Đề tài KCX: bài học kinh nghiệm từ một số nước và chính sách phát triển của VN

Trải hơn 10 năm xây dựng và hoạt động của KCX (từ 1989), bảy năm đối với KCN (từ năm 1994), và 4 năm kể từ khi đưa thêm mô hình khu công nghệ cao vào hoạt động đã nảy sinh những vấn đề cần phải giải quyết bên cạnh những mặt đã đạt được. Để KCX và ngày nay gồm KCX, KCN và khu công nghệ cao hoạt động có hiệu quả thì chính sách của Nhà Nước có vai trò quan trọng trong việc định hướng phát triển. Bên cạnh đó cũng cần quan tâm đến việc xác định, lựa chọn mục tiêu biết đâu là mục tiêu chính, mục tiêu thứ yếu, mục tiêu nào là trước mắt, mục tiêu nào là lâu dài. Ngoài ra thông tin đầy đủ, chính xác về thị trường, về đối thủ, bạn hàng chúng ta đã lựa chọn đúng đối tác chưa, . . . cũng góp phần cho thành công của KCX. Một khâu không thể thiếu được trong quá trình này là việc tổ chức triển khai hoạt động của KCX. Không giống các khâu khác việc tổ chức triển khai có tốt hay không phụ thuộc rất lớn đến nhân tố con người. Mà giải quyết vấn đề về con người như nâng cao trình độ, năng lực, đảm bảo tốt điều kiện về vật chất đã khó vấn đề đổi mới nhận thức, tư duy lại càng khó khăn hơn nhiều.

doc25 trang | Chia sẻ: linhlinh11 | Lượt xem: 828 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài KCX: bài học kinh nghiệm từ một số nước và chính sách phát triển của VN, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Trong thời kì quá độ lên CNXH cùng với sự bùng nổ của nền kinh tế thế giới, nước ta đứng trước rất nhiều cơ hội lớn song thách thức không phải là ít. Chúng ta phát triển nền kinh tế dựa vào nội lực điều này không sai song thật sự sai lầm nếu như quên mất một điều phải vừa phát huy nội lực vừa tận dụng ngoại lực như chủ trương cuẩ Đảng, Nhà nước đã đề ra. Thực hiện chính sách đổi mới đa dạng hoá các hình thức và hoạt động kinh tế đối ngoại, đa phương hoá thị trường và các đối tượng hợp tác, việc hình thành và phát triển các KCX, khu công nghiệp tập trung hoặc khu kinh tế đặc biệt là một trong những hình thức tạo môi trường thu hút vốn đầu tư, kỹ thuật công nghệ tiên tiến, điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư, nhất là các công ty nước ngoài đầu tư vào những khu công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu (KCX) nói riêng và đầu tư vào VN nói chung. Đối với những nước đang phát triển như mô hình KCX trong giai đoạn đầu được ưu tiên phát triển hơn cả. Thực chất trên thế giới khái niệm về KCX không còn là điều mới mẻ (ở châu á Thái Bình Dương những mầm mống KCX xuất hiện hồi đầu thế kỉ XIX). Song với Việt Nam KCX chỉ mới xuất hiện từ năm 1991 (tính đến nay là 10 năm), so với khu vực là muộn hơn rất nhiều. Qua 10 năm xây dựng và đi vào hoạt động sản xuất và kinh doanh đã đặt ra cho KCX nhiều vấn đề cần phải xem xét. Tính đến thời điểm này ở VN chỉ còn lại ba khu KCX hoạt động có hiệu quả. Vậy thì vấn đề nằm ở đâu? Tại sao lại xảy ra hiện tượng đó? Và có phải là trong tương lai KCX sẽ được thay thế bởi một mô hình nào khác ? Trăn trở, day dứt với câu hỏi này đã thúc dục em tìm hiểu về KCX và em đã mạnh dạn chọn đề tài "KCX: bài học kinh nghiệmtừ một số nước và chính sách phát triển của VN". Quá khứ là những cái đã qua đi song không phải qua đi là sẽ bị lãng quên. Truyền thống của con người Việt Nam như tổng bí thư Lê Khả Phiêu đã phát biểu trong bài diễn văn Chúc mừng Tổng thống Mỹ B. Clinton sang thăm VN hồi trung tuần tháng 12 năm 2000 là dân tộc VN sẽ không quên đi quá khứ sẽ nhìn lại quá khứ để hướng tới tương lai, quá khứ sẽ là gốc rễ, là nền tảng, là sức mạnh của tương lai. Cũng chính vì lẽ đó việc nghiên cứu xem xét lại những vấn đề của KCX là rất cần thiết, rất hữu ích cho bản thân mỗi sinh viên của trường ĐHKTQD nói chung và sinh viên khoa QTKDCN& XDCB nói riêng. Do thời gian nghiên cứu thu thập tài liệu không nhiều, trình độ lý luận và khả năng tư duy còn nhiều hạn chế cộng thêm kiến thức thực tế còn quá ít nên khi viết đề tài này chắc chắn sẽ không tránh khỏi những khiếm khuyết. Em hy vọng với sự hướng dẫn, chỉ bảo tận tình của thầy TS Lê Công Hoa, bài viết của em phần nào sẽ giúp người đọc thấy được nền phát triển KCX theo hướng nào và có thể biết thêm một số thông tin từ phía nhà nước đối với KCX. I. KCX - Những vấn đề lý luận 1. Các quan điểm về KCX và một số khái niệm liên quan Đã đến lúc nên có một cái nhìn tổng quát về KCX, vai trò của nó trong phát triển kinh tế, bài học nào cần rút ra từ những kinh nghiệm quá khứ của KCX; đâu là những vấn đề chủ yếu đối với tương lai và VN đã có những biện pháp gì để xây dựng và phát triển KCX. Muốn trả lời được những câu hỏi này điều đầu tiên chúng ta phải biết thực chất KCX là gì? Có rất nhiều cách hiểu khác nhau về KCX song trong bài viết này em chỉ xin đưa ra một vài quan niệm chính. Theo nghĩa hẹp: KCX là một lãnh địa công nghiệp chuyên môn hoá sản xuất hàng hoá phục vụ xuất khẩu, tách rời khỏi chế độ thương mại và thuế quan của một số nước và áp dụng chế độ thương mại tự do, do đó Tổ chức phát triển Công Nghiệp Liên Hiệp Quốc (UNIDO) trong tài liệu "KCX tại các nước đang phát triển (Export Processing Zone in Developing Countries)" công bố năm 1990 viết: "KCX là một khu vực tương đối nhỏ, phân cách về địa lý trong một quốc gia nhằm mục tiêu thu hút đầu tư vào các ngành công nghiệp hướng về xuất khẩu bằng cách cung cấp cho các ngành CN này những điều kiện về đầu tư và mậu dịch thuận lợi đặc biệt so với phần lãnh thổ còn lại của nước chủ nhà. Trong đó đặc biệt KCX cho nhập khẩu hàng hoá dùng cho sản xuất để xuất khẩu miễn thuế trên cơ sở kho qua cảng". Theo nghĩa rộng: Không chỉ bao gồm khu vực công nghiệp chuyên môn hoá sản xuất hàng xuất khẩu như trên mà KCX còn bao gồm cả những khu vực được chính phủ cho phép như khu cảng tự do, khu tự do thuế quan (liên hiệp hải quan), khu mậu dịch tự do, kho