- Hỗ trợ đổi mới công nghệ, chú trọng đầu tư chiều sâu. Thành lập trung tâm công nghệ ở các thành phố lớn, các khu công nghiệp. Hỗ trợ hoạt đọng nghiên cứu và phát triển đối với các sản phẩm thông qua trung tâm công nghệ, các tổng công ty và doanh nghiệp.
- Thực hiện chế độ bảo hộ ở mức trung bình đối với các ngành như hoá chất, xi măng. và bảo hộ cao với điện- điện tử, cơ khí.
- Cải thiện môi trường đầu tư để mở rộng khả năng thu hút vốn từ nhiều nguồn, cả nguồn trong nước và ngoài nước như miễn thuế đối với máy móc, thiết bị xây dựng cơ bản hình thành dự án, miễn thuế nhập khẩu nguyên liệu thô cho các dự án thuộc khu vực khuyến khích.
- Thực hiện yêu cầu nội địa hoá thông qua biện pháp thuế quan, đơn giản hoá thủ tục hải quan, rút ngắn thời gian cấp phép đầu tư, cải thiện thủ tục cấp giấy phép lao dộng đối với lao động nứơc ngoài.
- Khu vực dịch vụ nói chung cũng có thể sắp xếp vào nhóm hàng có khả năng cạnh tranh có điều kiện, Mặc dù có những điểm chung như chú trọng công tác đào tạo, nâng cao khả năng quản lí và lao động, áp dụng những tiêu chuẩn vào thông lệ quốc tế.Nhưng việc chuyển dịch cơ cấu có nhưngx đặc thù riêng:
Một số lĩnh vực dịch vụ đòi hỏi nhièu vốn, công nghệ hiện đại; Một số mang tính độc quyền cao; Một số lại nhạy cảm với các vấn đề chủ quyền quốc gia và bản sắc dân tộc. Do vậy, cần có những nghiên cứu cụ thể, trước hết là những lĩnh vực dịch vụ đã cam kết hợp tác trong ASEAN; hàng không, kinh doanh dịch vụ, tài chính, vận tải biển, viễn thông và du lịch.
43 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1473 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thời kỡ kế hoạch 2006 – 2010 và cũng đề xuất một số biện pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hiệp tăng 13%/năm; giá trị sản xuất các ngành dịch vụ tăng 7,5%/năm.
Đến năm 2005 tỷ trọng nông, lâm, ngư nghiệp trong GDP khoảng 20 – 21%; tỷ trọng công nghiệp và xây dựng khoảng 38 – 39%; tỷ trọng các ngành dịch vụ khoảng 41 – 42%.
II. Tình hình thực hiện chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam thời kỳ 2001 – 2005
1. Đánh giá chung về thuận lợi, khó khăn trong thời kỳ 2001 – 2005
1.1 Thuận lợi
Bước vào thời kỳ 2001 - 2005 tình hình thé giới và trong nước có một số thuận lợi như môi trường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam từng bước được cải thiện; những đổi mới về quan điểm và tư duy phát triển kinh tế thị trường tạo nền tảng cho sự ra đời của các cơ chế chính sách thông thoáng, huy động thêm nhiều nguồn lực cho phat triển kinh tế; nhiều cơ chế chính sách đang đi vào cuộc sốngm phát huy tình tích cực đã và đang tạo môi trường và động lực phát triển cho các ngành, các thành phần kinh tế; việc mở rộng quan hệ quốc tế với các nước sẽ tạo cơ hội mở rộng thị trưởng cho hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam, góp phần thúc đẩy đầu tư...
1.2 Khó khăn
- Dự báo tình hình năm 2005 sẽ còn những khó khăn, bất lợi do tình hình chính trị, kinh tế trên thế giới đang diễn biến phức tạp.
Tình hình bất ổn về chính trị và kinh tế của một số nước trên thế giới không chỉ ảnh hưởng đến xuất khẩu và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, mà còn có thể tạo nên bất ổn chính trị trong nước với những thủ đoạn tinh vi của địch. Điều đó đỏi hỏi trong thời gian tới phải xây dựng những chính sách đồng bộ về chính trị, kinh tế, văn hoá, ngoại giao...
Nguy cơ tiềm ẩn tái phát một số dịch bệnh mang tính toàn cầu còn rất lớn như dịch bệnh SARS, dịch cúm gia cầm... và có thể ảnh hưởng xấu đến kinh tế Việt Nam.
Tình hình giá cả một số mặt hàng trên thế giới biến động có thể gây khó khăn cho Việt Nam trong hoạt động xuất, nhập khẩu.
Vấn đề thiếu hụt năng lượng và nguyên liệu sẽ tác động mạnh đến kinh tế thế giới và kinh tế Việt Nam.
Bên cạnh đó tình hìh trong nước vẫn còn nhiều khó khăn và thách thức đó là nền sản xuất của ta còn lạc hậu, năng suất chất lượng chưa cao, khả năng cạnh tranh của sản phẩm còn thấp; cơ cấu sản xuất trong từng ngành, từng lĩnh vực chưa chuyển dịch kịp thời theo sự biến động nhanh nhạy của nhu cầu thị trường trong nước và quốc tế.
Các nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế còn hạn chế và chưa được khai thac triệt để, nhất là khu vực dân cư. Chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu của nền sản xuất hiện đại. Chi phí sản xuất một số lĩnh vực còn cao so với các nước trên thế giới và khu vực đã ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam như: điện, giao thông vận tải,... tình trạng bao cấp có xu hướng quay trở lại.
Cơ sở hạ tầng tuy bước đầu đã được cải thiện nhưng nhìn chung vẫn chua tương xứng với yêu cầu phát triển chung của nền kinh tế; tăng trưởng kinh tế chưa ổn định; khả năng thích ứng với các biến động còn yếu kém.
Tiến trình cải cách hành chính còn chậm, nhiều cơ chế, nhiều chính sách chưa đồng bộ, thủ tục hành chính còn phiền hà; nạn tham nhũng, tệ quan liêu, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lôi sống của một bộ phận cán bộ công chức; chất lượng đội ngũ cán bộ chưa đáp ứng được nhu cầu của công cuộc đổi mới đang là sự cản trở lớn đối với sự nghiệp phát triển của đất nước.
Quá tình hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới và khu vực đem lại nhiều cơ hội nhưng cũng là một thách thức lớn đối với nền sản xuất, áp lực cạnh tranh của sản phẩm sẽ ngày cang quyết liệt ngay trên thị trường nội địa.
Những biến động phức tạp của thời tiết và khí hậu cũng gây hiều ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống nhân dân các vùng, nhất là những hộ nghèo nước ta. Thiên tai hạn hán, lũ lụt xảy ra ở nhiều vùng trên cả nước, gây thiệt hại lớn trong sản xuất và sinh hoạt của các tầng lớp dân cư. Đời sống nhân dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng thường bị thiên tai còn nhiều khó khăn; tệ nạn xã hội chưa giảm nhiều; trật tự, an ninh ở một số vùng còn nhiều diễn biến phức tạp.
2. Tình hình thực hiện
2.1 Kết quả thực hiện chung của từng ngành
Tỷ trọng nông, lâm nghiệp và thuỷ sản giảm từ 23,2% năm 2001 xuống khoảng 20,5% năm 2005. Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng từ 38,1% năm 2001 lên khoảng 41% năm 2005. Tỷ trọng các ngành dịch vụ khoảng 38,5% trong giai đoạn 2001 – 2005, tốc độ tăng trưởng còn thấp, tỷ trọng các ngành phi nông nghiệp tăng lên, tạo ra sụ thay đổi đáng kể cơ cấu kinh tế. Bước đầu đã hình thành 1 số ngành, lĩnh vực, sản phẩm quan trọng tạo động lực cho phát triển như: công nghiệp dầu khí, luyện thép, xin măng, cơ khí đóng tàu,lắp ráp ôtô xe máy...
