơ sở dự kiến khối lượng cộng việc và những công việc phát sinh trong quá trình bán trai phiếu NHĐT&PTHN đã xây dựng phương án hoạt động và thanh toán trái phiếu: Để đảm bảo cho khối lượng công việc NHĐT&PTHN luôn hỗ trợ một số cán bộ xuống giúp đỡ trong những đợt bán trái phiếu. Bên cạnh đó, công việc bố trí địa điểm, các trang thiết bị, sắp xếp và tổ chức hoạt động khá chu đáo. Phân công trách nhiệm cụ thể cho các phòng ban, thành lập tổ chỉ đạo giúp ban giám đốc nắm bắt và sử lý nhanh các vướng mắc phát sinh, những ngày đầu phát hành NHĐT&PTHN đã phân công các cán bộ trong ban lãnh đạo trực tiếp theo dõi và chỉ đạo sát sao các công việc cụ thể.
+ Trước khi phát hành, NHĐT&PTHN đã tổ chức học tập nghiệp vụ hướng dẫn chế độ, qui trình nghiệp vụ như chương trình điện toán cho các bộ phận trực tiếp tham gia phát hành trái phiếu, trực tiếp phối hợp với văn phòng tham gia để sắp xếp, trang trí các địa điểm huy động, bố trí đầy đủ các trang thiết bị đáp ứng nhu cầu huy động và phục vụ khách hàng giao dịch, cung câp mọi thông tin cần thiết cho khách hàng.
Vấn đề về công tác tuyên truyền quảng cáo rất được NHĐT&PTHN coi trọng: ngoài viẹc quảng cáo thông qua các phương tiện thông tin đại chúng do văn phòng đảm nhiệm các phòng ban còn thực hiện tuyên truyên thông qua các khẩu hiệu, băng rôn, phát băng cát sét tại các địa điểm huy động, phân phát các tờ rơi để khách hàng tìm hiểu kỹ hơn về các thông tin cần thiết. Những điểm mạnh của trái phiếu NHĐT&PTVN: về mệnh giá, thời điểm phát hành , thời điểm thanh toán, tính lõng, chế độ mua lại trái phiếu,... đê khách hàng có thể cân nhắc khi đầu tư vào trái phiếu NHĐT&PTVN.
Công tác nghiệp vụ:
+ Mặc dù trong điều kiện khách hàng đến giao dịch đông, số lượng giao dịch phát sinh lớn, trong giao dịch còn gặp nhiều tình huống phức tạp, các cán bộ mới chưa nắm vững những nghiệp thanh toán trai phiếu, địa điểm huy động còn chật, thời gian phát hành thường vào các tháng mùa hè không thuận lợi... nhưng với sự nhiệt tình và cố gắng hết mình của các cán bộ công nhân viên NHĐT&PTHN nên đã thu được những thành tựu đáng kể.
+ Từ trang phục cho đến tác phong của mỗi cán bộ giao dịch đã tạo sự tin tưởng đối với khách hàng, xử lý các công việc nhanh gọn, chính xác nên đã góp phần tăng thêm lòng tin của người dân đối với NHĐT&PTHN và NHĐT&PTVN.
Bảng 10: thể hiện kết quả huy động trái phiếu qua các năm của NHĐT&PTHN .
Bảng 10: Kết quả huy động trái phiếu qua các năm của NHĐT&PTHN
Năm
VNĐ (triệu đồng)
USD (1000 USD)
2000
76.940
2.442
2001
91.100
3.520
2002
65.785
7.900
2002
2001
2000
17/06/2001
(Nguồn số liệu: Phòng nguồn vốn kinh doanh- NHĐT&PTHN )
2000
2001
2002
Biểu đồ minh hoạ kết quả huy động trái phiếu qua các năm của SGD I (USD)
Nhìn vào bảng 10: Ta thấy tình hình huy động vốn trung và dài hạn qua phát hành của các năm 2000, 2001 và 2002 tăng giảm không đáng kể đối với trái phiếu là VNĐ, đối với đồng USD thì tình hình huy động tăng đáng kể:
Đối với trái phiếu là VNĐ: năm 2000 huy động được 76.940 triệu, (năm 2001 tăng được 91.100 triệu), nhưng đến đợt huy động năm 2002 vừa qua so với cả hai năm 2000 và 2001 đều giảm, năm 2002 chỉ đạt 65.785 triệu.
Nhưng ngược lại với trái phiếu là VNĐ thì trái phiếu là USD tăng khá nhanh: năm 2000 chỉ đạt 2.442 ngàn, đến năm 2001 đạt 3.520 và năm 2002 đạt 7.900 ngàn.
Qua các biểu đồ cho thấy, mặc dù có sự chênh lệch giữa các năm, nhưng xét trên toàn phương diện huy động trái phiếu có xu hướng tăng lên rõ rệt. Thực tế NHĐT&PTHN đã hoàn thành vượt mức chỉ tiêu các năm mà NHĐT&PTVN giao cho.
Bên cạnh đó thời gian phát hành của hai năm 2000 và 2001 là từ tháng 4 đến tháng 6. Đây là thời gian giữa các năm thuận lợi nhất vì những tháng này khối lượng tiền nhàn rỗi trong dân và các tổ chức kinh tế xã hội khá lớn, đây là giai đoạn mà họ đang có sự lựa chọn để đầu tư số lượng tiền nhàn rỗi này vào một công việc nhất định. Nắm bắt được tình hình này nên NHĐT&PTVN đã quyết định phát hành trái phiếu để huy động vốn trung và dài hạn phục vụ cho các mục tiêu đẫ đề ra.