qua cảng. Vì vậy hiệp hội KCX thế giới (World export Processing Zone asociation WEPZA) viết " KCX là tất cả các khu vực được chính phủ cho phép như cảng tự do, khu mậu dịch tự do, khu phi thuế quan, khu công nghiệp tự do, khu ngoại thương tự do." Giải thích một số khái niệm kèm theo Khu cảng tự do: Có quy chế Hải quan được thiết lập độc lập. ở đây vốn đầu tư, hàng hoá và tàu thuyền ra vào một cách tự do. Chính quyền cảng không đánh thuế các loại nguyên liệu, vật tư, bán thành phẩm nhập khẩu. Nhưng các mặt hàng nhập vào thị trường nội địa phải chịu thuế hải quan bình thường. Khu tự do thuế quan (Liên Hiệp Hải Quan) là nhóm liên kết các nước độc lập với nhau thoả thuận xoá bỏ các sắc thuế hải quan, các hàng rào thuế quan. Trong liên hiệp áp dụng một chính sách thuế quan thống nhất đối với mọi nước thành viên. Thuế hải quan nhập khẩu được liên hiệp phân bố cho từng nước thành viên. Khu mậu dịch tự do: Không nhất thiết phải là cảng tự do. ở đây có sẵn các cơ sở kỹ thuật, phương tiện bốc xếp, vận chuyển chế biến lắp ráp, các thiết bị vận tải biển, vận tải bộ và hàng không, các nghiệp vụ trung chuyển hàng hoá. Mọi loại hàng hoá đều được nhập - xuất từ khu một cách tự do không phải chịu thuế quan. Kho qua cảng: Là khu vực khép kín, trong đó hàng nhập khẩu theo chế độ tự do để được chế biến, gia công, đóng gói, bao bì và có thể có hoặc không cần sử dụng nguyên liệu hoặc phụ kiện nội địa.1 Các KCX Châu á Thái Bình Dươngvà Việt Nam, nxb: Thống kê 1993, trang 5,6,7 Định nghĩa của Việt Nam: KCX là khu Công nghiệp tập trung chuyên sản xuất hàng xuất khẩu và thực hiện các dịch vụ sản xuất hàng xuất khẩu được thành lập và hoạt động theo quy chế KCX tại Việt Nam. KCX do chính phủ Việt Nam thành lập ở những địa bàn có vị trí thuận lợi cho sản xuất hàng xuất khẩu ,có ranh giới được ấn định theo quyết định thành lập.2 Điều 1,2, chươngI, Quy chế KCX tại Việt Nam Trong khuôn khổ bài viết này em chỉ xin đề cập KCX theo nghĩa hẹp 2. Nguyên tắc hoạt động của KCX Thực chất là nguyên tắc hoạt động của của các xí nghiệp chế xuất (doanh nghiệp trong KCX). Các doanh nghiệp thuộc KCX được thành lập dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam. Nguyên tắc hoạt động của các doanh nghiệp này là tự hạch toán, tự chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh song phải dựa trên các quy định trong luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, quy chế khu KCX và giấy phép kinh doanh. 3. Hình thức KCX KCX với mục tiêu chính là sản xuất hàng hoá để xuất khẩu, đáp ứng nhu cầu của thị trường nước ngoài, nhưng bên cạnh đó phải tính đến cả lợi ích của các nước sở tại đó giải quyết việc làm nâng cao trình độ dân trí ...Chính vì lẽ đó mà mô hình KCX phải phù hợp với những nước đang phát triển trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên tên gọi có thể khác nhau song thực chất vẫn là một. Ví dụ ở Malaixia KCX được gọi là khu mậu dịch tự do, ở Nam triều tiên gọi là khu xuất khẩu tự do, còn Trung Quốc gọi là đặc khu kinh tế, bên cạnh đó KCX còn có thể coi là các cảng tự do, khu công nghiệp tự do, khu qúa cảnh , khu qua cảng... II. Bài học kinh nghiệm từ một số nước trong khu vực 1. KCX trong giai đoạn chuyển tiếp, kinh nghiệm của Nam Triều Tiên. Việc thành lập các KCX với ý nghĩa là công cụ thu hút đàu tư nước ngoài và khuyến khích sản xuất xuất khẩu đã trở thành một quan điểm chính sách công nghiệp được áp dụng rộng rãi thành hàng loạt ở các nước đang phát triển. Song trên thực tế có là như vậy không? Vấn đề này còn có rất nhiều tranh cãi bởi lẽ có một số nước thành công bên cạnh đó một số nước lại thất bại nặng nề. Theo nghiên cứu có ba nhóm yếu tố, thực tế là những nhân tố quyết định chủ yếu đến hiệu quả của một KCX. Thứ nhất: Môi trường thế giới tác động có một ảnh hưởng quan trọng. Những KCX nào thành lập ở giai đoạn thương mại quốc tế đang phát triển nhanh và ở giai đoạn bắt đầu làn sóng thứ nhất cơ cấu lại bố trí lực lượng lại trên thế giới thì sẽ tận dụng được những điều kiện ban đầu thuận lợi hơn so với những người đến sau - những KCX mới thành lập trong những năm 80 hơn so với những "trâu chậm". Thứ hai, môi trường trong nước, cả về mặt trình độ và cơ cấu phát triển công nghiệp cũng như quan điểm và chính sách kinh tế như có ảnh hưởng nhất định đến sức hấp dẫn và tiềm năng phát triển của KCX... Và thứ ba, một số các yếu tố vi mô của bản thân KCX ,cơ sở hạ tầng sẵn sàng và năng lực quản lí KCX ấy. Như vậy KCX là một khái niệm rất đa dạng thay đổi tuỳ theo không gian và thời gian. Thật thế nhiều KCX đã và đang dần dần biến đổi các đặc tính của mình để thích nghi đáp ứng với tình hình môi trường kinh tế đang thay đổi Vì vậy cần nghiên cứu đánh giá tác dụng của các KCX. Trên cơ sở phân tích các tình hình cụ thể, các nhân tố quyết định tính hiệu quả của từng KCX, có thể rút ra được những điều kiện cấu trúc ban đầu và từ đó hình thành các chính sách phù hợp. Nam Triều Tiên là một trong số những nước đang phát triển đầu tiên tiếp cận với quan điểm cụ thể này nhằm thu hút đầu tư nước ngoài hướng và xuất khẩu (KCX Masan thành lập năm 1971, Iri thành lập năm 1974). Từ đó các KCX của nước này đã trải qua giai đoạn ấu trĩ trong vòng đời của nó và đã đạt đến một độ chín nhất định. Đâu là điều kiện ban đầu và nhân tố quyết định thành công các KCX này? Vai trò ảnh hưởng của các chính sách kinh tế trong nước là gì? Bằng cách nào các KCX tiên tiến của Nam Triều Tiên có thể đáp ứng được các thử thách của môi trường kinh tế đang biến đổi? Nghiên cứu những thành tựu này có thể có được những thông tin có giá trị để xem xét các ảnh hưởng hiện nay và để biến cải dần dần các KCX. Các phát hiện ở đây có thể thích hợp với phát hiện nhiều nước đang phát triển để thiết kế các biẹen pháp, chính sách nhằm thúc đẩy vai trò chất xúc tác của các KCX trong phát triển công nghiệp