Có 2 bài viết khác nhau cho bạn tham khảo!
Dưới đây là các đề mục nội dung của 1 trong 2 bài viết.
LỜI MỞ ĐẦU
CHƯƠNG I. TỔNG QUAN VỀ KẾ HOẠCH NGÂN SÁCH
I. KHÁI NIỆM NGÂN SÁCH VÀ KẾ HOẠCH NGÂN SÁCH
1. Ngân sách nhà nước
2. Kế hoạch ngân sách nhà nước
II. NHIỆM VỤ CỦA KẾ HOẠCH NGÂN SÁCH
1. Xác định tổng nguồn thu ngân sách và cơ cấu thu ngân sách
2. Xác định tổng nhu cầu chi tiêu và cơ cấu nhu cầu chi tiêu kỳ kế hoạch
III. CÂN ĐỐI THU – CHI NGÂN SÁCH VÀ GIẢI PHÁP
1. Thâm hụt ngân sách
2. Thặng dư ngân sách
IV. GIẢI PHÁP CẢI THIỆN CÁN CÂN NGÂN SÁCH
1. Giải pháp tăng thu ngân sách nhà nước
2. Giải pháp giảm chi ngân sách nhà nước
3. Giải pháp xử lí bội chi ngân sách
CHƯƠNG II 11
KẾ HOẠCH NGÂN SÁCH 2006 – 2010
VÀ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN TRONG 3 NĂM 2006 – 2008
I. KHÁI QUÁT NỘI DUNG KẾ HOẠCH NGÂN SÁCH GIAI ĐOẠN 2006 - 2010
II. ĐÁNH GIÁ THỰC HIỆN KẾ HOẠCH NGÂN SÁCH BA NĂM ĐẦU KẾ HOẠCH 2006 – 2008 VÀ NHẬN ĐỊNH VỀ GIAI ĐOẠN 2009-2010.
1. Tình hình thực hiện kế hoạch ngân sách năm 2006
2. Tình hình thực hiện kế hoạch ngân sách năm 2007
3. Tình hình thực hiện kế hoạch ngân sách năm 2008
CHƯƠNG III. PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH GIAI ĐOẠN 2009 – 2010 VÀ KHẢ NĂNG THỰC HIỆN KẾ HOẠCH
I. CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN TIẾP THEO 2009 – 2010.
II. KẾ HOẠCH NGÂN SÁCH NĂM 2009 VÀ PHÂN TÍCH KHẢ NĂNG THỰC HIỆN.
1. Mục tiêu thu ngân sách năm 2009 đưa ra không cao và giảm tương đối
2. Mục tiêu chi đưa ra vẫn cao
III. DỰ KIẾN VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN KẾ HOẠCH NGÂN SÁCH GIAI ĐOẠN 2009-2010
1. Giải pháp từ Chính phủ:
2. Giải pháp từ nhóm thực hiện
KẾT LUẬN .
32 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1678 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Kế hoạch ngân sách 2006 – 2010 và tình hình thực hiện trong ba năm 2006 – 2008, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thuê, nhượng bán tài sản, tài nguyên để tăng thu cho ngân sách thì cũng cần phải dành kinh phí thoả đáng để nuôi dưỡng, tái tạo và phát triển các tài sản, tài nguyên ấy, không làm cạn kiệt và phá huỷ tài sản, tài nguyên vì mục đích trước mắt.
Nhà nước sử dụng vốn ngân sách nhà nước để đầu tư trực tiếp vào một số doanh nghiệp quan trọng trên những ngành, những lĩnh vực then chốt nhằm định hướng phát triển kinh tế - xã hội và tạo ra nguồn tài chính mới. Bên cạnh đó, Nhà nước cần chú trọng đầu tư vào con người, đào tạo nghề, nâng cao dân trí, phát triển khoa học, chăm sóc sức khoẻ để có một đội ngũ lao động có tay nghề cao, năng suất lao động cao.
Nhà nước phải giảm chi tiêu cho tiêu dùng, tinh giản bộ máy Nhà nước, cải cách bộ máy hành chính để tích luỹ vốn chi đầu tư, đồng thời khuyến khích mọi người tiết kiệm tiêu dùng dành vốn cho đầu tư phát triển.
2. Giải pháp giảm chi ngân sách nhà nước
Gắn chặt khả năng thu để bố trí các khoản chi. Chi ngân sách nhà nước phải dựa trên cơ sở có nguồn thu thực tế từ nền kinh tế. Mức độ chi, cơ cấu các khoản chi phải dựa vào khả năng tăng trưởng GDP của đất nước.
Bảo đảm yêu cầu tiết kiệm và hiệu quả trong việc bố trí các khoản chi tiêu của ngân sách nhà nước. Trong thực tế, tình trạng lãng phí và kém hiệu quả trong việc sử dụng các khoản chi ngân sách nhà nước (đặc biệt là các khoản chi xây dựng cơ bản) diễn ra rất phổ biến. Do vậy cần phải quán triệt nguyên tắc tiết kiệm và hiệu quả trong các khoản chi ngân sách nhà nước.
Tập trung có trọng điểm. Việc phân bổ nguồn vốn ngân sách nhà nước phải căn cứ vào chương trình trọng điểm của Nhà nước. Thực hiện đúng nguyên tắc này sẽ đảm bảo tính mục đích và khả năng tiết kiệm các khoản chi, sẽ có tác động dây chuyền thúc đẩy các ngành, các lĩnh vực phát triển.
Nhà nước và nhân dân cùng làm trong việc bố trí các khoản chi ngân sách nhà nước, nhất là các khoản chi mang tính chất phúc lợi xã hội. Trước khi quyết định các khoản chi ngân sách nhà nước cho một lĩnh vực nhất định cần phải cân nhắc khả năng huy động các nguồn vốn khác để giảm nhẹ các khoản chi tiêu của ngân sách nhà nước.
Phân biệt rõ nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của các cấp theo luật định để bố trí các khoản chi cho thích hợp. Áp dụng nguyên tắc này tránh được việc bố trí các khoản chi chồng chéo, khó kiểm tra giám sát, nâng cao trách nhiệm và tính chủ động của các cấp.
Tổ chức chi ngân sách nhà nước trong sự phối hợp chặt chẽ với khối lượng tiền tệ, lãi suất, tỷ giá hối đoái để tạo nên công cụ tổng hợp cùng tác động đến các vấn đề của kinh tế vĩ mô.
3. Giải pháp xử lí bội chi ngân sách
3.1. Phát hành tiền.
Với biện pháp này, Nhà nước cần có sự xem xét kỹ lưỡng trên cơ sở thực trạng của nền kinh tế để xác định lượng tiền phát hành hợp lý. Phát hành tiền phải đảm bảo nguyên tắc: chỉ sử dụng cho chi đầu tư phát triển, không được sử dụng cho tiêu dùng để hạn chế tình trạng gây ra lạm phát. Tuy nhiên, giải pháp này sẽ gây ra lạm phát nếu nhà nước phát hành thêm quá nhiều tiền để bù đắp bội chi ngân sách nhà nước. Đặc biệt, khi nguyên nhân bội chi ngân sách nhà nước là do thiếu hụt các nguồn vốn đối ứng để đầu tư cho phát triển gây tăng trưởng nóng và không cân đối với khả năng tài chính của quốc gia.
3.2. Vay nợ trong và ngoài nước để bù đắp bội chi.
Nhà nước thực hiện phát hành trái phiếu chính phủ, vay các Chính Phủ, các NHTM nước ngoài, các tổ chức tài chính quốc tế... Về nguyên tắc, chỉ được sử dụng cho chi đầu tư phát triển.
Việc vay nợ nước ngoài quá nhiều sẽ kéo theo vấn đề phụ thuộc nước ngoài cả về chính trị lẫn kinh tế và làm giảm dự trữ ngoại hối quá nhiều khi trả nợ, làm cạn dự trữ quốc gia sẽ dẫn đến khủng hoảng tỷ giá.
Vay nợ trong nước sẽ làm tăng lãi suất, và cái vòng nợ - trả lãi - bội chi sẽ làm tăng mạnh các khoản nợ công chúng và kéo theo gánh nặng chi trả của NSNN cho các thời kỳ sau…
3.3. Tăng thu, giảm chi ngân sách nhà nước. Tận thu các nguồn thu, đồng thời cắt giảm các khoản chi không cần thiết.
Tăng các khoản thu, đặc biệt là thuế. Việc tăng các khoản thu, đặc biệt là thuế có thể sẽ bù đắp sự thâm hụt ngân sách nhà nước và giảm bội chi ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, đây không phải là giải pháp cơ bản để xử lý bội chi ngân sách nhà nước, bởi vì nếu tăng thuế không hợp lý sẽ dẫn đến làm giá cả hàng hóa tăng gây ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống nhân dân, nghiêm trọng hơn sẽ triệt tiêu động lực của các doanh nghiệp trong các ngành sản xuất kinh doanh và làm mất đi khả năng cạnh tranh của nền kinh tế đối với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Triệt để tiết kiệm các khoản đầu tư công và chi thường xuyên từ ngân sách nhà nước. Đây là một giải pháp tuy mang tính tình thế, nhưng vô cùng quan trọng với mỗi quốc gia khi xảy ra bội chi ngân sách nhà nước và xuất hiện lạm phát. Triệt để tiết kiệm các khoản đầu tư công có nghĩa là chỉ đầu tư vào những dự án mang tính chủ đạo, hiệu quả nhằm tạo ra những đột phá cho sự phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt những dự án chưa hoặc không hiệu quả thì phải cắt giảm, thậm chí không đầu tư. Mặt khác, bên cạnh việc triệt để tiết kiệm các khoản đầu tư công, những khoản chi thường xuyên của các cơ quan nhà nước cũng phải cắt giảm nếu những khoản chi này không hiệu quả và chưa thực sự cần thiết.
