Trên đây là toàn bộ nội dung của đề tài: “Kế hoạch huy động vốn đầu tư thời kỳ 2001-2005 và các giải pháp thực hiện”. Đây là một đề tài có nội dung và phạm vi rất khó khăn và rộng lớn, nó cũng rất thú vị và hấp dẫn. Qua bài viết em hiểu sâu sắc và kỹ hơn về bản chất, vai trò của vốn đầu tư trong phát triển kinh tế xã hội.
Vốn đầu tư là yếu tố vật chất quyết định tốc độ trưởng kinh tế. Với chính sách sử dụng vốn hợp lý của Đảng và Nhà nước nước ta đã giúp cho quá trình thực hiện chiến lược 2001-2005 đạt đựơc những thành tựu to lớn và quan trọng.
Sau mấy năm đầu thực hiện chiến lược đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội. Tang sản phẩm trong nước đã , tốc độ tổng sản phẩm trong nước (GDP ) ước đạt bình quân 7.1% ( kế hoạch 2001-2005 là 7.5%) cơ cấu lao động có sự dịch chuyển theo hướng tích cực. Tỷ trọng lao động trong ngành công nghiệp và xây dựng đã từ 14.4 % trong tổng số lao động năm 2001 lên 15.9% năm 2003, tỷ trọng lao động trong ngành nông- lâm- ngư nghiệp từ 62.8 % giảm xuống còn 59.8%, tỷ trọng lao động ngành dịch vụ từ 22.8% lên 24.3%, tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống 12%, tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi còn 28%, tỷ lệ hộ được dùng nước sạch ở nông thôn 54% ( kế hoạch 5 năm là 60%) ba năm qua tạo việc làm mới cho khoảng 4.3 triệu lao động ( kế hoạch 5 năm là 7.5 triệu lao động) đã đưa 13.7 vạn người đi làm việc ở nước ngoài, chuyển dịch cơ cấu kinh tế được đẩy nhanh.
Cùng với sự phát triển của quá trình lao động quốc tế hoá đời sống kinh tế, vốn nước ngoài đang trở thành một hoạt động kinh tế đối ngoại ngày càng có vai trò to lớn trong quá trình phát triển của nền kinh tế thế giới nới chung và Việt Nam nói riêng.
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Kê hoạch huy động vốn đầu tư thời kỳ 2001-2005 và các giải pháp thực hiện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phấn đấu đến năm 2005 đạt khoảng 2.2 triệu tấn, dự kiến sản lượng phân Urê năm 2005 vào khoảng 80-90 vạn tấn.
Ngành thép, đầu tư xây dựng mới 1-2 cơ sở sản xuất phôi thép, nâng sản lượng sản xuất phôi từ 40 vạn tấn năm 2000 lên 1-1.4 triệu tấn năm 2005. Đến năm 2005 sản lượng thép cán các loại vào khoảng 2.7 triệu tấn.
Ngành nông nghiệp
Chuyển đổi nhanh tróng cơ cấu sản xuất nông nghiệp, xây dựng các vùng sản xuất hàng hoá chuyên canh phù hợp với tiềm năng và lợi thế khí hậu, đất đai và lao động của từng vùng, từng địa phương
Tiếp tục đẩy mạnh sản xuất lương thực theo hướng thâm canh, năng suất và nhanh lúa đặc sản, chất lượng cao. Sản lượng luơng thực có hạt năm 2005 dự kiến 37 triệu tấn, đảm bảo an ning luơng thực quốc gia.
Phát triển chăn nuôi, dự kiến năm 2005, sản lượng thịt hơi các loại khoảng 2.5 triệu tấn, hướng chính là tổ chức lại sản xuất, khuyết khích phát triển hộ hoặc nông trại chăn nuôi quy mô lớn.
Tập trung phát triển các cây công nghiệp chủ lực có khả năng cạnh tranh như cao su, cà phê, chè, điều…
Bảo vệ và phát triển rừng, tiếp tục thực hiện dự án 5 triệu ha rừng. Trồng mới 1.3 triệu ha rừng tập trung, nâng độ che phủ rừng lên khoảng 38-39 % vào năm 2005
Phát triển khai thác hải sản xa bờ và điều chỉnh nghề cá ven bờ hợp lý, phấn đấu đạt sản lượng thuỷ sản năm 2005 vào khoảng 2.4 triệu tấn, giá trị xuất khẩu thuỷ sản khoảng 2.5 tỷ USD .
Phát triển mạng lưới thuỷ lợi, bảo đảm tạo đất, thâm canh vụ và khai thác các vùng đất mới. Phấn đấu đến năm 2005, đưa năng lực tưới lên 6.5 triệu ha gieo trồng lúa và 1.5 triệu ha rau mầu, cây công nghiệp ( 60 vạn ha)
Đưa giá trị sản xuất nông, lâm ngư nghiệp bình quân 4.8 % /năm. Đến năm 2005, ngành nông nghiệp chiếm khoảng 75- 76% giá trị sản xuất toàn ngành, lâm nghiệp khoảng 5-6%, thuỷ sản khoảng 19-20%.
Ngành dịch vụ
Đa dạng hoá các ngành dịch vụ, mở rộng thị trường tiêu dùng các sản phẩm dịch vụ, đáp ứng tốt nhu cầu phát triển kinh tế và đời sống xã hội.
Phát triển thương mại, cả nội thương và ngoại thương, bảo đảm hàng hoá lưu thông thông suốt trong thị trường nội địa và giao lưu buôn bán với nước ngoài. Tang mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ trên thị trường khoảng 11-14 %/năm
Nâng cao chất lượng, quy mô và hiệu quả hoạt động du lịch. Liên kết chặt chẽ các ngành liên quan đến hoạt động du lịch để đầu tư phát triển một số khu du lịch tổng hợp và trọng điểm.
Nâng cao chất lượng, hàng hoá trên tất cả các loại vùng vận tải. Nâng tỷ lệ thị phần vận tải quốc tế bằng hàng không, đường biển…khối lượng luân chuyển hàng hoá từ 9-10%/năm. Nâng cao chất lượng bưu chính viễn thông. Năm 2005 mật độ điện thoại đạt 7-8 máy /100 dân, phổ cập dịch vụ điện thoại đến 100% số xã trong toàn quốc.
Phát triển nhanh các loại hình dịch vụ tài chính, ngân hàng kiểm toán, dịch vụ trí tuệ, tin học, dịch vụ kỹ thuật, dịch vụ y tế, giáo dục và đào tạo, thể dục thể thao.
Nhịp độ trưởng bình quân giá trị gia các ngành dịch vụ trên 7,5%/năm
2- Nhu cầu vốn đầu tư thời kỳ 2001-2005
nhu cầu.
Dự kiến tổng nhu cầu đầu tư toàn xã hội năm 2001-2005 ( giá năm 2000)
1996-2000
2001-2005
% so với
1996-2000
Tang số (nghìn tỷ đồng VN)
% so với tổng số
Tang số (nghìn tỷ đồng VN)
% so với tổng số
Tổng vốn đầu tư
555
100
840
100
53
Tỷ lệ vốn đầu tư/GDP %
28-29
31-32
1-nguồn vốn trong nước
339
61
554
66
63.8
2- nguồn vốn nước ngoài
216
39
286
34
31.9
Như vậy, tổng vốn đầu tư thời kỳ 2001-2005 đã lên so với thời kỳ kế hoạch 1996-2000. Điều đó chính tỏ ngoài yếu tố chính sách quản lý thì sự lên của vốn đầu tư là yếu tố quyết định tốc độ trưởng kinh tế đến lượt nó lại có ý nghĩa gia vốn đầu tư xét trên cả hai mặt trưởng cao- tiền đề gia đầu tư và trưởng kinh tế cao hơn sẽ có sức thu hút vốn đầu tư.
Cơ cấu theo nguồn lao động.
Vốn đầu tư Nhà nước
Đóng góp vào tổng đầu tư xã hội cũng như sự lên của tổng vốn là nguồn vốn Nhà nước. Đây là nguồn vốn đã chiếm trên dưới 60% trong vài năm nay, đã góp phần quan trọng vào việc hình thành nên các công trình trọng điểm của đất nước, có tác dụng chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đầu tư vào các lĩnh vực mà các thành phần kinh tế khác không muốn làm hoặc không làm đựơc và có tác dụng như một nguồn vốn mới để thu hút các nguồn vốn khác. Hơn thế nữa, đây cũng là nguồn vốn mà Nhà nước có thể trực tiếp điều hành theo kế hoạch để thực hiện các mục tiêu đã đề ra.