Cơ cấu nội bộ ngành công nghiệp đã có bưôc tiến đáng kể theo hướng công nghiệp hoá, từng bước hiện đại hoá, phát huy lợi thế của từng ngành, từng sản phẩm, gắn sản xuất với thị trường trong nước và quốc tế. Cơ cấu sản xuất và cơ cấu sản phẩm công nghiệp đã được chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp chế biến trong giá trị tăng thêm.Nghành công nghiệp chế biến đã bước đầu khai thác được các lợi thế về nguồn nguyên liệu sản xuất trong nước để nâng cao giá trị sản phẩm xuất khẩu
Các ngành dịch vụ truyền thống như thương nghiệp, vận tải, bưu chính viễn thông, khách sạn, nhà hàng phát triển khá. Đặc biệt 1 số ngành có tỷ lệ chi phí trung gian thấp như ngân hàng, bảo hiểm... đã phát triển khá nhanh góp phần làm cho giá trị tăng thêm của ngành dịch vụ tăng cao và làm cho cơ cấu các lĩnh vực dịch vụ trong giá trị tăng thêm của ngành dịch vụ đã có sự chuyển dịch theo hướng tăng tỉ trọng của các ngành dịch vụ có chất lượng cao.
2.2 Về tốc độ tăng trưởng của các ngành
a. Khu vực nông nghiệp tiếp tục phát triển. Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất toàn ngành nông, lâm, ngư nghiệp tăng bình quân trong 5 năm khoảng 5,4%, vượt mục tiêu kế hoạch đề ra là 4,8%, trong đó nông nghiệp tăng 4,0%; lâm nghiệp tăng 1,3%; ngư nghiệp tăng 10,7%. Giá trị tăng thêm của ngành nông,lâm, nghiệp tăng bình quân là 3,6%( mục tiêu đề ra là 4,0 – 4,3%)
Ngành trồng trọt đã từng bước chuyển sang sản xuất hàng hoá, gắn với thị trường, nâng cao chất lượng và giá trị sản phẩm. Diện tích gieo trồng lương thực tuy giảm khoảng 220 nghìn ha do chuyển đổi cơ cấu, nhưng do năng suát, chất lượng đều tăng, nên an ninh lương thực quốc gia, khối lượng và kim ngạch xuất khẩu vẫn được đảm bảo, sản lượng lương thực tăng bình quân hằng năm 1,1 triệu tấn; dự kiến năm 2005 đạt 39,9 triệu tấn. Các loại cây công nghiệp có lợi thế xuất khẩu như cao su, điều, hồ tiêu... đều phát triển. Ngành chăn nuôi phát triển mạnh, tốc độ tăng giá trị sản xuất bình quân 6,4% năm, chăn nuôi trang trại theo hướng công nghiệp phát triển.
Ngành lâm nghiệp tiếp tục chú trọng vào bảo vệ và trồng rừng; từng bước chuyển hướng từ lâm nghiệp do náh nước quản lí là chính sang phát triển lâm nghiệp với sự tahm gia của nhiều thành phần kinh tế. Độ che phủ rừng tăng từ 33,7% năm 2000 lên khoảng 38% năm 2005, mục tiêu kế hoạch đề ra là 38- 39%
Ngành thuỷ sản phát triển nhanh, nhất là nuôi trồng, Sản lượng thuỷ sản năm 2005 ước đạt 3,3 triệu tấn, tăng 1,5 lần so với năm 2000, trong đó nuôi trồng thuỷ sản ước đạt 1,36 triệu tấn ; khai thác hải sản ước đạt 1.94 triệu tấn. Tỷ trọng giá trị sản xuất trong toàn ngành nông, lâm, ngư nghiệp tăng từ 15,6% năm 2000 lên khoảng 21,1% năm 2005.
b. Sản xuất công nghiệp vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng cao nhất và ổn định. gIá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân 15,7%/năm, cao hơn 2,6% so với mục tiêu đề ra và cao hơn 1,6% so với 5 năm trước( giá trị sản xuất công nghiệp 5 năm 1996- 2000 tăng 13,9%, trong đó kinh tế nhà nước 9,8%; khu vực ngoài quốc doanh là 11,7%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài là 11,7%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài là 22,4%), đã góp phần duy trì tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế, trong đó khu vực kinh tế nhà nước tăng 12,1% so với mục tiêu là 9,5%; khu vực ngoài quốc doanh tăng 21,8%; còn khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 15,3%. Giá trị tăng thêm của ngành công nghiệp tăng bình quân 10,3%/năm. Năng lực sản xuất của nhiều ngành, nhiều sản phẩm tăng lên đáng kể, 1 số đã cạnh tranh được với thị trường trong và ngoài nước, đáp ứng nhu cầu thiết yếu cơ bản của nền kinh tế và đóng góp lớn cho xuất khẩu. Một số sản phẩm đã hoàn thành mục tieu trước thời hạn. Một số ngành công nghiệp mới đã được hình thành và phát triển như: đóng tàu, chế tạo thiết bị đồng bộ, sản xuất lắp ráp ôtô, xe máy, chế biến đồ gỗ... Tỷ lệ sử dụng nguyên vật liệu, phụ tùng, thiết bị chế tạo trong nước ngày càng tăng. Cơ cấu sản phẩm và công nghệ chuyển dịch theo hướng tiến bộ, gắn sản xuât với thị trưòng. Quá trình nghiên cứu , thiết kế mới sản phẩm ngày càng được chú trọng và có xu hướng phát triển. Tỷ lệ công nghiệp chế tác, công nghiệp cơ khí chế tạo và tỉ lệ nội địa hoá sản phẩm công nghiệp tăng lên.
c.Các ngành dịch vụ có bước chuyển dịch tích cực, thoe hướng đáp ứng tốt hơn các nhu cầu về sản xuất , kinh doanh và phục vụ đời sống dân cư, Đã bắt đầu quá trình bình đẳng giá dịch vụ giữa nguời nước ngoài và trong nước. Giá trị sản xuất của các ngành dịch vụ tăng bình quân hàng năm khoảng 7,6%, đạt mục tiêu kế hoạch đề ra. Giá trị tăng thêm của ngnàh dịch vụ tăng bình quân 7,0% so với mục tiêu kế hoạch là 6,2- 6,8%. Đây là khu vực kinh tế duy nhất có tăng trưởng đạt và vượt mức kế hoạch. Tình hình 1 số lĩnh vực cụ thể như sau:
Ngành thương mại hoạt động sôi nổi, khối lượng hàng hoá lưu thông tăng liên tục với tốc độ cao. Mặt hàng ngày càng phong phú, đa dạng đáp ứng được nhu cầu cơ bản của sản xuất, tiêu dùng trong nước, đmr bảo dự trữ và dành khối lượng lớn cho xuất khẩu. Tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ bình quân 5 năm tăng khoảng 14,8% vượt mcụ tiêu kế hoạch là 11- 12%.
Ngành du lịch có bước phát triển khá nhanh. Lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam tăng từ 2,1 triệu lượt khách năm 2000 lên 3,2 triệu lượt năm 2005, đạt mục tiêu đề ra. Du lịch nội địa cũng được chú trọng phát triển. Lượng khách du lịch nội địa đã tăng từ 11,2 triệu lượt năm 2000 lên 15,5 triệu lượt năm 2005. Thị trường du lịch được mở rộng . Các loại hình du lịch phát triển đa dạng với các sản phẩm du lịch phong phú và hấp dẫn hơn để khai thác tiềm năng du lịch. Thu nhập từ du lịch tăng mạnh, góp phần tạo thêm nhiều việc làm, xoá đói giảm nghèo, chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Cơ sở hạ tầng du lịch được cải thiện , môi truờng pháp lí cho hoạt động du lịch từng bước được hoàn thiện, liên kết du lịch, vận tải và các ngành được tăng cường, tạo tiền đề cho phát triển du lịch giai đoạn 2006- 2010.