toàn diện. Các vấn đề cụ thẻ và các nhiệm vụ trước mắt của Nam Triều Tiên có thể phù hợp tức khắc với chỉ moọt số ít nước đang phát triển, song rõ ràng là KCXđều phải được quan niệm lại, với ý nghĩa là chúng luôn luôn phải vận động thích nghi với tình thế. KCX không phải là cái gì tĩnh tại không phải đầu tư "một lần cho mãi mãi" mà là một cơ chế động cần thiết phải phản ứng nhanh nhạy với các yêu cầu bên ngoài đang ngày càng tăng. Nam Triều Tiên từ nột nước nông nghiệp, bị bần cùng hoá do chiến tranh năm 1950 đã phát triển thành một trong những nước năng động nhất về nặt kinh tế trên thế giới với mức tăng trưởng bình quân hàng năm trong suốt thời gian dài là 6,6% GNP theo đầu người (1965 - 1984), năm 1987 đạt 2900USD/năm, là nước có vị trí dẫn đầu vềthu nhập trong số các nước đang phát triển ở châu á. Tại sao Hàn Quốc lại thành công như vậy? Điều này lý giải rằng do Han Quốc đã phát triển kinh tế dựa trên chiến lược kinh tế hướng về xuất khẩu> Theo đuổi chiến lược kinh tế hướng ngoại này từ những năm 60 xuất khẩu đã trở thành một động lực phát triển công nghiệp của Nam Triều Tiên.Tuy nhiên, phát triển chính sách này Nhà nước vẫn luôn luôn có những can thiệp quan trọng trong các vấn đề toỏ chức và chỉ đạo phát triển kinh tế. Nam Triều Tiên chưa hề bao giờ tôn trọng quan điểm để thị trường tự do phát triển "tự nó" nhưng Nhà nước lại rất coi trọng các tín hiệu thị trường, sử dungj các tín hiiêụ thị trường để hoàn thành chính sách kinh tế của mình. Từ đó chế độ KHH chỉ đạo trung hạn (" có nghĩa KHH hành chính") đã cực kì quan trọng đối với thành tựu của đất nước hôm nay. Trung tâm của hệ thống điểu khiển fức tạp này là chế độ tài chính, chế độ tài chính được thiết lập theo chỉ định và được sử dụng một cách hệ thóng như là công cụ phát triển công nghiệp cố mục tiêu. Ngoài ra cần phải kể đến một nhân tố quan trọng khác giải thích cho thành công kinh tế của nước này. Đó là hình thức quan hệ qua lại có định chế giữa khu vực nhà nước và khu vực tư nhân. Tuy nhiên, xiết chặt công cụ tài chính đối với công nghiệp chỉ là một trong những hướng chính của chính sách công nghiệp. Nam Triều Tiên còn có các biện pháp khác như kích thích về thuế ( miễn giảm thuế và trợ giúp cho những trường hợp khấu hao nhanh miễn giảm thuế quan hàng nhập khẩu cho nhu cầu sản xuất xuất khẩu) các biện pháp bảo hộ (hạn chế số lượng nhập khẩu, cấm nhập khẩu đối với hàng hoá trong nước sản xuất được), đồng thời với biện pháp đầu tư trực tiếp của chính phủ vào các TSCĐCN và các KCX. Phần lớn các hướng kích thích này nhằm mục tiêu đặc biệt là khuyến khích xuất khẩu. Từ đó thấy rằng ngay từ những năm đầu 1970(có nghĩa thời điểm KCX bắt đầu thành lập), Nam Triều Tiên đã thực sự bước vào chính sách khuyến khích xuất khẩu mạnh mẽ. Nói cách khác, KCX không được coi là người lính tiên phong đi đầu trong chiến lược xuất khẩu, nó chỉ được thành lập như một đội ngũ bổ sung và tăng cường cho hướng đích xuất khẩu của nền kinh tế. Điều này khác xa với nhiều nước khác mà trong đó KCX được hình tượng như một điểm nút khởi sự những biến đổi về sản xuất xuất khẩu và do đó thường ít thành công. Chính vì lẽ đó mà không có một chính sách ưu tiên hay sự lưu ý đặc biệt nào về việc đầu tư nước ngoài vào KCX, việc áp dụng đầu tư vào KCX như vào các khu vực khác chúng đều được khuyến khích nếu là ngành kiếm được nhiều ngoại tệ, quy trình sản xuất thu hút nhiều lao động và sử dụng công nghệ hiện đại. Vậy thì câu hỏi đặt ra là KCX tại Nam Triều Tiên có những đặc điểm gì khác biệt. Không có gì quá khác biệt cả, các KCX tại Nam Triều Tiên chỉ có nhiệm vụ chính là nêu một tấm gương về các thuận lợi dễ dàng đáp ứng cho các xí nghiệp đóng tại đó có các ưu điểm về miễn thuế nhập khẩu đầu vào cho các mặt hàng xuất khẩu. Điều khác biệt thứ hai ở KCX là về thủ tục hành chính cần thiết cho vận hành các xí nghiệp đóng tại đây đều được giải quyết dễ dàng nhanh chóng do chính quyền KCX thực hiện. Sự tồn tại của các cơ quan đầu tư một cửa này tránh cho các nhà đầu tư nước ngoài phải "dạo một vòng" gõ cửa nhiều cục, vụ ở trung ương hay cơ sở, ty ở các uỷ ban địa phương. Đồng thời KCX ở đây cũng đóng vai trò khu vực quá cảnh rất thích hợp cho đầu tư nước ngoài khi có những thay đổi về luật lệ. Nét nổi bật nhất ở các KCX Nam Triều Tiên là nó đóng vai trò tích cực làm cầu nối giữa trong nước và ngoài nước. Và đây là bài học quý mà nhiều nước chưa làm được. Một yếu tố nữa cũng quyết định đến sự thành công của KCX Nam Triều Tiên là mối liên hệ giữa các KCX với nền kinh tế trong nước biểu hiện là sử dụng nhân lực trong nước và tổ chức các hợp đồng gia công với các xí nghiệp trong nước. Có thể nói đây là hướng sáng tạo riêng của Nam Triều Tiên cho dù theo quan niệm là KCX có đặc tính tách biệt, cô lập so với nội địa (đặc điểm trong nước). Một điểm khác biệt nữa đối với các KCX tại Nam Triều Tiên là cơ cấu nghành nghề không đơn điệu mà rất đa dạng: Bảng I: Cơ cấu ngành nghề ở KCX (3 kcx & cơ hội kinh doanh với nước ngoài, UB kế hoạch Nhà nước - Trung tâm thông tin, Hà Nội 1992, tr.119 ) Ngầnh Số xí nghiệp Đầu tư (1000USD) Khu Masan Khu iri Cộng % Khu Masan Khu Iri Cộng % Điện và Điện tử Kim loại Cơ khí chính xác Dệt và may Máy móc Giày dép Phi kim loại Da Gia công đá Khác Cộng 23 16 8 8 4 5 5 - - 8 77 1 1 - 8 - - 4 - 3 1 18 24 17 8 16 4 5 9 - 3 9 95 25,3 17,9 8,4 16,8 4,2 5,3 9,5 - 3,2 9,5 100 76.107 22.460 13.840 5.424 2.039 6.543 1.319 - - 4.688 132.440 1.384 3501 - 9.184 - - - 2270 908 277 17.475 77.492 25.981 13.840 14.607 2.039 6543 1319 2270 908 4915 149.91 55,7 17,3 9,2 9,7 1,4 4,4 0,9 1,5 0,6 3,3 100 Nghiên cứu về NTT thấy rằng thành công của các KCX phần nào soi rọi vai trò to lớn của Chính phủ Hàn Quốc đã đề ra phương hướng đúng đắn và đã chỉ đạo để triển khai nó trong điều kiện thực tế cuả đất nước. Song thực chất không chỉ dừng ở đó mà NTT đã sớm nhận ra xu hướng biến động của thế giới và hướng tới phát triển khu vực kinh tế hiện đại sản xuất sản phẩm có hàm lượng trí tuệ cao ,trình độ của công nhân ngày một nâng cao. Vì thế trong tương lai KCX sẽ có những biến đổi nhất định cho phù hợp với tình hình trong nước, thế giới. 2.