Nguồn vốn ngân sách Nhà nước gần 10% so với năm 2002, bằng 103% so với kế hoạch. Nguồn vốn tín dụng đầu tư đạt 28.5 nghìn tỷ đồng, đã được tập trung cho các dự án quan trọng thuộc các ngành công nghiệp như các nhà máy thuỷ điện, nhà máy nhiệt điện, nhà máy xi măng, cụm công nghiệp sợi- dệt-nhuôm.
Nguồn vốn ở khu vực tư nhân
Hiện nay Việt nam có khoảng 15 triệu hộ gia đình với thu nhập bình quân 1500- 2000 USD/hộ/năm. Nhiều hộ gia đình là những đơn vị kinh tế năng động trong các lĩnh vực kinh doanh thương mại, dịch vụ.
Chúng ta có trên 3 vạn doanh nghiệp và Nhà nước và khoảng 1.5 triệu hộ kinh doanh cá thể phi nông nghiệp. Vốn của doanh nghiệp ngoài quốc doanh thường nhỏ, từ 10 nghìn USD – 100 nghìn USD, số doanh nghiệp có vốn trên 1 triệu USD rất ít. Vốn của hộ kinh doanh cá thể từ vài ngàn USD đến trên dưới 50.000 USD. Số doanh nghiệp ngoài quốc doanh và hộ kinh doanh cá thể có vốn lớn chủ yếu tập trung ở các thành phố. Tuy nhiên, muốn phát triển mạnh hơn nữa cả về số lượng và nhất là chất lượng thì môi trường kinh doanh cần được nâng lên một trình độ cao hơn nữa, tạo niềm tin vững chắc và tinh thần phấn của các doanh nghiệp.
Có gần 3 triệu việt kiều tập trung ở Mỹ, Canađa, Pháp và Đông Âu với mọi lợi thế chủ yếu là chất xám, song tiềm lực tài chính ở mức trung bình. Gần đây, nhờ nhiều chính sách mới nên một số việt kiều đầu tư về nước đã lên, đóng góp nhiều kinh nghiệp và tạo lập các mối quan hệ thị trường mới cho sản xuất và kinh doanh trong nước
Nguồn vốn của doanh nghiệp Nhà nước: 19-20%
Nguồn vốn của doanh nghiệp Nhà nước đạt 38.5 nghìn tỷ đồng, chiếm gần 17.7% tổng nguồn, 24% so với năm 2002. Trong đó vốn khấu hao khoảng 12 nghìn tỷ đồng, trích từ lợi nhuận sau thuế đưa vào đầu tư khoảng 4 nghìn tỷ đồng, vốn vay thương mại dài hạn trong nước khoảng 13.5 nghìn tỷ đồng và vay thương mại khác 9 nghìn tỷ đồng
Nguồn vốn đầu tư nước ngoài
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 36 nghìn tỷ đồng, chiếm gần 17% tổng nguồn và 5.8% so với năm 2002. Nguồn vốn này được đầu tư chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp ( 84.6%)
Một trong mười sự kiện kinh tế nội bật trong năm 2003 của Việt Nam là việc các nhà tài trợ quốc tế cam kết dành cho Việt Nam khoản viện trợ phát triển chính thức ODA lớn kỷ lục, trị giá 2.839 tỷ USD, cao hơn năm trước khoảng 339 triệu USD, bao gồm 1.605 tỷ USD từ như cam kết song phương và 1.234 tỷ USD từ những cam kết đa phương.
II-Đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch huy động vốn thời kỳ 2001-2005
1-Những thành tựu đạt được giai đoạn 2001-2005
Nhìn lại ba năm đầu của kế hoạch 5 năm 2001- 2005 thực hiệu vốn đầu tư phát triển bước đầu có nhiều chuyển biến tích cực và đã có những kết quả đáng khích lệ hơn hẳn giai đoạn 1996-2000. Tỷ lệ huy động vốn đầu tư so với GDP từ 34% năm 2001 lên 35.8% năm 2003. Thực hiện vốn đầu tư phát triển bình quân hàng năm giai đoạn 1996-2000 chỉ chiếm 32.97 % GDP, thì trong ba năm qua ( 2001-2003) bình quân vốn đầu tư chiếm 34.76% GDP.
Tang vốn đầu tư được huy động và đưa vào nền kinh tế ba năm qua, tính theo giá năm 2000 vào khoảng 526.5 nghìn tỷ đồng, đặt 62.6% kế hoạch 5 năm đề ra, trong đó vốn thuộc khu vực Nhà nước là 290.6 nghìn tỷ đồng, chiếm 55.2% ( bao gồm, vốn ngân sách Nhà nước chiếm 22.5%, vốn tín dụng đầu tư cuẩ Nhà nước chiếm 15.7%, vốn đầu tư của doanh nghiệp Nhà nước chiếm 17%) vốn đầu tư của khu vực tư nhân và dân cư chiếm 25.3%, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm 17.8%, các nguồn vốn huy động khác chiếm 4,7%.
Nguồn vốn trong nước đã được khai thác khá hơn, chiếm 70% so với tổng vốn đầu tư, vượt kế hoạch 60%, tạo điều kiện tốt hơn để tập trung đầu tư vào những mục tiêu phát triển nông nghiệp và nông thôn, xoá đói giảm nghèo, nâng cao chất lượng nguồn lực, phát triển khoa học và công nghệ, đặc biệt là kết cấu hạ tầng, đồng thời có nhiều hình thức huy động mới như công trái giáo dục, trái phiếu chính phủ, trái phiếu đô thị…. thêm nguồn vốn đầu tư phát triển.
Do điều chỉnh chính sách và cơ cấu đầu tư nên quy mô vốn đầu tư ở các vùng đều mạnh, cơ cấu vùng có nhiều cải thiết, tỷ trọng vốn đầu tư của các vùng miềm núi, vùng khó khăn hơn thời kỳ 1996-2000. So với tổng đầu tư toàn xã hội, vốn đầu tư vùng miềm núi phía Bắc chiếm 8.1 %, vùng đồng bằng sông Hồng chiếm 24.4%, vùng Bắc trung bộ chiếm 7.8%, vùng Duyên hải miềm trung chiếm 12.2%, vùng Tây nguyên chiếm 5%, vùng Đông nam bộ chiếm 27.4% và vùng Đồng bằng sông cửu long chiếm 15.1%
Trong ba năm qua tuy vẫn tập trung chủ yếu cho nghành công nghiệp, chiếm khoảng 43.5% vốn đầu tư toàn xã hội, với mức bình quân 11%, nhưng gia đầu tư cho lĩnh vực nông-lâm - ngư nghiệp, bình quân là 13.2%/năm, đầu tư cho lĩnh vực khoa học công nghệ, giáo dục đào tạo, y tế, văn hoá 15.2%/ năm, nên tỷ trọng vốn đầu tư cho các lĩn vực này đã đạt tương ứng với 12.7% và 8.1%, ngoài ra còn đầu tư cho hạ tầng giao thông vận tải và thông tin liên lạc 8.2% các ngành khác khoảng 20.7%
Riêng nguồn vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước ước thực hiện trong ba năm ( 2001-2003) đặt trên 118 nghìn tỷ đồng ( theo giá năm 2000), đã tập trung hơn cho lĩnh vực xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hôị, trong đó đầu tư cho lĩnh vực nông nghiệp và nông thông khoảng 25%, công nghiệp 7.9%, giao thông vận tải và bưu chính 28.7%, khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, y tế, văn hoá, thể dục thể thao 21.1% các ngành khác 17.3%
Bên cạnh đó, chúng ta luôn luon coi trọng việc thu hút nguồn vốn từ bên ngoài, cả ODA và vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI chiếm khoảng 30% tổng vốn đầu tư phát triển, coi đó là yếu tố quan trọng, góp phần thêm nguồn vốn đầu tư phất triển, tạo ra cơ cấu hợp lý để thúc đẩy việc thực hiệ các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất nước: Ba năm qua nguồn ODA giải ngân được 4.6 tỷ USD, nguồn vốn FDI thực hiện đạt 7.5 tỷ USD
Thực hiện vốn đầu tư ba năm 2001-2003 tốc độ phát triển năm sau cao hơn năm trước và cao hơn giai đoạn 1996- 2000 tổng vốn đầu tư phát triển thực hiện của cả 5 năm 1996- 2000 so sánh năm 1994 chỉ đạt 46436.3 tỷ đồng thì ba năm 2001-2002 được 422638.6 tỷ đồng bằng 90.01% của cả thời kỳ 1996- 2000 nếu tính thực hiện bình quân năm vốn đầu tư phát triển giai đoạn 2001-2003 bằng 151.69% trong đó.
Khu vực kinh tế Nhà nước bình quân năm vốn đầu tư phát triển 158.4% đạt 240423.2 tỷ đồng.