CHƯƠNG II
KẾ HOẠCH NGÂN SÁCH 2006 – 2010
VÀ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN TRONG 3 NĂM 2006 – 2008
I. KHÁI QUÁT NỘI DUNG KẾ HOẠCH NGÂN SÁCH GIAI ĐOẠN
2006 - 2010
Cải cách chính sách thuế theo hướng giảm và ổn định thuế suất, mở rộng đối tượng thu, điều tiết hợp lý thu nhập tách chính sách xã hội khỏi chính sách thuế. Cải cách chính sách về thuế hướng vào các nội dung: bao quát nguồn thu và đối tượng nộp thuế, chú trọng nuôi dưỡng và phát triển nguồn thu; thống nhất chính sách thuế cho mọi thành phần kinh tế, giảm thiểu phạm vi, mức độ ưu đãi thuế, thực hiện ưu đãi có thời hạn; thực hiện chương trình giảm thuế quan phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Đổi mới cơ bản cơ chế tiến hành và công nghệ thu thuế. Hiện đại hóa công tác quản lý hành chính thuế và phát triển dịch vụ tư vấn thuế. Nghiên cứu và ban hành một số luật thuế mới phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thị trường hội nhập quốc tế.
Đổi mới cơ chế quản lý Nhà nước, ngân sách nhà nước, đảm bảo tính thống nhất của ngân sách Nhà nước, vai trò chủ đạo của ngân sách trung ương, tăng cường phân cấp, tăng quyền hạn đi đôi với đề cao trách nhiệm đối với các cấp ngân sách, các đơn vị sử dụng ngân sách. Nâng cao tính minh bạch, dân chủ và công khai trong việc sử dụng và quản lý ngân quỹ, ngân sách Nhà nước; đổi mới chính sách phân phối tài chính ngân sách, xóa bao cấp bất hợp lý, phân định rõ nội dung và phạm vi ngân sách phải bảo đảm. Tạo chuyển biến rõ rệt trong kiểm soát, tăng cường công tác kiểm toán Nhà nước để góp phần ngăn chặn lãng phí, thất thoát, tham nhũng tiền và tài sản Nhà nước. Đẩy mạnh xã hội hóa, huy động nguồn lực toàn xã hội chăm lo phát triển hạ tầng và sự nghiệp văn hóa xã hội ở những địa bàn, khu vực có điều kiện; đổi mới cơ chế quản lý hành chính sự nghiệp công, giao quyền và trách nhiệm cho đơn vị trên cả 3 mặt: tổ chức thực hiện nhiệm vụ, bộ máy tổ chức và tài chính ngân sách.
Duy trì nợ quốc gia và nợ chính phủ ở mức hợp lý trong sự kiểm soát chặt chẽ của Nhà nước. Tăng cường vai trò của Quốc Hội và Hội đồng nhân dân các cấp trong việc phân bổ và giám sát chi tiêu ngân sách Nhà nước.
Đổi mới nội dung, phương pháp và quy trình lập dự toán ngân sách Nhà nước theo hướng xây dựng kế hoạch tài chính ngân sách trung hạn gắn với việc thực hiện chiến lược tài chính ngân sách; từng bước thiết lập cơ chế phân bổ, quản lý ngân sách theo kết quả đầu ra; áp dụng rộng rãi cơ chế tự chủ tài chính đối với các hoạt động sự nghiệp; thực hiện quản lý bội chi ngân sách phù hợp với thông lệ quốc tế và giảm dần mức bội chi ngân sách.
Từng bước điều chỉnh cơ cấu nguồn thu ngân sách nhà nước theo hướng tăng tỷ trọng các nguồn thu từ sản xuất kinh doanh trong nước, giảm tỷ trọng các nguồn thu chịu ảnh hưởng của các yếu tố thị trường ngoài nước như thu thuế xuất nhập khẩu.
Tiếp tục điều chỉnh, sửa đổi Luật thuế thu nhập doanh nghiệp theo hướng giảm bớt các hình thức bao cấp qua thuế như ưu đãi, miễn giảm thuế. Tiếp tục điều chỉnh, sửa đổi Luật thuế Giá trị gia tăng theo hướng thống nhất một mức thuế suất cho tất cả các loại hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng trong nước.
Ban hành Luật thuế thu nhập cá nhân thay cho pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao theo hướng dần dần thống nhất các mức thuế suất giữa người Việt Nam và người nước ngoài, giảm thuế suất đi đôi với mở rộng diện chịu thuế, tăng cường các biện pháp kiểm soát thu nhập, nâng cao hiệu quả thu thuế. Ban hành Luật thuế tài sản đánh vào việc mua sắm và sở hữu bất động sản, nhằm định hướng người dân trong việc sử dụng các khoản tiết kiệm cho đầu tư sản xuất kinh doanh. Sửa đổi, bổ sung thuế tài nguyên nhằm khuyến khích sử dụng có hiệu quả tài nguyên và điều tiết hợp lý nguồn thu từ tài nguyên thiên nhiên.
Tiếp tục điều chỉnh cơ cấu chi ngân sách nhà nước theo hướng tăng cường chi cho đầu tư phát triển nhằm xây dựng cơ sở hạ tầng cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa; phát triển nguồn nhân lực, khoa học công nghệ, văn hóa, xã hội, xóa đói giảm nghèo… Đẩy mạnh thực hiện cơ chế chính sách khoán chi hành chính, khoán biên chế, mở rộng thực hiện cho tất cả các đơn vị hành chính. Giảm dần và tiến tới loại bỏ hoàn toàn các hình thức bao cấp cho các doanh nghiệp nhà nước thông qua ngân sách nhà nước, như miễn giảm thuế, khoanh nợ, xóa nợ, cho vay ưu đãi.
Tăng cường tính công khai, minh bạch của ngân sách nhà nước trong tất cả các khâu từ xây dựng chính sách, lập dự toán, thẩm định, phê duyệt, tổ chức thực hiện và quyết toán ngân sách cho tất cả các cấp.
II. ĐÁNH GIÁ THỰC HIỆN KẾ HOẠCH NGÂN SÁCH BA NĂM ĐẦU KẾ HOẠCH 2006 – 2008 VÀ NHẬN ĐỊNH VỀ GIAI ĐOẠN 2009-2010.
1. Tình hình thực hiện kế hoạch ngân sách năm 2006
1.1. Dự toán ngân sách
Theo Bộ Tài chính, trong tổng thu ngân sách năm 2006, nguồn thu trong nước ước đạt 132.000 tỷ đồng, thu từ dầu khí khoảng 63.400 tỷ đồng, từ thuế xuất nhập khẩu 40.000 tỷ đồng và viện trợ không hoàn lại khoảng 2.500 tỷ đồng. Ngoài ra, khoảng 8.000 tỷ đồng trong ngân sách nhà nước năm 2005 cũng sẽ được chuyển sang năm 2006.
Trong số nguồn thu ngân sách trong nước (không kể thu từ dầu thô) thì thu từ kinh tế quốc doanh đạt 42.243 tỷ đồng, doanh nghiệp FDI là 27.807 tỷ đồng, còn lại là thu từ các loại thuế...
Trong khi đó, Bộ Tài chính ước tính tổng chi ngân sách năm 2006 là khoảng 294.400 tỷ đồng (tăng 28% so với dự toán năm 2005), trong đó khoảng 81.580 tỷ đồng sẽ được đầu tư phát triển kinh tế, 131.470 tỷ đồng cho các hoạt động quốc phòng, an ninh, quản lý hành chính và các vấn đề kinh tế xã hội khác, 29.197 tỷ đồng cho chi cải cách tiền lương và khoảng 40.800 tỷ đồng để trả nợ. Khoảng 11.350 tỷ đồng sẽ được bổ xung vào quỹ dự phòng, dự trữ tài chính.
Dự toán ngân sách 2006 cũng cho thấy, bội chi ngân sách của Việt Nam trong năm nay vào khoảng 48.500 tỷ đồng, tăng 19% so với năm ngoái, tuy nhiên vẫn ở mức 5% GDP của năm 2006. Để có thể khắc phục tình trạng thâm hụt ngân sách trong năm 2005, Bộ Tài chính sẽ huy động khoảng 36.000 tỷ đồng từ các khoản vay trong nước và 12.500 tỷ đồng từ các khoản tín dụng quốc tế.