Đặc khu kinh tế thẩm Khuyến - Trung Quốc Trung Quốc có một số đặc khu kinh tế lớn trong đó phải kể đến Thẩm Quyến, xây dựng đặc khu này với mục đích là đưa Thẩm Quyến thành đặc khu kinh tế toàn diện có công nghiệp phát triển đồng thời với nông nghiệp, chăn nuôi, trồng trọt nhằm đưa Thẩm Quyến trở thành một khu vực phồn vinh kinh tế, tiến bộ về chính trị văn minh về xã hội. Với những mục tiêu mang hướng chiến lược đó nó được triển khai cụ thể là: Phải sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư nước ngoài bởi lẽ khu vực này tập trung vốn rất lớn (1,7 tỷ USD khoảng 25% vốn đầu tư nước ngoài vào Trung Quốc) Hoàn thành cơ cấu ngành và kết cấu sản phẩm nhằm phát triển cơ cấu nền kinh tế công - nông nghiệp - dịch vụ. Du nhập các thiết bị tiên tiến nhằm thu hút kỹ thuật và kinh nghiệm quản lý nước ngoài. Tăng cường xuất khẩu, hướng ra ngoài là mục tiêu của đặc khu kinh tế. Tuy vẫn kết hợp giữa "hướng ra ngoài" và "hướng vào trong" để "mở cửa " nền kinh tế. Trải qua năm giai đoạn từ khi xây dựng Đặc khu (1980 - 1985), hình thành đặc khu (1980-2000) đến giai đoạn tháng 3 từ 2000 trở đi là giai đoạn nâng cao và hoàn thiện đặc khu kinh tế, đặc khu Thẩm Quyến ngày càng phát triển và cũng để lại một số kinh nghiệm sau: Thứ nhất: Phải nói sự phát triển của đặc khu kinh tế Thẩm Quyến được sự quan tâm của chính phủ Trung Quốc: Nhà nươc đã có hệ thống luật pháp để bảo đảm và thu hút đầu tư nước ngoài vào Đặc khu kinh tế Thẩm Quyến, khoảng ba mươi văn bản pháp quy đã được thông qua nhằm thể chế hoá việc xây dựng và hoạt động cuả đặc khu kinh tế. Nhà nước thành lập văn phòng hội đồng nhà nước trung ương và Uỷ Ban Quản Lý các đặc khu kinh tế của cấp tỉnh để điều hành Đặc Khu Kinh Tế. Bên cạnh đó là hàng loạt các chính sách hấp dẫn đầu tư nước ngoài. Thứ hai: Biết chọn vị trí xây dựng Đặc khu thuận lợi. Thẩm Quyến nằm gần Hồng Kông có điều kiện tiến hành trao đổi, mậu dịch, hợp tác kinh tế, giao lưu kỹ thuật quốc tế, phải qua đường Hồng Kông mà du nhập vốn kỹ thuật, kinh doanh, quản lý. Hồng Kông là nơi tiêu thụ nông phẩm và công nghệ phẩm xuất khẩu. Ngoài ra Thẩm Quyến có bến cảng, sân bay lớn. Đặc biệt ở đây có hàng loạt đường ô tô cao tốc. Điều đó cho phép hình thành một mạng lưới giao thông hoàn chỉnh gồm cả ba mặt hải, lục, không. Thứ ba: Mạnh dạn đầu tư vào xây dựng cơ sở hạ tầng, chấp nhận chính phủ và rủi ro chi phí đầu tư vốn lớn vào Đặc Khu Thẩm Quyến. Thứ tư: Chính phủ Trung Quốc đưa ra các chính sách ưu đãi về thuế, lợi tức (thuế thu nhập doanh nghiệp) trong các xí nghiệp có tính kỹ thuật cao, vòng quay tương đối dài sẽ được ưu đãi đặc biệt. Lợi nhuận của các thương gia sau khi thực hiện nghĩa vụ với nhà nước có thể chuyển về nước thông qúa ngân hàng. . . .Khuyến khích các xí nghiệp sử dụng máy móc, nguyên vật liệu do Trung Quốc sản xuất với giá ưu đãi thanh toán bằng ngoại tệ. . . . Thứ năm: sử dụng các hình thức hợp tác cùng sản xuất và liên doanh để thu hút vốn đầu tư. Các hình thức đầu tư cũng giống Việt Namnhưng đặc biệt ở chỗ khi hợp đồng hợp tác liên doanh kết thúc thì quyền sở hữu về máy móc thiết bị được giao phía Trung Quốc hoặc dựa vào tỷ lệ vốn góp mà chia lợi nhuận, phía Trung Quốc lợi nhuận sẽ luỹ tiến dần theo thời gian Thứ sáu; những thành công bước đầu của đặc khu kinh tế Thẩm Quyến gắn liền với những đổi mới về cơ chế quản lý kinh tế của Trung Quốc trong đặc khu này. Để thực hiện được mục tiêu đã vạch ra cho đặc khu kinh tế Trung Quốc đã chuyển từ kế hoặch hoá tập trung khép kín sang cơ chế thị trường. Trong quá trình đó, đã thực hiện một loạt các cải cách sau: áp dụng nguyên tắc tự do trong việc xây dựng đặc khu kinh tế. Hoàn toàn thực hiện các nguyên tắc tự do thị trường đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp trong Đặc khu kinh tế. Sự can thiệp của nhà nước Trung Quốc vào Đặc khu kinh tế thông qua các quy định biện pháp về tổ chức hoạt động kinh doanh của đặc khu. Giải quyết mối quan hệ giữa quản lý trung ương và địa phương theo hướng nâng cao tính tự chủ của cơ quan chính quyền địa phương, từ bỏ tác nghiệp hàng ngày Cải thiện các quan hệ kinh tế đối ngoại như tỷ giá hối đoái, chính sách nhập khẩu, chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài. . . . Nói tóm lại, sự thành công của mô hình này ở Trung Quốc đánh giá rằng Trung Quốc đã tận dụng được lợi thế của nước đi sau, biết học tập chọn lọc kinh nghiệm nước ngoài một cách sáng tạo. Điều quan trọng hơn cả là họ đã Trung Quốc hoá được những điều học được. Đây là một cách làm rất đáng được nghiên cứu, học tập và vận dụng kinh nghệm. 3. Khu mậu dịch tự do Penang - Malaixia Khu mậu dịch tự do Penang nằm ở phía Tây bắc bán đảo Malaixian bao gồm bốn khu vực là Bayan Lepas, Pulau Jerejack, prai và Prai nharf. Với tổng diện tích dự kiến là 472,4 ha nhiệm vụ chủ yếu là sản xuất kim loại nhà máy sản xuất mặt hàng điện tử. Mục tiêu chủ yếu thành lập khu mậu dịch tự do này nhằm giải quyết việc làm, phát triển xuất khẩu để thu ngoại tệ. Khu mậu dịch này nằm dưới sự quản lý của tổng công ty phát triển Penang (POC). Quá trình hoạt động khu vực mậu dịch tự do Penang đã thu được một số kết quả tương đối khả quan trong việc thu hút vốn đầu tư: Tính đến cuối năm 1982, tổng vốn góp là 322,5 triệu đô la Malai (M$), đạt tỷ lệ giữa vốn đã góp và vốn cho phép là 1/1,6. Về vấn việc làm, tiền công và điều kiện làm việc: Số lượng lao động trong khu tăng 10 lần giai đoạn 1972 – 1983. Trong tổng số công nhân, có khoảng 3/4 số công nhân là công nhân sản xuất , khoảng 50% - 60 % công