Tiếp tục triển khai hoạt động cho vay vốn từ quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm cho người thất nghiệp vừa và nhỏ, hộ gia đình, cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ phát triển sản xuất nhằm tạo thêm việc làm mới cho người lao động.
Thực hiện lồng ghép các hoạt động của đề án này với đề án giảm nghèo, đề án hỗ trợ chuyển đổi ngành nghề, giải quyết việc làm, ổn định đời sống cho đối tượng thuộc diện di dời chỉnh trang đô thị để huy động nhiều nguồn lực vào giải quyết việc làm.
Trong 5 năm (2002-2010) hoạt động cho vay vốn giải quyết việc làm, hỗ trợ tín dụng giảm nghèo, cho vay giải quyết việc làm cho đối tượng di dời sẽ hỗ trợ tạo việc làm cho 25.000 - 30.000 lao động, bình quân mỗi năm 5.000-6.000 người.
- Vay vốn giải quyết việc làm: hỗ trợ tạo việc làm cho 10.000 lao động, bình quân mỗi năm giải quyết được việc làm cho 2.000 người.
- Cho vay vốn đối tượng di dời giải tỏa: hỗ trợ tạo việc làm cho 5.000 lao động, bình quân 1.000 người trên 1 năm.
- Hoạt động hỗ trợ tín dụng cho người nghèo, hướng dẫn cách làm ăn cho hộ nghèo, tạo việc làm cho 15.000 lao động, bình quân 3.000 người/năm.
Hình thành quỹ hỗ trợ việc làm cho thành phố:
- Nguồn hình thành: từ ngân sách thành phố cấp hàng năm và các nguồn huy động hợp pháp.
- Mục dích sử dụng: Quỹ được sử dụng hỗ trợ cho các địa phương, ngành và các đoàn thể thực hiện các hoạt động hỗ trợ người thất nghiệp, người thiếu việc làm tìm việc.
88 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1498 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Kế hoạch lao động việc làm trên địa bàn thành phố Đà Nẵng đến năm 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bán lẻ tăng bình quân 15 – 17%/năm. Phát triển thương mại để Đà Nẵng trở thành một trong những trung tâm kinh tế thương mại
Về xuất khẩu : Phấn đấu kim ngạch xuất khẩu đạt tốc độ tăng bình quân 23 – 24%/năm (thời kì 2006 – 2010). Trong đó: xuất khẩu hàng hóa tăng bình quân 22 – 23%/năm, xuất khẩu dịch vụ tăng bình quân 25 – 26%.
Về tài chính – tiền tệ : Tạo điều kiện thuận lợi phát triển thị trường vốn, các loại hình trái phiếu, tín phiếu, cổ phiếu, để huy động vốn nhàn rỗi, kiều hối và thu hút đầu tư của mọi thành phần kinh tế.
Về lĩnh vực giao thông – vận tải : Phát triển không gian đô thị, kết cấu hạ tầng kỹ thuật và dịch vụ tương ứng. Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế đầu tư phát triển mạnh dịch vụ vận tải công cộng đường bộ, đường biển, vận tải biển, đường hàng không. Chủ động khai thác tốt lợi thế tuyến Hành lang kinh tế Đông – Tây để phát triển vận tải quốc tế. Tiếp tục cải tạo nâng cấp cảng Tiên Sa, đảm bảo tăng năng lực vận tải thông qua cụm cảng Đà Nẵng lên 7 triệu tấn/năm vào năm 2010.
Về bưu chính – viễn thông : Phát triển ngành bưu chính – viễn thông Đà Nẵng hiện đại, ngang tầm với các nước tiên tiến trong khu vực, có khả năng cung cấp các dịch vụ đa dạng, đạt tiêu chuẩn quốc tế. Phấn đấu đến năm 2010: 100% người dân ở trung tâm thành phố và vùng ngoại ô được hưởng mức phục vụ bưu chính đạt mức trung bình ngang các nước phát triển và 100% số xã đồng bằng, số xã miền núi có báo đến trong ngày.
Về dịch vụ bất động sản : Phát triển các loại hình dịch vụ này là các khu biệt thự, chung cư cao cấp, các căn hộ đạt tiêu chuẩn bán cho dân. Áp dụng hình thức bán trả góp, bán thông qua bảo lãnh ngân hàng đối với các loại bất động sản.
Phát triển ngành nông nghiệp
Tốc độ tăng trưởng bình quân giá trị sản xuất ngành Thủy sản – Nông lâm trong giai đoạn đến năm 2010 là 5- 6%, đưa cơ cấu ngành Thủy sản – Nông lâm trong GDP giảm từ 5,7% năm 2005 xuống còn 3,2% vào năm 2010. Xây dựng kinh tế nông thôn phát triển nhanh bền vững theo hướng giảm tỷ trọng lao động nông nghiệp, tăng tỷ trọng lao động công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ trong cơ cấu kinh tế nông thôn.
Đẩy mạnh đầu tư phát triển để Đà Nẵng trở thành một trung tâm nghề cá của khu vực. Phát triển đội tàu cá công suất lớn với trang thiết bị hiện đại, gắn liền với việc tổ chức sản xuất theo hướng hình thành các tổ hợp tác đề hỗ trợ nhau trên biển. Phát triển nuôi trồng và đánh bắt thủy sản với nhịp độ tăng trưởng gần 6%/năm đảm bảo tỷ trọng GDP ngành thủy sản đạt 66% vào năm 2010.
Tiếp tục thực hiện chủ trương đóng cửa rừng tự nhiên, tăng cường công tác quản lý bảo vệ rừng và đẩy nhanh tiến độ trồng rừng để nâng độ che phủ của rừng đạt 50,6% vào năm 2010. Ngoài giá trị kinh tế của rừng, cần tính đến các giá trị khác như : phòng hộ, cảnh quan môi trường…
Mục tiêu phát triển các lĩnh vực xã hội chủ yếu
Về y tế : Không ngừng nâng cao chất lượng khám chữa bệnh. Củng cố mạng lưới y tế cơ sở, đảm bảo cho mọi người được chăm sóc sức khỏe với chi phí thấp, có chính sách đối với y bác sĩ ở tuyến xã. Tổ chức liên doanh, liên kết xây dựng bệnh viện chất lượng cao đảm bảo cho khám chữa bệnh của cả khu vực miền Trung. Phấn đấu đến năm 2010 : 100% các trạm y tế phường xã đạt chuẩn Quốc gia. 100% số khu dân cư đạt tiêu chuẩn vệ sinh, an toàn sức khỏe. 100% trẻ em được tiêm chủng các vaccine theo quy định.
Về phát triển văn hóa thông tin, phát thanh, truyền hình, thể dục thể thao : Tiếp tục thực hiện tốt các chương trình lồng ghép cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống văn hóa ở khu dân cư. Khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia phát triển và xây dựng sự nghiệp văn hóa nghệ thuật. Xây dựng trung tâm sản xuất phim truyền hình. Phát triển mạnh các hoạt động thể thao quần chúng, thể thao thành tích cao, thể thao giải trí.
Các vấn đề về xã hội, môi trường : giải quyết việc làm, giảm nghèo, chăm sóc các gia đình chính sách, người có công. Đấu tranh đẩy lùi các tệ nạn xã hội.
Về an ninh quốc phòng : Tiếp tục xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân, không ngừng nâng cao sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang và phát huy phong trào quần chúng bảo vệ an ninh tổ quốc. Giữ vững an ninh chính trị, đảm bảo trật tự an toàn xã hội.
Mục tiêu lao động – việc làm và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực
Nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực trình độ cao, phát triển quy mô giáo dục và đào tạo theo hướng đa dạng hóa loại hình ( chính quy, mở rộng), thực hiện xã hội hóa giáo dục, xây dựng xã hội học tập. Đến năm 2010, đảm bảo thu hút 95% trẻ 5 tuổi vào mẫu giáo, 99% trẻ từ 6 đến 14 tuổi vào học tiểu học, 95% thanh thiếu niên trong độ tuổi từ 11 đến 17 tuổi và từ 15 đến 21 tuổi được học trung học (THCS, THPT, THCN và Dạy nghề, giáo dục thường xuyên). Đầu tư xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia, trường trọng điểm ở các ngành học, bậc học. Đẩy mạnh công tác phổ cập giáo dục, tiếp tục củng cố và phát triển các trung tâm giáo dục thường xuyên – hướng nghiệp, các trung tâm học tập cộng đồng nhằm đáp ứng nhu cầu học tập thường xuyên của mọi người, mọi trình độ.