Riêng đợt phát hành vào đầu năm 2002: từ tháng 11 năm 2001 đến tháng 01 năm 2002: Đây là thời gian còn lại của những tháng cuối năm (âm lịch), thông thương sau một năm làm việc người dân đã dành dụm được một số tiền để chuẩn bị cho những mục đích cuối năm và còn được dùng cho những tháng đầu năm sau, người ta vẫn nói " tháng riêng là tháng ăn chơi", cho nên lúc này khối lượng tiền nhàn trong dân chiếm tỷ lệ khá cao...xác định đúng đặc điểm này đã tạo thêm một yếu vừa cơ bản và rất thuận lợi cho NHĐT&PTVN trong việc huy động vốn trung và dài hạn qua phát hành trái phiếu.
3.2. Những hạn chế qua phát hành trái phiếu tại NHĐT&PTHN.
Bên cạnh những thành công qua việc phát hành trái phiếu NHĐT&PTHN cũng còn có những hạn chế nhất định dưới đây ảnh hưởng đến hiệu quả huy động vốn:
Mặc dù đã chuẩn bị khá chu đáo nhưng thời gian chuẩn bị của các đợt phát hành trái phiếu tương đối ngắn, nhất là cho thời gian dành cho tập huấn của cán bộ giao dịch, cho nên những ngày đầu phát hành chưa được trôi chảy, đặc biệt là khâu hướng dẫn khách hàng khi viết tờ khai cũng như quy trình mua trái phiếu.Hơn nữa vì thời gian tập huấn quá eo hẹp dẫn đến tình trạng một số cán bộ nắm các chế độ chưa sâu sắc cho nên chưa thuyết phục được khách hàng thấy được mặt lợi của đầu tư trái phiếu so với việc đầu tư khác, việc tính toán mệnh giá cho khách hàng còn lúng túng do đó chưa tạo được lòng tin của khách hàng.
Công tác tổ chức chưa tốt, khi lượng khách hàng tham gia đôn ng, công tác tuyên truyền quảng cáo chưa linh hoạt, chưa cập nhật những thông tin cần thiết nhất đối với khách hàng.
Ngoài những hạn chế trên còn có một số yếu tố khác gây ảnh hưởng không nhỏ, cụ thể:
+ Năm 2000:
Lãi suất huy động thay đổi liên tục, bên cạnh đó tỷ giá ngoại tệ biiến động đã gây ảnh hưởng cho tâm lý người mua trái phiếu.
Mệnh giá nhỏ đã gây khó khăn cho khách hàng trong việc cất giữ.
Quá trình thực hiện một giao dịch khá lâu, gây khó chịu cho khách hàng.
+ Năm2001:
Vì năm này NHĐT&PTVN không phát hành loại trái phiếu kỳ hạn một năm do đó đã làm giảm tiến trình huy động, vì trên thực tế nhu cầu về trái phiếu kỳ hạn ngắn vẫn là chủ yếu mặc dù NHĐT&PTVN vẫn luôn huy động vốn trung và dài hạn qua phát hành trái phiếu.
Số lượng chữ ký trên tờ trái phiếu của một số cán bộ khong cần thiết và hơn nữa không phải mỗi khách hàng chỉ sở hữu một tờ trái phiếu do đó thời gian để hoàn tất thủ tục cho khách hàng kéo dài, năng suất phục vụ thấp nên khách hàng phải chờ đợi lâu.
So với năm trước thì mệnh giá phânphối cho NHĐT&PTHN đã được cải thiệnnhiều nhưng vẫn không đáp ứng đưọc nhu cầu thực tế.
Đôi nơi,đôi lúc thái độ phục vụ của một vài cán bộ giao dịch chưa thực hiện đúng mực đối với khách hàng.
+Năm 2002:
Mộy số chế độ về phát hành ,giữ hộ , mua bán trái phiếu ra còn chậm do đó chưa đủ thông tin cho người dân, ảnh hưởng đến khả năng phát hành trái phiếu trong thời gian những ngày đầu phát hành.
Công tác tổ chức chưa linh hoạt, còn thiếu những thông tin cần thiết cho đợt phát hành như: dịch vụ giữ hộ ,mua bán lại trái phiếu,...Tần suất quảng cáo trên các phương tiện thấp ,giảm dần và hạn chế luồng thong tinđến với khach hàng...
Nhu cầu đối với trái phiếu ghi sổ ngày càng tăng nhưng trái phiếu ghi sổ còn hạn chế do đó ảnh hưởnh đến công tác huy động.
Đặc biệt những thông tin về sự cố Y2K tác động tới tâm lý và độ tin tưởng của người dân cũng ảnh hưoửng đến khả năng phát hành trái phiếu.
Nói tóm lại, trong bất kỳ một nền kinh tế thị trường nào, việc huy động vốn từ bản thân nền kinh tế đó thông qua hệ thống ngân hàng đều luôn luôn có tầm quan trọng, đặc biệt vị trí của vấn đề này càng quan trọng hơn đối với những nước đang phát triển như Việt Nam. Muốn hấp dẫn được công chúng gửi tiền vào ngân hàng thì chính ngân hàng phải tìm hiểu nhu cầu của công chúng và phải thoả mãn nhu cầu của công chúng. Việc tổ chức huy động vốn đặc biệt là vốn trung cà dài hạn là một vấn đề khá phức tạp,...NHĐT&PTVN đã kịp thời nắm bắt được nhu cầu của công chúng thực hiện chiến lược huy động vốn trung và dài hạn qua phát hành trái phiếu - đây là một việc làm có tích cực và mang tính chất lâu dài nhằm phục vụ cho mục đích riêng, cũng như mục đích chung của toàn xã hội là tiếp tục thực hiện sự nghiệp CNH-HĐH đất nước, góp phần chuẩn bị" hàng hoá" tham gia cho thị trường chứng khoán .Góp phần đưa đất nước ta ngày càng lớn mạnh, tiếp tục phát triển đi lên.