nhân lành nghề. Số công nhân không lành nghề chiếm khoảng 20% tổng số lao động: Tiền công trả cho công nhân theo các mức độ lành nghề và không lành nghề cách nhau khoảng hai lần. BảngII : Mức lương bình quân một ngày cho một lao động các loại:(4 Chủ biên PTS Mai Ngọc Cường, các KCX Chấu á Thái Bình Dương và Việt Nam, NXB Thống kê, Hà Nội 1993, tr. 64 ) M$/ngày Loại công nhân Mức thấp nhất Mức cao nhất 1 công nhân không lành nghề 1 công nhân lành nghề 4,5 8,33 19.04 30,3 Bên cạnh tiền lương người lao động còn được hưởng các điều kiện khác: phụ cấp, chế độ chữa bệnh, chăm sóc y tế không mất tiền, hưu trí, thai sản.... Một số nhà máy còn chia lợi nhuận cho công nhân. Vì thế thu nhập của người lao động trong khu cao hơn ở bên ngoài. Có được những thành công này điều đầu tiên kể đến là Penang có môi trường đầu tư tốt. ỏ đó sẵn có vùng đất công nghiệp đã được chuẩn bị cùng các tiện nghi hạ tầng đầy và tốt. Vì vậy chi phí cho đầu tư xây dựng là thấp so với các nơi khác. Điều thứ hai các khu vực trong khu vực mậu dịch tự do, khu chế xuất được xây dựng ở những vị trí thuận lợi như gần sân bay (với khu vực sản xuất hàng điện tử) gần bến cảng (với khu vực đóng tàu). Đồng thời ở đây có được hệ thống giao thông phát triển mạnh về đường không đường biển đường bộ, đường sắt. Thứ ba, có đội ngũ lao động được đào tạo, có kỹ thuật kỷ luật, có tinh thần cần cù, hợp tác, thông minh và khiêm tốn. thứ tư, phát triển khu mậu dịch tự do Penang diễn ra trong bối cảnh bùng nổ của ngành công nghiệp điện tử đầu những năm 70 của thế kỷ XX. Vì thế số nhà máy lắp ráp hàng hoá điện tử và lao động làm việc trong khu vực này chiếm tỷ trọng lớn trong khu mậu dịch tự do và tổng số bán ra chiếm tỷ trọng lớn tới 74,6% năm 1982. Một số vấn đề nữa mang tính chất pháp lý đó là các chính sách khuyến khích tài chính, tổ chức tốt các hoạt động thương mại dịch vụ của chính phủ Malaixia. 4. Kinh nghiệm chưa thành công của KCX Bataan (Philippin) Một mô hình mới đưa ra thử nghiệm thành công hay thất bại là chuyện thường tình. Điều quan trọng là chúng ta nhìn nhận nó dưới giác độ nào tích cực hay tiêu cực để từ đó rút ra cho mình những bài học quý báu, bổ ích. BEPZ được thành lập với mục tiêu là di chuyển ngành công nghiệp từ vùng thành thị chật chội sang các vùng nông thôn để giải quyết việc làm cho nông thôn, đa dạng hoá sản phảm chuyển từ xuất khẩu hàng truyền thống sang xuất xuất khẩu sản phẩm phi truyèen thống và thu hút đầu tư nước ngoài vào Philipin. Trong quá trình xây dựng, phát triển mặc dù đã thu được một số kết quả về vấn đề tạo việc làm, sản phẩm xuất khẩu, về đầu tư nước ngoài và một số lợi ích khác mà BEPZ mang lại: chuyển giao kỹ thuật . . .nhưng theo các tài liệu nghiên cứu thì đều cho rằng hầu như các mục tiêu của BEPZ là không thực hiện được, số lượng lao động làm việc trong BEPZ là thấp, thu nhập ngoại tệ không đáng kể, chuyển giao công nghệ không được bao nhiêu, liên kết kinh tế trong nước không lớn và bị gián đoạn, không thu hút được vốn đầu tư từ nước ngoài. Về phương diện chi phí lợi ích thì những lợi ích do BEPZ mang lại không thể bù đắp lại được các chi phí bỏ ra trong hiện tại và tương lai. Vấn đề đặt ra là phải tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến sự không thành công đó. Nguyên nhân thứ nhất đề cập đến là vị trí của BEPZ lựa chọn chưa đúng. BEPZ được xây dựng ở bờ biển, núi non biệt lập, kém phát triển. Do vậy để xây dựng BEPZ phải san bằng đồi núi, xây dựng đường, cảng, khẩu và các phương tiện khác. Thêm vào đó là chi phí cho việc di dân cao. Tất cả điều đó làm chi phí cho kết cấu hạ tầng tăng nhanh. Bảng III: Chi phí triển khai cho 1 ha.(5 Chủ biên PTS Mai Ngọc Cường, các KCX Chấu á Thái Bình Dương và Việt Nam, NXB Thống kê, Hà Nội 1993, tr. 74 ) Đơn vị tính : 1000 USD Khu chế xuất Chi phí triển khai cho 1 ha Chihagong (Bangladesh) Kandla (ấn Độ) Penang (Malaixia) Masan (Cộng Hoà Triều Tiên) Bataan (Philippin) 30 63,5 20 35 602,9 Nguyên nhân thứ hai là hậu quả của nguyên nhân thứ nhất. Nếu như các công ty thuê hết diện tích của KCX thì thu nhập của BEPZ sẽ lớn nhưng thực tế BEPZ mới chỉ thu hút được về 50% số công ty so với dự kiến. Điều đó một lần nữa làm cho các chi phí sử dụng càng tăng hơn mức bình thường. Biểu đồ V:Kế hoạch thực hiện xây dựng các hàng hoạt động ở khu BEPZ Thứ 3, nguyên nhân thuộc về Chính Phủ Philipin, khi BEPZ thành lậpChính Phủ lại có chính sách mở rộng kế hoạch kho hàng thuế quan tức là khuyến khích hoạt động xuất khẩu ở bên ngoài KCX. Một vấn đề nữa là chính sách khuyến khích về tài chính lại giảm dần, các chi phí về dịch vụ quá cao..... Ngày thấy ngày càng nhiều công ty không thực hiện hợp đồng và rút khỏiKCX. 5. Bài học rút ra từ các nước: Tính đến năm 1989 toàn thế giới có 200 KCX trong đó chỉ có 20 - 30 khu ở Châu á và mêxicô là kinh doanh thành công, số còn lại đều gặp khó khăn và tuyên bố bị "thất bại". Phân tích kinh nghiệm một số KCX có thể nêu lên một cách tóm tắt nguyên nhân dẫn đến sự thành bại của việc xây dựng KCX là: Phải lựa chọn thời gian thích hợp để xây dựng KCX tức là KCX phát triển phải phù hợp với xu thế của thế giới. Phải lựa chọn địa điểm thuận lợi có kết cấu hạ tầng đầy đủ là nhân tố làm cho khu thương mại Penang thành công còn Bataan thất bại vì họ lựa chọn không đúng địa điểm. về mặt tổ chức quản lý, chính sách của nhà nước cũng góp phần không nhỏ vào sự thành công hay thất bại của các KCX. Nghiên cứu để tìm ra đây là những nguyên nhân chủ quan, khách quan và để từ đó có thể có những thay đổi khắc phục để KCX đạt được mục tiêu nó đề ra. Từ những nguyên nhân thành bại của KCx như trên, muốn xây dựng KCX cần phải tuân theo các vấn đề sau: Điều đầu tiên: Phải xác định mục tiêu của KCX được thành lập. Mỗi KCX thành lập với những mục đích lâu dài và trước mắt khác. Vì thế cần phải xác định rõ mục tiêu để có