Xây dựng Đà Nẵng trở thành trung tâm khoa học và công nghệ của miền Trung, là một trong những trung tâm khoa học và công nghệ lớn của cả nước. Đẩy mạnh đầu tư đổi mới công nghệ trong các ngành và lĩnh vực, nhằm nâng cao chất lượng tăng trưởng. Nghiên cứu lựa chọn công nghệ tiên tiến, thích hợp, đầu tư ít vốn, thu hồi vốn nhanh. Phát triển có trọng điểm các ngành công nghệ cao, ưu tiên công nghệ thông tin, công nghệ tự động hóa; đảm bảo tốc độ đổi mới công nghệ trung bình 20 – 30%/năm, riêng đối với các lĩnh vực sản xuất ưu tiên phải đạt 30 – 40%/năm.
Thực hiện việc đào tạo nghề nghiệp và chuyên môn nghiệp vụ cho người lao động nhằm tăng tỷ lệ lao động được đào tạo lên 50% năm 2010, trong đó đào tạo nghề là 37%.
Triển khai đề án “Có việc làm” giai đoạn 2006 – 2010 là tạo việc làm cho khoảng 160.000 lao động, bình quân mỗi năm khoảng 31.000 – 35.000 lao động. Phấn đấu đến cuối năm 2010, tỷ lệ thất nghiệp của thành phố còn 3,6 – 4,0%.
Thực hiện đào tạo nghề nghiệp và chuyên môn nghiệp vụ
Thực hiện đa dạng hóa các loại hình trường lớp , đổi mới phương thức đào tạo, phân luồng học sinh sau trung học cơ sở và trung học phổ thông theo nhiều hướng khác nhau. Quy hoạch mạng lưới các trường trung học chuyên nghiệp và dạy nghề, củng cố các trường dạy nghề dài hạn, phát triển trường dạy nghề, các trung tâm đào tạo ngắn hạn tại địa phương nhằm đào tạo theo ngành nghề phù hợp, đào tạo theo địa chỉ, làm tốt công tác tư vấn đào tạo và việc làm, thông tin kịp thời về thị trường lao động trong thành phố, trong nước và nước ngoài.
Việc bồi dưỡng và chuẩn hóa giáo viên dạy nghề cần được chú trọng song song với việc nâng cao trình độ học vấn và trình độ nghề nghiệp của người lao động. Phát triển mạng lưới các khoa sư phạm ở các trường đại học và liên kết giữ các trường đại học với các viện nghiên cứu giáo dục để bồi dưỡng về sư phạm cho giáo viên.
Bên cạnh đó, các quan cơ quan quản lý nhà nước cần phải có quy hoạch, kế hoạch, định hướng phát triển về các cấp độ đào tạo, ngành nghề đào tạo, quy mô đào tạo. Tạo môi trường, điều kiện thuận lợi để người lao động có điều kiện học tập nâng cao trình độ học vấn và chuyên môn kỹ thuật.
Nâng cao nhận thức, tác phong nghề nghiệp của lực lượng lao động là một trong những yếu tố quan trọng trong một nền kinh tế công nghiệp hiện nay. Việc nghiên cứu xây dựng những chuẩn mực về đạo đức, tác phong nghề nghiệp và đưa vào chương trình giảng dạy trong các cơ sở đào tạo là việc làm hết sức cần thiết và thường xuyên đối với các tổ chức đào tạo và sử dụng lao động nhằm cung cấp cho xã hội đội ngũ lao động tốt nhất.
Xây dựng ĐN trở thành trung tâm khoa học và công nghệ
Xây dựng và phát triển công nghệ thông tin trở thành ngành kinh tế mũi nhọn và là một trong ba trung tâm công nghệ hàng đầu của quốc gia. Xây dựng và phát triển công nghệ sinh học đạt trình độ tiên tiến trong khu vực theo hướng phục vụ phát triển kinh tế biển, nông nghiệp, y tế và bảo vệ môi trường. Đẩy mạnh ứng dụng các lĩnh vực công nghệ cao như công nghệ bức xạ và hạt nhân, điện tử, công nghệ gia công hiện đại phục vụ cho phát triển kinh tế và khu vực.
Xây dựng và hoàn thiện Làng Đại học Đà Nẵng, trường đại học quốc tế phục vụ đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao, đặc biệt là các chuyên gia giỏi về quản lý (kinh tế, công nghệ…) và chuyên viên kỹ thuật. Định hướng đào tạo đáp ứng nhu cầu các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên; Nâng cao năng lực chuyên môn của đội ngũ chuyên gia, cán bộ làm công tác đối ngoại nhằm đáp ứng tốt yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
Tiếp tục phát triển hệ thống y tế, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật hiện đại, các trung tâm y tế chuyên sâu, trong đó chú trọng khâu chẩn đoán sớm và điều trị kỹ thuật cao đủ sức phục vụ nhân dân thành phố và khu vực miền Trung – Tây Nguyên và các tỉnh lân cận của các nước bạn (Lào, Campuchia, đông bắc Thái Lan).
CÁC CHỈ TIÊU KẾ HOẠCH LAO ĐỘNG VIỆC LÀM ĐẾN NĂM 2010
Một số chỉ tiêu năm 2009
Giải quyết việc làm cho 35.000 người.
Tỷ lệ giảm sinh 0,35%.
Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn quốc gia 0,25%.
Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn thành phố 1,96%.
Gọi công dân nhập ngũ 100% .
Đến năm 2009 đạt tỷ lệ 50% trường đạt chuẩn quốc gia ở các cấp học, bậc học (đối với bậc mầm non đạt 20%, đối với bậc tiểu học đạt 85%; đối với cấp THCS đạt 70% ; đối với cấp THPT đạt 70%). Đảm bảo 100% trường học vào năm 2009 đạt yêu cầu chuẩn về thiết bị dạy - học, phòng thí nghiệm, thư viện. Nhằm tạo điều kiện để trẻ em được chăm sóc, giáo dục toàn diện, phấn đấu đạt 75% học sinh tiểu học được học 2 buổi/ngày đến năm 2009.
Các chỉ tiêu năm 2010
Tốc độ tăng dân số 2,2%.
Giải quyết việc làm hàng năm 3,3 vạn lao động.
Thực hiện việc đào tạo nghề nghiệp và chuyên môn nghiệp vụ cho người lao động nhằm tăng tỷ lệ lao động được đào tạo tăng từ 39% năm 2006 lên 47% năm 2010.
Cơ cấu lao động trong nền kinh tế quốc dân.
Nông lâm thủy sản 10 – 12%.
Công nghiệp và xây dựng 38 – 40%.
Dịch vụ 48 – 50%.
Đảm bảo thu hút 95% trẻ 5 tuổi vào mẫu giáo, 99% trẻ từ 6 đến 14 tuổi vào học tiểu học, 95% thanh thiếu niên trong độ tuổi từ 11 đến 17 tuổi và từ 15 đến 21 tuổi được học trung học.
Đảm bảo tăng tỷ lệ lao động được đào tạo lên 50%, trong đó đào tạo nghề là 37%.
Phấn đấu đến cuối năm tỷ lệ thất nghiệp của thành phố còn 3,6 – 4,0%. Và giải quyết việc làm cho 35.000 lao động.
Phấn đấu đạt chỉ số phát triển con người (HDI) nằm trong nhóm các thành phố phát triển nhất của cả nước.
Hạ tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi từ 25,9% năm 2000 xuống còn dưới 10%; hạ tỷ lệ nhiễm mới HIV/AIDS; phấn đấu giảm tối thiểu trẻ em sinh ra bị dị tật do các bệnh di truyền và ảnh hưởng chất độc màu da cam.