Du lịch vận tải hành khách và hàng hoá tiếp tục phát triển, cơ bản đáp ứng được các nhu cầu vận chuyển hàng hoá và đi lại của nhân dân với nhièu loại phương tiện đa dạng và phương thức thuận tiện. Cơ sở vật chất và chất lượng dich vụ vận tải tăng lên đáng kể. Khối lượng luân chuyển hàng hoá tăng bình quân khoảng 9,2%; khối lượng luân chuyển hành khách tăng 9,8%. Khối lượng hành hoá thông qua cảng biẻn tăng bình quân 9,8%
Dịch vụ bưu chính - viễn thông phát triển nhanh; mạng lưới viễn thông tiếp tục được hiện đại hoá. Tỏng 5 năm 2001- 2005, phát triển mới trên 10,9 triệu máy điện thoại . Dự kiến đến cuối năm 2005, mật độ điện thoại đạt 17,1 máy/100 dân so với mục tiêu là 7-8 máy/100 dân; phổ cập dịch vụ điện thoại đến 100% số xã trong cả nước, đạt mục tiêu kế hoạch; dịch vụ internet được mở rộng. Doanh thu toàn ngành tăng bình quân 17,7%
Các dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, kiểm toán, tư vấn pháp luật, dịch vụ trí tuệ và tin học, dịhc vụ kĩ thuật, y tế, giáo dục và đào tạo, thể dục thể thao... đều có bước phát triển khá và tién bộ. Đến nay đã hình thành được thị trường các dịch vụ bảo hiểm với sự tham gia của doanh nghiệp trong và ngoài nước.
2.3 Sự thay đổi tỷ trọng các ngành trong GDP
Sự thay đổi tỷ trọng các ngành trong GDP được thể hiện qua bảng số liệu của 5 năm thực hiện kế hoạch 2001 – 2005 như sau:
STT
Chỉ Tiêu
Đơn vị tính
Mục tiêu Đại hội IX
TH 2001
TH2002
TH 2003
TH 2004
Ước TH 2005
1
Tốc độ tăng giá trị sản xuất
%
- Nông,lâm, ngư nghiệp
%
4,8
4,7
6,5
5,5
5,4
5,0
-Công nghiệp
%
13,0
14,2
15,4
16,8
16,0
16,0
-Dịch vụ
%
7,5
6,7
7,0
7,4
8,2
8,7
2
Cơ cấu kinh tế
-Nông,lâm,ngư nghiệp
%
20 - 21
23,2
23,0
22,5
21,8
20,5
- Công nghiệp,xây dựng
%
38 - 39
38,1
38,5
39,5
40,1
41,0
- Dịch vụ
%
41 - 42
38,6
38,5
38,0
38,15
38,5
Nguồn: Bộ Kế Hoạch và Đầu tư
3. Đánh giá kết quả thực hiện
3.1 Những thành tựu đạt được
Trong 5 năm qua, đã có sự chuyển dịch đáng kể tỷ trọng của các ngành kinh tế trong GDP theo chiều hướng tích cực và hiệu quả, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP liên tục giảm, từ 24,5% năm 2000 xuống còn 20,5% năm 2004 và ước 19% năm 2005. Tỷ trọng công nghiệp liên tục tăng từ 36,7% năm 2000 lên 41,2% năm 2004 và khoảng 42% năm 2005. Tỷ trọng các ngành dịch vụ trong GDP duy trì ở mức khoảng 39%, giảm so với năm 1995 do tốc độ tăng trưởng thấp hơn tăng trưởng kinh tế.
Cơ cấu kinh tế công nghiệp tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực, tập trung vào nâng cao chất lượng phát triển. Tỷ trọng ngành nông nghiệp trong giá trị gia tăng toàn ngành nông, lâm, ngư nghiệp đã tăng từ 80,1% năm 2000 giảm xuống còn 75% năm 2005; tỷ trọng ngành thuỷ sản tăng từ 15,6% lên 21%; tỷ trọng ngành lâm nghiệp giảm từ 4,2% xuống còn 3,7%. Trong nông nghiệp thuần, tỷ trọng ngành chăn nuôi trong giá trị sản xuất đã tăng từ 16,5% năm 2000 lên 19,3% năm 2003
Cơ cấu sản xuất công nghiệp đã có bước tiến đáng kể theo hướng công nghiệp hoá, từng bước hiện đại hoá, phát huy lợi thế của từng ngành, từng sản phẩm, gắn sản xuất với thị trường trong nước và quốc tế. Cơ cấu sản xuất và cơ cấu sản phẩm công nghiệp đa x được chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp chế biến trong giá trị gia tăng toàn ngành. Ngành công nghiệp chế tác đã bắt đầu khai thác được các lợi thế về nguồn nguyên liệu sản xuất trong nước để nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm xuất khẩu.
Tỷ trọng công nghiẹp chế tác trong giá trị gia tăng toàn ngành đã tăng từ 80,7% năm 2000 lên 83,5% năm 2005; tỷ trọng các ngành công nghiệp khai thác tương ứng giảm từ 13,8% năm 2000 xuống còn 10,1%; tỷ trọng các ngành công nghiệp điện, ga, nước giảm từ 6,5% xuống 6,4%; tỷ trọng ngnàh xây dựng ổn định khoảng 14,6%
Cơ cấu các ngành dịch vụ có bước chuyển dịch tích cực theo hướng đáp ứng tốt hơn các nhu cầu ngay càng đa dạng về sản xuất, kinh donah và phục vụ đời sống dân cư. Các ngành dịch vụ truyền thống như thương nghiệp, vận tải, bưu chính- viễn thông, du lịch, khách sạn nhà hàng phát triển khá. Đặc biệt một số ngành dịch vụ có tỉ lệ gia tăng trên giá trị sản xuất cao như ngân hàng, bảo hiểm... đã phát triển khá nhanh, góp phần làm tăng giá trị gia tăng của toàn ngành dịch vụ, Cơ cấu các ngành dịch vụ trong giá trị gia tăng toàn khu vực dịch vụ đã có sự chuyển dịch theo hướng tích cực.
Ta có bảng số liệu sau:
STT
Cơ cấu ngành kinh tế (đến năm 2005)
Đơn vị tính
Mục tiêu
Ước thực hiện
1
Tỷ trọng nông, lâm, ngư nghiệp
%
20 – 21
20,5
2
Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng
%
38 – 39
41
3
Tỷ trọng dịch vụ
%
41 – 42
38,5
Nguồn: Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư
Qua đây chúng ta có thể rút ra được những diều làm được và chưa được trong việc thực hiện kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thời kì 2001- 2005 là:
-Tỷ trọng nông, lâm, ngư nghiệp đã hoàn thành yêu cầu kế hoạch (đạt 20,5% so với khoảng 20- 21% đề ra)
-Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng đã vượt so với kế hoạch (đạt 41% so với khoảng 38- 39% đề ra)
-Tỷ trọng dịch vụ chưa đạt mức kế hoạch (chỉ đạt 38,5% so với khoảng 41-42% dề ra)
3.2.Những hạn chế, yếu kém còn tồn tại
Quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành chưa thực sự diễn ra theo 1 quy hoạch, chiến lược tổng thể có tầm nhìn xa, một lộ trình hợp lí và đảm bảo thực hiện nghiêm túc. Nhìn chung chuyển dịch cơ cấu trong 5 năm qua vẫn được định hướng bởi các quy hoạch mang tính cục bộ của riêng các ngành và địa phương; vì thế quy hoạch tổng thể thường bị phá vỡ, hiệu quả đầu tư thấp, cơ cấu chuyển dịch chưa theo quy hoạch phát triển bền vững. Việc chuyển dịch cơ cấu ngành chỉ chú trọng tăng tỷ trọng của công nghiêp va dịch vụ, chưa chú ý đến mục tiêu chuyển dịch cơ cấu theo hướng hiẹn đại hoá, phát triển mạnh công nghệ và kĩ thuật tiên tiến trong tất cả các ngành, lĩnh vực; dẫn tới phát triển nhiều ngành công nghiệp có công nghệ lạc hậu, chi phí lớn, hiệu quả kinh tế thấp và dòi hỏi bảo hộ cao. Trên mộy số mặt còn tư tưởng hướng nội, nhằm vào 1 số ngành được bảo hộ; điều này có nguy cơ giảm khả năng cạnh tranh dài hạn của nền kinh tế trong quá trình hội nhập quốc tế.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp va nông thôn còn chậm và có nhiều lúng túng, mang nặng tính tự phát, chưa định hướng chiến lược rõ nét và thiếu bền vững. Chuyển dịch cơ cấu chỉ mới bắt đầu việc chuyển một số diện tích lúa năng suất và giá trị thấp sang nuôi trồng thuỷ sản. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp chưa gắn bó chặt chẽ với công nghiệp chế biến vàg thị trường tiêu thụ; cơ cấu nông thôn còn nặng về nông nghiệp thuần ( chiếm tới 74%). Việc tieu thụ 1 số sản phẩm nông nghiêp còn khó khăn.