1.2. Đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch ngân sách Nhà nước
Giá trị (tỷ đ)
Kế hoạch
Cơ cấu %
Tổng thu
279472
100
1. Thu trong nước
145404
132000
52.03
- Thu từ DNNN
46344
42243
16.58
- Thu từ DN có vốn đầu tư nước ngoài
25838
27807
9.25
- Thu từ khu vực công
22091
7.9
- Thuế sử dụng đất NN
111
0.04
- Thuế thu nhập với người có TN cao
5179
1.85
- Lệ phí trước bạ
3363
1.2
- Thu xổ số kiến thiết
6142
2.2
- Thu phí xăng dầu
3969
1.42
- Thu phí, lệ phí
4986
1.78
- Các khoản thu về nhà đất
20536
7.35
- Các khoản thu khác
6845
2.45
2. Thu từ dầu thô
83346
63400
29.82
3. Thu từ hải quan
42825
40000
15.32
4.Viện trợ không hoàn lại
7897
2500
2.83
Tổng chi
308058
294400
100
1. Chi đầu tư phát triển
88341
81580
26.68
- Chi XDCB
81078
26.32
2. Chi phát triển sự nghiệp KTXH
161852
52.54
- Chi sự nghiệp GDDT
37332
12.12
- Chi sự nghiệp y tế
11582
3.74
- Chi DS KHH gia đình
489
0.16
- Chi sự nghiệp KHCN và môi trường
2540
0.82
- Chi sự nghiệp VHTT
1874
0.61
- Chi sự nghiệp phát thanh, truyền hình
1184
0.38
- Chi sự nghiệp TDTT
956
0.31
- Chi lương hưu, đảm bảo XH
22157
29197
7.19
- Chi sự nghiệp kinh tế
14212
4.61
- Chi quản lý hành chính
18515
6.01
3.Chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính
135
11350
0.04
( Nguồn Niên giám thống kê 2007 - Tổng cục thống kê)
Thâm hụt ròng (ND) = Tổng thu – tổng chi
= 279472 - 308058 = - 28586 (tỷ đồng)
So sánh các số liệu của bảng trên ta thấy, hầu hết các chỉ tiêu trong các khoản thu và chi của Nhà nước năm 2006 đều vượt mức. Trong kết toán ngân sách có các điểm quan trọng sau:
Thứ nhất: Vi phạm về thu chi ngân sách quá lớn.
Chi sai phải thu hồi khoảng 2.000 tỉ đồng, nhưng mới thu được chưa đến 50%; nợ thuế nhập khẩu và thuế nội địa lên tới trên 7.000 tỉ, trong đó nợ khó đòi không có khả năng thu hồi khoảng 4.379 tỉ đồng.
Các doanh nghiệp nhà nước đã vay hơn 48.000 tỉ đồng để đầu tư phát triển sản xuất (chiếm 60% tổng đầu tư toàn xã hội), nhưng làm ra chỉ 42.000 tỉ đồng, thậm chí thua lỗ.
Không những thế, còn có sự lãng phí của những "miếng bánh ngân sách" đầu tư cho tập đoàn kinh tế, tổng công ty... để rồi họ đầu tư vào thị trường chứng khoán, bất động sản làm chỉ số lạm phát tăng cao ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế đất nước. Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế Lê Quốc Dung băn khoăn rằng, trong số các khoản chi vượt dự toán (và bội chi) thì một phần khá lớn dành cho các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước.
Nguyên nhân chính khiến số thu từ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không đạt như dự toán (thấp hơn 1.970 tỉ) là do thị trường ô tô bị chững lại. Trong vấn đề này cần phải xem xét lại chính sách ưu đãi với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, đặt biệt là 14 doanh nghiệp sản xuất lắp ráp ô tô xem kết quả các doanh nghiệp này mang lại có xứng đáng với những ưu đãi từ ngân sách hay không?
Thứ hai: Chi cho khoa học công nghệ thấp.
Hầu hết khoản chi đều bằng và vượt dự toán, chỉ có khoản chi cho khoa học công nghệ là đạt thấp, bằng 80% dự toán. Trong 3.130 tỉ đồng ngân sách chi cho khoa học công nghệ thì chỉ dùng hết 2.500 tỉ đồng.
Dịch bệnh trên người, trên gia súc, gia cầm xảy ra liên miên, nhưng không làm ra được viên kháng sinh nào, tất cả đều nhập ngoại. Trong khi đó, ngân sách nhà nước dành cho nghiên cứu khoa học lại thừa. Nguyên nhân được đề cập không phải các nhà khoa học kém cỏi, mà là cơ chế chi tiêu có vấn đề.
Thứ ba: Thu từ các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài không đạt dự toán.
Trong khi nguồn thu từ thuế nông nghiệp - hay nói cách hình ảnh là thu từ "nhà nghèo"... đạt tới 130%, thì nhiều năm nay số thu từ "nhà giàu" là các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài lại không đạt dự toán (năm 2006 chỉ bằng 92,5% dự toán, giảm 1.970 tỉ đồng). Thêm nữa, tại TPHCM, 70% số doanh nghiệp có vốn nước ngoài thường xuyên khai lỗ để tranh nộp thuế.
Vấn đề đặt ra ở đây là: Phải chăng ở đây có tình trạng chuyển giá? Mà chuyển giá là sự thông đồng giữa các công ty con trong cùng tập đoàn nhằm chuyển lợi nhuận (thông thường bằng cách thông qua việc nâng giá cung cấp nguyên vật liệu, chuyển giao công nghệ, bán bản quyền...) từ nước này sang nước khác có mức thuế thấp nhất để tránh thuế.
Đối với các tập đoàn kinh tế đa quốc gia, chuyển giá có thể là công cụ tăng lợi nhuận một cách bất hợp pháp, bất chấp thiệt hại cho quốc gia bị chuyển giá. Cần có sự kiểm tra sát sao việc này, nếu không ngân sách nhà nước luôn bị thất thu.
Thứ tư: Nợ thuế vẫn phải "treo".
Theo báo cáo của Kiểm toán Nhà nước về quyết toán NSNN năm 2006, cơ quan này đã phát hiện và kiến nghị xử lý, thu hồi các khoản như: Tăng thu NSNN (2.763 tỉ đồng), giảm chi NSNN (1.245 tỉ đồng), nợ đọng thuế tăng thêm (413 tỉ), phải nộp và hoàn trả NSNN (5.404 tỉ)... Tuy nhiên đến nay, các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp mới thực hiện kiến nghị được khá thấp.
Về việc nợ đọng thuế, thì thực tế vẫn còn những khoản nợ đọng từ lâu không có khả năng thu hồi được, liên quan đến các vụ án kinh tế hoặc các doanh nghiệp "ma" tìm không ra địa chỉ, vẫn cứ bị treo, điều đó có những liên quan đến cơ chế chính sách từ xa xưa để lại, chưa có cơ chế xử lý, nên vẫn cứ phải để treo ở đấy.
2. Tình hình thực hiện kế hoạch ngân sách năm 2007
Stt
Nội dung
DT 2007
ƯTH 2007
DT 2008
A
B
1
2
3
A
TỔNG THU NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
300,900
311,840
332,080
I
Thu cân đối NSNN
281,900
287,900
323,000
1
Thu nội địa
151,800
159,500
189,300
2
Thu từ dầu thô
71,700
68,500
65,600
3
Thu cân đối ngân sách từ hoạt động XNK
55,400
56,500
64,500
4
Thu viện trợ không hoàn lại
3,000
3,400
3,600
II
Thu chuyển nguồn
19,000
23,940
9,080
B
TỔNG CHI CÂN ĐỐI NSNN
357,400
368,340
398,980
1
Chi đầu tư phát triển
99,450
101,500
99,730
2
Chi trả nợ và viện trợ
49,160
49,160
51,200
3
Chi thường xuyên
174,550
206,000
208,850
4
Chi tinh giản biên chế, lao động dôi dư
500
500
5
Chi cải cách tiền lương
24,600
0
28,400
6
Hỗ trợ tài chính kinh doanh xăng dầu
2,000
7
Chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính
100
100
100
8
Dự phòng
9,040
0
10,700
9
Chi chuyển nguồn
9,080
C
BỘI CHI NSNN
-56,500
-56,500
-66,900
Tỷ lệ bội chi so GDP
5.0%
5.0%
5.0%
D
NGUỒN BÙ ĐẮP BỘI CHI NSNN
56,500
56,500
66,900
1
Vay trong nước
43,000
43,000
51,900
2
Vay ngoài nước
13,500
13,500
15,000
(Nguồn Bộ Tài Chính)
2.1. Dự toán ngân sách
Tổng số thu cân đối ngân sách nhà nước: 281.900 tỷ đồng, bằng 24,9% tổng sản phẩm trong nước (GDP); tính cả 19.000 tỷ đồng thu kết chuyển năm 2006 sang năm 2007 thì tổng số thu ngân sách nhà nước là 300.900 tỷ đồng;
Tổng số chi cân đối ngân sách nhà nước: 354.900 tỷ đồng; tính cả 2.500 tỷ đồng chuyển nguồn thu từ dầu thô sẽ là 357.400 tỷ đồng. Mức bội chi ngân sách nhà nước: 56.500 tỷ đồng, bằng 5% tổng sản phẩm trong nước (GDP).