Từ các kết quả dự báo lực lượng lao động, việc làm và các chỉ tiêu đặt ra cho năm 2009 và 2010, ta có thể lập bảng cân đối cung – cầu lao động sau :
Bảng 19: Cân đối cung cầu lao động năm 2009 và năm 2010
(đơn vị tính : người, %)
Tổng cung
Tổng cầu
Cân đối thừa (+) thiếu (-)
lao động
Tỷ lệ TN
2009
424.975
343.685
+ 81.290
16,80
2010
436.885
366.064
+ 70.821
19,35
(Nguồn : Quy hoạch tổng thể phát triển KTXH TP.Đà Nẵng đến năm 2020)
Như vậy đến năm 2009 và 2010, Đà Nẵng vẫn thừa lao động, do độ co giãn việc làm trong ngành nông nghiệp tiếp tục giảm, thiếu việc làm dẫn đến dư thừa lao động. Ngành công nghiệp và xây dựng trong giai đoạn này phát triển, tuy nhiên có sự chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ ngành, đầu tư công nghệ cao, sử dụng ít lao động, cho nên việc làm trong ngành này tăng dẫn đến việc thừa lao động vào năm 2009 và 2010 (năm 2009 là 81.290 người, năm 2010 là 70.821 người).
Về tỉ lệ thất nghiệp, theo Đề án việc làm của thành phố, mục tiêu đến năm 2010, tỉ lệ thất nghiệp khu vực thành thị là 3,6 - 4%, tuy nhiên theo tình hình thực tế cho đến nay (năm 2007, tỉ lệ thất nghiệp là 5,02%) và mục tiêu chung của cả nước (tỉ lệ thất nghiệp khu vực thành thị đến 2010 là 5%, trong đó Hà Nội, TP Hồ Chí Minh khoảng 5,5%), dự báo tỉ lệ thất nghiệp khu vực thành thị của Đà Nẵng đến năm 2009 là 16,8%, năm 2010 là 19,35% và đến năm 2020 là 4,5%. Do đó cần thiết phải có những giải pháp hữu hiệu và nhanh chóng được đưa ra đề giải quyết vấn đề thất nghiệp này.
MỘT SỐ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN KẾ HOẠCH LAO ĐỘNG – VIỆC LÀM ĐẾN NĂM 2010
Về nâng cao chất lượng đào tạo nghề
Đối với các cơ quản lý nhà nước
Xây dựng chiến lược đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao
Hiện tại, công tác đào tạo nguồn nhân lực còn nhiều bất cập, các trường chưa bám sát vào mục tiêu phát triển của xã hội để định hướng xây dựng kế hoạch đào tạo đáp ứng về quy mô, ngành nghề đào tạo, còn chạy theo cơ chế thị trường dẫn đến một số ngành nghề đào tạo ra thừa so với nhu cầu của nhà sử dụng, trong khi đó một số ngành nhà sử dụng càn thì số lượng đào tạo lại ít. Mặt khác, thành phố chưa có được một chiến lược dài hạn về phát triển nguồn nhân lực, vì vậy trên cơ sở quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của thành phố đến năm 2020 cần phải xây đựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực theo hướng:
Triển khai thực hiện kế hoạch phát triển giáo dục và đào tạo đến 2010 và xây dựng kế hoạch phát triển giáo dục và đào tạo đến năm 2020. Phát triển quy mô giáo dục và đào tạo theo hướng đa dạng hoá các loại hình( chính quy, mở rộng), thực hiện xã hôi hoá giao dục, xây dựng xã hội học tập.
Trên cơ sở định hướng phát triển các ngành, các lĩnh vực của thành phố đến 2020, xây dựng kế hoạch phát triển đội ngũ công nhân kỹ thuật đến năm 2020 của thành phố, tiếp tục tăng quy mô đến năm 2010 quy mô đào tạo nghề khoảng 35.000 học sinh/năm, trong đó trung cấp nghề chiếm 30-40%, cao đẳng nghề 20%. Đến năm 2010 quy mô đào tạo đạt 40.000 - 45000 học sinh/năm, trong đó trung cấp nghề 45-50%, cao đẳng nghề là 30%. Tăng nhanh về số lượng và tỷ lệ lao động được qua đào tạo năm 2010 lên 50% và đạt 75-80% vào năm 2020.
Trong quá trình tham gia WTO, để nâng cao năng lực cạnh tranh các doanh nghiệp đều phải đổi mới thiết bị công nghệ, áp dụng công nghệ mới trong hoạt động sản xuất, điều đó đòi hỏi phải có đội ngũ công nhân kỹ thuật cao, có khả năng làm chủ được thiết bị, công nghệ. Để cung ứng nguồn nhân lực có chất lượng cao cho các đơn vị sản xuất cần xây dựng kế hoạch đào tạo, hợp tác, liên kết đào tạo với các cơ sở đào tạo trong nước và nước ngoài để nâng tỷ lệ công nhân kỹ thuật qua đào tạo bậc cao lên 40-45% vào năm 2020. Đặc biệt quan tâm đào tạo đội ngũ công nhân bạc cao trong lĩnh vực điện tử, viễn thông, cơ khí, đóng tàu, công nghiệp phần mềm...
Quy hoạch và sắp xếp mạng lưới các cơ sở đào tạo
Trên cơ sở quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội của thành phố đến năm 2020 cần xây dựng quy hoạch mạng lưới các trường trung học phổ thông, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề, đảm bảo yêu cầu đào tạo cân đối về ngành nghề, trình độ, và phân bổ địa bàn thuận lợi. Quy hoạch các trường trung học chuyên nghiệp và dạy nghề theo hướng không chỉ phục vụ cho nhu cầu cung cấp nguồn nhân lực cho thành phố mà còn cho khu vực và xuất khẩu lao động.
Xây dựng các cơ sở nghề thật sự là những trường nghề có chất lượng, có thương hiệu, đặc biệt quan tâm dạy nghề cho những nông dân chuyển đổi nghề nghiệp, trong đó thanh niên nông thôn có văn hoá phổ thông cần được đào tạo nghề bài bản để làm việc lâu dài trong các cơ sở công nghiệp, dịch vụ mới tại địa phương. Đầu tư trong điểm xây dựng trường cao đẳng nghề Đà Nẵng thành trường nghề có chất lượng cao. Đẩy nhanh tiến độ xây dựng trường cao đẳng xây dựng...
Rà soát sắp xếp lại các cơ sở đào tạo nghề ngắn hạn, thu hồi giấy phép hoạt động đối với các cơ sở đào tạo không đảm bảo yêu cầu về cơ sỏ vật chất và đội ngũ giáo viên theo quy định. Thành lập trung tâm dạy nghề cấp thành phố trên cơ sở đầu tư, nâng cấp các cơ sở Trung tâm đào tạo nghề quận Liên Chiểu để thực hiện chức năng đào tạo nghề ngắn hạn cung ứng lao động cho các khu công nghiệp của thành phố và các tỉnh lân cận.
Kêu gọi các thành phần kinh tế, các tổ chức nước ngoài tham gia đầu tư xây dựng các trường dạy nghề chất lượng cao, cho phép mở những trung tâm dạy nghề 100% vốn nước ngoài và những trường dạy nghề liên kết với nước ngoài, liên kết với các doanh nghiệp trong khu công nghiệp đào tạo nghề kỹ thuật công nghệ cao.
Bổ sung, hoàn thiện các chính sách liên quan đến thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
Đầu tư các cơ sở đào tạo công lập trọng điểm theo hướng hiện đại hoá. Nghiên cứu bổ sung cụ thể hoá các chính sách ưu đãi và khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư xây dựng cơ sở vật chất các trường, các cơ sở đào tạotheo hướng hiện đại hoá, nhât là chính sách ưu đãi về đất đai, vay và hỗ trợ lãi suất vay đầu tư.
Khuyến khích người lao động tham gia và đào tạo chuyên môn kỹ thuật, có chính sách ưu dãi đối với đội ngũ giáo viên giỏi, lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao trong tất cả ccá ngành, các lĩnh vực...
Có chính sách mạnh hơn trong thu hút các chuyên gia đầu ngành, công nhân kỹ thuật cao, đặc biệt là trong một số lĩnh vực như nghiên cứu ứng dụng, quản lý kinh tế, công nghệ thông tin, tự động hoá, vật liệu mới... về làm việc tại thành phố. Đồng thời gắn với việc bố trí, sử dụng đúng chuyên ngành, chuyên môn kỹ thuật, sở trường, tạo môi trường làm việc, chính sách đãi ngộ xứng đáng để đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật cao, chuyên gia đầu ngành thu hút về thành phố, phát huy năng lực chuyên môn và góp vai trò của họ vào việc thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế xã hội thành phố.