Khu vực ngoài quốc doanh: Doanh nghiệp Nhà nước và khu vực hộ gia đình thực hiện 107038.3 tỷ đồng trong khi đó năm 1996-2000, 110501.8tỷ đồng. Như vậy vốn đầu tư khu vực ngoài quốc doanh ba năm 2001-2003 băng 96.68% mức thực hiện cả 5 năm 1996-2000.
Khu vực nước ngoài: Nhờ có cơ chế chính sách được sửa đổi bổ xung thông thoáng, tạo môi trường đầu tư hớp dẫn, đầu tư trực tiếp nước ngoài fDI 2001-2003 có chiều hướng dần nhưng tỷ trọng lại có xu hướng giảm dần.
* Những kết quả đạt được trong năm 2001.
Đây là năm khởi đầu của kế hoạch 5 năm 2001-2005, nhưng đã có những thành quả đạt được rất lơn sẽ tạo điều kiện cho các năm tiếp theo của thời kỳ kế hoạch.
Tang đầu tư 2001 ước đạt 148500 tỷ đồng ( mục tiêu kế hoạch là 150000 tỷ đồng) chiếm 30% GDP một chút so với tỷ lệ 29.4% GDP năm 2000. Đây là năm có tỷ lệ đầu tư so với GDP cao nhất từ trước đến nay, nguồn vốn huy động trong nước khá lớn chiếm 70%. Mục tiêu đầu tư trong nước cũng như trực tiếp nước ngoài được cải thiện Chính phủ tiếp tục thực hiện chính sách kính cầu.
Đầu tư Nhà nước giữ vị trí quan trọng trong tổng đầu tư xã hội mặc dù chỉ chiếm 55.4% đầu tư năm 2001 so với 61.9% năm 2000, trong đó vốn đầu tư ngân sách , đầu tư tín dụng lại giảm. Tỷ lệ đầu tư khu vực ngoài quốc doanh lên đáng kể từ mức trên dưới 20% đầu tư trong thời kỳ 1997- 2000 lên 24.7 % tổng đầu tư 2001 đây cũng là mức cao nhất trong hàng trục năm qua.
Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài vận dụng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế, kết quả thu hút FDI của Việt Nam năm 2001 người ta đáng ghi nhận trong bối cản FDI trên thế giới và ở nhiều nước ASEAN suy giảm, đó là kết quả do tác động tích cực của thực hiện luật đầu tư nước ngoài ( sửa đổi) và các nghị quyết, chỉ thị của chính phủ nhằm cải thiện môi trường đầu tư và các hoạt động đầu tư xúc tiến nước ngoài
Bảng cơ cấu đầu tư xã hội ( % theo giá hiện hành)
2000
2001
Tổng số
100
100
Đầu tư Nhà nước
61.94
55.36
+ Ngân sách
23.22
24.66
+ Tín dụng ( kể cả ODA)
20.48
13.94
+ Vốn tự có của các D N NN
18.24
16.76
Vốn ngoài Nhà nước
19.49
24.66
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
18.57
19.99
Nguồn : tổng cục thống kê và viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương
Qua bảng trên ta thấy tỷ trọng cơ cấu đầu tư xã hội Nhà nước có xu hướng giảm tỷ trọng cơ cấu đầu tư xã hội trực tiếp nước ngoài và vốn ngoài Nhà nước có xu hướng lên.
Năm 2001 có 484 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp giấy phép với tổng vốn đăng ký gần 2.431 tỷ USD 28% về số dự án và 22.6% về số vốn đăng ký năm 2000. Các dự án được cấp giấy phép chủ yếu tập trung vào các ngành công nghiệp 79.9 về số dự án và 82.7% về số vốn đăng ký. Quy mô mối dự án đầu tư trong năm 2001, đạt gần 5 triệu/dự án, phần lớn là dự ánvà số vốn đâu tư tập trung ở các tỉnh Miền đông nam bộ, thành phố Hồ Chí Minh, Bà Riạ- Vũng Tàu. Còn các tỉnh phía Bắc vẫn chưa thực sự là địa bàn hấp dẫn nhà đầu tư nước ngoài.
Kết quả đầu tư năm 2003.
Đầu tư toàn xã hội năm 2003,tiếp tục xu thế nhanh đã hình thành từ năm 2000.Theo giá hiện hành, tổng vốn đầu tư toàn xã hộinăm 2003 ước đạt 217,6 nghìn tỷ đồng, 18,3% so với năm 2002, cao gấp hơn hai lần trưởng kinh tế và bằng 35,9%GDP.Đây là tỷ lệ đầu tư cao nhất từ trước đến nay.
Năm 2003, nguồn vốn ngoài quốc doanh nhanh(24,9%) đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước 19,0%riêng đầu tư của khu vựccó vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chậm, chỉ đạt 7,4% so với năm 2002, tỷ trọng vốn đầu tư tực tiếp nước ngoài trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội giảm đang kể, tỷ trọng vốn nhà nước nhẹ, trong khi tỷ trọng vốn đầu tư của khu vực ngoài quốc doanh mạh.
Bảng cơ cấu tổng đầu tư xã hội 2000-2003
(% tổng đầu tư xã hội, giá hiện hành )
2000
2001
2002
2003
Tổng vốn
100
100
100
100
Vốn nhà nước
57.5
58.1
56.2
56.53
+Vốn ngân sách nhà nước
23.75
24.69
21.97
21.6
+Tn dụng nhà nước và vay thương mại
18.52
17.14
17.37
17.23
+Vốn tự có của các doanh nghiệp
15.24
16.27
16.86
17.69
Vốn ngoài quốc doanh
23.8
23.5
25.3
26.7
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
18.7
18.4
18.5
15.77
Nguồn: Số liệu của Bộ kế hoạch và Đầu tư,Tổng cục thống kê(2003d).
Trong năm 2003, đầu tư nhà nước vẫn là nguồn vốn quan trọng nhất của nền kinh tế,ước đạt123 nghìn tỷ đồng, chiếm 56.5% tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội, nhẹ so với năm 2002.Trong nguồn vốn đầu tư nhà nước.
Vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước đạt 47 nghìn tỷ đồng 10% so với năm năm 2002, chiếm 38.2% vốn đầu tư Nhà nước
Vốn tín dụng Nhà nước đạt 28.5 nghìn tỷ đồng, chiếm 23.2%
Vốn đầu tư doanh nghiệp Nhà nước đạt 38.5 nghìn tỷ đồng, 24% so với năm 2002, chiếm 31.3 %.
Vốn doanh nghiệp Nhà nước vay thương mại để đầu tư đạt 9 nghìn tỷ đồng, chiếm 7.3%
Tính nguồn vốn tín dụng đạt 37.5 nghìn tỷ đồng chiếm 30.5% tổng vốn đầu tư khu vực kinh tế Nhà nước
Vốn đầu tư dân cư và tư nhân đạt 58 nghìn tỷ đồng, chiếm gần 27% tổng nguồn, 24.7% so với năm 2002.
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 36 nghìn tỷ đồng chiếm gần 17% tổng nguồn, 5.8% so với năm 2002.
Nguồn vốn ngân sách Nhà nước và tín dụng Nhà nước được tập trung đầu tư cho các dự án, công trình trọng điểm, các chương trình mục tiêu quốc gia để đảm bảo tiến độ thi công và đã đưa vào sử dụng và phát huy tác động ngay trong năm. Ngoài ra, vốn ngân sách Nhà nước cũng đã được tập trung vào hố trợ các tỉnh có nhiều khó khăn, nhất là các tỉnh có tỷ lệ hộ nghèo cao. Nguồn vốn ngân sách đã có tác dụng tích cực tới nền kinh tế, cải thiện đáng kể kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, tiếp tục thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát huy tác dụng lôi cuốn các thành phần kinh tế khác nhanh đầu tư. Khả năng tiếp cận các dịch vụ cơ bản như điện, nước sạch, y tế và giáo dục đã được cải thiện rõ rệt nhất là ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa.
Năm 2003 được coi là hoạt động xúc tiến đầu tư sôi nổi; rộng khắp và mạnh mẽ nhất. Đặc biệt là những cuộc hội thảo được tổ chức tại Trung quốc, ấn độ, Nhật Bản, Hoa kỳ, Hàn quốc…Nhân các chuyến thăm và làm việc của các đoàn lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước và chính phủ nước ta. Đồng thời trong nước rất nhiều Bộ, Ngành, địa phương tổ chức hàng trăm cuộc hội thảo kêu gọi đầu tư.