những quy định thích hợp. Điều thứ hai: Phải xác định thời gian và địa điểm xây dựng KCX. Như đã nói ở trên, không khí chung của đầu tư và địa điểm xây dựng là những vấn đề quan trọng trong quá trình phát triển KCX. Nó tạo tâm lý đầu tư thuận lợi và tiết kiệm được chi phí triển khai Thứ ba, phải khuyết trương choviệc xây dựng KCX nhằm tạo điều kiện cho các công ty biết đến sự tồn tại cuả mình từ đó có khả năng thu hút vốn đầu tư vào KCX. Thứ tư, phải lựa chọn được các loại ngành công nghiệp, loại hình sản phẩm. Sản phẩm được phát triển trong KCX có thể tìm được thị trường tiêu thụ trên thế giới và tận dụng được lợi thế tài nguyên của nước chủ nhà. Điều này có ý nghĩa 2 mặt hội tụ được mục tiêu chung trong việc phát triển EPZ. Thứ năm, phải lựa chọn đối tác đúng. Trong quá trình khuyếch trương xây dựng KCX thường có nhiều nhà đầu tư đến tìm hiểu, thăm dò và kí kết hợp đồng đầu tư vào KCX. Vì vậy cần thiết phải tìm hiểu lựa chọn đúng đối tác để tránh được các cuộc rút chạy trước khi kết thúc hợp đồng. Thứ sáu, phải xây dựng được hệ thống dịch vụ thuận lợi như dịch vụ hải quan, bưu điện, y tế, khách sạn, vui chơi giải trí, để cho việc ra vào KCX được dễ dàng, không gây phiền hà đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Đồng thời phải đảm bảo được an ninh, trật tự, bảo đảm an toàn về người và tài sản của KCX Thứ bảy, phải xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đầy đủ như: địa bàn hoạt động, nhà xưởng, nhà kho, hệ thống điện nước, chỗ ở của công nhân, phòng làm việc của ban quản lí, hệ thống giao thông cầu cảng, sân bay, đường bộ, bến bãi đỗ xe,... Thứ tám, bộ máy quản lí KCX phải hoạt động tích cực và tránh thủ tục phiền hà. Cần áp dụng chế độ "một cửa" đối với các nhà đầu tư nước ngoài ra vào khu chế xuất. Cuối cùng, cần thiết phải xây dựng một hệ thống các chính sách khuyến khích tài chính đối với người đầu tư vào KCX. KCX là một doanh nghiệp thương mại dám chấp nhận rủi ro trong kinh doanh. Do vậy, việc các nhà đầu tư tính toán để tham gia KCX là một bài toán mà lời giải còn chưa rõ ràng. Vì vậy, chính phủ các nước chủ nhà nhất thiết phải có chính sách kích thích phải thu hút nhà đầu tư. Các chính sách đó phải rộng rãi tới mức mục tiêu của nhà đầu tư và nước chủ nhà đầu tư đạt được. III. Khu chế xuất Việt Nam nhìn từ góc độ chính sách của Nhà nước. 1. Mục tiêu khi xây dựng và phát triển khu chế xuất Mục tiêu thì rất nhiều song có thể phân thành 3 loại chính a. Về phía nước chủ nhà ( phía Việt Nam ) Năm 1986, chúng ta tiến hành cải cách chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường, kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Năm 1991, KCX ra đời thực chất là từ năm 1989, là công cụ để thực hiện chiến lược hướng mạnh vào xuất khẩu. Trong điều kiện tích luỹ về tài chính, quá nhỏ bé nếu không muốn nói là quá ít này, chiến lược hướng vào xuất khẩu sẽ nhằm thu được ngoại tệ. Ngoài ra giải quyết việc làm ch người lao động lúc này là cần thiết. Bên cạnh đó chuyển giao công nghệ cũng là một mong muốn của nhà nước. Một yếu tố đánh giá sự thành công của KCX là tạo được mối quan hệ và các lợi ích nữa. Nói như vậy có vẻ hơi khó hiểu, cụ thể nói xây dựng, phát triển KCX nhằm mục tiêu tạo điều kiện cho kinh tế vùng phát triển được. Song trên hết vẫn là yếu tố con người, mong muốn của VN về KCX là đào tạo một đội ngũ cán bộ công nhân viên có phẩm chất năng lực, có tay nghề. Một điểm nữa, mà bất cứ bên nào tham gia cũng mong muốn có đó là lợi nhuận... b. Về phía các nhà đầu tư ( nhà đầu tư nước ngoài ) Nhìn nhận một cách khách quan khi đem vốn sức lực đầu tư, điều mong muốn là phải thu được lợi càng lớn càng tốt. Các nhà đầu tư vào KCX cũng không phải là trường hợp ngoại lệ. Do đó mục tiêu đầu tiên, hết sức quan trọng là lợi nhuận. Vậy thì để có được lợi nhuận cao họ phải tiết kiệmchi phí, mà chi phí họ bỏ ra để đầu tư vào KCX là không cao so với đầu tư tại nước của họ một phần nhiều có thể nói các chi phí cho các yếu tố đầu vào thấp ( giá công nhân rẻ ) Điều mong muốn tiếp theo ở đây đó là về chính sách kinh tế của nước sở tại, Một nền kinh tế phát triển khá, một môi trường chính trị ổn định, một hành lang pháp lý thông thoáng, chế độ thuế hợp lý là mong muốn của bất kỳ một nhà đầu tư nào. Liên hệ với VN chúng ta thấy VN có những ưu thế nhất định và vì thế có thể nói đây là ''Miền đất hứa" cho các nhà đầu tư chăng? Mục tiêu thứ 3 ở đây là cùng với sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế thế giới, ngày càng xuất hiện nhiều công ty lớn tham gia vào thị trường tạo nên sức mạnh cạnh tranh gay gắt quyết liệt. Vấn đề đặt ra cho mỗi công ty là thị phần, thị trường cần phải được mở rộng. Một trong các công cụ mà các công ty này sử dụng đó là đầu tư cho nước ngoài ( đầu tư vào khu chế xuất ) Trên đây mới chỉ là 2 khía cạnh của một vấn đề. Một khía cạnh nữa ảnh hưỏng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động KCX đó là về phía người lao động. c. Đảm bảo lợi ích của công nhân viên khi tổ chức các KCX Trách nhiệm - quyền lợi phải gắn kết chặt chẽ với nhau. Người lao động tham gia đều mong muốn được hưởng đúng theo năng lực mình đã đóng góp. "Làm theo lao động, hưởng theo năng lực". Đây là nhu cầu của bất kỳ người lao động - tham gia trong lĩnh vực sản xuất nào, ngành nào. Thế còn người lao động tham gia sản xuất kinh doanh trong KCX thì sao? Họ có mong muốn được cống hiến, được làm việc để có thu nhập, để có một sự đảm bảo cho cuộc sống, cao hơn nếu như họ làm việc ở ngoài KCX? Mong muốn này hoàn toàn hợp lý bởi nếu như có một thu nhập hợp lý thoả đáng đảm bảo cho họ tái sản xuất giản đơn, mở rộng sức lao động thì điều này sẽ rất có lợi cho bản thân mỗi doanh nghiệp, mỗi công ty và cho cả đất nước. Tuy nhiên vấn đề không chỉ dừng lại ở chỗ "cơm áo,gạo tiền". Chúng ta có lẽ ai cũng biết 5 bậc thang nhu