Đẩy mạnh thực hiện xã hội hoá giáo dục đào tạo và dạy nghề,bổ sung và cụ thể hoá các chính sách ưư đãi về hỗ trợ đào tạo,thuê và chuyển nhượng đất đai, chế độ chính đãi ngộ đối với người lao động...đối với các cơ sở giáo dục ngoài công lập.
Đẩy mạnh hợp tác liên kết trong đào tạo nguồn nhân lực
Hợp tác liên kết trong đào tạo là một trong những giải pháp quan trọng để một mặt tăng nhanh số lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật, mặt khác đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên gia đàu ngành khi hợp tác liên kết với các cơ sở đào tạo quốc tế uy tín.Hiện nay UBND thành phố cũng đã có một số chương trình hợp tác đào tạo đội ngũ cán bộ trong một số ngành nghề, lĩnh vực ưư tiên tại các trường đại học ở một số nước như Anh, Mỹ, Pháp, Singapore...Tuy nhiên cần phải xây dựng chiến lược đào tạo nguồn nhân lực dài hạn đặc biệt là dự báo về số lượng cần phải đào tạo trong từng ngành nghề, lĩnh vực để có kế hoạch hợp tác đào tạo một cách hiệu quả, lâu dài.
Chủ động tăng cường phối hợp với đại học Đà Nẵng trong công tác đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao để phục vụ cho nhu cầu phát triển thành phố, đồng thời xúc tiến nhanh việc thành lập cơ sở đào tạo sư phạm kỹ thuật để đảm bảo đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên dạy nghề cho thành phố và khu vực.
Thông qua chuyển giao công nghệ đẩy mạnh đào tạo đội ngũ lao động kỹ thuật có khả năng làm chủ được thiết bị, công nghệ cao.
Tăng cường kiểm tra giám sát chất lượng đào tạo
Công tác kiểm tra giám sát thời gian qua đã thực hiện, song chưa tốt nhiều tổ chức đào tạo chưa đảm bảo đủ điều kiện về cơ sở, trang thiết bị, đội ngũ giáo viên, chương trình nội dung đào tạo vẫn tồn tại, ảnh hưởng lớn đến chất lượng đầu tạo và gây lãng phí cho xã hội. Các cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo hàng năm cần xây dựng nội dung, chương trình kiểm tra giám sát để kịp thời chấn chỉnh những sai xót và kịp thời đề xuất giải quyết các vướng mắt khó khăn của cơ sở, góp phần nâng cao chất lượng hiệu quả của công tác đào tạo.
Nghiên cứu thành lập cơ quan độc lập chịu trách nhiệm về công tác kiểm định chất lượng đào tạo.
Đối với các cơ sở đào tạo
Vấn đề được nhiều doanh nghiệp quan tâm là dạy cái gì và dạy như thế nào để “đầu ra” có thể sử dụng được, nếu phải đào tạo lại thì chỉ là đào tạo cho phù hợp với thực tế máy móc thiết bị, nội quy, quy trình làm việc tại đơn vị chứ không phải đào tạo lại từ đầu. Vì vậy các cơ sở đầu tạo có vai trò rất lớn và quan trọng trong việc trang bị kiến thức chuyên môn, kỹ năng làm việc cho người lao động, cung cấp cho nền kinh tế một nguồn nhân lực đủ về số lượng, hợp lý về cơ cấu, đảm bảo về chất lượng chuyên môn nghiệp vụ, tay nghề, có tác phong và đạo đức nghề nghiệp tốt, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Chất lượng nguồn nhân lực hiện nay càng thấp trong đó có một phần không nhỏ là do cơ sở đào tạo chưa đáp ứng được yêu cầu và về cơ cấu vật chất, nội dung chương trình đào tạo, đội ngũ giáo viên...Vì vậy để đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao, cần phải thực hiện một số giải pháp đối với cơ sở đào tạo như sau:
Đào tạo nghề
Tập trung phát triển hoạt động đào tạo nghề đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động, gắn với định hướng và nhu cầu phát triển của nền kinh tế.
Sớm hoàn chỉnh và ban hành kế hoạch phát triển mạng lưới đào tạo nghề đến năm 2010, làm cơ sở để phát triển hoạt động đào tạo nghề của địa phương.
Triển khai thực hiện đề án xã hội hoá hoạt động dạy nghề đến năm 2010, xây dựng trường Cao đẳng nghề Đà Nẵng trở thành trường dạy nghề chất lượng cao.
Tiếp tục thực hiện chính sách đào tạo nghề miễn phí tại các cơ sỏ dạy nghề tập trung cho đối tượng là con liệt sĩ, thương binh, gia đình chính sách, có công cách mạng, thanh niên hoàn thành nghĩa vụ quân sự, lao động thuộc hộ nghèo, dân tộc ít người, lao động thuộc dạng chỉnh trang đô thị, nông dân không còn đất sản xuất.
Có chính sách hỗ trợ kinh phí cho các doanh nghiệp tiếp nhận và đào tạo lao động phổ thông thuộc đối tượng là lao động nghèo, lao động thuộc diện chính sách, thanh niên hoàn thành nghĩa vụ quân sự gắn với giải quyết việc làm cho họ sau thời gian học nghề tại doanh nghiệp. Tổ chức việc kết nối giữa các trường và các doanh nghiệp để đẩy mạnh hoạt động đào tạo nghề theo địa chỉ, phù hợp với các yêu cầu sử dụng của doanh nghiệp.
Phấn đấu giai đoạn 2006-2010 đào tạo nghề cho khoảng 105.000 lao động. bình quân mỗi năm đào tạo nghề cho 20.000-21.000 lao động, tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề đạt khoảng 37%. Trong đó ngành công nghiệp đạt 20%, ngành nông nghiệp đạt 7%, thương mại dich vụ đạt 10%.
Đối với mục tiêu, nội dung, phương pháp đào tạo
Chương trình, nội dung, phương pháp đào tạo là một trong những yếu tố quan trọng quyết định đến chất lượng đào tạo ở tất cả các cấp học, bậc học. Hiện nay có nhiều ý kiến cho rằng chương trình, nội dung đào tạo đại học,cao đẳng, trung học chuyên nghiệp ở Việt Nam còn lạc hậu chưa theo kịp sự phát triển và biến đổi của kinh tế-xã hội, khoa học công nghệ và hội nhập quốc tế, các chương trình, nội dung đào tạo còn độc lập với nhau, thiếu tính liên thông giữa các bậc học, cấp học. Điều này dẫn đến thực trạng: Học nhiều nhưng kiến thức mới không được bao nhiêu, kiến thức chưa đáp ứng tương đương trình độ, tỷ lệ học sinh, sinh viên ra trường đáp ứng yêu cầu của nhà tuyển dụng càng thấp gây lãng phí cho gia đình và xã hội. Giáo dục của thế giới trong thế kỷ 21 đang thực hiện 4 mục tiêu cơ bản cho người học là: học để biết, học để làm, học để chung sống và học để khẳng định mình. Do vậy mô hình nhà trường hiện đại phải tổ chức dạy học với phương pháp tiên tiến đảm bảo cho học sinh lĩnh hội và thực thi 6 bậc thanh tri thức: biết, hiểu, vận dụng, phân tích, tổng hợp và đánh giá. Nhà trường áp dụng phương pháp dạy học hướng về người học và nội dung dạy theo hướng tích hợp,ít môn học nhưng vẫn đáp ứng yêu cầu đào tạo.
Đối với các trường dạy nghề và cơ sở đào tạo nghề nghiệp, việc đổi mới, hiên đại hoá chương trình, nội dung đào tạo theo hướng mềm dẻo, nâng cao kỹ năng thực hành, năng lực tự tạo việc làm, năng lực thích ứng với những biến đổi của công nghệ và thực tế sản xuất kinh doanh. Xây dựng chương trình theo module, chương trình đào tạo nghề trình độ cao theo hướng tiếp cận với trình độ tiên tiến trong khu vực và trên thế giới. Đổi mới và hiện đại hoá theo phương pháp dạy và học, phát huy được năng lực của mỗi cá nhân, tăng tính chủ động, tích cực của học sinh. Tăng cường hình thức liên kết giữa các cơ sở đào tạo và sơ sở sản xuất, kết hợp đào tạo kiến thức và kỹ năng cơ bản tại trường với đào tạo kỹ năng nghề tại cơ sở sản xuất, kinh doanh.