Số ngành, lĩnh vực sử dụng công nghệ tiên tiến hiện đại còn ít. Trong công nghiệp, tỷ trọng công nghiệp gia công, lắp ráp đang là chủ yếu; tốc độ đổi mới công nghệ trong hầu hết các ngành công nghiêp còn chậm và đang ở mức trung bình là phổ biến ( tỉ lệ sử dụng công nghệ cao trong công nghiệp ở philippin chiếm 29%, Thái Lan 30,8%, Malaysia 51,1%, Singapo 73%, còn ở Việt Nam chỉ có 20%). Hệ thống dịch vụ hỗ trợ phát triển sản xuất vừa yếu, vừa thiếu và ke,s hiệu quả, nhất là thiếu hệ thống công nghiệp phụ trợ. Tỷ trọng dịch vụ trong GDP vẫn chậm được cải thiện; cơ cấu nội bộ các ngành trong khu vực dịch vụ thay đổi; đặc biệt, các ngnàh dịch vụ có giá trị gia tăng cao phát triển chậm , chưa tương xứng với tiềm năng và yêu cầu; nhiều loịa dịch vụ chất lượng cao còn thiếu...; đây là những yếu điểm lớn làm cho khu vực dịh vụ không phát huy được những tiềm năng to lớn của ngành vào phát triển đất nước.
4. Nguyên nhân của những thành tựu và yếu kém.
4.1 Nguyên nhân của những thành tựu đạt được
Thứ nhất chúng ta đã thực hiên đưông lối đỏi mới kinh tế, thực hiện nhất quán chủ truơng đổi mới kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, bước đầu hoàn thiện và đồng bộ các cơ chế chính sách quản lý kinh tế - xã hội; nhiều chủ trương về kích cầu đầu tư và tiêu dùng; chính sách về huy động nội lực và thu hút nguồn vốn nước ngoài; chính sách về phát triển nông nghiệp và phát triển nông thôn; chính sách về thị trường trong nước và xuất khẩu; các chính sách về phát triển lĩnh vực xã hội, giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo... đã phát huy tác dụng lớn trong thực tiễn, phát huy tác dụng tích cực đối với quá trình phát triển đất nước.
Thứ hai, sự phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân; sự năng động, sáng tạo và quyết tâm rất lớn của các ngành, các cấp phấn đấu hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ kế hoạch 5 năm 2001-2005, nhất là các doanh nghiệp đã từng bước trưởng thành trong cơ chế thị trường và tổ chức sản xuất phù hợp và có hiệu quả.
Đó là kết quả của việc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần IX thực hiện các Nghị quyết hội nghị TW. Đồng thời Chính phủ đã có sự chỉ đạo điều hành kiên quyết và kịp thời tập trung vào các lĩnh vực cốt lõi nhất như thu hút nguồn vốn đầu tư, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu đầu tư, thực thi luật doanh nghiệp, phát triển sản xuất, đẩy mạnh xuất khẩu, khắc phục hậu quả hạn hán, thiên tai và giải quyết vấn đề bức xúc về xã hội, nhờ thực hiện các cơ chế chính sách có hiệu quả nên môi trường sản xuất kinh đã từng bước đạt được hoàn thiện; quá trình hội nhập kinh tế được đẩy nhanh...
Ba là, kết quả đầu tư của nhiều năm qua, cùng với sự huy động ngày càng cao mọi nguồn lực cả trong và ngoài nước, đặc biệt là nội lực vào công cuộc phát triển đất nước, trong 5 năm qua, huy động nguồn lực trong tất cả các thành phần kinh tế đạt khá, nhất là nguồn vốn trong dân cư góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và xoá đói giảm nghèo. Đầu tư của các năm qua đã tạo ra năng lực sản xuất của nhiều ngành tăng khá, có nhiều thêm công nghệ hiện đại, tăng khả năng cạnh tranh của một số ngành, sản phẩm trên thị trường thế giới.
4.2 Nguyên nhân của những yếu kém
Trước hết, còn có sự nhận thức khác nhau trong các ngành, các cấp, tư duy kinh tế chậm đổi mới. Một số vấn đề mang tính lý luận về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa được làm sáng tỏ do vậy khi triển khai các công việc cụ thể thường rất lúng túng và dẫn đến chậm trễ trong việc thực hiện một số chủ trương mang tính “cải cách” như sắp xếp doanh nghiệp nhà nước, cổ phần hoá, đổi mới lĩnh vực văn hoá – xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường, sở hữu và thành phần kinh tế; vai trò chủ đạo của nền kinh tế Nhà nước, nhận thức về “độc lập, tự chủ kinh tế”... làm chậm việc xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chậm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát huy lợi thế so sánh, thúc đầy tăng trưởng nhanh, nhất là các ngành dịch vụ có tiềm năng (dịch vụ bất động sản, dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ tài chính, ngân hàng...).
Trong khi đó việc thể chế hoá một số chủ trương, Nghị quyết của Đảng còn chậm và chưa đồng bộ, chưa tạo được môi trường sản xuất kinh doanh ổn định, thông thoáng, chưa đảm bảo sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, nhất là giữa kinh tế nhà nước với các thành phần kinh tế khác để khuyến khích và khai thác các nguồn lực phát triển; các chính sách phát triển xã hội chậm được triển khai, thiếu nhất quán giữa các cơ quan Trung ương và địa phương đã gây trở ngại cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Hai là, xuất phát điểm của nền kinh tế thấp, quy mô nền kinh tế còn nhỏ; kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội yếu kém; các ngành công nghiệp bổ trợ chưa phát triển, năng suất lao động thấp, trình độ công nghệ thấp, chi phí sản xuất cao, thu ngân sách nhà nước từ nội địa không đủ đáp ứng yêu cầu chi... Chưa có chính sách, biện pháp để khuyến khích huy động tốt nguồn lực trong nước và ngoài nước vào phát triển kinh tế, xác hội. Ngoài ra, các yếu tổ tiêu cực bên ngoài (giá cả tăng, nhất là giá xăng dầu; các vụ kiện bán phá giá...) đã tác động không nhỏ đến hiệu quả sản xuất kinh doanh, xuất, nhập khẩu của nước ta.
Ba là, tổ chức bộ máy, công tác cán bộ và cái cách hành chính còn chậm, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển trong tình hình mới. Quản lý nhà nước về kinh tế - xã hội ở các Bộ, các ngànhm các cấp còn lúng túng, chồng chéo. Cơ chế kiểm tra, kiểm soát việc chấp hành các chủ trương,chính sách, các nghị quyết. chỉ thị của Đảng và Nhà nước thiếu chặt chẽ, không đến nơi đến chốn; quyền lực bị phân tán. Chế độ trách nhiệm của các ngành, các cấp và người đứng đầu chưa được đề cao. Việc phân cấp và giao quyền chưa thực sự rõ ràng đã gây trở ngại cho việc thực hiện những vấn đề cụ thể.
Chất lượng của cán bộ nhìn chung chưa được nâng cao cả về mặt tri thức, tư duy; cả về phong cách và ý thức trách nhiệm. Một bộ phận cán bộ đảng viên còn thiếu gương mẫu, vi phạm kỷ luật. Tình trạng tiêu cực, lãng phí, tham ô, tham nhũng còn nghiêm trọng đã ảnh hưởng xấu đến lòng tinh của nhân dân đối với Đảng và với Nhà nước.
Thứ tư, thiếu tính chủ động trong chỉ đạo và điều hành thực hiện. Tư tưởng chủ quan, tự hài lòng với thành tích đã đạt được đã làm giảm ý chí phấn đấu, vươn lên dành kết quả cao hơn. Sự phối hợp giữa các Bộ, ngành địa phương chưa chặt chẽ. Các giải pháp điều hành hế hoạch chậm đưa vào thực hiện.
Ba lĩnh vực then chốt được coi là đột phá trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội trong 10 năm chưa được chỉ đạo tập trung, nên hiệu quả chưa cao, chưa tương xứng với yêu cầu đổi mới.