Chương III
Những giải pháp mở rộng khả năng huy động vốn trung và dài hạn qua phát hành trái phiếu tại ngân hàng đầu tư phát triển hà nội
1. giải pháp huy động vốn trung và dài hạn qua phát hành trái phiếu tại ngân hàng đầu tư phát triển hn
Đối với nền kinh tế nước ta hiện nay, vốn luôn là một vấn đề cấp thiết mà thực tế cần giải quyết. Nguồn vốn hiện nay ở trong dân cư và các tổ chức kinh tế khá lớn, nhưng làm thế nào để thu hút được nhiều nhất lượng tiền đó ? Tâm lý chung hiện nay của người dân vẫn còn thích tích luỹ vàng, đô la, hơn nữa họ vẫn e ngại về các chính sách và cơ chế nhà nước, lo ngại gặp rũi ro, nên chưa an tâm gửi tiền vào ngân hàng.
Do vậy ngành ngân hàng cần phải làm gì để huy động được nguồn vốn đó, phải chăng về góc độ vĩ mô cần phải có một nền kinh tế tăng trưởng ổn định, chống được lạm phát và đưa một thị trường chứng khoán vào hoạt động.
Để đẩy nhanh tiến trình CNH-HĐH đất nước do Đảng ta đề xướng , các ngành các cấp đều phải tập trung phát huy mọi nguồn lực. Trong đó ngành ngân hàng nói chung và NHĐT&PTVN nói riêng phải đưa ra các giải pháp để thu hút nguồn vốn nhàn rỗi trong dân.Một trong những giải pháp để huy động nguồn lực hiện có là huy động nguồn vốn trung và dài hạn qua phát hành trái phiếu. Nhưng vấn đề đặt ra là phải đưa ra một chiến lược như thế nào để huy động nguồn lực này một cách có hiệu quả nhất ? Qua mghiên cứu lý luận, kết hợp với việc phân tích, đánh giá những mặt thành công cũng như hạn chế của việc huy động vốn trung và dài hạn qua việc phát hành trái phiếu tại SGDI trong thời gian qua, xin mạnh dạn đề xuất một số giải pháp như sau:
cần đưa ra một cơ chế lãi suất linh hoạt, mền dẻo và hấp dẫn
Lãi suất là một công cụ quan trọng để ngân hàng huy động nguồn vốn hiện có nhàn rỗi trong các tầng lớp đân cư, doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng khác... Nó là một trong các yếu tố kinh tế tác động mạnh đến việc thu hút vốn, đặc biệt là vốn trung và dài hạn, vì khi gửi tiền vào ngân hàng với thời gian dài thì khách hàng luôn đặt mục tiêu lãi suất lên hàng đầu.
Kinh nghiệm của các nước thành công trong sự nghiệp phát triển kinh tế thị trường kinh tế, mà trước hết là huy động vốn bằng công cụ lãi suất đã cho thấy : chính sách lãi suất chỉ phát huy được hiệu lực của nó đối với việc huy động vốn trong điều kiện tiền tệ, giá cả biết biến động hay nói cách khác lạm pháp ở mức đọ vừa phải và không biến động thất thường.
Nhiều ngân hàng đã thành công trong chính sách lãi suất(lãi suất danh nghĩa cao hơn chỉ số lạm pháp ) để chống lạm phát và thu hút vốn vào ngân hàng.
Tuy nhiên, nếu lãi suất đầu vào quá cao thì nó sẽ gây ảnh hưởng cho công tác tín dụng của ngân hàng.
Do đó cần thiết phải sử dụng một chính sách hợp lý để vừa đẩy mạnh thu hút ngày càng nhiều các nguòn vốn nhàn rỗi trong xã hội vừa kích thích các đơn vị kinh tế sử dụng vốn có hiệu quả trong sản xuất kinh doanh. để cho công cụ lãi suất phát huy được vai trò của mình cơ chế thị trường, chính sách lãi suất cần thiết điều chỉnh theo hướng.
-Lãi suất theo cư chế thị trường và mối quan hệ cung cầu về vốn.Lãi suất đầu ra quyết định lãi suất đầu vào, đảm bảo cho NHTM kinh doanh có lãi ( thực hiện chính sách lãi suất thực dương).
-Lãi suất danh nghĩa phải bằng lãi suất thực cộng với tỷ lệ lạm phát dự kiến, nghĩa là phải theo dõi lãi suất trên thị trường vốn và tỷ lệ trượt giáđể điều chỉnh kịp thời và linh hoạt. Đảm bảo nguyên tắc này NHĐT&PTHN mới có thể huy động được nguồn vốn lâu dài ổn định và không gây thiệt hại cho khách hàng. Để thực hiện được công tác này, phòng nguồn vốn kinh doanh khi đưa ra kế hoạchhuy động vốn cho năm tới phải dự kiến tỷ lệ lạm pháp để cân nhắc mức lãi suất cho phù lý.
-Lãi suất huy động vốn danh nghĩa phải cao hơn tỷ lệ lạm pháp dự kiến có như thế mới khuyến kích được tiết kiệm, tránh được tình trạng tích luỹ vàng và ngoại tệ.
-Lãi suất cho vay trung bình cao hơn lãi suất huy động trung bình, khoảng chênh lệch chính là ''lãi gộp'' cùa ngân hàng đề bù đắp chi phí, thuế,phí dự trử bắt buộc, đề phòng rủi ro mà vẫn có lãi.Do người vay buộc phải tính toán sử dụng vốn tiết kiệm và có hiệu quả.
Trên thực tế cho đến nay vẫn còn một số người đang có lo ngại về lạm phát, sự không ổn định vữngchắc của đồng tiền Việt nam. Vì vậy họ đã chuyển đổi tiền đồng thành ngoại tệ để cất trữ trong nhà. Điều này, một mặt làm giảm đi hiệu lực thực hiện Quyết định 396/TTG của Thủ tướng Chính Phủ về tăng cường quản lý ngoại tệ, mặt khác cũng làm một lượng vốn khá lớn còn nằm rải rác trong dân cư. Để tiến hành huy động đượcnguồn vốn trung và dài hạn cần phải mở ra các hình thức huy động phong phú hơn, nhưng vấn đề là phải đảm bảo bằng tài sản có tính ổn định cao như : đô la Mỹ và vàng. Về lãi suất huy động vốn trung và dài hạn, cần xử lý linh hoạt lãi suất tiềnVNĐ cao hơn lãi suất tiền gửi và bằng ngoại tệ và thời hạn gửi càng dài thì lãi suất càng cao NHĐT &PTVN nói chung, NHĐT & PTHN nói riêng đã áp dụng cơ chế lãi suất tiền VNĐ cao hơn lãi suất bằng ngoại tệ nhằm kích thích nhu cầu của dân cư trong việc huy động đồng nội tệ.