Trường Cao đẳng nghề Đà Nẵng đã lựa chọn phương pháp phân tích nghề theo nguyên tắc DACUM để xây dựng chương trình phù hợp với nhu cầu sử dụng lao động. Theo phương pháp phân tích nghề, nhà trường cần quan hệ chặt chẽ với cơ sở sản xuất và người lao động để nghiên cứu khảo sát thực tế những nhiệm vụ, công việc và các bước mà người công nhân kỹ thuật đang làm nhằm xây dựng chương trình theo module môn học để sau khi tốt nghiệp học sinh vào làm việc tại các cơ sở sản xuất không phải bỡ ngỡ giữa kiến thức, kỹ năng ở trường so với kỹ năng thực hành nghề.
Thực hiện phương thức đào tạo liên thông theo cấp học, bậc học trong hệ thống giáo dục đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề, áp dụng hình thức đào tạo theo tín chỉ gắn với công tác giám định, kiểm định chất lượng đào tạo...có như vậy mới tạo nhiều con đường để người lao động đến với các cấp bậc cao hơn, được học suốt đời, góp phần nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật và chất lượng nguồn nhân lực.
Xác định cơ cấu ngành nghề đào tạo đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế
Hiện nay hầu hết các cơ sở đào tạo từ đào tạo nghề đến đào tạo các bậc chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học đều lúng túng trong việc xác định cơ cấu ngành nghề, số lượng đào tạo còn chịu điều tiết mạnh của cơ chế thị trường và nhu cầu của người học, chưa gắn với nhu cầu phát triển của nền kinh tế dẫn đến một số ngành nghề đào tạo thừa về số lượng, trong khi đó một số ngành nghề xã hội đang cần thì số lượng đào tạo ít do không có người theo học (qua 18 phiên chợ việc làm cho thấy số lao động được đào tạo cao đẳng đại học và trung học chuyên nghiệp có nhu cầu việc làm nhiều gấp 1,5 lần với nhu cầu nhà tuyển dụng, trong khi đó nhu cầu nhà tuyển dụng về công nhân kỹ thuật chỉ đáp ứng được 34%), kết quả là số lượng lao động kỹ thuật trong xã hội thiếu trong khi nhiều lao động được đào tạo trong các ngành khác lại thừa, không có việc làm gây lãng phí lớn cho xã hội. Theo quy hoạch phát triển kinh tế xã hội thành phố đến 2010 đã được Chính phủ phê duyệt thì cơ cấu kinh tế của thành phố là công nghiệp và xây dựng - dịch vụ - thuỷ sản nông lâm, theo đó cơ cấu lao động làm việc trong các ngành kinh tế của thành phố đến năm 2010 là công nghiệp xây dựng 38-40% ( hiện nay là 31,25%) dịch vụ 48-52% (hiện nay 55,7%), thuỷ sản nông lâm 10-12% (hiện nay 12,95%).
Dự báo đến 2020 cơ cấu kinh tế của thành phố sẽ chuyển dịch theo hướng dịch vụ công nghiệp và thuỷ sản nông lâm nghiệp, theo đó dự báo cơ cấu lao động trong các ngành kinh tế dịch vụ chiếm khoảng 50-55%, công nghệ xây dựng 40-45%, còn lại là thuỷ sản nông lâm. Vì vậy để cung cấp nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế đòi hỏi các cơ sở đào tạo phải căn cứ vào tình hình và xu hướng phát triển kinh tế xã hội dài hạn và xây dựng chiến lược đào tạo của đơn vị mình đảm bảo đủ về số lượng, hợp lý về cơ cấu, đảm bảo về chất lượng để phục vụ sự phát triển của nền kinh tế. Hiện nay các trường đã mạnh dạn và nhanh chóng chuyển hướng, tiến hành đào tạo những ngành mà nền kinh tế có nhu cầu lớn, như quản trị kinh doanh, kinh doanh du lịch, ngân hàng, tin học, công nghệ phần mềm, cơ khí giao thông, cầu đường......Trong thời gian tới các cơ sở đào tạo cần có quan hệ chặt chẽ với các cơ quan quản lý, các nhà sử dụng, để nắm được nhu cầu về số lượng, ngành nghề ,cấp độ đào tạo cần sử dụng để có kế hoạch đào tạo sát với nhu cầu phát triển của xã hội và nhà sử dụng, đào tạo đón đầu cho một số ngành kinh tế dự báo là sẽ phát triển từ nay đến 2020 của thành phố Đà Nẵng như cơ khí đóng tàu, công nghệ điện tử viễn thông, vật liệu mới, công nghệ sinh học, dịch vụ tài chính ...
Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên
Ở Việt Nam những năm gần đây, tốc độ phát triển quy mô giáo dục tăng dẫn đến tình trạng số giờ giảng dạy của giảng viên khá cao, có trường hợp lên tới 800-1000 giờ/năm. Như vậy nhiều giảng viên không còn thời gian tham gia nghiên cứu khoa học để nâng cao trình độ chuyên môn của mình. Mặc khác đội ngũ giảng viên, giáo viên của thành phố còn mỏng và thấp so với quy định, tỷ lệ giáo viên/học sinh của các trường trung học chuyên nghiệp là 1/28, dạy nghề là 1/22 trong khi đó tỉ lệ quy định là 1/15.
Việc rèn luyện về nhận thức chính trị, phẩm chất đạo đức trong đội ngũ nhà giáo chưa được chú trọng đúng mức. Một bộ phận giáo viên, giảng viên còn có những biểu hiện chưa toàn tâm, toàn ý phục vụ sự nghiệp giáo dục.
Để khắc phục những hạn chế của đội ngũ giáo viên, những năm qua việc đào tạo các loại hình giáo viên đã được mở rộng. Việc bồi dưỡng chuẩn hoá giáo viên cũng được chú trọng. Mô hình đào tạo giáo viên trong bối cảnh mới đã được xây dựng theo cách tiếp cận đa hệ, đa cấp, đa môn để tăng cường khả năng thích ứng linh hoạt của giáo viên đáp ứng yêu cầu đa dạng, phù hợp với tình hình kinh tế-xã hội của địa bàn. Việc phát triển mạng lưới các khoa sư phạm, các trung tâm sư phạm cho giáo viên đã góp phần từng bước nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên. Để tiếp tục nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên trong thời gian đến cần:
Thực hiện tổng rà soát chất lượng đội ngũ giáo viên các cấp, các bậc đại học, đánh giá đúng thực trạng những mặt mạnh, mặt yếu, thực chất và nguyên nhân. Trên cơ sở đó có những giải phấp phù hợp để tạo chuyển biến cơ bản và toàn diện trong việc xây dựng và phát triển toàn diện đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục và giáo viên theo hướng chuẩn hoá và hiện đại hoá, đủ số lượng, đảm bảo về năng lực chuyên môn, chú trọng đội ngũ giáo viên dạy ngoại ngữ.
Kết hợp đào tạo và bồi dưỡng, tuyển dụng và sàng lọc, bổ nhiệm và luân chuyển, đảm bảo đồng bộ về cơ cấu, chuẩn hoá về trình độ đào tạo, vững vàng về tư tưởng chính trị và nghiệp vụ sư phạm.
Đảm bảo tỉ lệ giáo viên 1 giáo viên trên 15 học sinh, tiếp tục mở các bồi dưỡng nghiệp vụ sư phậm cho các giáo viên dạy nghề chưa đạt chuẩn, phân đấu đến năm 2010 có 100% giáo viên đạt chuẩn sư phạm. Những năm tiếp theo có kế hoạch tăng tỷ lệ giáo viên dạy nghề có trình độ sư phạm bậc II, đến 2020 có 30% trở lên giáo viên các trường dạy nghề có trình độ đại học. Thường xuyên cập nhập kiến thức, công nghệ mới cho giáo viên đang giảng dạy, có thể gửi đi đào tạo trong nước hoặc nước ngoài theo các chương trình hợp tác đào tạo. Có chính sách đãi ngộ giáo viên dạy nghề như phụ cấp độc hại, phụ cấp nghề nghiệp, phụ cấp thu hút.. ..nhằm tạo ra đội ngũ giáo viên giỏi cả về lý thuyết lẫn thực hành, tâm huyết với nghề nghiệp.