Hiệu lực quản lý nhà nước đối với một số lĩnh vực như: quy hoạch, đất đai, giá cả, an toàn giao thông... còn thấp. Công tác quy hoạch chưa phù hợp với cơ chế thị trường, chất lượng quy hoạch không cao; tính cục bộ và xu hướng khép kín trong quy hoạch làm ảnh hưởng đến huy động nguồn lực và sự tham gia của các thành kinh tế ngoài nhà nước.
Việc kiểm tra, đôn đốc để giải quyết những vấn đề tồn tại ở các ngành, các địa phương và đơn vị cơ sở chưa làm thường xuyên và chưa làm thường xuyên và chưa kịp thời cũng ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình thực hiện kế hoạch phát triển. Công tác thanh tra chưa thường xuyên, xử lý một số vụ vi phạm chưa kiên quyết.
5. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của nước ta so với 1 số nước trong khu vực
*Bảng so sánh quốc tế về cơ cấu nền kinh tế ( số liệu năm 2003)
Đơn vị: %
Tên Nước
Nông nghiệp
Công nghiệp
Dịch vụ
Việt Nam
23,0
39,0
38,0
Trung Quốc
15,0
53,0
32,0
Philippin
14,0
32,5
53,5
Inđônêxia
17,0
44,0
40,0
Malaixia
9,0
49,0
42,0
Thái Lan
9,0
41,0
50,0
Hàn Quốc
3,0
35,0
62,0
Xingapo
0,0
35,0
65,0
Nguồn số liệu: Bộ Kế Hoạch và Đâu Tư
CHƯƠNG III: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN KẾ HOẠCH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ THỜI KỲ 2006 - 2010
I. Những thuận lợi, khó khăn trong thời kỳ kế hoạch 2006 - 2010
1. Thuận lợi
1.1 Trong nước
Những thành tựu của 5 năm qua (2001 – 2005) và 20 năm đổi mới (1986 – 2005) làm cho thế và lực nước ta mạnh lên nhiều; đất nước tiếp tục giữ vững ổn định chính trị, kinh té và xã hội, tạo niềm tin cho toàn dân, các doanh nghiệp và các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với hội nhập kinh tế quốc tế bước đầu hình thành và vận hành có hiệu quả. Những cơ chế chính sách ban hành đã đi vào cuộc sống, phát huy tính tích cực, thu hút cao hơn các nguồn vốn đầu tư toàn xã hội, nguồn nội lực được khai thác cao, chiếm trên 60% tổng nguồn lực phát triển: do đó đã chủ động đầu tư hướng vào các mục tiêu then chốt, nhất là đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Tư duy kinh tế đã có bước chuyển biến mạnh mẽ và được thể hiện ở nghị quyết lần thứ 9, ban chấp hành trung ương Đảng khoá IX, tạo điều kiện thuận lợi để có thể hoạch định các cơ chế, chính sách thông thoáng hơn trong việc thu hút các nguồn lực và cải thiện môi trường đầu tư , đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế.
Cơ cấu kinh tế đã có sự chuyển dịch tích cực theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thế mạnh của từng vùng, từng ngành đã được phát huy; chất lượng tăng trưởng được cải thiện; các doanh nghiệp và toàn nền kinh tế đã thích nghi ngày càng tốt hơn với thị trường quốc tế.
Đặc biệt lĩnh vực dịch vụ còn dư địa rất lớn để có thể phát triển vượt trội, tạo điều kiện tăng nhanh hiệu quả và sức cạnh tranh của các sản phẩm và toàn nền kinh tế.
Kinh tế vùng đã phát huy các lợi thế so sánh, các vùng động lực đã từng bước phát huy vai trò trung tâm của vùng; tạo sự liên kết với các vùng khác và hỗ trợ các vùng khó khăn phát triển tốt hơn.
Mối quan hệ kinh tế quốc tế được củng cố và phảt triển, hàng xuât khẩu của Việt Nam đã đứng vững trên nhiều thị trường và có triển vọng được mở rộng. Tiến trình hồi nhập kinh tế thế giới chủ động, việc thực hiện các hiệp định thương mại song phương và đa phương, việc trở thành thành viên đầy đủ của tổ chức thương mại thế giới WTO... sẽ tạo điều kiện phát huy tốt hơn những thế mạnh, tạo ra thế phát triển mới cho đất nước.
Bên cạnh đó, những kết quả tích cực đạt được trong tiến trình cải cách hành chính thời gian qua, nhất là những cải cách thể chế kinh tế, đổi mới bộ máy, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ... đã có những tác động tích cực trong việc điều hành thực hiện các mục tiêu của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, làm cho chất lượng phát triển của đất nước không ngừng được cải thiện qua các năm.
1.2. Quốc tế
Tình hình kinh tế chính trị thế giới và khu vực mặc dù có thể có những biến động phức tạp ngoài dự kiến, nhưng dự báo chiều hướng chung về cơ bản sẽ phát triển theo hướng tác động tích cực đến nền kinh tế xã hội nước ta.
Hoà bình, ổn định, hợp tác để phát triển vẫn là xu thế lớn của thế giới và khu vực. Kinh tế thế giới có khả năng phát triển với tốc độ cao hơn trước, trong đó châu Á – Thái Bình Dương vẫn là khu vực phát triển nhất.
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, sẽ tiếp tục phát triển theo chiều hướng sâu, ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, có những tác động rộng lớn đến việc cơ cấu lại nền kinh tế thế giới thoe khả năng tiếp thu trình độ công nghệ của mỗi nền kinh tế, theo đó là sự phân công lao động toàn cầu, có tác động thúc đẩy kinh tế thế giới phát triển. Xây dựng và phát triển nền kinh tế tri thức sẽ tiếp tục là ưu tiên trong chính sách phát triển của nhiều nước, nhất là tại các nước công nghiệp phát triển. Chúng ta cần tranh thủ tối đa sự chuyển giao công nghệ, tăng nhanh khả năng và những điều kiện cần thiết cho việc tiếp nhận và làm chủ công nghệ mới, gắn kết chặt chẽ khoa học và công nghệ với sản xuất kinh doanh, tổ chức quản lý và với mọi hoạt động của con người.
Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế gắn với tự do thương mại sẽ được đẩy mạnh; đầu tư, lưu chuyển hàng hoá và dịch vụ, lao động và vốn ngày càng được mở rộng. Vấn đề đặt ra đối với chúng ta là phải có các chính sách phù hợp để điều hành linh hoạt hơn để tận dụng thời cơ mới quả toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế, vượt qua thách thức, hạn chế tác động tiêu cực, nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh, từng bước khắc phục nguy cơ tụt hậu về kinh tế. Trước mắt cần đẩy mạnh đàm phán ra nhập WTO để nhanh chóng trở thành thành viên chính thức của WTO; điều đó sẽ tạo diều kiện tốt hơn trong việc tận dụng tốt các cơ hội thuận lợi của bối cảnh quốc tế tạo ra, mở rộng khả năng hợp tác kinh tế quốc tế toàn diện, khai thac lợi thế so sánh, tranh thủ nguồn lực bên ngoài để phát huy tốt hơn nội lực, tạo thành sức mạnh tổng hợp để phát triển đất nước.
2. Khó khăn
2.1 Trong nước
Thách thức lớn nhất hiện nay là sức mạnh cạnh tranh và khả năng hội nhập kinh tế quốc tế của các doanh nghiệp và toàn nền kinh tế còn thấp so với yêu cầu và so với mặt bằng chung của thế giới, trong khi đó lộ trình thực hiện đầy đủ các cam kết WTO, AFTA và các hiệp định quốc tế khác đang và sẽ tạo ra những sức ép cạnh tranh rất lớn đối với các doanh nghiệp.
Cơ cấu sản xuất trong từng ngành, từng lĩnh vực, từng vùng chưa chuyển dịch kịp thời theo sự biến động nhanh của nhu cầu thị trường trong nước và quốc tế. Kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội chưa đáp ứng yều cầu phát triển. Trình độ công nghệ và năng lực tiếp nhận chuyển giao công nghệ nhìn chung còn lạc hậu khá xa so với các nước trong khu vực.