- Bên cạnh đó, các NHTM cần ổn định mức lãi suất tiền gửi trung và dài hạn, có chăng chỉ nên thay đổi lãi suất tiền gửi ngắn hạn mà thôi. Chính điều này sẽ tạo được lòng tin cho khách hàng an tâm gưỉ tiền với thời gian dài vào ngân hàng. NHĐT&PTHN đã áp dụng hình thức này một cách linh hoạt trong việc huy động vốn qua việc phát hành trái phiếu: khi phát hành một đợt trái phiếu thì lãi suất của mỗi loại trái phiếu thường được cố định ngay đợt đầu phát hành nếu lãi suất năm sau đựoc tính thấp hơn năm đầu thì sẽ được giữ như mức laĩ suất năm đầu, nếu lãi suất năm sau mà cao hơn thì khách hàng sẽ được hưởng.
Một trong những nguyên tắc để nâng cao lãi suất huy động tiền gửi cần quán triệt là quá trình đó diễn ra một cách tự nhiên nhờ bàn tay vô hình của cơ chế thị trường. Điều này có nghĩa là phải tìm ra một cách tác động như thế nào đó nhưng có tác dụng nâng cao được lãi suất huy động tới mức tối đa và hấp dẫn đối với người gửi tiền mà phía ngân hàng vẫn có thể chịu đựng được. Giải pháp để nâng cao lãi suất huy động vốn phải thật mềm dẻo, đảm bảo lâu dài và rất tự nhiên hoàn toàn không mang tính áp đặt đối với người gửi tiền.
2. Đa dạng hoá về kỳ hạn:
Kỳ hạn là một yếu tố không thể thiếu đối với loại hình huy động vốn trung và dài hạn. Để đưa ra các loại kỳ hạn phù hợp với mức lãi suất huy động là một điều kỳ không thể dễ dàng. Thông thường để huy động vốn qua phát hành trái phiếu thì NHĐT&PTHN chỉ đưa ra các loại kỳ hạn : 1 năm ,2 năm ,3 năm và 5 năm .Nếu đặt trường hợp giả sử có một khách hàng nào đó muốn gửi một khoản tiền vào ngân hàng thông qua việc mua trái phiêu với thời hạn là 10 năm hoặc 20 năm thì chắc chắn sẽ khó khăn cho ngân hàng trong việc theo dõi loại tiền gửi này và việc xử lý lãi suất như thế nào cho thoả đáng đối với cả ngân hàng lẫn người gửi .
Phải chăng chính sách tiền tệ còn chưa ổn định ,người ta không thể tính toán giá trị của đồng tiền hôm nay và giá trị của đồng tiền sau 10 năm,20 năm sẽ như thế nào ? Thực ra, hiện nay đã và đang xuất hiện dần những ra đình trẻ làm ăn khá giả ,họ có khả năng làm ra tiền sớm nhưng họ chưa có con cái hoặc con cái còn nhỏ mà họ có ý thức đầu tư cho con cái ngay từ bây giờ hoặc đầu tư cho chính tuổi già của mình , do đó thiết nghĩ rằng ngân hàng sớm có chính sách đưa ra những kỳ hạn để nhằm một phần đáp ứng nhu cầu gửi tiền của người dân và mang lại lợi ích cho ngân hàng trong việc huy động vốn .
3.Mở RộNG MạNG LƯớI THÔNG TIN QUảNG CáO
Việc mở rộng hoạt động ngân hàng thông qua việc khuếch trương quảng cáo ,tuyên truylà một việc làm cần thiết .Với phương châm:"Mọi khách hàng là bạn đồng hành của ngân hàng , "Chúng tôi chính là sự phát triển của các bạn " do đó ngân hàng phải làm cho mọi người biết đến hoạt động của mình và tạo sự tin tưởng cho dân chúng .
Việc quảng cáo cần phải tập trung vào những tiêu chí cụ thểnhư: vấn đề lãi suất ,hình thức ,lợi ích khách hàng khi gửi tiền vào ngân hàng ...Cần thực hiện thường xuyên trên các phương tiện thông tin đại chúng : truyền hình ,báo chí ...Ngoài ra, còn tăng cường việc dán các tờ áp phích ,băng rôn tại các trụ sở và các điểm giao dịch của ngân hàng .Đi song hành với hình thức quảng cáo đó là khuyến mại, góp phần đảy mạnh thêm hoạt động quảng cáo thu hút vốn vào ngân hàng .Chính các hình thức khuyến mại đa dạng sẽ tạo sự thích thú cho khách hàng: bốc thăm trả lời câu hỏi có thưởng, áp dụng hình thức sổ số hoặc lãi suất ưu đãi đối với khách hàng mua trái phiếu với số lượng lớn. Bên cạnh đó,trong quá trình hoạt động kinh doanh ngân hàng phải quan tâm đến các hoạt động xã hội khác như chính sách thăm hỏi tặng quà nhân dịp lễ tết đối với khách hàng có số dư tiền gửi cao, thời gian gửi dài. Hàng năm tham gia vào các phong trào hoạt động đoàn thể, quỹ tài năng trẻ ... dưới hình thức tài trợ vớia mục đích gây ảnh hưởng uy tín của ngân hàng sâu rộng trong mọi tầng lớp dân cư.