cầu của Maslow, nhu cầu của con người là vô hạn, luôn thay đổi theo chiều hướng tăng dần. Vấn đề ở đây là phải biết đánh giá nhu cầu nào là thiết yếu nhất mà người lao động mong muốn để tìm cách thoả mãn nó từ đó sẽ có kết quả cao thậm chí ngoài cả sự mong đợi. Có lẽ mọi vấn đề liên quan đến con người đều hết sức khó khăn, phức tạp yêu cầu người quản lý phải có năng lực, phải có tầm nhìn chiến lược mới có thể giải quyết được; Vấn đề quan trọng là phải trung hoà các lợi ích đảm bảo các bên liên quan đều có lợi. Đây có lẽ là nguyên tắc trong tất cả các mối quan hệ, trong tất cả các mối liên kết cả về kinh tế lẫn chính trị. 2. Đã có sự trung hoà giữa các mục tiêu phát triển KCX ? Chúng ta có thể khẳng định được rằng VN về phương diện pháp lý đã thống nhất được các mục tiêu đã nêu ở trên của các bên . Nó được thực hiện bằng việc ban hành quy chế KCX kèm theo nghị định của Hội đồng Bộ trưởng số 322 - HĐBT ngày 18 tháng 10 năm 1991. Rồi sự ra đời KCX đầu tiên ở Việt Nam (khu chế xuất Tân Thuận) theo qyuết định 631- QDUB của Uỷ Ban Nhân Dân TPHCM ngày 24 tháng 10 năm 1989 trước cả khi quy chế khu chế xuất được ban hành cho đén ngày nay được đánh giá là khu chế xuất hoạt động hiệu quả nhất. Theo những nguồn tin thăm dò các nhà đàu tư họ có nói rằng về mặt luật thì họ đồng ý với các điều khoảnchúng ta đưa ra ngày một thông thoáng hơn giảm được rất nhiều chi phí về tiền bạc nhưng điều họ sợ ở đây là các văn bản dưới luật tức là các thông tư hướng dẫn thi hành luật vậy thì vấn đề đặt ra ở đây là gì có phải "treo đầu dê, bán thịt chó" hay "đầu voi đuôi chuột" không. Nhìn nhận vấn đề một cách khách quan chúng ta thấy về mặt định hướng chiến lược của Việt Nam thì tương đương tốt nhưng kế hoạch tác nghiệp thì lại có vấn đề chúng ta hẳn không lạ lẫm gì với hiện tượng này bởi lẽ nó đã tồn tại từ rất lâu. Hạn chế này có thể do tư duy của chúng ta vẫn còn mang nặng theo tư duy nông nghiệp chưa đổi mới cho phù hợp với sự thay đổi của tình hình biến động thế giới. Tuy nhiên để đánh giá một vấn đề chúng ta cũng nên xem xét ở mọi góc độ đặt nó trong mối quan hệ nhiều chiều mới có thể đảm bảo tính xác thực, phải nói một điều là những thành tựu chúng ta đạt được không phải là đơn giản, đay là sự cố gắng nỗ lực vượt bậc trong đường lối lãnh đạo của Đảng Nhà Nước và Nhân Dân. Xây dựng phát triển nền kinh tế trong điều kiện hết sức khó khăn: xuất phát điểm quá thấp nền nông nghiệp lạc hậu, tư duy nông nghiệp ấu trĩ hơn thế nữa kẻ thù luôn luôn rình rập và có âm mưu phá hoại chúng ta, chúng muốn phá bỏ chế độ XHCN trên thế giới này. Song điều quan trọng là ta phải nhận ra được nhược điểm của mình để mà sửa chữa. Nói như Kim Woo Chung - Tổng giám đốc hãng DAEWOO : "Đườngdẫn đến thành công không trải hoa hồng" hay là" Nếu không thất bại thì làm sao mong ngóng thành công".6 Kim Woo Chung, Thế giới quả là rộng lớn và nhiều việc phải làm, NXB Văn hoá thông tin, Hà Nội 2000 Quay trở lại xem xét chính sách nhà nước ta nếu như đem so sánh các điều khoản VN vói các nước khác ta thaáy VN rất là ưu đãi cho các nhà đầu tư. Chúng hoàn thành quy chế KCX với những điều khoản thể hiện rõ thiện chí và mong muốn từ phía Việt Nam là tạo một môi trường pháp lý thuận tiện, có những chính sách ưu tiên hợp lý, thoả đáng (xem điều 34,35,39, chương VI- Xuất nhập khẩu hàng hoá dịch vụ trong quy chế KCX). Một vấn đề luôn được các nhà đầu tư quan tâm đó là chính sách về thuế. Một nguyên tắc bất di bất dịch là khi hoạt động có lãi anh phải đóng góp thuế cho nước sở tại theo pháp luật quy định. Theo điều 51 chương VIII về chế độ kế toán, thống kê và các vấn đề tài chính đã quy định rõ tỉ lệ nộp thuế lợi tức, thuế thu nhập doanh nghiệp: Đối với xí nghiệp sản xuất nộp 10% lợi nhuận, 15% lợi nhuận là của xí nghiệp dịch vụ, chế độ miễn thuế: xí nghiệp sản xuất miễn 4 năm kể từ năm xí nghiệp bắt đầu kinh doanh có lãi với xí nghiệp dịch vụ là 2 năm .... Với những quy định này phần nào KCX VN đã hấp dẫn với các nhà đầu tư nước ngoài. Còn về quyền lợi của người lao động trong KCX cũng được quy định rõ tại điều 30, 31, 32, 33, chương V: Quan hệ lao động trong KCX của quy chế này. Với những quy định đó đã đảm bảo lợi ích mà người lao động mong đợi góp phần kích thích người lao động làm việc có hiệu quả hơn. Vậy có thể khẳng định quy chế KCX mà chính phủ Việt Nam ban hành ngày 18 tháng 10 năm 1991 là một văn bản pháp luật có chất lượng, nó thoả mãn một nguyên tắc mang tính mục tiêu chiến lược hay là một nguyên tắc chung là đảm bảo lợi ích của các bên tham gia. Chủ trương xây dựng và phát triển KC Xlà một chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà Nước trong giai đoạn đầu của quá trình thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước nhằm giải quyết những vấn đề trước mắt. Song song với chính sách này Việt Nam đã đồng thời thực hiện những chính sách về kinh tế xã hội khác nhằm phát triển nền kinh tế đất nước. Cùng với thời gian chúng ta đã thu lại được những kết quả bước đầu đáng mừng: Kinh tế tăng trưởng GDP tăng xấp xỉ 10% một năm. (năm 2000), đời sống nhân dân ngày một nâng cao... 3. Sự xuất hiện của khu Công nghiệp (KCN), khu công nghệ cao Theo mục I.1 phần định nghĩa của Việt Nam đã dẫn thì việc xuất hiện cụm từ KCN không có gì đáng ngạc nhiên bởi lẽ KCX là dạng đặc biệt của KCN. (Xem thêm Quy chế KCN ban hành kèm theo nghị định số 192/CP ngày 28/12/1994 của Chính phủ). Với mỗi thời kỳ, trong những hoàn cảnh, ở mỗi tình thế khác sẽ có chính sách khác sao cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh đó. Sự vật luôn vận động, phát triển, cái xuất hiện sau sẽ phủ định cái trước song phủ định phải dựa trên cơ sở kế thừa những nhân tố tiến bộ chứ không phải phủ định sạch trơn. Việc ra đời các KCN không phải là để xoá bỏ các KCX trước đây bởi lẽ khi nghiên cứu chúng ta đều thấy những đóng