Một số lĩnh vực xã hội còn nhiều yếu kém nhưng việc sử lý rất khó khăn. Chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu phát triển trong giai đoạn mới, Đời sống nhân dân ở vùng xâu, vùng xa, vùng thường bị thiên tai còn nhiều khó khăn; tệ nạn xã hội còn nhiều nghiêm trọng; trật tự, an ninh ở một số vùn chưa tốt.
Công tác cải cách hành chính được tiến hành chậm; tình trạng tham nhũng vẫn chưa được ngăn chặn.
Mặt khác quy mô nền kinh tế còn nhỏ bé, hệ thống tài chính tiền tệ còn những yếu kém, bất cập, nước ta vẫn đang đứng trước nguy cơ tụt hậu so với các nước trong khu vực và thế giới. Đây là một thách thức rất lớn.
2.2 Quốc tế
Tình hình chính trị thế giới còn chứa đựng nhiều yếu tố phức tạp khó lường.
Trước hết, xung đột cục bộ, khủng bố và những bất ổn khác vẫn có thể xảy ra đối với một số khu vực ảnh hưởng rất lớn đến an ninh toàn cầu. Các nước lớn tăng cường áp đặt thế lực của mình tới các nước đang phát triển và phân chia vùng ảnh hưởng của thị trường.
Bên cạnh đó, xu hướng ký kết các hiệp định tự do thương mại song phương và khu vực, đặc biết giữa các nước phát triển với nhau cũng là một thách thức rất lớn cho các nước chậm phát triển và đang phát triển. Xu thế này sẽ càng làm cho các nước nghèo và kém phát triển bị gạt ra ngoài lề của sự phát triển chung, nhất là trong hệ thống thương mại quốc tế; các rào cản kỹ thuật, rào cản thương mại gây ra những bất lợi cho hang nông sản, hàng công nghiệp sơ chế với chi phí sản xuất còn lớn. Điều đó sẽ làm tăng sức ép với nền kinh tế của những nước đang phát triển và kém phát triển.
Toàn cầu hoá sẽ làm tăng sức ép cạnh tranh, nhất là sức ép đối với những nước có trình độ còn thấp như nước ta. Sự cạnh tranh kinh tế - thương mại, cạnh tranh thu hút vốn đầu tư và công nghệ ngày càng trở nên gay gắt. Các thị trường tài chính, tiền tệ và giá cả có nhiều khả năng sẽ diễn biến phức tạp hơn. Giá cà thế giới trong một số mặt hàng chủ yếu có tác động mạnh đến kinh tế toàn cầu như năng lượng, nguyên liệu... có thể có những đột biến và phản ứng dây chuyền bất lợi đối với các nước có nền kinh tế còn nhỏ, kém phát triển. Chính sách tỷ giá, lãi suất của các đối tác lớn đều có những tác động rất mạnh đến nền kinh tế nước ta.
Ngoài ra, các vấn đề mang tình toàn cầu như dịch bệnh, ô nhiễm môi trường, khan hiếm các nguồn nguyên liệu, khoảng cách giàu nghèo,... sẽ trở nên gay gắt hơn, tác động mạnh và đa chiều đến sự phát triển và hiều quả của nền kinh tế xã hội nước ta.
II. Quan điểm, định hướng và nội dung của kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thời kỳ 2006 - 2010
1. Quan điểm
1.1 Chuyển dịch cơ cấu ngành gắn liền với tiến trình hội nhập kinh tế của đất nước.
Các mốc quan trọng cho việc mở rộng cửa kinh tế và tự do hoá thương mại ở Việt Nam và bước chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là vào năm 2006, 2010 và 2020. Các mốc này phù hợp với kế hoạch 5 năm đầu thế kỷ 21, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2010 và mục tiêu đưa đất nước cơ bản trở thành công nghiệp hoá vào năm 2020.
1.2 Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế phải dựa trên hiệu quả và lợi ích của toàn bộ nền kinh tế quốc dân
Để diều chỉnh ngành kinh tế phù hợp với xu thế hội nhập sẽ có những ngành, những doanh nghiệp nâng cao được khả năng cạnh tranh, đứng vững trên thị trường trong và ngoài nước. Ngược lại cũng có những ngành những doanh nghiệp phải thu hẹp hoặc chuyển hướng sản xuất kinh doanh. Trong mọi trương hợp cần đặt lợi ích của tổng thể nền kinh tế lên trên lợi ích của từng ngành, từng địa phườn khi đưa ra những quyết định. Nhà nước cần giữ vai trò là người điều hoà các nguồn lợi có trong quá trình hội nhập để có những hỗ trợ cần thiết cho các ngành, các doanh nghiệp phải cần thiết điều chỉnh cơ cấu.
Trong quá trình chuyển dịch cơ cấu, trước mắt có ngành cần bảo hộ. Nhưng việc bảo hộ phải đảm bảo nguyên tắc. Bảo hộ có thời hạn, có điều kiện, có định hướng; cần yêu cầu các ngành hàng, các doanh nghiệp được bảo hộ phải có những chương trình, biện pháp cụ thể để từng bước nâng cao năng lực cạnh tranh và có thể đứng vững trên thị trường khi chấm dứt bảo hộ.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế đòi hòi phải tiến hành từng bước với sự nỗ lực đồng bộ của các ngành, các cấp và cả người lao động trong việc huy động sức người, sức của vào tổ chức thực hiện. Trước mắt cần khẩn trương triển khai đưa vào nội dung của chiến lược phát triển kinh tế xã hội, kế hoạch 5 năm và hàng năm. Hội nhập kinh tế và chuyển dịch cơ cấu cần được tiến hành theo các chương trình kế hoạch với các bước đi vững chắc.
1.3 Chuyển dịch cơ cấu ngành cần kết hợp với cơ cấu thành phần và cơ cấu vùng – lãnh thổ
Cơ cấu ngành kết hợp với cơ cấu thành phần thể hiện ở việc sử dụng các chính sách, biện pháp động viên sự phát triển của các thành phần kinh tế để thu hút tối đa và sử dụng có hiều quả các nguồn lực của đất nước. Cơ cấu ngành gắn với cơ cấu vùng – lãnh thổ thông qua việc xây dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất, các trung tâm công nghiệp, vừa tạo động lực cho phát triển kinh tế, vừa tạo điều kiện để đô thị hoá nông thôn; cần chú ý phát triển công nghiệp trung ương với phát triển công nghiệp địa phương và công nghiệp nông thôn theo hướng phát huy thế mạnh của mỗi vùng, mỗi địa phương, thực hiện chuyển đổi cơ cấu lao động tại chỗ.
2. Nội dung
2.1 Mục tiêu chung
Đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, thu nhập thấp. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá; nâng cao rõ rệt chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế; phát triển mạnh mẽ khoa học và công nghệ cải thiện một bước đáng kể trình độ công nghệ trong nền kinh tế quốc dân. Nâng cao rõ rệt chất lượng giáo dục và đào tạo và nguồn năng lực. Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, khai thác có hiều quả các quan hệ kinh tế đối ngoại. Phát triển văn hoá, xã hội đông bộ với tăng trưởng kinh tế. Không ngừng cải thiện đời sống nhân dân, tiếp tục thực hiện xoá đối giảm nghèo, tạo thêm nhiều việc làm, giảm rõ rệt các tệ nạn xã hội. Phát triển và hoàn thiện từng bước kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội. Đẩy nhanh việc xây dựng đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Giữ vững ổn định chính trị và trậ tự an toàn xã hội, bào vệ vững chắc độc lập chủ quyến, toàn vẹn lãnh thổ và an nnh quốc gia. Nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế.
2.2 Các chỉ tiêu kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thời kỳ 2006 – 2010
Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm cao hơn kế hoạch 5 năm trước và có chuẩn bị cho 5 năm tiếp theo. Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, tăng nhanh hàm lượng cộng nghệ trong sản phẩm.
Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm thời kỳ 5 năm 2006 – 2010 đạt 7,5 – 8% trong đó nông, lâm, ngư ngiệp tăng 3 – 3,2%, công nghiệp và xây dựng tăng 10 – 10,2%, dịch vụ tăng 7,7 – 8,2%.