4. Nâng cao nguồn lực.
Nhân tố con người trong hoạt đọng ngân hàng có tầm quyết định đặc biệt. Qua các chính sách tuyển dụng cán bộ về tuổi tác, sức khoẻ, tư cách cũng như trình độ nghiệp vụ đã phần nào đánh giá được tiềm lực của NHĐT&PTHN . NHĐT&PTHN thường xuyên tổ chức đào tạo nâng cao trình độ, khuyến khích nhân viên tham gi những khoá học nâng cao trình độ nghiệp vụ.
+ Những người làm công tác nguồn vốn cần phải tiếp tục đào tạo và đào tạo lại ,trang bị đầy đủ kiến thức để thực thi nhiệm vụ được giao .cần phải có chương trình đào tạo trung và dài hạn đối với cán bộ chuyên ngành .Nên tạo điều kiện để cán bộ được tìm hiểu nghiên cứu hay đi nước ngoài tham quan học tập mô hình hay quy trình nghiệp vụ ở một số ngân hàng phát triển.
+ Nhân viên giao dịch là người thường xuyên phải tiếp xúc với khách hàng do đó cần có sự nhiệt tình,vui vẻ, lịch sự ,cởi mở,tận tâm và có trình độ...
Cho nên NHĐT&PTHN cần phải thay đổi phong cách phục vụ sao cho khi khách hàng bước chân vào ngân hàng là họ sẽ cảm thấy là mình đang được cần đến , không bỡ ngỡ và ngại ngùng .Muốn vậy ,ngoài việc thay đổi phong cách phục vụ như hiện nay thì NHĐT&PTHN cần bố trí và tổ chức lại quầy giao dịch một cách hợp lý ,ví dụ như bố trí nhân viên ngồi bàn tiếp khách để hướng dẫn cho khách hàng một số thủ tục cần thiết trước khi thực hiện một giao dịch ,giải đáp thắc mắc cho khách hàng một cách lễ độ và dễ hiểu , đón tiếp và phục vụ tận tâm...Làm được những điều này một cách chu đáo thì đây chính là vấn đề đánh vào tâm lý của khách hàng và gây ấn tượng ban đầu cho khách hàng một cách tốt đẹp về ngân hàng .
Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng :
+ trụ sở giao dịch là nơi thuận tiện : có nhiều dân cư sinh sống và gần các trung tâm văn hoá kinh tế ,...phù hợp với việc mở rộng mạng lưới huy động .Các phòng ban phương tiện làm việc hiện đại .Đối với bộ phận giao dịch cần sắp xếp lại hệ thống bàn làm việc sao cho cân xứng phù hợp với phong cảnh thiết kế của phòng làm việc : khoảng cách giửa nhân viên giao dịch và khách hàng phải bố trí hợp lý : không được đặt quá xa như hiện nay.Đồng thời trang trí làm đẹp phòng giao dịch với các loại cây cảnh ,... Tạo thêm sự gần gũi giữa khách hàng và nhân viên giao dịch và còn tạo môi trường thoải mái cho nhân viên làm việc .
+ứng dụng các thành tựu kỹ thuật tiên tiến để thanh toán chính xác ,an toàn và tiện lợi :trang bị máy đếm tiền ,soi tiền hiện đại nhằm phục vụ nhanh nhất cho quá trình bán trái phiếu ...Đặc biệt cần áp dụng và phát huy có hiệu quả công nghệ thông tin,sử dụng máy vi tính ,nối mạng giao dịch trong quấ trình lưu trữ, thanh toán, cập nhật thông tin .ứng dụng các phần mềm ngân hàng chuyên dụng. Trang bị đầy đủ các cơ sở vật chất và công cụ hiện đại hổ trợ cho quá trình làm việc như điện thoạ, máy fax,thiết lập hệ thông thư điện tử(kính gửi ban chấp hành chi đoàn-mail) giả đáp khach hàng,trao đổi ngân hàng nghiệp vụ,...
5. cải tiến nghiệp vụ thanh toán và thủ tục giấy tờ
Khach hàng gửi tiền vào ngân hàng ngoà mục đich lãi suất, an toàn,tiện ích, thì họ cũng cần các thủ tục đơn giản, nhanh chóng. Hiện nay ở NHĐT & PTHN vẫn còn tòn tại thủ tục quá rờm rà và rất nhiều khách hàng tỏ ý không hài lòng khi họ chờ đợi quá lâu...Do đó, NHĐT & PTHN cần phải cải tiến lại thủ tục giấy tờ và các nghiệp vụ vừa đơn giản, rõ ràng nhanh gọn nhưng vẫn đảm bảo tính an toàn cho khách hàng. Để tạo điều kiện thuận lợi ch khách hàng thì NHTĐ &PTHN cần phải nối mạng thông tin kịp thời đảm bảo cho khách hàng gửi tiền nơi này nhưng có thể rút nơi khác. trong trường hợp rút tiền nếu khách hàng sơ xuất thiếu một giấy tờ nào đó thì ngân hàng cần giải quyết hợp lý, tránh khách hàng phải đi lại nhiều lần và qua đó góp phần cũng cố niềm tin cho khách hàng đối vơí ngân hàng.
6 mở rộng các loại hình dịch vụ
Hiện nay phương thức cạnh tranh hiện đại giữa các ngân hàng là cạnh tranh bằng loại hình và chất lượng dịch vụ .Thông qua các dịch vụ ngân hàng coa thể nắm bắt được nhu cầu của khách hàng Để thu hút ngày càng nhiều khách hàng đến ngân hàng khơi tăng nguồn vốn huyđộng NHĐT&PTHN đã có các loại hình dịch vụ như :cất giữ hộ trái phiếu miễn phí,kiểm định tờ trái phiếu miễn phí .Bên cạnh đó NHĐT&PTHN cần nghiêncứ triển khai thêm các hình thức dịch vụ sau:
-Dịch vụ tư vấn : có thể nhiều khách hàng khi mua trái phiếu vẫn còn đắn đo và không biết quyết định mua loại nào? thời hạn bao lâu? Ngân hàng cần hành lập ban tư vấn để giúp khách hàng có sự lựa chọn đúng đắn .