Trong năm 2003, quốc hội đã thông qua 17 luật, trong đó có nhiều luật, Bộ luật được sửa đổi, bổsung nhằm cải thiện môi trường đầu tư và sản xuất kinh doanh. Thị trường tiền tiệ ổn định, việc bãi bỏ kết hối ngoại tệ, chỉ số giá tiêu dùng thấp, các địa phương thi đua “ giải thảm đỏ” cho các nhà đầu tư, khu kinh tế mở Chu lai ra đời, Seagames 22 được tổ chức thành công rực rỡ, kinh tế đất nước trưởng 7.24% cho thấy, Việt Nam là nơi an toàn nhất đối với mọi nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Mặc dù gặp nhiều khó khăn khách quan, như kinh tế thế giới trưởng chậm, chiến tranh Irag, dịch bệnh SARS, khủng bố quốc tế ra , nhưng đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam trong năm 2003 đã thu được những kết quả đáng khích lệ.
Theo Bộ kế hoạch - đầu tư, năm 2003 cả nước đã thu hút thêm được trên 3.1 tỷ USD khoảng 26.3% so với năm trước, bao gồm gần 2 tỷ USD thuộc những dự án mới được cấp giấy phép, 45% và khoảng 1.15 tỷ USD của những dự án cũ được phép bổ sung vốn để mở rộng quy mô hoặc nâng cao chất lượng sản xuất, kinh doanh cũng hơn 7%.
Như vậy, với kết quả năm 2003, tính tới cuối tháng 12 năm 2003, trên phạm vi cả nước có khoảng 4324 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư đăng ký khoảng 40.8 tỷ USD, trong đó lĩnh vực công nghiệp và xây dựng chiếm 66.6 % về số dự án và 56.6% về số vốn, lĩnh vực dịch vụ chiếm 19.5% về số dự án và 36.1% về số vốn, còn lại thuộc khu vực nông- lâm- thuỷ sản. Nếu xét về hình thức đầu tư thì hình thức liên doanh chiếm 45% tổng số vốn hình thức 100% vốn nước ngoài chiếm 42% và còn lại là hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh và BOT.
Đến năm 2003 có khoảng 1400 dự án đầu tư nước ngoài đầu tư vào các khu vực công nghiệp, khu chế xuất ( không kể các dự án đầu tư xây dựng hạ tầng, khu công nghiệp ) còn hiệu lực, với tổng vốn đăng ký 11145 triệu USD, bằng 26.7% tổng vốn đầu tư nước ngoài cả nước.
Một trong mười sự kiện kinh tế nội bật trong năm 2003 của Việt Nam là việc cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế cam kết dành cho Việt Nam khoản viện trợ phát triển chính thức ODA lớn kỷ lục, trị giá 2.839 tỷ USD, cao hơn năm trước khoảng 339 triệu USD, bao gồm 1.605 tỷ USD từ những cam kết song phương và 1.234 tỷ USD từ những cam kết đa phương.
Trên đây là những thành tựu chúng ta đã đạt được trong suốt 3 năm qua của thời kỳ kế hoạch 2001-2005, đây là những kết quả sẽ tạo đà cho việc hoàn thiện kế hoạch 5 năm.
2- Những hạn chế và nguyên nhân giai đoạn 2001-2005
Nguồn vốn trong nước
Vốn trong nước gồm có vốn đầu tư từ ngân sách, từ các doanh nghiệp và vốn đầu tư từ hộ gia đình
Vốn đầu tư từ ngân sách: Hình thành từ hai nguồn
- Bao gồm nguồn thu trong nước
- Nguồn bổ sung từ bên ngoài chủ yếu là ODA
Đầu tư ngân sách Nhà nước là một bộ phận quan trọng trong toàn bộ khối lượng vốn đầu tư. Nó có vị trí rất quan trọng tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi nhằm đẩy mạnh đầu tư cho mọi thành phần kinh tế theo định hướng chung của kế hoạch, chính sách và pháp luật, bảo đảm theo đúng định hướng chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế xã hội.
Thu ngân sách Nhà nước hàng năm khá song tính vững chắc chưa cao, vẫn phụ thuộc vào bên ngoài. Gần 1/2 tổng thu ngân sách hàng năm là thu từ dầu thô và hoạt động xuất nhập khẩu ( là những khoản thu phụ thuộc khá nhiều vào biến động cung cầu và giá cả trên thị trường thế giới ), trong đó thu từ dầu thô chiếm khoảng 1/4 tổng thu ngân sách, thu từ thuế xuất nhập khẩu chiếm 1/ 4 .
Trong cơ cấu thu ngân sách ở một số địa phương vẫn còn một số khoản thu chưa thực sự hợp lý như: Thu từ nguồn phát hành xổ số chiếm tới một nửa tổng thu của địa phương.
Tình trạng buôn lậu trốn thuế ở một số địa phương còn nghiêm trọng, công tác chỉ đạo của chính quyền địa phương và sự phối hợp của các ngành còn chưa đầy đủ.
Vốn đầu tư từ các doanh nghiệp: Hình thành từ hai nguồn.
- Vốn từ các doanh nghiệp Nhà nước
- Vốn từ các doanh nghiệp tư nhân
Phụ thuộc môi trường đầu tư, sản xuất kinh doanh còn nhiều vướng mắc, thủ tục còn nhiều rườm rà phức tạp, vừa chưa thông thoáng, vừa dễ dãi, chi phí cho đầu tư, sản xuất kinh doanh còn cao, sự phối hợp giữa các cơ quan chưa tốt, còn nhiều chồng chéo, mâu thuẫn, chưa minh bạch, chính sách hay thay đổi và khó dự báo trước, môi trường đầu tư thiếu bình đẳng giữa các thành phần kinh tế.
Chiều hướng biến độc quyền Nhà nước thành độc quyền doanh nghiệp ở một số ngành, lĩnh vực chưa được tháo gỡ, tình trạng chiếm thị phần quá lớn của nhiều tổng công ty Nhà nước bằng các chính sánh ưu đãi, đã làm khả năng cạnh tranh và tự vươn lên của các doanh nghiệp, ảnh hưởng bất lợi cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, hạn chế sự cạnh tranh lành mạnh và thu hút nguồn lực đầu tư phát triển vào các lĩnh này. Công tác sắp xếp, đổi mới, cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước chiển khai chậm, các cơ chế giao quyền tự chủ cho doanh nghiệp Nhà nước, nhưng vẫn bảo đảm quản lý cho doanh nghiệp Nhà nước có hiệu quả chưa ban hành đầy đủ.
Môi trường kinh tế vĩ mô còn nhiều bất cập, chưa tạo dựng được khung pháp lý đồng bộ cho các yếu tố của thị trường và các loại thị trường phát triển, thị trường vốn kém phát triển, các cơ chế huy động vốn và cho vay vốn thiếu đồng bộ, tín dụng cho vay nền kinh tế chưa hiệu quả. Việc điều hành lãi suất còn nhiều lúng túng, còn tồn tại nhiều mức lãi suất ưu đãi đầu tư cho các ngành trong nền kinh tế ( chỉ riêng các khoản vay của quý hố trợ phát triển đã có tới hàng chục mức lãi suất) làm giảm khả năng giám sát và đánh giá hiệu quả đầu tư.
Vốn đầu tư từ nhân dân
Đây là nguồn vốn lớn chưa khai thác, huy động vào đầu tư phụ thuộc lớn vào các chính sách Nhà nước, tỷ suất gửi tiết kiệm tại các ngân hàng còn thấp chưa thực sự thu hút người dân.
Nguồn vốn nước ngoài
Việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vẫn còn nhiều khó khăn, hạn chế. Tuy có hơn nhưng FDI chưa phục hồi được so với những năm có tốc độ huy động cao trước đây. Hầu hết các dự án có quy mô nhỏ, môi trường đầu tư còn nhiều vướng mắc và thủ tục phức tạp chính sách hay thay đổi và khó dự báo trước một số chính sách không đủ sức cạnh tranh, không hợp lý trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài giữa các địa phương, một số nơi có chính sách ưu đãi vượt quá quy định hoặc hỗ trợ chưa đúng.
Một hiện tượng đã bị dư luận xã hôị lên án nhiều trong năm qua là, không ít Bộ, ngành với chiêu bài “ phát huy nội lực” vẫn cố níu kéo cơ chế bao cấp để ổn định vị trí độc quyền của mình và tìm cách hạn chế thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành mình.