2.2. Đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch ngân sách Nhà nước
Cân đối ngân sách tiếp tục được ổn định, các chỉ tiêu tổng thu và tổng chi Ngân sách Nhà nước đều đạt và vượt kế hoạch đề ra.
Tổng thu ngân sách Nhà nước năm nay ước tính tăng 16,4% so với năm 2006 và bằng 106,5% dự toán cả năm, trong đó các khoản thu nội địa bằng 107%; thu từ hoạt động xuất nhập khẩu bằng 108,1%; thu viện trợ bằng 156,7%. Riêng thu từ dầu thô ước tính chỉ bằng 102,1% so với dự toán năm và thấp hơn năm trước, do sản lượng khai thác dầu thô giảm.
Tổng chi ngân sách Nhà nước năm 2007 ước tính tăng 17,9% so với năm trước và bằng 106,5% dự toán năm, trong đó chi đầu tư phát triển tăng 19,2% và bằng 103,2%; chi thường xuyên tăng 15,1% và bằng 107,2%; chi trả nợ và viện trợ tăng 20,5% và đạt kế hoạch năm. Bội chi ngân sách Nhà nước năm 2007 ước tính bằng 14,8% tổng số chi và bằng mức bội chi dự toán năm đã được Quốc hội thông qua đầu năm, trong đó 76,1% được bù đắp bằng nguồn vay trong nước và 23,9% từ nguồn vay nước ngoài.
Năm 2007, Chính phủ đã chi bù lỗ cho doanh nghiệp kinh doanh dầu nhập khẩu và chi hoàn thuế giá trị gia tăng gấp hơn hai lần dự phòng ngân sách trung ương cho hai khoản này năm 2008. Cụ thể, có 6.200 tỷ chi bù lỗ cho dầu ngoài dự toán. Lý do của hiện tượng này, theo thẩm tra của Ủy ban Tài chính - Ngân sách là do: "trong điều hành NSNN đã phát sinh một số khoản chi nhưng chưa có nguồn thanh toán".
Theo báo cáo của kiểm toán nhà nước tại phiên họp quốc hội, tổng số khoản phải tăng thu, nộp đầy đủ vào ngân sách qua các cuộc kiểm toán tiến hành năm 2007 lên tới 2.763 tỉ đồng và các khoản ngân sách cần phải giảm chi lên tới 1.617 tỉ đồng. Các khoản phải nộp, hoàn trả và quản lý qua NSNN cũng rất lớn: lên tới 6.060 tỉ đồng…
Thứ nhất: hạn chế trong thu chi ngân sách nhà nước.
Tồn tại trong quản lý thu chi ngân sách Nhà nước là tình trạng thất thu, trốn lậu thuế vẫn chưa được khắc phục, các thủ tục hành chính trong việc kê khai, nộp thuế còn nhiều bất hợp lý. Tình trạng lãng phí, thất thoát trong chi tiêu ngân sách chưa được khắc phục.
Thứ hai: kỷ luật tài chính chưa nghiêm, chậm giải ngân xây dựng cơ bản.
Ủy ban Tài chính - Ngân sách QH cũng nhận định, Chính phủ đã kiên quyết trong quản lý NSNN, hạn chế thất thoát lãng phí nhưng việc quản lý chi theo dự toán còn chưa được coi trọng. Đặc biệt, việc triển khai và giải ngân vốn đầu tư phát triển chậm, nhất là vốn trái phiếu chính phủ, xử lý nợ xây dựng cơ bản vẫn chậm.
Năm 2007, tổng chi ngân sách nhà nước (NSNN) đã tăng 3,1% so với dự toán. Tuy nhiên, chi phí cho quản lý hành chính ở các địa phương đã tăng 47,8% so với năm 2006, vượt 5,1% so với dự toán. Như vậy, việc bố trí chi ngân sách cho một số khoản chưa thật sự cấp bách cho thấy kỷ luật tài chính chưa nghiêm.
Bộ GTVT sau 8 tháng đầu năm chỉ đạt 17% kế hoạch, gây lãng phí về vốn, thời gian, cơ hội đầu tư và làm ảnh hưởng đến mục tiêu tăng trưởng kinh tế những năm tiếp theo
Thứ ba: doanh nghiệp nhà nước nộp ngân sách thấp
Ba khoản thu từ dầu thô, từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, thu phí xăng dầu đều giảm so với kế hoạch.
Theo đề xuất của Ủy ban Tài chính - Ngân sách, nếu ngành thuế và hải quan xử lý tốt các khoản như cho vay, tạm ứng 460 tỷ đồng, nợ đọng thuế phát hiện tăng thêm 230 tỷ, các khoản thu thêm vào ngân sách 327 tỷ thì kết quả thu ngân sách sẽ cao hơn. Nhưng theo ý kiến của Kiểm toán Nhà nước, việc truy thu nợ đọng, xử lý số tiền tạm thu, tạm giữ chưa kịp thời.
Đặc biệt, gian lận thương mại, làm ăn phi pháp xuất hiện ngày càng tinh vi, gây thất thu thuế, nhưng biện pháp ngăn chặn và xử lý chưa đủ mạnh. Phần lớn doanh nghiệp nhà nước có mức nộp ngân sách thấp hơn năm 2006, chưa tương xứng với mức đầu tư của nhà nước cho khu vực kinh tế này. Báo cáo Chính phủ cho thấy, chỉ có 10 doanh nghiệp có mức thu nộp ngân sách tăng.
3. Tình hình thực hiện kế hoạch ngân sách năm 2008
3.1. Dự toán ngân sách
Theo dự toán của Chính phủ tổng thu ngân sách Nhà nước năm 2008 là 321.400 tỉ đồng, tăng 11% so với ước thực hiện năm 2007; trong đó thu nội địa là 189300 tỷ đồng, tăng 18,5% so với ước thực hiện năm 2007; thu dầu thô ước đạt 64500 tỷ đồng, giảm 5,8%; thu từ xuất nhập khẩu đạt 64000 tỷ đồng, tăng 13,3%.
Tổng chi ngân sách Nhà nước 397.380 tỷ đồng, tăng 7,8% so với ước thực hiện năm 2007, trong đó ngân sách Trung ương 292.707 tỉ đồng. Bội chi ngân sách Nhà nước dự kiến là 66.9 nghìn tỷ đồng, bằng 5% GDP.
Theo dự toán năm 2008 thì chi đầu tư phát triển ở các địa phương khoảng 44.050 tỉ đồng được phân bổ cho các vùng miền như sau: Miền núi phía Bắc: 3.056 tỉ đồng; Đồng bằng sông Hồng: 14.013 tỉ đồng; Bắc Bộ và Duyên hải miền Trung: 7.888 tỉ đồng; Tây Nguyên: 1.629 tỉ đồng; Miền Đông Nam Bộ: 12.866 tỉ đồng; Đồng bằng sông Cửu Long: 4.595 tỉ đồng.
3.2. Đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch ngân sách Nhà nước
Dự ước tổng số thu NSNN đạt khá, vượt 23,5% so với dự toán, tăng 26,3% so với thực hiện năm 2007, đạt tỷ lệ động viên 26,8% GDP. Chi NSNN theo hướng thắt chặt, góp phần kiềm chế lạm phát, tập trung nguồn lực để bảo đảm an sinh xã hội với thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng, an ninh, phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, bảo vệ môi trường.
Thứ nhất: Thu ngân sách nhà nước vượt dự toán nhưng chưa ổn định.
Theo báo cáo của Bộ trưởng Tài chính Vũ Văn Ninh, tổng số thu cân đối NSNN ước đạt 399.000 tỷ đồng, vượt dự toán 76.000 tỷ đồng, tuy nhiên báo cáo thẩm tra của Uỷ ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội cho rằng mức vượt dự toán này chủ yếu từ yếu tố bên ngoài, yếu tố bán tài nguyên, đất đai. Số thu từ nội lực của nền kinh tế còn rất thấp và có phần giảm sút. Báo cáo của Uỷ ban Tài chính - Ngân sách Quốc hội cũng đưa ra phân tích, mặc dù vượt dự toán 76.000 tỷ đồng, nhưng có 35.400 tỷ đồng vượt dự toán là do giá dầu thô trên thị trường thế giới tăng 41 USD/thùng so với giá tính dự toán; thu xuất nhập khẩu tăng 23.500 tỷ đồng (tăng 34,6% so dự toán), thu từ đất tăng 5.500 tỷ đồng (tăng 33,3% so dự toán). Những phân tích trên cho thấy thu ngân sách chứa đựng nhiều yếu tố đột biến, không ổn định. Bên cạnh đó, tình hình sản xuất kinh doanh năm 2008 cũng có biểu hiện chững lại, phát sinh nhiều khó khăn ở các khu vực kinh tế, kéo theo số thu NSNN không ổn định và không đều như các năm trước đây.