- Dịch vụ tại nhà : Trường hợp những người già yếu muốn mua trái phiếu nhưng vì điều kiện riêng,họ không thể trực tiếp đến ngân hàng được thì NHĐT&PTHN cũng nên thành lập tổ nhân viên giao dịch trực tiếp xuống tận nơi hướng dẫn thực hiện thủ tục khi ngân hàng nhận được điện thoại của khách hàng .
- Dịch vụ bảo hiểm tờ trái phiếu : Ngân hàng đảm nhiệm bảo hiểm cho giá trị tờ phiếu trước rủi ro mất giá đồng tiền .Nếu khách hàng có nhu cầu bảo hiểm giá trị tờ trái phiếu thì đóng góp cho ngân hàng một khoản phí bảo hiểm và ngân hàng sẽ lập ra một quỹ bảo hiểm để bù đắp cho khách hàng khi đồng tiền mất giá. Như vậy sẽ tránh được rủi ro mất giá của đồng tiền khi nền kinh tế tiềm ẩn khả năng lạm phát cao.
7.thời gian làm việc
Đối với những vùng đô thị lớn,đại bộ phận là cán bộ công nhân viên chức thì việc xem xét lại giờ làm việc của ngân hàng là rất quan trọng. NHĐT&PTHN cũng như hầu hết các NHTM khác, giờ mở làm việc cũng trùng với giờ làm việc của hầu hết các công ty, doanh nghiệp, các cơ quan nhà nước,do đó đây là một điều không thuận lợi cho khách hàng. Giả sử có một viên chức có nhu cầu gửi tiền vào ngân hàng nhưng không thể bỏ công việc cơ quan đến ngân hàng được mà đợi đến hết giờ làm việc của cơ quan thì ngân hàng cũng nghỉ giao dịch. Nên chăng NHĐT&PTHN cần tăng thêm giờ làm việc để đáp ứng toàn bộ nhu cầu của khách hàng.
Thời gian giao dịch hiện nay của NHĐT&PTHN là:Sáng từ 7h15" đến 11h30"- Chiều từ 1h30" đến 3h. Như vậy giờ làm chưa thật thuận lợi cho mọi tầng lớp dân cư. Do đó, bên cạnh việc duy trì thời gian như hiện nay thì NHĐT&PTHN cần bố trí làm thêm ngoài giờ hành chính, nên làm việc cả ngày thư bảy và chủ nhật để phục vụ khách hàng.
II. một số kiến nghị để tạo điều kiện thực hiện các giải pháp
Để các giải pháp trên có tính khả thi thì phải có sự hỗ trợ nhất định từ phía NHNN và phía Chính Phủ:
1.Về phía ngân hàng nhà nước .
Với chức năng quản lý và điều hành hệ thống ngân hàng , là ngân hàng của các ngân hàng có tầm quan trọng rất lớn trong chiến lược huy động vốn phục vụ cho sự nghiệp CNH-HĐH đất nước .
Để có một chính sách đúng đắn và cách điều hành hợp lý sẽ là tiền đề quan trọng và có tác đông tích cực đến việc huy động vốn hiện đang nhàn rỗi chủ yếu là trong dân cư .Thiết nghĩ rằng , NHNH cần có một số biện pháp để nhằm khuyến khích:
-Tiếp tục cải cách chính sách lãi suất cho phù hợp với cơ chế thị trường .Thực hiện lãi suất linh hoạt và phù hợp với từng thời kỳ nhưng phải đảm bảo lãi suất thực dương cho người gửi tiền . Cần nghiên cứu cơ cấu lãi suất phù hợp theo hướng lãi suất tiền gửi chung và dài hạn cao hơn lãi suất ngắn hạn .NHNH chỉ nên công bố lãi suất tái chiết khấu.Việc điều hoà lãi suất như trên góp phần điều hoà cung cấp trong nền kinh tế thu hút nguồn vốn trung và dài hạn và trong hệ thống ngân hàng .
-Trong quá trình huy động vốn trung và dài hạn qua phát hành trái phiếu thì cần phối hợp với Bộ Tài Chính để tránh xảy ra sự trùng lặp giữa các đợt phát hành trái phiếu của NHTM với các đợt phát hành công trái ,trái phiếu kho bạc.
-Thực hiện điều chỉnh tỷ giá linh hoạy theo quan hệ cung cầu trên thị trường .
-Cần thực hiện đổi mới công nghệ ngân hàng ngày càng được hiện đại nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho khách hàng trong quá trình giao dịch .
về phía chính phủ
Đối với việc khơi tăng nguồn vốn trong nước cho phát triển đất nước, Chính Phủ có vai trò rất quan trọng trong việc đưa ra những biện pháp vĩ mô tạo điều kiện cho hoạt động của các ngân hàng :
-Tạo sự ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô:
+Để thu hút mạnh mẽ nguồn tiền gửi trung và dài hạn , cần tiếp tục thực hiện các biện pháp kiềm chế lạm phát ,ổn định sức mua của đồng tiền.Ngân hàng phải điều hành một chính sách ngoại hối ,tỷ giá hợp lý để tránh tình trạng người dân đầu cơ vào bất động sản hay ngoại tệ.
+Trong thời gian gần đây nhà nước đã có những biện pháp ngăn chặn và xử lý nghiêm minh những vụ việc tiêu cực trong lĩnh vực ngân hàng. Tuy nhiên ,nhà nước cần tiếp tục đẩy mạnh thực hiện nhiệm vụ này hơn nữa để làm trong sạch hoạt động của bộ máy ngân hàng ,trước hết là các cán bộ lãnh đạo, sau đó chính là nhằm củng cố lòng tin của nhân dân đối với hoạt động của ngân hàng nói riêng và nhà nước nói chung.