góp của KCX là không thể phủ nhận được. Đây là bước đi tiếp theo trên con đường CNH - HĐH đất nước. KCX giờ đây là bộ phận của KCN điều này có nghĩa là bên cạnh mục tiêu hướng về xuất khẩu giờ đây chúng ta đã nhận thấy thị trường trong nước cũng có vai trò lớn và rất đáng quan tâm và đã đến lúc chúng tâ nên nhìn nhận lại thực lực kinh tế của mình. Nói theo ngôn ngữ của các nhà hoạch định chính sách thì đây là phát huy nhân tố nội lực cùng với việc tận dụng các nguồn lực từ bên ngoài tạo nên sức mạnh tổng hợp. Điều này được thể chế hoá ở mục 3 điều 15 chương V trong quy chế KCN (Bạn đọc có thể xem thêm) tức là KCX vẫn tồn tại, hoạt động theo quy chế KCX ban hành ngày 18/10/1991 kèm theo nghị định số 322 - HĐBT (nay là CP). KCN, KCX cùng tồn tại nhưng KCX có thể chuyển đổi thành KCN hoạt động theo quy định của quy chế KCN với những điều khoản nhất định. Vậy thì đây có thể coi là một sự chuyển hướng chiến lược trong đường lối phát triển kinh tế của Đảng của Nhà Nước ta. Sự xuất hiện KCN không nằm ngoài quy luật vận động và phát triển của sự vật và hiện tượng. Tuy nhiên sự xuất hiện KCN không phải hoàn toàn theo hướng tích cực này mà nó cũng được xem xét sau 3 năm thành lập và hoạt động của các KCX (phần thực trạng KCX đã đề cập) với những bất cập cần được giải quyết. Nhìn nhận thực trạng này phải thấy rằng định hướng chiến lược, việc xác định các mục tiêu là đúng nhưng vấn đề là ở chỗ lựa chọn đối tác, về thị trường . . . .Vấn đề tổ chức triển khai thực hiện còn kém. Vì thế hiệu quả đạt được không cao là điều khó tránh khỏi. Trong khuôn khổ bài viết này không đề cập đến thực trạng của KCX mà đứng trên phương diện chính sách của nhà nước để xem xét tình hình khu vực, tình hình thế giới có nhiều biến động cùng với sự phát triển như vũ bão các cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật thì các mô hình kinh tế cũng được đa dạng hoá. Chính vì lẽ đó trong các chính sách phát triển công nghiệp - văn kiện đại hội VIII - Đảng Cộng Sản Việt Nam đã nêu ra: "Hình thành các KCN tập trung (bao gồm cả KCX và khu công nghệ cao)" và một văn bản chính thức của Chính Phủ: Nghị định 36/CP về quy chế KCN, KCX và khu công nghệ cao cho các hướng phát triển sản xuất ưu tiên đã lựa chọn của nhà nước tạo điều kiện đổi mới công nghệ. Tuy nhiên mọi vấn đề có mặt trái, mặt phải của nó. Nghiên cứu chính sách của Việt Nam về KCX ,KCN và sau này là khu công nghệ cao. . . cho thấy rằng môi trường luật pháp của chúng ta chưa hoàn toàn hoàn chỉnh còn buông lỏng và bên cạnh đó vì lợi ích cục bộ mà một số địa phương đã ban hành những quy định riêng để thu hút đầu tư vào địa phương mình đã tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh. Một vấn đề hạn chế nữa ở đây mà tưởng chừng là lợi thế của chúng ta là nước đi sau nhưng chưa biến bài học kinh nghiệm của các nước thành của mình nên việc xây dựng vẫn mang tính rập khuôn, máy móc và đặc biệt là còn ham quy mô lớn, đa ngành nghề, số lượng nhiều trong khi nguồn lực còn quá hạn chế. Có thể nói bức tranh toàn cảnh của các KCN, KCX Việt Nam đến nay dù còn nhiều mảng sáng, tối khác nhau, nhưng suy cho cùng hiện tượng đó là khó tránh khỏi đối với mô hình mới. Vấn đề đặt ra là lúc này là trên cơ sở đánh giá đúng thực trạng hiện nay và dự báo triển vọng những năm tới cần tiến hành rà soát, điều chỉnh lại quy hoạch, phát triển KCX, KCN hiện có cũng như sẽ xây dựng mới sao cho thật thiết thực hiệu quả. Phương châm là không nên hướng vào tăng số lượng mà chủ yếu là phải thu hút được các nhà đầu tư kể cả trong nước và ngoài nước vào KCN, KCX đã có, nhanh chóng lấp đầy diện tích đã xây dựng. Trong thực tế số lượng KCX,KCN nhiều hay ít không quan trọng, mà điều quan trọng hơn là hiệu quả của nó về mặt kinh tế, xã hội, môi trường sinh thái. Chính vì lẽ đó, với số lượng KCX,KCN hiện có có thể nói là quá đủ, thì xây dựng thêm cần phải cân nhắc hết sức chặt chẽ để tránh lãng phí tiền của, đất đai. . . Kết Luận Trải hơn 10 năm xây dựng và hoạt động của KCX (từ 1989), bảy năm đối với KCN (từ năm 1994), và 4 năm kể từ khi đưa thêm mô hình khu công nghệ cao vào hoạt động đã nảy sinh những vấn đề cần phải giải quyết bên cạnh những mặt đã đạt được. Để KCX và ngày nay gồm KCX, KCN và khu công nghệ cao hoạt động có hiệu quả thì chính sách của Nhà Nước có vai trò quan trọng trong việc định hướng phát triển. Bên cạnh đó cũng cần quan tâm đến việc xác định, lựa chọn mục tiêu biết đâu là mục tiêu chính, mục tiêu thứ yếu, mục tiêu nào là trước mắt, mục tiêu nào là lâu dài. Ngoài ra thông tin đầy đủ, chính xác về thị trường, về đối thủ, bạn hàng chúng ta đã lựa chọn đúng đối tác chưa, . . . cũng góp phần cho thành công của KCX. Một khâu không thể thiếu được trong quá trình này là việc tổ chức triển khai hoạt động của KCX. Không giống các khâu khác việc tổ chức triển khai có tốt hay không phụ thuộc rất lớn đến nhân tố con người. Mà giải quyết vấn đề về con người như nâng cao trình độ, năng lực, đảm bảo tốt điều kiện về vật chất đã khó vấn đề đổi mới nhận thức, tư duy lại càng khó khăn hơn nhiều. Trong bài viết này em không có tham vọng nói hết được những vấn đề liên quan đến KCX mà chỉ có mong muốn cung cấp cho những người quan tâm đến KCX một vài kinh nghiệm thành bại từ các nước và trên phương diện đó xem xét chính sách của nhà nước với địa bàn sản xuất kinh doanh này từ đó có thể thấy được chúng ta nên làm gì tiếp theo. Một lần nữa em xin trân trọng cảm ơn thầy TS Lê Công Hoa đã hướng dẫn, giúp đỡ em hoàn thành đề án này. Tuy đã rất cố gắng nhưng do còn nhiều hạn chế về khả năng tư duy, trình độ lý luận và cách thức vận dụng một vấn đề vào thực tế nên chắc chắn khiếm khuyết là điều không tránh khỏi. Rất mong sự góp ý của thầy cô và các bạn. Hà Nội ngày 09 tháng 5 năm 2001 SV: Đỗ Minh Tâm

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVV490.doc