Đẩy mạnh hợp tác, liên kết trong đào tạo
Tăng cường sự hợp tác trong và ngoài nước với các cơ sở giáo dục, nghiên cứu khoa học nhằm tranh thủ sự giúp, hợp tác trong lĩnh vực đào tạo, nghiên cứu khoa học và đầu tư xây dựng cơ sở vật chất.
Phải đặt mục tiêu đào tạo của trường là đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực của toàn xã hội, nghĩa là đáp ứng yêu cầu của các thành phần kinh tế chứ không phải chỉ đào tạo và sử dụng trong khu vực nhà nước. Trong thời gian tới, việc đào tạo theo địa chỉ chắc chắn sẽ trở thành xu hướng, doanh nghiệp sẽ đặt hàng cho trường nghề để có những sản phẩm phù hợp chứ không để bị động như thời gian qua. Vì vậy cần thúc đẩy nhanh biện pháp đào tạo theo địa chỉ bằng cách kết hợp với nhu cầu đào tạo của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, đào tạo theo đơn đặt hàng . Doanh nghiệp và các cơ sở đào tạo cần tăng cường hợp tác trong việc xây dựng chương trình đào tạo, cử chuyên gia từ doanh nghiệp tham gia đào tạo, chuyển giao công nghệ cho các trường, tạo môi trường thực tập thuận lợi cho học sinh.
Tổ chức, phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý đào tạo, cơ sở đào tạo với các đơn vị sử dụng lao động để có thể thông tin kịp thời về yêu cầu, chất lượng tay nghề. Chú trọng thực hành trên các công nghệ tiến tiến và hiện đại nhằm góp phần nâng cao chất lượng đào tạo. Đảm bảo tỉ lệ đào tạo lý thuyết và thực hành, đối với cơ sở đào tạo với doanh nghiệp để học viên tiếp cận được với thiết bị công nghệ đang sử dụng, để khi ra trường có thể làm việc được ngay trên thiết bị công nghệ hiện có, hạn chế thời gian phải đào tạo lại như hiện nay.
Đối với đơn vị sử dụng lao động
Bố trí, sử dụng, hợp lý lực lượng lao động đã qua đào tạo và thường xuyên đào tạo và bồi dưỡng cho lực lượng lao động, đặc biệt là cán bộ, quản lý.
Điều quan trọng và quyết định hơn cả vẫn là chính sách “dụng người”. Theo kết quả điều tra do Bộ Lao động – Thương binh xã hội thực hiện năm 2005, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) được đánh giá là biết dùng người nhất, tạo ra hiệu quả sản xuất kinh doanh cao nhất. Kết quả khảo sát lại 500 doanh nghiệp (cả 3 miền Bắc, miền Nam, Trung) cho thấy trong khi cứ mỗi lao động trong doanh nghiệp FDI sinh lợi cho doanh nghiệp 25,1 triệu đồng /1năm, thì con số này doanh nghiệp là 8 triệu đồng và doanh nghiệp tư nhân là 5,1 triệu đồng. Cũng theo phân tích, 1 dồng tiền lương tạo ra 1,1 đồng lợi nhuận tại khối doanh nghiệp FDI, trong khi chỉ tạo ra 0,5 đồng trong khối doanh nghiệp tư nhân và 0,3 đồng trong khối doanh nghiệp nhà nước.
Hiệu quả đến từ chính sách tuyển dụng và quản trị nhân sự chuyên nghiệp, đó là nhận định của rất nhiều chuyên gia tư vấn và nhà tuyển dụng hàng đầu của Việt Nam, trong các doanh nghiệp FDI cách thức tuyển dụng của họ không phải là chọn được người vừa mắt với người chủ doanh nghiệp mà là người thích hợp và có khả năng đảm đương tốt từng công việc cụ thể. Chính vì vậy, ngay từ khâu tuyển dụng, họ đã chọn những nhân viên và cán bộ quản lý năng động, đủ năng lực để làm việc. Bằng chế độ đãi ngộ xứng đáng (lương, thưởng, phúc lợi và cơ hội đào tạo, thăng tiến), các doanh nghiệp tư nhân sẵn sàng trả lương cao cho nhân viên, nhưng đó không phải là cách để thu hút những người năng động, vì ở các doanh nghiệp tư nhân, nhân viên có ít cơ hội đào tạo, nâng cao trình độ. Tuy nhiên, rất nhiều doanh nghiệp của chúng ta chưa ý thức được hết điều này. Để có được sản phẩm và dịch vụ cạnh tranh được trên thị trường, doanh nghiệp phải có nguồn nhân lực chất lượng.
Như vậy, một trong những điều quan trọng nhất đối với một người lãnh đạo là nghệ thuật sử dụng con người. Bởi vì phải có con người thì mới làm nên việc. Đánh giá đúng năng lực từng cá nhân, đặt họ vào đúng vị trí là một thách thức đối với người quản trị. Muốn làm được thì phải hiểu nhân viên, phải biết họ đang làm gì, họ dang suy nghĩ điều gì và liệu những điều đó có phù hợp với định hướng phát triển hay không.
Bố trí sử dụng đội ngũ lao động đúng năng lực, sở trường để họ phát huy được trình độ chuyên môn kỹ thuật nghiệp vụ của mình một cách hiệu quả nhất. Kết hợp hài hoà giữa việc ưu tiên sử dụng con em gia đình có công cách mạng với việc phát huy và sử dụng nhân tài, có chế độ đãi ngộ và giữ được đội ngũ lao động giỏi... là vấn đề hết sức quan trọng trong giai đoạn hiện nay của thành phố.
Sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế và việc Việt Nam gia nhập WTO đòi hỏi người lao động trong tất cả các ngành, các lĩnh vực phải không ngừng học tập để đáp ứng yêu cầu của quá trình phát triển. Trong thời gian tới cần đẩy mạnh hơn nữa công tác đào tạo của đơn vị và thông qua chuyển giao công nghệ để đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cho người lao động để có thể làm chủ được thiết bị công nghệ mới.
Giải quyết việc làm sau đào tạo nghề
Phát triển kinh tế để tạo việc làm
Thực hiện đồng bộ các chủ trương chính sách của Nhà nước, đẩy mạnh cải cách hành chính, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện cơ chế chính sách, tạo môi trường đàu tư thông thoáng nhằm đẩy mạnh thu hút đầu tư trong và ngoài nước. Tập trung phát triển những ngành có lợi thế, giải quyết nhiều việc làm như dệt, may mặc, giày da, thêu, đồ chơi, chế biến hàng thuỷ sản xuất khẩu, đẩy mạnh phát triển công nghiệp cơ khí, điện tử, công nghệ phần mềm..và hoàn chỉnh cơ sở hạ tầng các khu công nghiệp, các dự án trọng điểm trong chương trình đầu tư phát triển công nghiệp để đưa vào khai thác. Chú trọng giải quyết viêc làm từ các doanh nghiệp đã hoạt động trong khu công nghiệp, các doanh nghiệp dự án đang triển khai thu hút nhiều lao động. Xây dựng các cụm công nghiệp, hỗ trợ đầu tư cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ để phát triển sản xuất, tạo việc làm.
Tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng, đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại, khuyến khích đầu tư phát triển các dịch vụ: tài chính-tín dụng, bảo hiểm, kiểm toán... để thu hút đầu tư vào ngành thương mại - dịch vụ; xúc tiến triển khai các dự án phát triển du lịch - dịch vụ trong chương trình tập trung phát triển du lịch và các dịch vụ mà thành phố có thế mạnh, tạo ra nhiều việc làm.
Đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng nghề cá, đẩy mạnh chế biến thuỷ sản xuất khẩu, phát triển khai thác hải sản xa bờ, đầu tư các dịch vụ hỗ trợ nghề cá, phát triển nuôi tròng thuỷ sản theo hướng công nghiệp, xây dựng và hình thành các cơ sở dịch vụ hậu cần nghề cá. Xây dựng các trung tâm thương mại thuỷ sản, phát triển chăn nuôi công nghiệp, khu giết mổ tập trung, hình thành trung tâm mua bán hàng nông sản, đầu tư khoa học công nghệ cho nông nghiệp, phát triển công nghiệp chế biến lâm sản, khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống, có chính sách hỗ trợ khuyến khích đầu tư phát triển làng nghề, hỗ trợ xây dựng thương hiệu, quảng bá sản phẩm làng nghề thủ công mỹ nghệ...đẩy mạnh các chương trình khuyến khích nông – ngư, giải quyết việc làm cho người lao động, chú trọng việc làm đối với nông dân, ngư dân cùng di dời.
Trong 5 năm (2006-2010): cơ cấu lao động vào năm 2010 là: công nghiệp xây dựng 40%, thương mại –dịch vụ 46%, thuỷ sản nông lâm 14%.
Công nghiệp-xây dựng: tạo việc làm cho 50.000 lao động, trung bình 10.000 người/năm.
Thương mại-dịch vụ: tạo việc làm cho 56.000 lao động, trung bình 11.000 người/năm.
Thuỷ sản nông lâm: tạo việc làm cho 24.000 lao động, trung bình 2.800 người/năm.
Cho vay vốn để hỗ trợ việc làm
Tiếp tục triển khai hoạt động cho vay vốn từ quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm cho người thất nghiệp vừa và nhỏ, hộ gia đình, cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ phát triển sản xuất nhằm tạo thêm việc làm mới cho người lao động.
Thực hiện lồng ghép các hoạt động của đề án này với đề án giảm nghèo, đề án hỗ trợ chuyển đổi ngành nghề, giải quyết việc làm, ổn định đời sống cho đối tượng thuộc diện di dời chỉnh trang đô thị để huy động nhiều nguồn lực vào giải quyết việc làm.
Trong 5 năm (2002-2010) hoạt động cho vay vốn giải quyết việc làm, hỗ trợ tín dụng giảm nghèo, cho vay giải quyết việc làm cho đối tượng di dời sẽ hỗ trợ tạo việc làm cho 25.000 - 30.000 lao động, bình quân mỗi năm 5.000-6.000 người.
Vay vốn giải quyết việc làm: hỗ trợ tạo việc làm cho 10.000 lao động, bình quân mỗi năm giải quyết được việc làm cho 2.000 người.
Cho vay vốn đối tượng di dời giải tỏa: hỗ trợ tạo việc làm cho 5.000 lao động, bình quân 1.000 người trên 1 năm.
Hoạt động hỗ trợ tín dụng cho người nghèo, hướng dẫn cách làm ăn cho hộ nghèo, tạo việc làm cho 15.000 lao động, bình quân 3.000 người/năm.
Hình thành quỹ hỗ trợ việc làm cho thành phố:
Nguồn hình thành: từ ngân sách thành phố cấp hàng năm và các nguồn huy động hợp pháp.
Mục dích sử dụng: Quỹ được sử dụng hỗ trợ cho các địa phương, ngành và các đoàn thể thực hiện các hoạt động hỗ trợ người thất nghiệp, người thiếu việc làm tìm việc.
Xuất khẩu lao động
Cần quan tâm đào tạo cho lao động xuất khẩu những kỹ năng nghề căn bản và cần thiết đáp ứng thị trường lao động quốc tế. Đó là những kiến thức và chuyên môn kỹ thuật, ngoại ngữ, phong thái làm việc và tác phong công nghiệp nhằm tăng khả năng cạnh tranh của lao động trong nước.
Tập trung chỉ đạo các doanh nghiệp tiếp tục duy trì các thị trường truyền thống, hạn chế đưa lao động sang các thị trường có nhiều rủi ro, chú trọng phát triển thị trường ở các nước có nhu cầu về lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật, trước mắt là thị trường Nhật Bản, Hàn Quốc. Tăng cường công tác quản lý Nhà nước đối với các hoạt động xuất khẩu lao động, tổ chức tư vấn trực tiếp và đưa lao động đi xuất khẩu nhằm hạn chế hoạt động “cò” trong xuất khẩu lao động mang tính lừa đảo. Phải thường xuyên theo dõi, giám sát và chỉ cấp phép cho những doanh nghiệp xuất khẩu lao động có đủ khả năng dưới sự chỉ đạo của các cơ quan chức năng. Chấn chỉnh những sai xót, tăng cường trách nhiệm của doanh nghiệp đối với người lao động, nâng cao chất lượng đào tạo và giáo dục định hướng để tạo nguồn lao động,khuyến khích người lao động tham gia xuất khẩu lao động. Thông tin về xuất khẩu lao động phải được cập nhập thường xuyên và minh bạch cho từng đối tượng, người lao động phải thực sự sáng suốt trong đăng ký xuất khẩu.
Triển khai thực hiện thí điểm tuyển chọn học sinh đang học nghề tại các trường dạy nghề trên địa bàn thành phố đưa sang làm việc tại Hàn Quốc theo thoả thuận của bộ Lao động - Thương Binh và Xã hội Việt Nam và Bộ Lao động Hàn Quốc. Chỉ đạo các doanh nghiệp phối hợp với các trường, các địa phương triển khai các hoạt động thông tin, tuyên truyền, khuyến khích người lao động của thành phố đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài.
Các giải pháp thu hút đội ngũ trí thức
Có các chính sách đãi ngộ cụ thể và hợp lý để thu hút lực lượng cán bộ khoa học kỹ thuật và lao động lành nghề cho các ngành của thành phố.
Trong chính sách thu hút nhân tài, nên quan tâm hơn đến việc bố trí công tác phù hợp và môi trường, điều kiện làm việc tốt để cán bộ hoàn thành nhiệm vụ, phát huy năng lực sáng tạo. Đồng thời, cần chú ý tạo ra sự đồng bộ giữa đãi sĩ (đãi ngộ xứng đáng để sử dụng có hiệu quả hơn đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ tại chỗ) và chiêu hiền (tăng cường hấp lực để thu hút đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ từ nơi khác đến).
Xây dựng chính sách thu hút nhân lực chất lượng cao về thành phố làm việc. Chú trọng việc mời chuyên gia giỏi về các ngành nghề, các lĩnh vực. Duy trì thường xuyên hàng năm Hội thi tài năng trẻ không chuyên của thành phố nhằm phát hiện học sinh giỏi và có chính sách bồi dưỡng đào tạo để cung cấp nguồn lực cho thành phố.
Giải pháp phát triển làng nghề
Phát triển các làng nghề truyền thống ở nông thôn như : dệt chiếu (Cẩm Nê), đan mây tre (Yến Nê), nón lá (La Bông)…nhằm giải quyết việc làm ổn định, tăng thu nhập cho người dân ở các vùng nông thôn. Chuyển đổi từ chỗ sử dụng lao động thủ công sang cơ giới là phổ biến, chuyển mạnh sang sản xuất thực phẩm theo vùng chuyên canh, thâm canh trên cơ sở áp dụng công nghệ cao vào sản xuất, để tạo ra sản phẩm có hiệu quả kinh tế cao. Đến năm 2010 hình thành một số vùng chuyên canh đạt giá trị sản xuất trên 50 triệu đồng/ha canh tác/năm. Khuyến khích dạy các nghề : trồng trọt, chăn nuôi, phổ biến các kiến thức về y tế, vệ sinh phòng dịch…cho nông dân. Phấn đấu đến năm 2010, hàng thủy sản chế biến đạt khoảng 200 triệu USD giá trị kim ngạch xuất khẩu.
Nâng cao tay nghề, kỹ năng lao động mang tính chuyên nghiệp đối với các lao động làng nghề, nghề thủ công, tiểu thủ công nghiệp để phát triển sản phẩm, tạo mẫu mã mới, cung cấp sản phẩm cho thị trường một cách ổn định, giúp người lao động có việc làm thường xuyên.
Đẩy mạnh áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ; triển khai áp dụng nghiên cứu, thử nghiệm và ứng dụng các tiến bộ khoa học và công nghệ tạo điều kiện tăng năng suất lao động; nghiên cứu sản phẩm mới, tăng cường và cải tiến bao bì, mẫu mã v.v…; chú ý việc xây dựng và bảo vệ thương hiệu.