-Môi trường xã hội :
+Nhà nước cần đưa ra các biện pháp tăng tích luỹ trong dân cư.Nâng cao ý thức của người dân trong thực hành tiết kiệm, chống tiêu xài lãng phí ,xa hoa.
+Quốc hội sớm ban hành luật cấm tổ chức chơi hụi cũng như cấm tư nhân cho vay và cầm cố khi không có giấy phép ...nhằm giải toả những tiêu cực về tiền tệ và thu hút vốn vào ngân hàng .
-Luật pháp hoá mọi hoạt động tiền tệ tín dụng và các định chế thực hiện các chức năng tiền tệ tín dụng:
Cũng như các ngành khác, hoạt động của ngành ngân hàng phải nằm trong khuôn khổ của luật pháp, được quản lý và giám sát chặt chẽ. Bởi đây là một hoạt động khá đặc biệt- hoạt động trên lĩnh vực tiền tệ và tín dụng , do đó trong luật tiền tệ và tín dụng phải được quy định cụ thể về các thao tác nghiệp vụ, nội dung tính chất hoạt động và tất cả các đối tượng hoạt động trên lĩnh vực này.Ví dụ trong lĩnh vực ngân hàng, luật ngân hàng chỉ chi phối và áp dụng đối với các tổ chức tín dụng, khi các đơn vị kinh tế không có chức năng tín dụng lại thực hiện chức năng huy động vốn, đầu tư ....không thể bị ràng buộc và điều chỉnh bởi các quy định về luật ngân hàng làm cho nguồn vốn bị phân tán và không thể tập trung hoàn toàn vào các định chế ngân hàng để từ đó có sự điều phối đầu tư hợp lý, cũng như những khó khăn cho hoạt động của ngành. Do đó, cần có một định nghĩa thật rõ ràng về ngân hàng, để luật ngân hàng được áp dụng một cách chính xác hơn, nhất là trong guồng máy kinh tế ngày càng phát triển, mức độ tinh tế phức tạp ngày càng gia tăng
- Cần hình thành hoặc thiết lập cơ quan hoặc định chế bảo hiểm ngân hàng
Để bảo vệ quyền lợi cho người tiền gửi, đồng thời nhằm bảo vệ cho chính hoạt động của ngành ngân hàng tránh được những biến động và những tác động xấu có thể xảy ra làm ảnh hưởng tới tình hình tài chính và tiền tệ quốc gia. Nhà nước cần xây dựng và hình thành các định chế bảo hiểm ngân hàng nhằm trợ giúp thêm cho hoạt động của ngành ngân hàng được an toàn và mang lại hiệu quả cao hơn.
-Thị trường chứng khoán đã đi vào hoạt động cần phát huy hơn nữa vai trò của thị trường chứng khoán
Với cơ chế huy động vốn như hiện nay thì không thể đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế nhất là nguồn vốn trung và dài hạn. Hiện nay, các NHTM huy động vốn chủ yếu là vốn ngắn hạn được huy động thông q1ua phát hành kỳ phiếu và traí phiếu nói chung đang còn gặp nhiều khó khăn.
Hơn nữa, khẳ năng chuyển hoán của các công cụ này là giới hạn, nếu TTCK hoạt động tốt sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các sản phẩm của cộng hoà xã hội chủ nghĩa việt namưúa trình huy động vốn trung và dài hạn. Do đó TTCK là một nhu cầu thiết hết sức cấp bách ở nước ta.
NHNN cùng với Chính phủ có quyết định bắt buộc các cán bộ nhà nước phải mở tài khoản lương tại ngân hàng để có thể theo dõi tình hình thu nhập, đòng thời ngân hàng có tiền gửi huy động, có tác dụng công khai thu nhập chống thất thu thuế. Tuy nhiên, chúng ta không đánh thuế những người gửi tiền dưới hình thức tiết kiệm hay trái phiếu vì vậy khoản tiền có tính kiệm lâu dài.
Kết luận
Có thể nói rằng, vốn tín dụng ngân hàng luôn luôn đóng vai trò quan trọng đến sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế , trong đó nguồn vốn trung và dài hạn của ngân hàng càng trở nên quan trọng và cấp thiết đối với tiến trình CNH - HĐH đất nước.
Qua quá trình nghiên cứu. đề tài đã được hoàn thành với những nội dung cơ bản sau:
- Luận văn đã tổng hợp và khái quát được những vấn đề có tính lý luậnvề vốn và khả năng khai nguồn vốn trung và dài hạn trong hoạt động kinh doanh của NHTM.
- Luân văn đã đi vào phân tích thực trạng, nêu lên những thành công và hạn chế trong việc huy động vốn trung và dài hạn qua phát hành trái phiếu tại NHĐT&PTHN & PTHN, tìm ra các nguyên nhân làm cơ sở cho việc đưa ra các giải pháp.
- Dựa vào cơ sở lý luận và tình hình thực tế tại nơi thực tập, luận văn đã nêu ra được một số giải pháp nhằm huy động vốn trung và dài hạn qua phát hành trái phiếu tại NHĐT&PTHN , đó là : Đưa ra một cơ chế lãi suất linh hoạt, mềm dẻo và hấp dẫn; đa dạng hoá về kỳ hạn ; Mở rộng mạng lưới thông tin quảng cáo ; nâng cao nguồn lực ; cải tiến nghiệp vụ thanh toán và thủ tục giấy tờ ; Mở rộng các loại hình dich vụ ; Thời hạn làm việc. Đồng thời, luân văn cũng nêu đã lên một số kiến nghị với NHNN & chính phủ nhằm tạo điều kiện thực hiện các giải pháp nêu ra.
Với những gì đã thực hiện trong luận văn huy vọng rằng sẽ có ít nhiều ý nghĩa thực tiễn đối với coong tác huy động vốn của hệ thống NHTM nói chung và việc huy động vốn trung và dài hạn của NHĐT&PTHN nói riêng.