Thực tế cho thấy, khi có đầu tư trực tiếp nước ngoài qua việc làm của họ “học lỏm” được chút kiến thức và công nghệ, một số lãnh đạo ngàn, lĩnh vực tưởng như mình có thể làm được tất cả, mà không cần tới ngoại lực nữa. Sản xuất Xi măng, sắt thép, mía đường, sản xuất chủ yếu bằng linh kiện nhập khẩu xe máy, ô tô và cả đóng tàu vượt đại dương người ta đều muốn tự làm tất, chỉ cần Nhà nước rót vốn, hoặc bảo lãnh để vay nước ngoài. Kết quả là, cho tới nay nhiều dự án đầu tư trong nước đã hoàn thành nhưng không trả nợ được vốn vay thương mại của ngân hàng nước ngoài, thập chí do tiến độ thi công chậm, đang thi công mà đã đến hạn phải trả nợ ngân hàng nước ngoài. Đó là lý do giải thích vì sao tỷ lệ vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện trong máy năm gần đây đã giảm xuống còn 17-18 % trong tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội, thấp xa so với mức 32% trong thời kỳ 1991-1995
Mặt khác, một hiện tượng khá phổ biến lâu nay là pháp luật thì thông thoáng, nhưng đến các văn bản dưới luật thì có chỗ có nội dung bị méo mó, hoặc có nghị định mấy năm rồi mà thông tư hướng dẫn vẫn chưa ra được.Gần đây là văn bản hướng dẫn luật thuế thu nhập doanh nghiệp cũng như đang gây nên dư luận xôn xao cho các nhà đâu tư.
Nhiều nhà đầu tư phản ánh rằng, ở địa phương, tại các khu công nghiệp, khu chế xuất thì có cơ chế “một cửa, tại chỗ”, nhưng ở trung ương vẫn phải qua nhiều cửa.
Về vốn ODA tình hình giải ngân các dự án ODA những năm qua cho thấy, kết quả nhìn chung chỉ đạt khoảng 50% tổng số vốn đã được cam kết qua các hội nghị CG hoặc chỉ bằng 85% dự kiến kế hoạch hằng năm.Nguyên nhân chu quan vẫn là chính và theo Bộ kế hoạch và đầu tư là do: Chậm giải phóng mặt bằng, thiếu vốn đối ứng, chậm trễ trong công tác đấu thầu, thủ tục tài chính đối với các dự án ODA còn nhiều bất cập, năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý dự án nhìn chung chưa đáp ứng được yêu cầu do thiếu về số lượng, yếu về năng lực và do làm kiêm nghiệm.
Tình hình này đã được nhiều nhà tài trợ lên tiếng cảnh báo, như Đại sứ Nhật Bản tại Việt Nam, ông NorioHattori tại hội nghị CG-2003 đã cho biết,Nhật Bản chưa vốn tài trợ ODA cho Việt Nam hơn được, vì tốc độ giải ngân còn chậm.
Cân nhu cầu và khả năng vốn:
Dựa vào kế hoạch 5 năm(2001_2005),Nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển trong 5 năm tới vào khoảng 830-850 nghìn tỷ đồng (theo giá năm 2000) tương đương 59-61 ty USD, khoảng 11- 12%/ năm.
Toàn bộ nguồn vốn bên ngoài có thế thu hút cho đầu tư phát triển là 18-20 ty USD trong đó.
Nguồn vốn ODA trong 5năm tới, khả năng thực hiện vốn ODA khoảng 10-11 tỷ USD
Nguồn vốn FDI trong năm tới 9- 10 tỷ USD, trong khi đó khả năng chúng ta huy động được trong ba năm qua (2001-2003), tính theo giá năm 2000 vào khoảng 526,5 nghìn tỷ đồng, đạt 62,6% kế hoạch 5 năm đề ra, trong đó vốn đâu tư thuộc khu vực nhà nước là 290,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 55,2%.
Ba năm qua nguồn vốn ODA giải ngân được 4,6 tỷ USD, nguồn FDI thực hiện đạt 7,5 tỷ USD.
Để đạt mục tiêu kế hoạch 5 năm(2001-2005) trong hai năm còn lại 2004-2005 Việt Nam cân phải huy động thêm khoảng 5,6-6 tỷ USD vốn ODA, nghĩa là bình quân mỗi năm cần phải giải ngân 2,6 tỷ USD vốn đã được hợp thức hoá bằng các hiệp định quốc tế.Khả năng thu hút gần 3 tỷ USD vốn ODA mội năm có trở thành hiện thực hay không là hoàn toàn phụ thuộc chủ yếu vào kết quả giải ngân và hiệu quả thực hiện các dự án, nguồn FDI khoảng 1,5-2,5 tỷ USD.
Chương III:
Những giải pháp huy động vốn đầu tư giai đoạn 2001-2005.
Mục tiêu tổng quát
Các chỉ tiêu kinh tế
Đưa GDP năm 2005 gấp 2 lần so với năm 1995.Nhịp độ trưởng GDP bình quân hàng năm thời kỳ 5 năm 2001-2005 là 7,5% trong đó nông –lâm – ngư nghiệp 4,3%,công nghiệp và xây dưng 10,8%, dịch vụ 6,2%.
Giá trị sản xuất nông – lâm - ngư nghiệp 4,8%/năm
Giá trị sản xuất nghành công nghiệp 13%/năm
Giá trị dịch vụ 7,5%/năm
Tang kim ngạch xuất khẩu 16%/năm
b- Các chỉ tiêu xã hội.
Tỷ lệ học sinh trung học cơ sở đi học trong độ tuổi đạt 80%, tỷ lệ học sinh phổ thông trung học đi học trong độ tuổi đạt 45% vào năm 2005
Tiếp tục củng cố và duy trì mục tiêu phổ cập giáo dục tiểu học. Thực hiện chương trình phổ cập giáo dục trung học cơ sở.
Giảm tỷ lệ sinh bình quân hằng năm 0,5%o, tốc độ dân số vào năm 2005 khoảng 1,2%
Tạo việc làm, giải quyết thêm việc làm cho khoảng 7,5 triệu lao động, bình quân 1,5 triệu lao động/năm, nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo lên 30% vào năm 2005.
Cơ bảnghìn tỷ đồng xoá đói, giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống còn 105 vào năm 2005
Đáp ứng 40% nhu cầu thuốc chữa bệnh sản xuất trong nước giảm tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng xuống còn 22-25% vào năm 2005, nâng tuổi thọ bình quân vào năm 2005 lên 70 tuổi, cung cấp nước sạch cho 60% dân số nông thôn.
II-Nhiệm vụ kế hoạch huy động vốn đầu tư cho hai năm còn lại
Mục tiêu là: trưởng kinh tế nhanh và bền vững; Khi đề cập khả năng trưởng của nền kinh tế, càn phải cân nhắc đến nhu cầu sử dụng các nguồn lực đối với quá trình trưởng của từng nghành. Đối với các quốc gia đang phát triển mà thiếu vốn, thiếu công nghệ thì vai trò thiếu vốn càng trở nên quan trọng, các quốc gia này ngày càng phải thu hút nhiều vốn đầu tư và sử dụng có hiệu quả.Nhu cầu về vốn đầu tư và trưởng kinh tế quốc gia phụ thuộc rất lớn vào năng suất nguồn vốn, năng suất của vốn trong các nghành khác nhau.Vì vậy, nhu cầu cuả vốn gắn liền với sự thay đổi cơ cấu kinh tế và cơ cấu đầu tư trong nền kinh tế.
a-Nguồn vốn trong nước
Do nhu cầu đầu tư trong nước rất lớn, vốn nội địa chưa đáp ứng đủ.Vì vậy, cần khai thác mọi nguồn vốn tư bên ngoài, nhưng phải quán triệt quan điểm của Đảng:Vốn trong nước quết định vốn nước ngoài quan trọng.Mặt khác, cần thấy tiến trình hoà nhập với thị trường vốn quốc tế phải thận trọng từng bước, không đồng nhất “mở” nền kinh tế với “mở” thị trường vốn. Trên thực tế các nước đều thực hiện chủ trương phát triển nền kinh tế hướng ra bên ngoài nhưng không phải là tất cả các nước đều mở thị trường vốn cho các công ty nước ngoài thâm nhập.
Vốn trong nước gồm vốn đầu tư ngân sách, từ các doanh nghiệp và vốn đầu tư nhân dân.
Đầu tư ngân sách nhà nước là một bộ phận quan trọng trong toàn bộ khối lượng vốn đầu tư. Nó có vị trí rất quan trọng trong việc tạo ra mội trường đầu tư thuận lợi nhằm đẩy mạnh đầu tư cho mọi thành phần kinh tế theo định hướng chung của kế hoạch, chính sách và pháp luật, bảo đảm theo đúng định hướng chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế xã hội.
Đối với các doanh nghiệp Nhà nước thì được chủ động huy động vốn và được sử vốn trong cơ chế chích sách cần đảm bảo bình đẳng tối đa cùng loại hình hoạt động, nếu không có những quy định đặc biệt thì đều có cùng cơ chế về thuế, tín dụng.