Cơ cấu các ngành kinh tế trong GDP đến năm 2010 dự kiến: nông, lâm nghiệp và thuỷ sản khoảng 15 – 16%; công nghiệp và xây dựng khoảng 42 – 43%; dịch vụ khoảng 41 – 42%.
III. Giải pháp thực hiện
Giải pháp phân theo nhóm ngành
Nhóm ngành có năng lực cạnh tranh
Đây là các ngành có lợi thế so sánh dựa trên nguồn tài nguyên thiên nhiên là nguồ lao động, chủ yếu là ngành nông nghiệp - thuỷ sản như gạo, cà phê, điều, chè, cao su tự nhiên, thuỷ sản và các ngành công nghiệo dệt may, da giày. Tuy nhiên , lợi thế của những ngành này về giá rẻ đang bị thu hẹp dần sau khủng hoảng tài chính khu vực với sự mất giá của các đồng bản tệ ở nhiều nước. Cũng có nguy cơ những lợi thế so sánh này tiếp tục giảm sủt trong những năm tới khi các nước trong khu vực phcụ hồi nền kinh tế.
Tận dụng được lợi thế so sánh, thời gian qua Việt Nam chủ yếu xuất khẩu những mặt hàng trên. Đối với hầu hết các măt hàng này, khả năng xuất khẩu chưa dật đến mức giới hạn, trừ mặt hàng may mặc hiện đang phụ thuộc vào hạn ngạch của các nước nhập khẩu và gạo chịu hạn ngạch với lí do an ninh lương thực. Đay là nhóm ngành ít bị ảnh hưởng của việc hội nhập kinh tế quốc tế, mà ngược lại còn là cơ hội tốt để mở rộng thị trường quốc tế với nhu cầu tiêu dùng tương đối ổn định (đa số các mặt hàng là tiêu dùng hằng ngày). Tuy nhiên giá trị gia tăng đựôc tạo ra trong nhóm ngành này không cao, do đó cần chú ý giảm giá thành sản phẩm.
Để nâng cao khả năng cạnh tranh, mở rộng thị trường đối với những mặt hàng có thế mạnh xuất khẩu, việc chuyển dịch cơ cấu của từng ngành trong nhóm này cần tập trung vào các công việc sau:
- Xây dựng chiến lược thị trường xuất khẩu, đa dạng hoá thị trường, đảm bảo thị trường dài có quy mô thích hợp. Xây dựng hệ thống thông tin, dự báo biến động của thị trường. Thành lập trung tâm xúc tirns thương mại đối với từng mặt hàng.
Hoàn thiện hệ thống chính sách thương mại và cơ chế điều hành xuất nhập khẩu theo hướng hạn chế sủ dụng các biện pháp hành chính đơn thuần; đon giản hoá và rút ngắn thời gian làm các thủ tục liên quan đến hoạt động sản xuất- nhập khẩu nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp.
Nâng cấp hạ tầng cơ sở, bao gồm cả hệ thống dịch vụ chuyên môn có liên quan như ngân hàng, tư vấn quản lí và tư vấn pháp luật.
Nâng cao công nghệ đối với toàn bộ quá trình sản xuất, chế biến, vận chuyển, dịch vụ. Chú trọng tính chất đồng bộ trong đầu tư giữa các khâu sản xuất, chế bién, cung cấp nguyên liệu. Việc cắt giảm thuế quan có thể tiến hành với tốc độ nhanh, trong thời gian ngắn với nguyên tắc hàng sơ chế chịu thuế quan thấp hơn hàng chế phẩm; Nguyên liệu chịu thuế thấp hơn thành phẩm; nhưng mức chênh lệch thuế này là thấp.
1.2. Nhóm hàng có khả năng trong tương lai với điều kiện được hỗ trợ có thời gian và tích cực nâng cao năng lực cạnh tranh
Đây là nhóm ngành hàng trước mắt còn gặp nhiều khó khăn trong việc cạnh tranh với hàng nhập khẩu, nhưng có khả năng nâng cao được cạnh tranh nếu hiện tại được huưởng những hỗ trợ nhất định. Đa số trong nhóm này là các ngành công nghiệp chế biến như rau quả - thực phẩm chế biến, điện- điện tử, cơ khí, hoá chất, xi măng.
Để nâng cao khả năng cạnh tranh của nhóm mặt hàng này, giữ vững và mở rộng thị phần trong nước so với mặt hàng nhập khẩu, cần xác định đúng hướng phát triển và áp dụng các biện pháp hỗ trợ thích hợp, kịp thời cùng với mức độ bảo hộ hợp lí, các giải pháp cần thực hiện là:
Xây dựng chiến lược phát triển dựa trên cơ sở phân tích các thế mạnh cũng như điểm yếu so với sản phẩm xuất khẩu.
Hỗ trợ đổi mới công nghệ, chú trọng đầu tư chiều sâu. Thành lập trung tâm công nghệ ở các thành phố lớn, các khu công nghiệp. Hỗ trợ hoạt đọng nghiên cứu và phát triển đối với các sản phẩm thông qua trung tâm công nghệ, các tổng công ty và doanh nghiệp.
Thực hiện chế độ bảo hộ ở mức trung bình đối với các ngành như hoá chất, xi măng... và bảo hộ cao với điện- điện tử, cơ khí.
Cải thiện môi trường đầu tư để mở rộng khả năng thu hút vốn từ nhiều nguồn, cả nguồn trong nước và ngoài nước như miễn thuế đối với máy móc, thiết bị xây dựng cơ bản hình thành dự án, miễn thuế nhập khẩu nguyên liệu thô cho các dự án thuộc khu vực khuyến khích.
Thực hiện yêu cầu nội địa hoá thông qua biện pháp thuế quan, đơn giản hoá thủ tục hải quan, rút ngắn thời gian cấp phép đầu tư, cải thiện thủ tục cấp giấy phép lao dộng đối với lao động nứơc ngoài.
Khu vực dịch vụ nói chung cũng có thể sắp xếp vào nhóm hàng có khả năng cạnh tranh có điều kiện, Mặc dù có những điểm chung như chú trọng công tác đào tạo, nâng cao khả năng quản lí và lao động, áp dụng những tiêu chuẩn vào thông lệ quốc tế...Nhưng việc chuyển dịch cơ cấu có nhưngx đặc thù riêng:
Một số lĩnh vực dịch vụ đòi hỏi nhièu vốn, công nghệ hiện đại; Một số mang tính độc quyền cao; Một số lại nhạy cảm với các vấn đề chủ quyền quốc gia và bản sắc dân tộc... Do vậy, cần có những nghiên cứu cụ thể, trước hết là những lĩnh vực dịch vụ đã cam kết hợp tác trong ASEAN; hàng không, kinh doanh dịch vụ, tài chính, vận tải biển, viễn thông và du lịch.
Nhóm ngành hàng hiện đại, khả năng cạnh tranh thấp, đây chủ yếu là những ngành hàng đòi hỏi vốn đầu tư lớn, công nghệ hiện đại là ít phụ thuọcc vào lao động và điều kiện tự nhiên. Hiện tại với nguồn vốn hạn ché, công nghệ lac hậu là những khó khăn cho việc nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm như công nghiệp giấy, đường, luyện kim, hoá chất. Do đó, những ngành thuộc nhóm này càn có những biện pháp thúc đẩy nhanh việc chuyển dịch cơ cấu. Trước mắt cần tập trung vào:
Đầu tư đồng bộ các ngành sản xuất cụ thể để có thể sản xuất được các thiết bị chính xác. Đào tạo đội ngũ cán bộ kỹ thuật có trình độ cao và công nhân lành nghề.
Khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công nghệ tiên tiến.
Duy trì bảo hộ ở mức thấp
Điều cần chú ý là cách phân nhóm theo ba loại trên chỉ ó tính chất tương đối, trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế có thể chuyển hoá khả năng cạnh tranh giưũa các ngành.