Tuy nhiên, đây là một đề tài có phạm vi không nhỏ và lại rất phức tạp; trong khi khả năng của bản thân có hạn nên chắc chắn luận văn còn nhiều khiến khuyết. Vì vậy, mong được các thầy cô, Ban giám đốc NHĐT&PTHNvà tất cả những ai quan tâm đến đề tài này giúp đở và góp ý kiến để đè tài sớm được hoàn thiện với chất lượng tốt hơn.
Tác giả đề tài xin chân thành cảm ơn sự giúp đở tận tình, chu đáo của Thầycô giáo .............. Tác giả đã được thầy hướng dẫn nội dung, lựa chọn đề tài, đóng góp ý kiến , thảo luận trong quá trình xây dựng và viết bản luận văn này.
Tác giả xin cảm ơn sự quan tâmvà giúp đỡ của thầy cô giáo trong khoa và Học viện Ngân hàng đã giảng dậy và truyền đạt những kiến thức chuyên ngành. Tác giả xin nghi nhận sự đông viên và quan tâm của các bạn cùng lớp trong quá trình học tập.
Bản luận văn này sẽ không được hoàn thành nếu thiếu sự giúp đỡ của ban lãnh đạo NHĐT&PTHN, của cô, chú, anh chị phòng nguồn vốn kinh doanh và các phòng nghiệp vụ khác của NHĐT&PTHN. Trong quá trình thực tập, tác giả đã được cán bộ của NHĐT&PTHN nhiệt tình hướng dẫn, cung cấp số liệu, đóng góp ý kiến để bản luận văn này được hoàn thành.
Xin chân thành cảm ơn !
MụC LụC
LờI NóI ĐầU
Chương I:Vốn và biện pháp huy động vốn trung và dàI hạn trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại
Sự cấp thiết của nguồn vốn trung và dàI hạn phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đạI hoá đất nước, một thách thức lớn đối với ngành ngân hàng.
vốn và vai trò của vốn tín dụng ngân hàng đối với sự phát triển kinh tế xã hội
khái niệm và đặc trưng của vốn
nội dung của vốn trong hoạt động kinh doanh ngân hàng
Vai trò của vốn tín dụng ngân hàng đối với sự phát triển kinh tế -xã-hội.
Các biện pháp huy động vốn trung và dài hạn của NHTM
1. Tầm quan trọng của công tác huy động vốn đối với NHTM
2. Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả huy động vốn của NHTM
3. các biện pháp huy động vốn trung dài hạn
CHƯƠNG II
Thực trạng về huy động vốn trung và dài hạ qua phát hành trái phiếu tại ngân hàng đầu tư & phát triển hà nội
i.một số nét về kinh tế chính trị xã hội trên địa bàn hà nội.
1.Một số nét về phát triển kinh tế ở nước ta năm 2001.
2.Khái quát tình hình kinh tế của thành phố Hà nội
II. KHáI QUáT Về TìNH HìNH HOạT ĐÔNG KINH DOANH TạI CHI NHáNH NGâN HàNG ĐầU TƯ & PHáT TRIểN Hà NộI .
1.Sơ lược về lịch sử Ngân hàng .
2. Những khó khăn và thuận lợi của Ngân hàng đầu tư & phát
3. tình hình hoạt động kinh doanh của ngân hàng đầu tư & phát triển.
III. thực trạng huy động vốn trung và dài hạn qua phát hành trái phiếu tại sở giao dịch 1- NHĐT&PTVN
1.một số điểm quy định trong phát hành trái phiếu NHĐT & PTHN
2. Tình hình huy động vốn qua phát hành trái phiéu tại NHĐT&PTHN.
3.Đánh giá chung về hiệu quả huy động vốn trung và dài hạn qua phát hành trái phiếu tại NHĐT&PTHN.
Chương III: Những giải pháp mở rộng khả năng huy động vốn trung và dài hạn qua phát hành trái phiếu tại ngân hàng đầu tư phát triển hà nội
I. giải pháp huy động vốn trung và dài hạn qua phát hành trái phiếu tại ngân hàng đầu tư phát triển Hà Nội trang55
1.cần đưa ra một cơ chế lãi suất linh hoạt, mền dẻo và hấp dẫn trang55
2. Đa dạng hoá về kỳ hạn:
3.Mở rộng mạng lưới thông tin quảng cáo
4. Nâng cao nguồn lực.
5. cải tiến nghiệp vụ thanh toán và thủ tục giấy tờ
6 mở rộng các loại hình dịch vụ
7.thời gian làm việc
II. một số kiến nghị để tạo điều kiện thực hiện các giải pháp
1.Về phía ngân hàng nhà nước
2.về phía chính phủ
Kết luận
Tài liệu tham khảo
Kinh tế học của samuelson.
NHNN Việt Nam, năm 1998 - NXB Chính Trị Quốc Gia-HN.
Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ VIII.
"Ngân hàng Việt Nam với chiến lược huy động vốn phục vụ CNH-HĐH đất nước " năm 1999- Tập kỷ yếu của nhiều tác giả.
Tiền tệ và hoạt động Ngân hàng của tác giả Lê Vinh Danh- Năm 2000.
Tích tụ và tập trung vốn-Tác giả Trần Xuân Kiên,NXB Thống Kê 1999
Các nghiệp vụ NHTM -Tác giả Lê Văn Tư, NXB Thống Kê 1999.
Tạp chí Ngân hàng năm 1998-1999-2000-2001-2002.
Tạp chí chứng khoán Việt Nam.
Tài liệu báo cáo thường niên,NHĐT&PTVN-Xuất bản năm 2000-2001-2002
Báo cáo tổng kết cuối năm 2000-2001 của NHĐT&PTHN .
Các văn bản, báo cáo thống kê và tài liệu khác của NHĐT&PTHN .
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0211.doc