Ngoài ra, chúng ta có thể huy động thông qua hệ thống ngân hàng tạo dựng và phát triển vốn nước ta là quá trình có tính quy luật của nền kinh tế chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường, nhằm đáp ứng nhu cầu cấp bách về vốn cho công nghiệp hoá hiện đại hoá. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng chỉ rõ: “ phát triển thị trường vốn thu hút tiền gửi trung hạn và dài hạn của ngân hàng và công ty tài chính để cho vay và đầu tư phát triển. Mở rộng việc phát hành trái phiếu”:
Sau hơn 15 năm đổi mới nền kinh tế nước ta phát triển theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Một số nhân tố cơ bản của thị trường vốn đã xuất hiện nhưng còn ở trình độ sơ khai và thiếu đồng bộ, các quan hệ thị trường chưa phát triển nên hạn chế rất lớn đối với mức độ huy động vốn.
Một là: vừa phát triển thị trường chứng khoán ( tài chính trực tiếp ) vừa phát triển hệ thống ngân hàng ( tài chính gián tiếp)
ở nước ta hiện nay vốn giao lưu chủ yếu qua hệ thống ngân hàng, vì chưa có thị trường chứng khoán nên rất hạn chế năng lực huy động vốn và tốc độ chu chuyển vốn.
Hai là: Vừa phát triển các hình thức tín dụng chính thức vừa phát triển các hình thức tín dụng phi chính.
Trên thị trường vốn ngoài sự có mặt của các định chế tài chính chính thức như: ngân hàng, công ty tài chính, thị trường chứng khoán, quý tín dụng nhân dân với các hình thức huy động vốn chính thức còn tồn tài các hình thức phi chính thức như là một vấn đề tất yếu kinh tế.
Ba là: vừa phát triển thị trường trái phiếu, vừa phát triển thị trường cổ phiếu.
ở nước ta hiện nay đã xuất hiện một số trái phiếu đó là: Trái phiếu kho bạc Nhà nước, trái phiếu ngân hàng thương mại, trái phiếu công ty, tổng công ty
Bốn là: Kết hợp hài hoà giữa thị trường cấp hai của thị trường chứng khoán
Cấp hai của thị trường chứng khoán
Thị trường cấp 1 là thị trường phát hành chứng khoán lần đầu để huy động vốn nó là nền tảng thị trường chứng khoán, tuy không làm vốn mang lại tính khả năng chung cho thị trường tạo khả năng tích tụ vốn. Để thực hiện nhiều dự án lớn. Nừu không chú trọng thị trường phát trỉên cấp 2 thì sẽ ảnh hưởng đến phát hành chứng khoán mới
Năm là: Gẵn thị trường vốn trong nước và thị trường vốn quốc tế trong và thập niên lần đầu xuất hiện hai xu hướng chuyển giao điển hình chuyển giao vốn và chuyển giao công nghệ với sự cạnh tranh quyết liệt tạo nên sự sôi động trên thị trường đầu tư Việt Nam bước vào thị trường quốc tế.
Bên cạnh đó chúng ta phải tạo môi trường, điều kiện thuận lợi để thực hiện mục tiêu huy động vốn cho hai năm còn lại là 303.5-323.5 nghìn tỷ đồng, tốc độ trưởng GDP khoảng 8.2%
Nguồn vốn nước ngoài
Trong giao đoạn nền kinh tế hiện nay, vốn trong nước không đảm bảo nhu cầu do trình độ tích tụ tập trung tư bản chưa cao. Vì vậy vốn nước ngoài là nguồn bổ sung quan trọng
Tập trung đẩy nhanh việc giải ngân nguồn vốn ODA. Tiến hành tổng kết 10 năm tiếp nhận và sử dụng nguồn vốn ODA đề xuất các giải pháp để thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn trong 2 năm còn lại của kế hoạch 5 năm ( 2001-2005)
Đẩy nhanh công tác và định cư và giải phóng mặt bằng các dự án đầu tư. Đảm bảo cân đối nguồn vốn đối ứng cho các dự án ODA, nhất là các dự án khó khăn này.
Tiếp tục hài hoà quy trình, thủ tục dự án ODA, đặc biệt từ khâu phê duyệt dự án, đấu thầu, hệ thống theo dõi và đánh giá dự án, chiển khai công tác đào tạo, cường năng lực cán bộ quản lý dự án ODA ở các cấp.
Tiếp tục tháo gỡ những vướng mắc để khôi phục, thu hút mạnh mẽ hơn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Rà soát lại quy hoạnh phát triển các ngành nhằm thu hút trực tiếp nước ngoài. Chú trọng thu hút đầu tư vào các ngành. Xi măng, viễn thông, công nghệ cao, cơ sở hạ tầng, công nghệ, chế biến.
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách theo hướng tạo một mặt bằng chung cho các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn FDI.
Ban hành tiêu chuẩn, điều kiện cấp phép cho các dự án đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực đào tạo đại học để có cơ sở xem xét, thu hút đầu tư vào lĩnh vực này.
Triển khai nhanh và có hiệu quả các nghị định mới của chính phủ như nghị định 27 /2003/NĐ- CP sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị Định 24/2001/NĐ- CP quy định chi tiết thi hành luật nước ngoài tại Việt Nam, Nghị Định 38/2003/NĐ-CP về chuyển đổi một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sang hoạt động theo hình thức công ty cổ phần. Coi trọng hơn và cừơng các hoạt động hợp tác qúôc tế liên quan đến vận động xúc tiến FDI. Tất cả các hoạt động trên nhằm thực hiện mục tiêu thu hút vốn nước ngoài cho 2 năm còn lại, mục tiêu huy động là 5.5 đến 6 tỷ USD vốn ODA cam kết và 1.5- 2.5 tỷ USD vốn FDI
[
III-Những giải pháp huy động vốn đầu tư.
1-Nguồn vốn huy động trong nước
a-Vốn đầu tư từ ngân sách
Nguồn ngân sách bao gồm nguồn thu trong nước và bổ sung từ bên ngoài, chủ yếu thông qua vốn ODA. Để nâng cao hiệu quả đầu tư ngân sách, trong thời gian tới cần tiếp tục hoàn thiện chính sách đầu tư bằng các biện pháp, các khâu như:
Xây dựng và quy định về huy động và sử dụng ODA, làm rõ những ưu tiên vận động vốn, theo các đối tác, các loại hình phát triển. Đồng thời cường “ năng lực hấp thu vốn” để giải ngân theo đúng tiến độ công trình, hiệu quả đầu tư.
Hạn chế tới chấm dứt vay thương mại, nhất là thương mại ngắn hạn để bù đắp thiếu hút ngân sách, làm cho việc vay nợ thêm phức tạp.
Quản lý tốt vấn đề nợ, đảm bảo vấn đề nợ và tính toán kỹ các điều kiện vay trả trước khi ký hiệp định khung vay vốn và hiệp định cho vay từng công trình, chương trình, dự án đầu tư, chủ yếu nên vay nợ dài hạn ( trên 12 năm và lãi suất thích hợp) các nước Hàn Quốc, Xingapo có số vay nợ dài hạn chiếm tới 80- 90% tổng số nợ. Việc kết hợp giưa vay ODA và huy động vốn FDI cũng là cách quản lý gánh nặng nợ nần trong giai đoạn khởi động nền kinh tế .
Cần quy mô đầu tư từ ngân sách và sử dụng đúng hướng nguồn vốn này, muốn vậy cần chống thất thu và tiết kiệm chi thường xuyên để quy mô của nguồn vốn đầu tư từ ngân sách. Hiện nay, khoảng 30% ngân sách được dùng cho đầu tư từ ngân sách chiếm dưới 10% GDP. Trong tương lai các nguồn ODA được giải ngân nhanh hơn thì có khả năng nâng cao quy mô và tỷ trọng đầu tư trong ngân sách.
Sử dụng hiệu quả vốn đầu tư từ nguồn ngân sách
- Nâng cao và cải thiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật như hệ thống giao thông, bến cảng, sân bay.
- Nâng cấp và phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng xã hội nhất là trong các lĩnh vực phát triển và nguồn nhân lực bảo đảm xã hội.
- Đầu tư phát triển một số ngành công nghiệp then chốt vùng kinh tế còn khó khăn, chưa hấp dẫn về kinh tế nhưng lại rất quan trọng về an ninh quốc phòng, về giải quyết các vấn đề xã hội.