Số vượt thu chủ yếu nhờ tăng giá từ dầu thô và từ nhà đất. Nếu tính cả yếu tố trượt giá do lạm phát thì xem như không tăng thu trong năm 2008. Nếu trừ nguồn thu từ thu tiền sử dụng đất khoảng 22 nghìn tỷ theo ước thực hiện năm 2008 thì nguồn thu nội địa từ bản thân nền kinh tế chỉ chiếm 46% là quá thấp. Trong khi đó, những nguồn thu bấp bênh lại quá cao, chiếm tới 54% như mua bán dầu thô, bán than, thu tiền sử dụng đất, thuế xuất nhập khẩu, thu vay, thu viện trợ...
Về công tác quản lý và thu thuế, việc triển khai thực hiện Luật quản lý thuế mặc dù đã tạo sự chuyển biến tích cực, công tác quản lý thu thuế có tiến bộ nhưng mức độ vẫn còn hạn chế. Tình trạng nợ đọng thuế có dấu hiệu gia tăng, trong bối cảnh tình hình kinh tế có khó khăn, mức phạt chậm nộp thấp hơn lãi suất vay ngân hàng, dẫn tới nhiều doanh nghiệp chiếm dụng tiền nộp thuế; tình trạng buôn bán hóa đơn bất hợp pháp, buôn lậu, gian lận thương mại, hạch toán sai lệch kết quả tài chính để trốn lậu thuế… vẫn chậm được khắc phục; các biện pháp ngăn chặn, xử lý vi phạm chưa đủ mạnh, chưa triệt để.
Thứ hai: Giải ngân chậm.
Báo cáo thẩm tra của Uỷ ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội cũng chỉ ra rằng việc thực hiện dự toán chi ngân sách còn chưa nghiêm, hiệu quả chưa cao, tiết kiệm chưa triệt để. Chi đầu tư phát triển ước cả năm đạt 118.000 tỷ đồng, tăng 18,3% so với dự toán, chiếm 24,9% tổng chi NSNN.
Tuy nhiên, tình trạng chung đối với chi đầu tư là giải ngân chậm, đầu tư dàn trải, phân giao vốn đầu tư không đúng quy định, vi phạm trong đầu tư XDCB vẫn khá phổ biến, hiệu quả đầu tư chưa cao… Tỷ lệ giải ngân vốn XDCB đến hết tháng 9 mới đạt xấp xỉ 52% dự toán. Tỷ lệ giải ngân vốn Trái phiếu Chính phủ đạt rất thấp, 9 tháng đầu năm mới giải ngân đạt 40% so với kế hoạch Chính phủ đã điều chỉnh (28.526 tỷ đồng), dự ước cả năm chỉ đạt 20.000 tỷ, bằng 54% kế hoạch theo Nghị quyết của Quốc hội và 70% vốn kế hoạch điều chỉnh của Chính phủ.
Thực hiện chủ trương kiềm chế lạm phát, Chính phủ đã chỉ đạo đình hoãn, ngừng triển khai, giãn tiến độ 1.968 dự án với tổng số vốn là 5.991 tỷ đồng bằng 8% kế hoạch vốn năm 2008. Tuy nhiên, số tiền đầu tư cho các công trình, dự án thực tế không giảm do toàn bộ kinh phí tiết kiệm được từ việc đình hoãn, ngừng triển khai và giãn tiến độ các công trình, dự án được tập trung đầu tư cho các dự án, công trình khác.
Theo báo cáo của Chính phủ, chi thường xuyên tăng 13,3% so dự toán và tăng 26,6% so với năm 2007. Tuy nhiên, nhiều ý kiến trong Uỷ ban Tài chính - Ngân sách cho rằng, trong điều kiện thực hiện chủ trương thắt chặt chi tiêu công, kiềm chế lạm phát, thì việc thực hiện tiết kiệm chi thường xuyên chưa triệt để, chi quản lý hành chính vẫn vượt dự toán. Công tác quản lý chi tiêu chưa chặt chẽ, thanh quyết toán chưa nghiêm, còn để xảy ra vi phạm, lãng phí, tiêu cực. Nhiều định mức chi tiêu đã lạc hậu nhưng chậm được sửa đổi, bổ sung. Nhiều ý kiến cũng đề nghị Chính phủ cần có giải trình về khoản ước chi bù lỗ cho dầu (32.000 tỷ đồng) có cần thiết nữa hay không khi trong những tháng cuối năm, giá xăng dầu nhập khẩu đang có xu hướng giảm, giá bán lẻ xăng dầu đã bình ổn, doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu đã giảm lỗ.
Thứ ba: bội chi ngân sách nhà nước có thể cao hơn báo cáo của Chính phủ.
Báo cáo của Uỷ ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội cũng chỉ ra rằng, Chính phủ điều chỉnh chính sách tài khoá năm 2008 để thực hiện chủ trương kiềm chế lạm phát, nhưng chưa thật sự thắt chặt: thu thực chất tăng không lớn, chi chưa giảm, bội chi còn cao. Mặc dù Chính phủ đã chỉ đạo tiết kiệm thêm 10% chi thường xuyên (được khoảng 2.800 tỷ đồng), cắt giảm các công trình XDCB (5.992 tỷ đồng), song thực tế chi đầu tư vẫn tăng 18.270 tỷ đồng so với dự toán năm 2008 và chi thường xuyên tăng 13,3%; số chi chuyển nguồn và tồn dư kho bạc lớn trong khi NSNN vẫn phải đi vay để đầu tư với mức lãi suất huy động cao.
Bội chi NSNN 9 tháng đầu năm là 17.425 tỷ đồng, bằng 26% dự toán. Việc giảm bội chi trong 9 tháng đầu năm đã góp phần kiềm chế lạm phát, số bội chi năm 2008 dự kiến giảm được 700 tỷ đồng so dự toán, làm giảm bội chi ngân sách xuống còn ở mức 4,95% GDP là một cố gắng; tuy nhiên, số tuyệt đối bội chi ngân sách vẫn tăng 9.700 tỷ đồng so với năm 2007. Có ý kiến cho rằng, nếu tính cả số phát hành Trái phiếu Chính phủ, các khoản vay về cho vay lại… thì thực chất số bội chi NSNN lớn hơn so với báo cáo của Chính phủ.
Năm 2008 đã cắt giảm 20% chi tiêu công nhưng trên thực tế lại tăng 10%, chi quản lý hành chính tăng 13,3% dự toán và tăng 26,6% so với năm 2007. Tình trạng hội nghị còn nhiều, việc thực hiện tiết kiệm, chống lãng phí hiệu quả còn thấp. 6 tháng đầu năm 2008, hệ thống kho bạc đã phát hiện gần 12.500 khoản chi của 4.600 lượt đơn vị chưa đúng thủ tục, chế độ quy định; gần 2.000 công trình, dự án chưa thực sự cần thiết chưa đủ thủ tục đã lọt qua nhiều vòng thẩm định để được bố trí trong kế hoạch ngân sách.
CHƯƠNG III. PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH GIAI ĐOẠN
2009 – 2010 VÀ KHẢ NĂNG THỰC HIỆN KẾ HOẠCH
I. CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN TIẾP THEO 2009 – 2010.
Có thể nói giai đoạn tiếp theo đối với Việt Nam thách thức nhiều hơn là cơ hội. Xét chung từ toàn cảnh nền kinh tế thế giới, khủng hoảng tài chính tại Mỹ đã lan rộng sang các nước phát triển khác. Theo dự báo của Quỹ Tiền tệ quốc tế, tốc độ tăng trưởng của các nền kinh tế thế giới sẽ suy giảm. Nếu năm 2007, kinh tế thế giới tăng 5% thì dự báo cuối năm nay còn 3,9% và năm sau chỉ vào khoảng 3%. Tình hình xuất khẩu sẽ gặp nhiều khó khăn do giá thành sản phẩm không giảm do giá nguyên liệu đầu vào, giá xăng dầu, vận tải, chi phí cho nhân công… vẫn không giảm hơn trước. Trong nước, những khó khăn nội tại cũng góp phần làm nên khó khăn cho xuất khẩu. Tình trạng thiếu nhân công, cúp điện, ách tắc cảng, thủ tục còn nhiêu khê… vẫn xảy ra thường xuyên. Hiệp hội Chế biến thủy sản cho biết, Mỹ đang thắt chặt tín dụng nên nhà nhập khẩu phải bán xong mới trả tiền cho doanh nghiệp Việt Nam. Vì vậy doanh nghiệp Việt Nam không có vốn để tiếp tục sản xuất. Không chỉ Hoa Kỳ, các thị trường xuất khẩu khác như Nhật, EU, ASEAN, châu Phi… cũng đều bị thu hẹp. Ngoài việc giảm đơn hàng, giá bán hàng bán cũng bị giảm.