Giải pháp chung
Giải pháp tài chính
Giải pháp công nghệ:
Khuyến khích phát triển thị trường công nghệ:
Phát triển mạnh thị trường khoa học và công nghệ để góp phần nhanh chóng nâng cao sức mạnh cạnh tranh của doanh nghiệp. Ban hành các cơ chế, chính sách tạo điều kiện để sản phẩm khoa học thực sự trở thành hàng hoá
Hoàn thiện 1 bước khung khổ pháp luật về sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ, hợp đồng khoa học và công nghệ nhằm bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ, quyền công bố, trao đổi, chuyển giao, chuyển nhượng kết quả nghiên cứu. Xây dựng luật sở hữu trí tuệ. Khuyến khích các tổ chức khoa học và công nghệ tham gia các thực hiện giao dịch chính thức trên thị trường khoa học và công nghệ.
Đổi mới cơ chế hoạt độngcủa các tổ chức nghiên cứu và triển khai theo hướng chuyển sang hoạt động như 1 donah nghiệp phi lợi nhuận.
Thúc đẩy nhu cầu đổi mới công nghệ và đầu tư đầu tư đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp bằng các chính sách hay hoạt động nghiên cứu ở cả trong và ngoài nước.
Đơn giản hoá các thủ tục hành chính, giảm thuế, giảm chi phí giao dịch đối với các hoạt động chuyển giao công nghệ.
Hình thành hệ thống thông tin khoa học công nghệ trong nước, ngoài nước và tạo điều kiện để mọi cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp có thể được tiếp cận thuân lợi. Đẩy nhanh việc hình thành và phát triển thị trường công nghệ thông tin và bưu chính- viễn thông. Phổ biến rộng rãi thông tin và kiến thức cơ bản về sở hữu trí tuệ, đăng kí bản quyền và khuyến khích mọi cá nhân. tổ chức có sản phẩm khoa học công nghệ đăng kí bản quyền và sở hữu công nghiệp tại các cơ quan có thẩm quyền.
Tạo điều kiện để hình thàn các tổ chức tư vấn, dịch vụ công nghệ thuộc mọi thành phần kinh tế. Tổ chức thường kì các hội chợ “công nghệ”, hội thảo nhằm trao đổi, giới thiệu những thành tựu công nghệ của Việt nam cũng như công nghệ của nước ngoài.
Giả pháp thị trường
Giải pháp nguồn nhân lực
Thúc đẩy và tạo điều kiện phát triẻn thị trường lao động. Phát triển nguồn nhân lực và đổi mới phương thức sử dụng lao động là giải pháp vừa cấp bách, vừa cơ bản lâu dài và có hiệu quả cao phục vụ cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế hướng về xuất khẩu trong điều kiện khu vực hoá, toàn cầu hoá của nước ta. Một số biện pháp trong thời gian tới sẽ là:
Đổi mới hệ thống đào tạo theo hướng mở rộng giáo dục phổ thông, đại học, đặc biệt là phát triển dạy nghề, chú trọng chất lượng giáo dục, đổi mới giáo trình thích hợp với quốc tế.
phát triển mạnh thị trường lao động về mọi mặt
Phấn đấu nâng dần tỉ lệ chi cho giáo dục và đào tạo. Tạo điều kiện và khuyến khích sự đóng góp của nhân dân vào sự nghiệp giáo dục bằng nhiều hình thức phù hợp
Đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo ng theo hướng giảm tỷ trọng lao động trong khu vực nông nghiệp tăng tỷ trọng lao động trong khu vực công nghiệp, xây dựng và dịch vụ
Đa dạng hoá các hình thức giao dịch trên thị trường lao động; hỗ trợ nâng cao năng lực của các trung tâm giới thiệu việc làm, các hội chợ việc làm. Tạo điều kiện và khuyến khích người lao động tự tạo việc làm, mở rộng thị trường lao động ở nước ngoài, đẩy mạnh xuất khẩu lao động
Tiếp tục cải cách hệ thống bảo hiểm xâ hội, đặc biệt là bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm mất việc làm, tạo sự bình đẳng về cơ hội được bảo hiểm xã hội đối với người lao động trong các thành phần kinh tế, giải quyết thoả đáng quyền lợi của người lao động và người sử dụng lao động.
Giải pháp cơ cấu vốn đầu tư
-Đổi mới cơ cấu đầu tư gắn liền với việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nhà nước và kết hợp hài hoà giữa nguồn vốn trong nước và vốn nước ngoài. Đối với vốn đầu tư nhà nước, chỉ nên tập trung vào các ngành then chốt của nền kinh tế, những ngành có tính đột phá cao, tạo đà cho các ngành khác phát triển.
- Xã hội hoá đầu tư thông qua hình thành các dự án đầu tư nhà nước hoặc tư nhân lớn và kêu gọi cổ phần đầu tư từ tất cả những đối tác có khả năng và nhu cầu đầu tư. Khuyến khích BOT bằng nguồn vốn trong nước.
- Coi trọng quan hệ cung cầu trong nền king tế thị trường. Trong quá trình xây dựng cơ cấu đầu tư hợp lí phải coi trọng các yếu tố thị trường. Các cơ quan quản lí nhà nước trong lĩnh vực đầu tư không nên can thiệp quá sâu vào hoạt động đầu tư cụ thể mà tập trung sức làm tốt việc dự báo, cung cấp thông tin kinh tế, định hưóng đầu tư, kiểm tra công tác quản lí đầu tư ở cơ sở.
- Xây dựng và nâng cao chất lượng quy hoạch đầu tư tổng thể với một cơ cấu hợp lí về mọi mặt.
- Phát triển cơ sở hạ tầng là điều kiện tiên quyết để khai thác và làm tăng giá trị các nguồn lục tiềm năng của đất nước
- Phát triểtn cơ chế huy động vốn đầu tư tư nhân. Cho phép lập các hiệp hội doanh nghiệp tư nhân ở các cấp, các địa phương và các ngành sản xuất, lập những thể chế trung gian cầu nối giữa chính phủ và giới doanh nghiệp để tăng quan hệ thông hiểu và hỗ trợ cập nhật tin tức kinh doanh và quản lí. Lập các trung tâm và hỗ trợ kinh doanh để giáp đỡ các doanh nghiệp thâm nhập thị trường quốc tế.
- Nhanh chóng đồng nhất và cải thiện môi trường kinh doanh để tạo điều kiện như nhau và thuận lợi nhất cho việc khai thác các nguồn vốn đầu tư phát triển trong các thành phần kinh tế và dân cư.
Tóm lại cơ sở đổi mới cơ cấu đầu tư là phải đáp ứng được mục tiêu công nghiệp hoas theo hướng xuất khẩu và hội nhập hiện đại hoá đất nước với trọng tâm là giải pgóng sức sản xuất, động viên tối đa mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài cho đẩu tư phát triẻn. Đồng thời, cần tận dụng lợi thế so sánh, tăng năng lực cạnh tranh của hàng hoá Việt nam trên thị trường quốc tế. chủ động hội nhập khu vực và thế giới 1 cách có hiệu quả.
Giải pháp chủ động hôi nhập kinh tế quốc tế.
Hội nhập quốc tế là một cách chủ động và tích cực là giải pháp quan trọng để chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hướng về xuất khẩu. Có hội nhập quốc tế, chúng ta mới biết được sản phẩm và dịch vụ nào có hiệu quả kinh tế, có lợi thế. Cái gì bán được, cái gì không bán được để diều chỉnh sản xuất cho phù hợp, Điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo tín hiệu “đích thực” của thị trường, theo nguyen tắc thị trường sẽ làm cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế có hiệu quả, hạn chế được các sai lầm chủ quan, duy ý chí mà các quy hoạch, kế hoạch khó tránh khỏi.
*DANH MỤC TAI LIỆU THAM KHẢO:
- Cuốn: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam trong những năm đầu của thế kỷ 21. Của Nhà xuất bản khoa học xã hội năm 2004
-Giáo trình Dự báo và phát triển kinh tế - xã hội của Trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân do nhà xuất bản thống kê xuất bản năm 2003
- Giáo trình kế hoạch hoá phát triển kinh tế - xã hội của trường Đại hoc Kinh Tế Quốc Dân do nàh xuất bản thống kê xuất bản năm 2002
- Cuốn Dự thảo Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 – 2010, của Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư (Tháng 6-2005)
- Cuốn báo cáo khung định hướng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010, của Bộ kế Hoạch và dầu Tư (tháng 5 – 2004)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28088.doc