Những chính sách thuế của Nhà nước
- Cần phải hơn nữa doanh thu từ thuế cho ngân sách chính phủ, nhằm phục vụ các nhu cầu đầu tư từ nguồn vốn ngân sách. Để thực hiện mục tiêu này ở Việt Nam vấn đề quan trọng không phải là mức thuế suất mà là mở rộng diện thu đối với các nguồn thu bị bỏ qua như : Thuế thị trường đất đai, bất động sản, thuế thu nhập cá nhân…
-Thuế doanh thu, thuế VAT, thuế xuất nhập khẩu và phần nào thúê lợi tức với mức cao như hiện nay đang là khâu bất hợp lý, có nguy cơ làm triệt tiêu động lực của các nhà sản xuất, kinh doanh, giảm sức cạnh tranh của hàng nội. Do vậy, việc giảm tỷ suất thuế của các loại thuế này là cần thiết, nó tạo động lực thúc đẩy đầu tư, mặt khác về dài hạn sẽ lại đưa nguồn thu lớn hơn cho ngân sách nhờ sự bung ra của các cơ sở sản xuất trong nước.
- Cải tiến hệ thống thuế nhằm vào mục tiêu tạo ra luật chung, bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế, tiến tới tiếp cận gần với luật chới của thế giới, nhằm mục tiêu bao quát hết nguồn thu, đơn giản, tạo điều kiện thuận lợi cho việc huy động thuế…
b-Vốn đầu tư cho các doanh nghiệp
Một số lĩnh vực đầu tư của khu vực doanh nghiệp Nhà nước cần tiến hành gấp một số giải pháp.
- Sớm sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước, chỉ giữ lại môt số doanh nghiệp thật cần thiết, cón cho phep chuyển đổi hình thức chủ sở hữu đan xen cổ phần hoá. Đồng thời trong các cơ chế chính sách cần đảm bảo sự bình đẳng tối đa, cùng loại hình hoạt động.
- Đẩy nhanh cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước, đặc biệt là các doanh nghiệp có quy mô lớn kinh doanh có lãi mà Nhà nước không cần giữ 100% vốn, tạo điều kiện mở rộng thị trường chứng khoán, thêm nguồn vốn cho xã hội, cho doanh nghiệp. Cần nghiêm túc triển khai phương án tổng thể sắp xếp, đổi mới các doanh nghiệp Nhà nước của các Bộ, địa phương, các tổng công ty 91 đã đươc Thủ Tướng Chính phủ phê duyệt.
- Trên cơ sở luật doanh nghiệp Nhà nước sửa đổi, hoàn thiện các văn bản dưới luật tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, đồng bộ cho việc chuyển đổi. Sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước, nâng cao hiệu quả hoặt động của các doanh nghiệp Nhà nước thuộc diện chuyển đổi.
Đối với khu vực kinh tế tư nhân: Cần tiếp tục khuyến khích, tạo điều kiện phát triển. Tôn vinh những người sản xuất, kinh doanh giỏi, đóng góp nhiều cho xã hội, tạo tâm lý thuận lợi cho kinh tế tư nhân.
- Tiếp tục nghiên cức sửa đổi bổ sung, hoàn thiện các văn pháp quy hiện hành và ban hành các văn bản pháp quy mới, tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, đồng bộ cho việc thực hiện có hiệu quả cao hơn luật doanh nghiệp và tiến tới thực hiện một mặt bằng pháp lý về điều kiện sản xuất kinh doanh cho mọi loại hình doanh nghiệp.
- Tạo mọi điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp tiếp cận dễ dàng với các chính sách khuyến khích và các chương trình hố trợ của Nhà nước về đầu tư và tín dụng, về mặt bắng sản xuất, về thông tin thị trường, về tư vấn kỹ thuật và đào tạo phát triển nguồn nhân lực cũng như tiếp cận với các dịch vụ kinh doanh
- Cho phép doanh nghiệp tư nhân được hưởng quyền lợi về sử dụng đất đai như các doanh nghiệp Nhà nước, theo quy định của luật đất đai ( chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế, thế chấp, cho thuê quyền sử đất theo quy định của pháp luật).
Vốn đầu tư cho nhân dân
Để cường đầu tư bằng nguồn vốn của nhân dân hay đúng hơn là vốn ngoài vốn ngân sách, cần có chính sách khuyến khích phát triển sản xuất, thực hành tiết kiệm.
Hiện nay vốn trong dân cư còn rất lớn, tiết kiệm của các hộ gia đình chiếm tới 90% tương đương 66 nghìn tỷ đồng trong đó 30% được huy động vào đầu tư, còn lại 60% được tích luỹ dưới nhiều dạng khác như: Mua vàng, trang sức, để dưới dạng tiền vay hay ngoại tệ…
Chính vì vậy Chính Phủ phải có chính sách ưu đãi để huy động nguồn vốn này vào đầu tư như: chính sách lãi suất tiền gửi tiết kiệm. Nừu lãi suất tiền gửi tiết kiệm càng cao thì lượng tiền huy động tiết kiệm càng lớn, Chính phủ phải xác định các khung mức lãi suất cơ bản để đảm bảo có lợi cho cả người và người vay.
ở Việt Nam hiện nay, nhiều nhà kinh tế khẳng định vẫn cần thiết phải duy trì một mức lãi suất tiền gửi cao hơn so với mức trung bình trên thị trường tài chính quốc tế. Điều này một mặt làm cho đồng tiền Việt Nam không có nguy cơ bị hạ giá quá nhiều, mặt khác, lãi suất tiền gửi cao còn chứa đựng một thành tố tích cực là phân phối lại thu nhập cho quảng đại quần chúng dân cư.
Việc quốc hội ban hành luật khuyết khích đầu tư trong nước một số khoản ưu đãi đã có tác dụng nhất định.
Vấn đề sử dụng đất đai, cần đảm bảo vừa sủ dụng hợp lý và tiết kiệm đất, vừa tạo điều kiện thuận lợi và bình đẳng trong việc giao đất cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và nhân dân.
Vấn đề thuế, phải đảm bảo công bằng, khuyến khích đầu tư theo đúng quy hoạch, kế hoạch, pháp luật của Nhà nước.
Trong tương lai cần tiến hành các biện pháp để thông thoáng thị trường vốn, tích cực chuẩn bị để hình thành thị trường chứng khoán. Để cường đầu tư trong khu vực ngoài ngân sách cần tổ chức tốt hơn hoạt động tín dụng, ngân hàng đầu tư phát triển, ngân hàng nông nghiệp và mới đây là ngân hàng giành cho người nghèo đang có hướng nỗ lực rất lớn để huy động vốn và sử dụng có hiệu quả
Phát triển hệ thống tín dụng và ngân hàng trong nước, hình thành thị trường chứng khoán để tái đầu tư các khoản tích luỹ được, phục vụ phát triển sản xuất. Đồng thời chính cũng đã cho phép thành lập các quỹ tín dụng nhân dân cũng như ngân hàng giành cho người nghèo để hố trợ các khu vực còn đang khó khăn.
2- Nguồn vốn huy động nước ngoài
Vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA
Dòng vốn ODA được sử dụng để thực hiện các mục đích đầu tư chủ yếu là: Thực hiện các chương trình đầu tư quốc gia như các dự án cải tạo, nâng cấp, hiện đại hoá cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội, các ngành, vùng lãnh thổ, cải thiện ngân sách và bù đắp thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế… Do đó phải có giải pháp để thu hút nguồn vốn đầu tư này.
Sớm xây dựng, thông qua và điều phối chặt chẽ theo quy hoạch huy độ và sủ dụng vốn ODA gẵn với quy hoạch đầu tư nói chung và quy hoạch đầu tư công cộng.
Xây dựng các danh mục, các dự án ưu tiên gọi vốn trong đó vốn ODA, bao gồm cả vốn cho các dự án đầu tư và hỗ trợ kỹ thuật.
Đẩy nhanh công tác tái định cư và giải phóng mặt bằng, các dự án đầu tư. Bảo đảm cân đối đủ vốn đối ứng cho các dự án ODA, nhất là các dự án có khả năng thực hiện .
Đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn ODA thông qua chỉ thị số 29 /2003/ CT-TTg ngày 23-12-2003 của Thủ Tướng Chính phủ về chấn chỉnh quản lý đầu tư và xây dựng bằng các nguồn vốn Nhà nước. Theo đó, trong năm 2004 các bộ, ngành, địa phương phải bố chí đủ vốn đối ứng cho các dự án ODA theo tiến độ thực hiện và theo hiệp định đã ký kết với nước ngoài, phải hoàn thành việc này rồi thì mới bố trí vốn cho những dự án khởi công mới.
cường công tác kế hoạch hoá các chương trình dự án ODA để cân đối nguồn vốn trong nước từ khâu chuẩn bị đầu tư cho tới thực hiện chương trình dự án.
Tổ chức huấn luyện, đào tạo cán bộ trong hệ thống điều phối ODA ở các ngành địa phương. Xây dựng hệ thống thông tin theo dõi và quản lý chặt chẽ việc huy động và sử dụng sau khi cấp tiền
Tổ chức hệ thống cơ quan quản lý, điều phối và sử dụng ODA từ trung ương tới cơ sở theo chế độ mở cửa.