Tuy nhiên, tình hình trong nước vẫn có những dấu hiệu phục hồi đáng mừng. Ở Việt Nam, những giải pháp mà Chính phủ đưa ra để kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô đã thực sự phát huy tác dụng. Từ tháng 6 tới nay, lạm phát đã được kiểm soát tốt hơn. Đặc biệt tháng 9, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) chỉ tăng 0,18% và đến tháng 10 giảm 0,19%. Tuy nhiên, nhìn vào chỉ số CPI mới nhất, cộng thêm tình hình không mấy khả quan của kinh tế thế giới, người ta tiếp tục lo ngại về nguy cơ thiểu phát và những hệ lụy của nó. Ở giai đoạn trước, các ngân hàng, doanh nghiệp, đặc biệt là khối DNNVV đã chia sẻ khó khăn cùng Chính phủ. Sự quyết tâm, hiệp lực đã tạo ra sức mạnh đẩy lùi lạm phát.
Giai đoạn này, Chính phủ tiếp tục theo đuổi đường lối điều hành tiền tệ linh hoạt. Từ ngày 5/11, lãi suất cơ bản đã chính thức hạ từ 13% xuống còn 12%; Lãi suất cho vay còn 15%. Theo một con số thống kê trên 40 tỉnh, thành, đã có 90% số hồ sơ gửi tới ngân hàng thương mại được chấp nhận cho vay, chỉ có 10% hồ sơ còn lại bị từ chối vì nhiều lý do khác nhau. Mặc dù vấn đề vốn vay cho doanh nghiệp đã có hướng giải quyết nhưng các doanh nghiệp vẫn phải đối mặt với rất nhiều khó khăn: Khoảng 20% doanh nghiệp đã dừng hoạt động trước khi chính sách tiền tệ được nới lỏng; một số đã thu hẹp sản xuất, bị mất thị trường, nhu cầu vay vốn không còn nóng bỏng như trong giai đoạn trước... Trên hết, khi chính sách tiền tệ được nới lỏng, nguy cơ tái lạm phát vẫn còn ở mức rất cao, đòi hỏi Chính phủ phải liên tục bám sát tình hình, điều hành kinh tế vĩ mô mềm dẻo và mềm dẻo hơn nữa.
II. KẾ HOẠCH NGÂN SÁCH NĂM 2009 VÀ PHÂN TÍCH KHẢ NĂNG THỰC HIỆN.
Từ thực tế của giai đoạn 2006 – 2007 và 9 tháng đầu năm 2008, tính đến thời điểm này việc thu chi ngân sách, cũng như cân đối thu chi cho năm 2009, nhằm khắc phục khó khăn, hướng tới mục tiêu đã đặt ra trong năm 2010 là một bài toán cần cân nhắc kỹ càng đối với Việt Nam chúng ta. Đứng trước diễn biến kinh tế trong nước và thế giới biến động phức tạp, mục tiêu Chính phủ đề ra cho năm 2009 vẫn là tiếp tục ưu tiên kiềm chế lạm phát theo hướng giảm dần, đến năm 2010 đưa tốc độ lạm phát xuống còn một số, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tốc độ tăng trưởng hợp lý, bền vững, chủ động ngăn ngừa suy giảm, bảo đảm an sinh xã hội.
Theo đó, kế hoạch ngân sách năm 2009 đưa ra con số dự toán như sau: mục tiêu thu cân đối ngân sách năm 2009 là 389.000 tỷ đồng bằng 21,5% GDP, nếu tính gộp cả số thu chuyển nguồn từ năm 2008 sang thì tổng thu của cả năm 2009 là 404.000 tỷ đồng. Tổng chi ngân sách năm 2009 là 491.000 tỷ đồng, trong đó chi đầu tư phát triển khoảng 125.000 tỷ đồng, tăng từ 6,6 – 6,8% so với ước thực hiện năm 2008. Mức bội chi cho phép là 87.300 tỷ đồng, xấp xỉ khoảng 4,82% GDP.
Trong khoảng 389.000 tỷ đồng của thu ngân sách nhà nước, những khoản thu chính được dự toán như thu nội địa là 230.000 tỷ đồng tăng 16,2%, thu từ dầu thô ước đạt 85.000 tỷ đồng, thu từ xuất nhập khẩu 69.500 tỷ đồng.
Chính phủ đưa ra dự kiến các chỉ tiêu kế hoạch ngân sách như trên là xuất phát từ nhiều lí do thực tiễn sẽ được trình bày ở dưới đây.
1. Mục tiêu thu ngân sách năm 2009 đưa ra không cao và giảm tương đối
Như phân tích tình hình thực trạng thực hiện kế hoạch ngân sách trong giai đoạn 2006 – 2008 ở phần trên, nhận thấy mục tiêu đề ra của năm 2009 là 389.000 tỷ đồng là một con số tương đối thấp, hay có thể nói là khá khiêm tốn. Tuy nhiên đây lại là mục tiêu đặt ra khá hợp lý của Chính Phủ trong giai đoạn tới bởi nhiều yếu tố. Nguồn thu ngân sách của Việt Nam không vững chắc, chủ yếu phụ thuộc vào những yếu tố bên ngoài và bán tài nguyên, trong đó nguồn thu từ xuất khẩu và thu từ dầu thô là rất quan trọng, cùng với đó là các nguồn thu nội địa.
Thứ nhất, biến động khó lường của giá dầu thế giới do tác động của cuộc khủng hoảng tiền tệ thế giới sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới thu ngân sách. Hiện nay giá dầu thô trên thế giới đang có xu hướng giảm mạnh và lại biến động rất nhanh. Các dự báo cho 3 tháng cuối năm và cho năm 2009 khác nhau nhưng đều thấp hơn nhiều so với trước. Dự toán ngân sách Nhà nước 2009 được xây dựng từ tháng 9, khi giá dầu đã giảm nhưng vẫn ở mức trên 90 USD mỗi thùng. Tuy nhiên, Bộ Tài chính đang chuẩn bị dự toán mới, trong đó giá dầu thô bình quân 3 tháng cuối năm và dự toán ngân sách 2009 ở mức 70 USD mỗi thùng, thấp hơn dự toán trước đó là 20 USD. Việc điều chỉnh này tác động trực tiếp đến dự toán NSNN năm 2009 và làm giảm thu ngân sách khoảng 36000 nghìn tỷ.
Thứ hai, tình hình kinh tế khó khăn chung trên toàn thị trường thế giới, lạm phát tăng cao, cũng như biến động của tình hình dầu thô trên thế giới làm ảnh hưỏng mạnh mẽ tới kinh tế trong nước. Tốc độ tăng GDP năm 2008 tăng khoảng 6,5 – 7%, trong khi đó chỉ số giá tiêu dùng vào khoảng 24%. Người dân thắt chặt chi tiêu. Thị trường trong nước suy giảm sản xuất kinh doanh do khó thu hút vốn đầu tư nước ngoài, thị trường xuất khẩu bị thu hẹp. Trong thời gian tới, nhu cầu nhập khẩu thế giới giảm mạnh nên khả năng về xuất khẩu của Việt Nam sẽ giảm. Do đó, thu từ việc xuất khẩu của chúng ta sẽ giảm mạnh.
Thứ ba, có những điều chỉnh mới trong các chính sách thuế làm giảm thu trong nước. Dự báo, với những điều chỉnh mới trong chính sách thuế thu nhập cá nhân, thuế giá trị gia tăng và thu nhập doanh nghiệp, thu ngân sách sẽ giảm khoảng 13,1 nghìn tỷ đồng. Trong đó, riêng Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp với việc giảm thuế suất từ 28% xuống 25%, sắp xếp lại các ưu đãi thuế… dự kiến làm giảm thu khoảng 7.200 tỷ đồng mỗi năm.
Thứ tư, tỷ lệ thu trong nội địa là thấp, làm cho ngân sách Nhà nước vốn đã không ổn định, nay càng phụ thuộc nhiều và các yếu tố bên ngoài. Như tình hình năm 2008 tổng thu nội địa 189.000 tỷ đồng, trừ đi nguồn thu từ tiền sử dụng đất là khoảng 22000 tỷ đồng thì nguồn thu nội địa từ bản thân nền kinh tế chỉ chiếm 46%, đây là con số tương đối thấp. Trong khi đó, những nguồn thu bấp bênh lại quá cao, chiếm tới gần 54% như mua bán dầu thô, bán than, thu tiền sử dụng đất, thuế xuất nhập khẩu, thu vay, thu viện trợ…
Thứ năm, thu từ sử dụng đất trong những năm tới khó có thể tăng nhiều hơn. Chỉ tiêu thu tiền sử dụng đất trong những năm qua đã tăng rất nhanh. Nghĩa là các địa phương đã chuyển mục đích sử dụng nhiều diện tích đất đai, nhất là đất lúa để tăng thu ngân sách cho những năm qua là quá lớn, không cơ bản, gây phức tạp, quá lộn xộn và lãng phí cả trước mắt và lâu dài. Nhưng mặt khác lại xảy ra tình trạng lãng phí các nguồn thu. Cơ cấu các nguồn thu chưa hợp lý, còn có nhiều nguồn thu mà chúng ta lại bỏ qua, gây thất thoát, lãng phí, chưa kể tới còn có nhiều tình trạng tiêu cực, nợ đọng thuế.