Nâng cao chất lượng sản phẩm truyền thống nhất là các sản phẩm đặc hữu và tìm kiếm thị trường cho làng nghề truyền thống, địa bàn có nghề thủ công thông qua các kỳ hội chợ, triển lãm trong và ngoài nước.
Chủ động tổ chức các điểm trưng bày và giới thiệu các sản phẩm của làng nghề, nghề thủ công tại các trung tâm thương mại, các điểm du lịch, các nhà hàng, khách sạn trong và ngoài tỉnh.
Đẩy mạnh phát triển làng nghề theo hướng mở rộng sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ đá Non Nước, có biện pháp hỗ trợ phát triển ngành nghề nông thôn:
Quy hoạch và đầu tư hạ tầng khu sản xuất đá mỹ nghệ Non Nước tại Đông Hải - Hoà Hải, nhằm di dời các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng ra khỏi khu dân cư và tổ chức sắp xếp lại các quầy bán hàng mỹ nghệ khu vực Non Nước theo hướng văn minh, nâng cao chất lượng phục vụ.
Xây dựng và phát triển làng nghề nông thôn trên cơ sở rà soát để có biện pháp khôi phục lại một số nghề truyền thống có triển vọng và tích cực du nhập phát triển nghề mới.
Có chính sách hỗ trợ, khuyến khích các tổ chức kinh tế đầu tư phát triển làng nghề giải quyết được nhiều lao động trong nông thôn.
Hỗ trợ xây dựng thương hiệu, xúc tiến giới thiệu quảng bá sản phẩm làng nghề thủ công mỹ nghệ.
Đầu tư phát triển các cụm công nghiệp vừa và nhỏ trong nông thôn là giải pháp quan trọng, nhằm thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, góp phần giải quyết việc làm và thúc đẩy đô thị hoá nông thôn:
Qui hoạch và phát triển 3- 4 cụm công nghiệp vừa và nhỏ từ nay đến năm 2010 trên địa bàn các xã vùng Tây của huyện Hoà vang, tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư, góp phần giải quyết việc làm cho lao động nông thôn.
Qui hoạch và đầu tư xây dựng các chợ theo hướng đa chợ, đa cấp với các hệ thống dịch vụ đa dạng, chú trọng xây dựng chợ đầu mối nông sản của Đà Nẵng và qui hoạch phát triển các khu đô thị trong nông thôn.
Từ nay đến năm 2010 hoàn thành công tác qui hoạch phát triển hệ thống chợ, các khu đô thị trong nông thôn và đầu tư xây dựng, nâng cấp một số chợ, một số khu đô thị vùng nông thôn trọng điểm.
Đầu tư phát triển một số điểm du lịch sinh thái, làng quê.
Ngoài khu du lịch Bà Nà, tiến hành qui hoạch và khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư xây dựng các điểm du lịch trên sông, suối, hồ, khu di tích lịch sử - văn hoá - cách mạng, làng nghề, sinh thái...
KẾT LUẬN
Nguồn nhân lực là tổng thể những tiềm năng của con người (trước hết và cơ bản nhất là tiềm năng lao động), gồm : thể lực, trí lực, nhân cách của con người nhằm đáp ứng một cơ cấu kinh tế - xã hội nhất định.
Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực luôn luôn là động lực thúc đẩy sự phát triển và tác động đến toàn bộ đời sống xã hội. Kinh nghiệm của nhiều nước công nghiệp hóa trước đây đã chỉ ra rằng phần lớn thành quả quá trình phát triển không phải là nhờ tăng vốn mà là nhờ những hoàn thiện trong năng lực của con người, sự tinh thông, bí quyết nghề nghiệp và quản lý. Khác với đầu tư cho phát triển các lĩnh vực và tác động đến đời sống của các cá nhân, gia đình, cộng đồng và đến toàn xã hội nói chung. Nhận định trên càng đúng trong điều kiện hiện nay, khi thế giới ngày càng quan tâm nhiều đến nền kinh tế không chỉ phụ thuộc vào nguồn tài nguyên, mà yếu tố ngày càng chiếm vị trí quan trọng là con người.
Không những vậy, tăng trưởng kinh tế nếu dựa vào tài nguyên thiên nhiên sẽ có giới hạn và không bền vững. Nguồn tài nguyên thiên nhiên luôn bị khống chế về mặt sinh thái. Hơn nữa giá trị nguyên liệu thô hoặc sản phẩm sơ chế thường là thấp hơn nhiều so với các sản phẩm cao cấp được chế biến bằng công nghệ hiện đại, tiên tiến, nên khó có thể duy trì được sự liên tục tăng trưởng cao. Vì lẽ đó, nhiều nước quan tâm tới những sản phẩm mang lại giá trị gia tăng bằng đổi mới và phát triển công nghệ để có thể tạo ra các sản phẩm và dịch vụ có hàm lượng chế biến cao. Cách này có hiệu quả và bền vững vì nó cho phép nâng cao hiệu ích sử dụng các nguồn lực cho phát triển. Tuy nhiên, nó đòi hỏi nguồn nhân lực có trình độ bậc cao. Không phải ngẫu nhiên mà người ta cho rằng, tri thức là nguồn tài nguyên đặc biệt và quý giá nhất trong mọi tài nguyên. Ưu điểm của nó là nằm ngay trong bản thân con người, không bị giới hạn như các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác.
Nguồn nhân lực có chất lượng cao là nguồn lực quan trọng nhất của sự phát triển, đó là đòi hỏi cấp bách, khách quan của sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa và cũng là nhân tố hàng đầu đảm bảo cho sự phát triển bền vững. Trong bối cảnh Việt Nam đang ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế quốc tế thì nguồn nhân lực chất lượng cao hơn bao giờ hết đang là mối quan tâm hàng đầu của nhà nước, xã hội. Việc thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao là một vấn đề tất yếu của các nước đang phát triển như Việt Nam nói chung và thành phố Đà Nẵng nói riêng. Chất lượng lao động thấp có tác động xấu tới khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, trong khi đó, với lực lượng lao động giản đơn quá lớn sẽ tạo áp lực rất cao cho vấn đề giải quyết việc làm. Một bộ phận lớn lao động ở các khu vực mới đô thị hóa, lao động chuyển dịch từ nông thôn không có tay nghề, lại thiếu cả ý thức tác phong, thái độ làm việc…càng làm cho mâu thuẫn giữa “thừa” và “thiếu” thêm gay gắt.
Thành phố Đà Nẵng đang phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, để đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và thực sự phát huy vai trò vị trí là một trong những đô thị lớn của cả nước, là trung tâm kinh tế - xã hội lớn của cả miền Trung với vai trò là trung tâm công nghiệp, thương mại du lịch và dịch vụ, trung tâm bưu chính – viễn thông và tài chính – ngân hàng, một trong những trung tâm văn hóa - thể thao, giáo dục - đào tạo và khoa học công nghệ của miền Trung, thành phố Đà Nẵng cần phải đẩy nhanh tiến độ các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, trong đó vấn đề đặc biệt quan trọng mang tính chiến lược, vừa cấp bách vừa lâu dài là nhanh chóng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong tất cả các ngành các lĩnh vực để đáp ứng yêu cầu phát triển của thành phố.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình kế hoạch hóa phát triển kinh tế xã hội (Nhà xuất bản thống kê Hà Nội).
Giáo trình dự báo phát triển kinh tế xã hội(Nhà xuất bản thống kê hà Nội)
Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội thành phố Đà Nẵng đến năm 2020(của Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Đà Nẵng).
Niên giám thống kê Đà Nẵng 1997 – 2007(của Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Đà Nẵng).
Nghị quyết 33 của Bộ Chính trị.
Quy hoạch phát triển kinh tế xã hội thành phố Đà Nẵng đến năm 2010(của Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Đà Nẵng).
Các báo cáo niên giám thống kê từ năm 2000-2006 của Cục thống kê Đà Nẵng.
Tập san phát triển kinh tế xã hội ĐN tháng 1 năm 2009(bản quyền thuộc Viện nghiên cứu phát triển kinh tế xã hội thành phố Đà Nẵng).
Thông tin kinh tế xã hội Việt Nam tháng 1 năm 2009(bản quyền thuộc Viện nghiên cứu phát triển kinh tế xã hội thành phố Đà Nẵng).
Tài liệu hướng dẫn lồng ghép biến dân số(bản quyền thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 21782.doc