Bộ khoa học và Đầu tư tiến tới thiết lập quỹ thông tin ODA về các văn bản pháp quy, các văn kiện dự án, các quy trình ODA của các nhà tài trợ cũng như văn bản hướng dẫn và thủ tục ODA của Việt Nam
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI )
* Tiếp tục hoàn thiện vốn đầu tư
Mục tiêu thu hút đầu tư trực tiếp là nhằm tranh thủ nguồn vốn công nghệ và kinh nghiệm quản lý phát triển kinh tế.
* Tiếp tục hoàn thiện thủ tục đầu tư nước ngoài
Thủ tục đầu tư cũng như một số vấn đề nổi cộm đang được chúng ta cải tiến từng bước, kiên quyết sử lý nghiêm minh những trường hợp gây phiềm hà, nhận ăn hối lộ.
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách theo hướng tạo một mặt bằng chung cho các doanh nghiệp trong nước và các doanh nghiệp có vốn FDI. Trước mắt, triển khai có hiệu quả chính sách mở rộng lĩnh vực thu hút đầu tư theo tinh thần Nghị định 27/2003/NĐ- CP ngày 19-3-2003 của Chính phủ, chính sách chuyển đổi một số doanh nghiệp FDI sang hoạt động theo hình thức công ty cổ phần nhằm đa dạng hoá hình thức đầu tư theo tinh thần Nghị định 38/2003/NĐ- CP ngày 15-4 – 2003 của Chính phủ, nghiên cứu trình Quốc hôị điều chỉnh thuế thu nhập cá nhân đối với người có thu nhập cao, nhằm phát huy lợi thế về nguồn nhân lực của nước ta, nhất là lao động quản lý cấp trung gian.
cường kết cấu hạ tầng, hoàn thiện các chính sách kuyến khích kết cấu hạ tầng là điều kiện tiên quyết đối với thu hút vốn FDI. Sự yếu kém về kết cấu hạ tầng, hạn chế nhiều việc thu hút đầu tư vào Việt Nam. Vì vậy, trong thời gian tới cần phải tập trung thích đáng cho công việc này, nhất là hệ thống giao thông cấp thoát nước khu đô thị, hệ thống công nghệ phụ trợ và các khu trung tâm công nghệ phụ trợ. Cần điều chỉnh chính sách để đạt độ khuyến khích cao nhất đối với các nhà đầu tư thực hiệ vào kết cấu hạ tầng nông – lâm- ngư nghiệp
Chính sách giá, cần điều chỉnh giá cho thuê đất thích hợp, nhất là có thể miễn giảm cho thuê đất ở miềm núi trong thời gian là 5 năm để các nhà đầu tư.
Về giá dịch vụ: Cần nghiên cứu chỉ đạo khung giá dịch vụ đối với các nhà đầu tư, không nên để các cơ sở tuỳ tiện nâng giá.
Về chính sách thuế: Cần tiếp tục nghiên cứu điều chỉnh các loại thuế, nên thời gian miễn giảm thuế đối với các dự án đầu tư vào ngành, vùng trọng điểm.
Cần nhanh chóng đổi mới bộ máy quản lý đầu tư nước ngoài theo phương hướng tinh giảm, gọn nhẹ , có hiệu lực. Cần phải có chiến lược đào tạo cán bộ. Đội ngũ cán bộ chuyên môn nghiệp vụ phải là những chuyên gia trong từng lĩnh vực, có phong cách giao tiếp, về lâu dài, có khoa học đào tạo chuyên ngành đầu tư nước ngoài trong trường đại học. Cần hoàn thiện hệ thống ngân hàng và sự hoạt động của nó phải phù hợp hoà nhập với ngân hàng các nước trong khu vực và các nước phát triển.
Nâng cao vai trò của các cơ quan ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài trong công tác vận động, xúc tiến đầu tư rà soat lại danh mục dự án quốc gia kêo gọi đầu tư nước ngoài để điều chỉnh bổ sung những dự án quy mô lớn cần kêo gọi đầu tư.
* Xây dựng và lựa chọn đối tác đầu tư
Việc lựa chọn đôí tác đầu tư là vấn đề hết sức cần thiết và có tầm quan trọng đặc biệt. Lựa chọn đối tác đầu tư nước ngoài cần phải hướng lâu dài vào các công ty xuyên quốc gia thực thụ, bởi vì nới có vốn, nguồn kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý, đồng thời ở mức độ đúng đắn, mức độ tin cậy trong quan hệ cũng cao hơn.
Đồng thời làm tốt công tác xúc tiến đầu tư thông qua việc hỗ trợ triển lãm và công ty tư vấn cũng như quốc tế.
Kết luận:
Trên đây là toàn bộ nội dung của đề tài: “Kế hoạch huy động vốn đầu tư thời kỳ 2001-2005 và các giải pháp thực hiện”. Đây là một đề tài có nội dung và phạm vi rất khó khăn và rộng lớn, nó cũng rất thú vị và hấp dẫn. Qua bài viết em hiểu sâu sắc và kỹ hơn về bản chất, vai trò của vốn đầu tư trong phát triển kinh tế xã hội.
Vốn đầu tư là yếu tố vật chất quyết định tốc độ trưởng kinh tế. Với chính sách sử dụng vốn hợp lý của Đảng và Nhà nước nước ta đã giúp cho quá trình thực hiện chiến lược 2001-2005 đạt đựơc những thành tựu to lớn và quan trọng.
Sau mấy năm đầu thực hiện chiến lược đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội. Tang sản phẩm trong nước đã , tốc độ tổng sản phẩm trong nước (GDP ) ước đạt bình quân 7.1% ( kế hoạch 2001-2005 là 7.5%) cơ cấu lao động có sự dịch chuyển theo hướng tích cực. Tỷ trọng lao động trong ngành công nghiệp và xây dựng đã từ 14.4 % trong tổng số lao động năm 2001 lên 15.9% năm 2003, tỷ trọng lao động trong ngành nông- lâm- ngư nghiệp từ 62.8 % giảm xuống còn 59.8%, tỷ trọng lao động ngành dịch vụ từ 22.8% lên 24.3%, tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống 12%, tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi còn 28%, tỷ lệ hộ được dùng nước sạch ở nông thôn 54% ( kế hoạch 5 năm là 60%) ba năm qua tạo việc làm mới cho khoảng 4.3 triệu lao động ( kế hoạch 5 năm là 7.5 triệu lao động) đã đưa 13.7 vạn người đi làm việc ở nước ngoài, chuyển dịch cơ cấu kinh tế được đẩy nhanh.
Cùng với sự phát triển của quá trình lao động quốc tế hoá đời sống kinh tế, vốn nước ngoài đang trở thành một hoạt động kinh tế đối ngoại ngày càng có vai trò to lớn trong quá trình phát triển của nền kinh tế thế giới nới chung và Việt Nam nói riêng.
Vốn đầu tư không chỉ là cơ sở để tạo ra vốn sản xuất, năng lự c sản xuất cho các doanh nghiệp và của nền kinh tế mà nó còn là điều kiện để nâng cao trình độ khoa học công nghệ, góp phần đáng kể vào việc đầu tư theo chiều sâu, hiện đại hoá quá trình sản xuất, việc vốn đầu tư cũng góp phần vào việc giải quyết việc làm cho người lao động khi mở ra các công trình xây dựng và mở rộng quy mô sản xuất.
Cơ cấu sử dụng vốn đầu tư là điều kiện quan trọng tác động vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế của đất nước.
Em xin trân thành cảm ơn TS, Phạm Ngọc Linh đã giúp em hoàn thành đề án này.
Danh mục tài liệu tham khảo
Giáo trình kế hoạch hoá phát triển kinh tế xã hội
Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX
Kinh tế Việt Nam 2003
Sách kinh tế xã hội Việt Nam ba năm 2001-2003
Thời báo kinh tế Việt Nam 2003-2004
Báo cáo tình hình thực hiện nghị quyết của quốc hội về nhiệm vụ kế hoạch năm 2003 và kế hoạch phát triển kinh tế xã hôị năm 2004 ( báo cáo của Chính phủ tại ký họp thứ tư, quốc hội khoá IX)
Giáo trình kinh tế phát triển ( nhà xuất bản thống kê năm 1999)
Kinh tế xã hội Việt Nam hướng tới chất lượng trưởng, hội nhập phát triển bền vững.
Chiến lược huy động và sử dụng vốn
Nguyễn Anh Tuấn
10- Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với kinh tế xã hội của Việt Nam
Tài chính vĩ mô
Bàn về mô hình phát triển thị trường vốn ở nước ta
Trần Mạnh Hùng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- C0275.doc