2. Mục tiêu chi đưa ra vẫn cao
Theo kế hoạch, tổng chi ngân sách là 491.000 tỷ đồng, tăng 6,8% so với kế hoạch năm 2008. Do kế hoạch nguồn thu đã giảm nhiều, nên bên cạnh các biện pháp cơ cấu lại nguồn thu, tăng thu bổ sung từ nhiều nguồn khác thì Chính phủ đã chủ trương thắt chặt chi tiêu công, tiếp tục thực hiện chính sách tài khoá thắt chặt một cách quyết liệt, phối hợp đồng bộ với chính sách tiền tệ nhằm hạn chế tối đa thất thoát, mất cân đối thu chi. Tình tình chi ngân sách của chúng ta còn tồn tại rất nhiều bất cập, mà trong tình hình khó khăn chung, nếu không có những khắc phục kịp thời trong thời kỳ kế hoạch tới, có thể chúng ta còn bội chi nhiều hơn.
Thứ nhất, thực hiện việc chi ngân sách chưa hiệu nghiệm, hiệu quả chưa cao, tiết kiệm chưa triệt để. Năm 2008, chi đầu tư phát triển ước cả năm đạt 118 nghìn tỷ đồng, tăng 18,3% so dự toán, chiếm 24,9% tổng chi ngân sách Nhà nước. Nhưng giải ngân vẫn chậm, đầu tư dàn trải, vi phạm đầu tư xây dựng cơ bản phổ biến. Tỷ lệ giải ngân vốn xây dựng cơ bản đến hết tháng 40% so với kế hoạch đã điều chỉnh (28,5 nghìn tỷ đồng); dự tính cả năm chỉ đạt 20 nghìn tỷ đồng, bằng 54% kế hoạch ban đầu và 70% kế hoạch điều chỉnh của Chính phủ. Như vậy, chi ngân sách của chúng ta tồn tại 4 hạn chế lớn: dàn trải, dải ngân chậm, hiệu quả thấp mà thất thoát lãng phí.
Thứ hai, trong kế hoạch 2009 tới, cần cắt giảm triệt để các khoản chi tiêu công từ cấp trung ương tới các địa phương. Hạn chế tối đa những hoạt động công tổ chức mang tính hình thức vừa lãng phí lại không hiệu quả. Đồng thời giãn thực hiện chính sách điều chỉnh tiền lương tối thiểu, thực hiện chế độ phụ cấp công vụ…
Thứ ba, giảm dự toán chi đầu tư phát triển, đặc biệt là đối với chi cho tập đoàn dầu khí và cần ưu tiên chi cho lĩnh vực an ninh xã hội, xoá đói giảm nghèo, đặc biệt đầu tư cho 61 huyện nghèo nhất nước. Năm 2008, chúng ta vượt thu từ dầu khí là 36 ngàn tỷ thì lại chi ra 41 ngàn tỷ cho nhập khẩu xăng dầu và tái đầu tư cho tập đoàn Dầu khí, đây thể hiện thực tế là việc thu chi không thực sự hiệu quả, mất cân đối. Theo Báo cáo của Uỷ ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội nêu rõ, mặc dù Chính phủ đã chỉ đạo tiết kiệm thêm 10% chi thường xuyên, cắt giảm các công trình XDCB, song thực tế chi đầu tư vẫn tăng 18.270 tỷ đồng so với dự toán năm 2008 và chi thường xuyên tăng 13,3%; số chi chuyển nguồn và tồn dư kho bạc lớn trong khi NSNN vẫn phải đi vay để đầu tư với mức lãi suất huy động cao. Việc chi để đầu tư nuôi dưỡng thu trong tương lai như đầu tư cho khoa học công nghệ, các giống cây, con mới trong nông nghiệp chưa tương xứng. Trong tình hình khó khăn chung của cả nước, các tỉnh miền núi nghèo còn gặp nhiều khó khăn hơn, do vậy chúng ta cần hợp lí cơ cấu các khoản chi, hỗ trợ người dân ở những khu vực đó, trong khi chưa chắc đầu tư phát triển cho các doanh nghiệp đã hiệu quả. Về việc bố trí chi hơn 10 nghìn tỷ đồng bổ sung cho các tập đoàn, tổng công ty lớn của Nhà nước chưa thực sự hiệu quả, có thể để cho các tập đoàn, tổng công ty này chủ động huy động, vay vốn sản xuất, kinh doanh, dùng nguồn vốn này để đầu tư cho các lĩnh vực cấp thiết khác. Trong khi mức chi đầu tư thuộc nguồn NSNN cho nông nghiệp khoảng 20,1% năm 2009, như vậy là chưa hợp lý. Cần tập trung đầu tư cho hệ thống giao thông nông thôn, hệ thống thủy lợi, công tác khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư và đào tạo nguồn nhân lực ở khu vực nông thôn, miền núi.
Từ những phân tích như trên, cho thấy theo kế hoạch ngân sách năm 2009, việc bội chi chiếm tỷ lệ 4,82% là con số tương đối khó khăn. Đây vẫn là tỷ lệ cao, tiềm ẩn nguy cơ gây mất ổn định tài chính quốc gia, do vậy khó thực hiện trong kế hoạch ngân sách giai đoạn tới.
III. DỰ KIẾN VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN KẾ HOẠCH NGÂN SÁCH GIAI ĐOẠN 2009-2010
Từ phân tích thực trạng của những năm trước, dự kiến và khả năng thực hiện cho 2 năm còn lại trong giai đoạn 2006 – 2010, nhóm xin đưa ra những nhóm giải pháp nhằm giúp cho kế hoạch ngân sách của nước ta trong giai đọan này được thực hiện một cách hợp lý, ổn định và phù hợp hơn với sự phát triển của nền kinh tế.
1. Giải pháp từ Chính phủ:
1.1. Đối với các khoản thu
Để cân đối ngân sách, trong thời gian tới Chính phủ nên tăng thuế nhập khẩu xăng dầu với mức thuế hợp lý để nâng cao và ổn định nguồn thu. Chính phủ nên thực hiện phát hành trái phiếu vay từ người dân và các doanh nghiệp để bù đắp và đảm bảo nguồn chi cho đầu tư phát triển trong năm tới. Kế hoạch vay vốn từ trong dân trong năm tới không được vượt quá chỉ tiêu 36000 tỷ đồng trái phiếu Chính phủ và số vốn thu từ nguồn này sẽ dành phục vụ cho các công trình, dự án về giáo dục, y tế ở vùng khó khăn. Các dự án, công trình kéo dài, không hiệu quả cũng phải được loại bỏ để dành vốn ưu tiên cho các dự án, công trình cấp thiết khác.
Chính phủ cần sớm có kế hoạch tạo nguồn thu mới, cơ cấu lại nguồn thu ngân sách cho bền vững và công bằng, hợp lý hơn để bù lại những nguồn thu bấp bênh, không ổn định.
Nguồn thu từ thuế chiếm một tỷ trọng cũng rất cao trong tổng thu ngân sách Nhà nước, chính vì vậy Chính phủ cần có những chính sách hợp lý để tăng thu ngân sách từ thu thuế như: giảm tối đa thuế nợ đọng, chống thất thu thuế, giảm dần hiện tượng trốn thuế, đặc biệt là trong vấn đề thuế thu nhập cao. Thuế thu nhập là một nguồn thu lớn, mà hiện tại chúng ta vẫn còn bỏ phí, thất thoát. Cần phải đưa ra được giải pháp hợp lý trong việc xác định được thu nhập đối với những người có thu nhập cao, để từ đó hạn chế được tiêu cực trong vấn đề thu và nộp thuế. Do vậy cần hoàn chỉnh luật thuế thu nhập dành cho những người có thu nhập cao, đồng thời kết hợp với các doanh nghiệp để việc áp dụng luật đi vào cuộc sống.
Chính phủ và các cơ quan chức năng cũng cần phải nghiên cứu để loại bỏ những khoản phi, lệ phí không còn phù hợp, đồng thời tránh đặt ra những khoản thu không hợp lý, trái với pháp luật...
1.2. Đối với các nguồn chi
Bên cạnh việc tăng nguồn thu, thì để cân đối ngân sách Chính phủ cần tìm các biện pháp để nhằm đảm bảo cho việc chi tiêu quốc gia phù hợp hơn, cụ thể:
Chi thường xuyên là khoản chi chiếm tỷ trọng cao trong nguồn chi ngân sách của nước ta. Vì vậy, để giảm chi ngân sách trước hết chúng ta phải thực hiện cắt giảm các khoản chi thường xuyên mà hơn hết là phải thay đổi cách thức trả lương trong cả khu vực hành chính sự nghiệp có thu và không có thu. Đối với khu vực hành chính có thu thì nên thực hiện tự chủ về tài chính, nhằm làm tăng tính chủ động và linh hoạt trong quá trình hoạt động của các tổ chức này. Đối với khu vực hành chính sự nghiệp không có thu thì Chính phủ cần phải thực hiện khoán chi để tránh tình trạng sử dụng không hợp lý, gây lãng phí tiền của Nhà nước.
Đối với chi đầu tư xây dựng cơ bản, Chính phủ cũng cần cắt giảm một số dự án, công trình không đủ thủ tục, tạm đình hoãn những công trình chưa khởi công và chưa thật sự cấp bách. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng cần phải khắc phục thêm bệnh "hoành tráng", gây tốn kém; hạn chế tăng thêm về số lượng các trường đại học, cao đẳng, các viện nghiên cứu chưa thực sự cần thiết.
Đối với chi đầu tư phát triển, giảm bớt những khoản để lại cho đầu tư và phần hỗ trợ cho một số tập đoàn kinh tế, tổng công ty lớn… nhằm tránh đầu tư dàn trải, gây lãng phí. Cần xem xét lại chính sách chi hỗ trợ cho tập đoàn Dầu khí trong năm tới, để hạn chế lãng phí. Nên để cho các tập đoàn, các công ty này tự chủ về mặt tài chính, tự tìm các nguồn vay dể đối phó với tình hình khó khăn chung. Nên tập trung chú trọng vào chi phát triển ở những tỉnh vùng cao còn gặp nhiều khó khăn do tình hình đói nghèo, thiên tai, dịch bệnh, cơ sở hạ tang còn yếu kém… Đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động đầu tư phát triển cho các lĩnh vực, đặc biệt là trong công tác khám chữa bệnh, y tế, giáo dục.
Tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc để tăng khả năng giải ngân vốn đầu tư XDCB, quan tâm hơn đến nguồn vốn trái phiếu Chính phủ, vốn tín dụng nhà nước, vốn ODA cho vay lại. Việc phân bổ ngân sách phải thống nhất, công bằng, nhưng cũng tránh bình quân, dàn đều phân bỏ làm sao cho hiệu quả và góp phần thúc đẩy nhanh quá trình giải ngân.
2. Giải pháp từ nhóm thực hiện
Nguồn thu của nước ta chủ yếu vẫn phụ thuộc vào các yếu tố bên ngoài, đó là những nguồn thu không ổn định, vì vậy chúng ta cần chuyển hướng, tăng tỷ trọng thu nội địa chiếm trong tổng thu ngân sách, để từ đó chúng ta có thể tự chủ hơn với nguồn thu của mình, và dễ dàng trong việc đưa ra những biện pháp để chống đỡ với những biến động của thị trường.
Để tăng nguồn thu cho ngân sách chúng ta cần: Xiết chặt kỷ cương, chấp hành kỷ luật thu - chi, giải quyết triệt để hiện tượng trốn thuế, gian lận thương mại, nợ đọng, giải ngân chậm, tham nhũng. Đó là những vấn đề mà bất cứ một nên kinh tế nào cũng gặp phải, nhưng hạn chế ở mức độ vừa phải thì không phải quốc gia nào cũng làm được. Và đó chính là nhiệm vụ của nước ta cần thực hiện được trong thời gian tới và cả sau này.
Bên cạnh đó, chúng ta phải tạo ra các nguồn thu mới để “nuôi dưỡng” cho tương lai bằng cách như: mở rộng qui mô nền kinh tế, khuyến khích những ngành, những doanh nghiệp có xu hướng phát triển tốt cần phải tiếp tục phát triển sản xuất hơn nữa... Vì hiện nay, việc tái tạo nguồn thu ở nước ta chưa thực sự quan tâm đúng mức.
Trong điều kiện thị trường bất ổn như hiện nay thì việc chính phủ cần phải có các phương án kế hoạch dự phòng để có thể có những thay đổi phù hợp với tình hình kinh tế.
Một phần nữa của những nguyên nhân làm cho cán cân ngân sách nước ta bị thâm hụt nhiều đó là do những nhận định, dự báo sai lệch về tình hình kinh tế trong nước và thế giới dẫn đến việc đưa ra những kế hoạch thực hiện chưa phù hợp với tình hình kinh tế của nước ta, những khoản chi không dự kiến được chính xác nên dẫn đến việc chi tiêu không hợp lý, lãng phí gây thất thoát ngân sách quốc gia. Vì vậy, chúng ta cần phải chú trọng đào tạo thêm nguồn nhân lực có chuyên môn tốt về công tác dự báo và lập kế hoạch.
Chúng ta cần sử dụng tiền vốn có hiệu quả, hạn chế nhập khẩu, ngăn chặn được tình trạng đôla hoá trên thị trường. Tạo điều kiện ổn định nền kinh tế trong nước và phát huy nội lực của nền kinh tế. Có những chính sách khuyến khích sản xuất, khuyến khích xuất khẩu cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Thúc đẩy mạnh việc xuất khẩu trong giai đoạn tới, vì hiện nay quốc gia xuất khẩu mạnh như Trung Quốc đang mất dần thị trường trên thế giới.
Có biện pháp kiên quyết để các bộ, ngành, địa phương thực hiện phân bổ vốn đầu tư và kinh phí chi thường xuyên đúng tiến độ, đúng chế độ và quy định của Luật NSNN; sớm chấn chỉnh việc sử sụng nguồn vốn đầu tư cho chi thường xuyên, bố trí vốn đầu tư cho các công trình, dự án không đủ thủ tục đầu tư.
Một tồn tại rất lớn của chúng ta là vấn đề giải ngân chậm, gây thất thoát và lãng phí.Nguyên nhân của việc giải ngân vốn trái phiếu Chính phủ là do công tác xây dựng và bố trí kế hoạch nhiều dự án chưa đảm bảo. Trong quá trình triển khai phân bổ, giao dự toán (đối với các Bộ, ngành Trung ương) và quyết định dự toán NSNN (đối với Hội đồng nhân dân các địa phương) cần bố trí hợp lý kinh phí cho các mục tiêu ưu tiên. Trong quá trình thực hiện cần nắm chắc thực tế để kịp thời điều chỉnh theo thẩm quyền hoặc trình cấp có thẩm quyền quyết định, tránh tình trạng điều chuyển sát vào cuối năm. Tổ chức thu hồi số vốn đã ứng trước cho các bộ, ngành, địa phương; chấn chỉnh việc huy động vốn quá mức so với quy định của pháp luật ở các địa phương, không để phát sinh thêm nợ tồn đọng vốn đầu tư XDCB mới.
Quản lý chặt chẽ tài sản công; khẩn trương xây dựng và trình Quốc hội ban hành Luật tài chính nhà nước, Luật quản lý tài sản công để tạo cơ sở pháp lý cho việc khai thác, sử dụng có hiệu quả các nguồn tài sản của quốc gia; kiểm soát chặt chẽ việc đầu tư, mua sắm và sử dụng tài sản công. Tiếp tục triển khai có hiệu quả Luật thực hành tiết kiệm và chống lãng phí; Luật phòng, chống tham nhũng.
Đẩy mạnh tuyên truyền nâng cao ý thức của người dân trong việc nộp thuế cũng như tăng tính cộng đồng trong việc theo dõi, đán giá các hoạt động của nhà nước “dân biết, dân bàn, dân kiểm tra”. Đồng thời xiết chặt kỷ cương ở cấp các nhà quản lý từ trung ương tới địa phương: cần có đủ cả năng lực và phẩm chất, làm việc hết mình. Cần phát hiện và nghiêm trị những cán bộ nhà nước thoái hoá, biến chất.
KẾT LUẬN
Từ những nghiên cứu trên, nhóm nhận thấy rằng kế hoạch ngân sách đóng vai trò quan trọng trong hệ thống kế hoạch phát triển kinh tế xã hội. Trong quá trình thực hiện kế hoạch ngân sách 2006 – 2010 và nhất là trong giai đoạn đầu đã đạt được những thành tựu đáng kể, tạo niềm tin trong nhân dân về khả năng đạt được những kế hoạch đã đề ra.
Trong 2 năm cuối của giai đoạn kế hoạch, cùng với những giải pháp mà chính phủ đã đưa ra trong kỳ họp thứ tư, Quốc hội khóa XII, hy vọng sẽ tạo ra những kết quả đáng mừng nhằm đạt được mục tiêu đạt ra trong giai đoạn tới là: “ Tiếp tục ưu tiên kiềm chế lạm phát theo hướng giảm dần, đến năm 2010 đưa tốc độlạm phát xuống còn một con số, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tốc độ tăng trưởng hợp lý. ”
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- KH ngan sach 2.doc
- KH ngan sach 1.doc