Thực trạng chế biến nội địa :
Có xu thế phát triển ổn định, đáp ứng nhanh hơn nhu cầu của xã hội và thị trường tiêu thụ. Sản phẩm chính là nước mắm, mắm chươm, hải sản khô, cá tươi sống, và ướp đá các loại. Phần lớn các sản phẩm này được chế biến thủ công truyền thống ở các làng nghề ven biển nên chất lượng và giá trị không cao, các cơ sở chế biến nhỏ lẻ, phân tán nên hiệu quả chế biến thấp. Chính vì thế mà từ năm 1998 ngành thủy sản đã tập trung chỉ đạo chế biến hải sản theo hướng phát triển các mô hình kinh tế hợp tác, gắn đánh bắt với dịch vụ và tiêu thụ sản phẩm. Đến nay đã có 6 hợp tác xã và tổ hợp chế biến thủy sản được đầu tư bằng nguồn vốn ưu đãi của Nhà nước ( gần 1 tỷ đồng ) và nhiều cơ sở tư nhân, ngày càng tạo ra thế chủ động, kinh doanh đa dạng, tăng hiệu quả và giá trị của hàng hoá thủy sản. Nhờ có sự đầu tư chú trọng phát triển chế biến thuỷ sản mà sản lượng hải sản chế biến ngày càng tăng, nâng cao giá trị hàng thủy sản tạo thêm ngoại tệ cho đất nước. Mặt khác chế biến hải sản góp phần giải quyết việc làm cho nhân dân đặc biệt là nhân dân vùng biển cụ thể giai đoạn 1996 - 2000 thu hút 8350 lao động cho chế biến hải sản.
Ngoài ra còn phát triển các cơ sở chế biến thức ăn cho nuôi trồng thủy sản : chế biến thức ăn nuôi tôm.
76 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1010 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Kế hoạch phát triển ngành thuỷ sản tỉnh Thanh Hoá thời kỳ 2001 - 2005, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h rất có hiệu quả. Năm 2000 đang thực hiện triển khai cổ phần hoá xí nghiệp tầu thuyền Tân Châu.
3.4.2. Công tác khoa học kỹ thuật:
Thực hiện việc ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, xây dựng các mô hình tiên tiến trên các lĩnh vực, đã được Tỉnh và ngành quan tâm đầu tư như: Các đề tài về sản xuất giống tôm xú, tôm càng xanh, nuôi tôm sú bán thâm canh, mô hình nuôi ngao thương phẩm, cải tiến lưới kéo tôm, cá dùng cho tàu khai thác xa bờ, chế biến cá và mực xuất khẩu ... đã là những động lực thúc đẩy phát triển nghề cá trong thời gian quan tâm.
3.4.3. Công tác khuyến ngư:
Triển khai thực hiện nhiệm vụ trọng tâm khoảng thời gian chưa nhiều nhưng khuyến ngư Thanh Hoá thực sự là một địa chỉ đáng tin cậy, trong việc chuyển tải các kiến thức khoa học công nghệ các tiến bộ khoa học kỹ thuật, thông tin kinh tế ngành... để phục vụ nhân dân nghề cá .
4. Đánh giá chung về thực hiện kế hoạch phát triển của ngành Thuỷ sản tỉnh Thanh Hoá thời kỳ 1996 - 2000:
Ngành Thuỷ sản Thanh Hoá những năm gần đây phát triển liên tục và đạt được những thành tựu nhất định: Giá trị tổng sản lượng năm 1995 tăng 1,5 lần so với năm 1990 thời kỳ 1991 - 1995 tăng 1,4 lần so với thời kỳ 1986 - 1999 trong đó gía trị khai thác tăng từ 240 tỷ đồng năm 1991 lên 306 tỷ đồng năm 1995 và 420 tỷ đồng năm 2000.
Sự phát triển không ngừng của ngành trong cơ chế thị trường đã giải phóng được mọi năng lực sản xuất, mọi nguồn vốn được huy động để đầu tư phát triển sản xuất ở mọi lĩnh vực: Khai thác, nuôi trồng, chế biến và hậu cần. Do đó số lao động có việc làm đã tăng nhanh từ 26.000 người thời kỳ 1986 - 1990 và 42.000 người thời kỳ 1995 - 2000 . Do vậy thu nhập của lao động thuỷ sản đã tăng lên: bình quân thu nhập lao động từ 1,2 - 2 triệu đồng /năm, nhiều lao động giỏi đạt 5 -10 triệu/năm. Có một số chủ hộ có quy mô và số vốn sản xuất lên đến 200 - 300 triệu đồng và thu nhập hàng năm 50 - 70 triệu đồng thu nhập ngày càng tăng đã làm cho đời sống văn hoá, xã hội vùng biển có nhiều cải thiện . Nạn mù chữ và thất nghiệp giảm hẳn, các công trình phúc lợi được xây dựng mới và củng cố: Trạm xá, Nhà văn hoá, Sân vận động, Hệ thống điện ... An ninh chính trị vùng biển ổn định và có nhiều tiến bộ.
Sở dĩ ngành thuỷ sản tỉnh ta có được những thành tựu nhất định như vậy là do sự đổi mới của ngành thuỷ sản đã tạo điều kiện cho ngành phát huy được lợi thế của tỉnh. Đó là nguồn tiềm năng thuỷ sản phong phú đa dạng có nhiều chủng loại đặc thuỷ sản có giá tị cao được thị trường trong và ngoài nước chú ý: Tôm sú, tôm he, cua, tôm hùm, mực, lươn, ếch, ba ba... Kết hợp với một lực lượng lao động có kinh nghiệm, có tay nghề cao, nhạy bén với kỹ thuật và công nghệ mới.
Tuy nhiên ngành thuỷ sản Thanh Hoá còn có những thành tựu và hạn chế nhất định đó là:
Khai thác hải sản đạt sản lượng tăng khá nhanh, và đạt chỉ tiêu kế hoạch. Đặc biệt là chương trình khai thác hải sản xa bờ đã được triển khai ở Thanh Hoá từ năm 1998 bước đầu đã được đầu tư tàu thuyền có công suất lớn vươn ra đánh bắt ngoài khơi xa. Do đó đã góp phần làm đẩy nhanh sản lượng và giá trị khai thác, tạo công ăn việc làm cho cư dân ven biển. Tuy nhiên, hoạt động khai thác đạt hiệu quả kinh tế thấp, không trả được nợ cho Nhà nước, thu nhập của người lao động thấp. Cuối năm 1999 và nửa đầu năm 2000, 1/3 dự án làm ăn có lãi, 1/3 dự án làm ăn thua lỗ. Có tình trạng làm ăn thua lỗ, yếu kém là do tổ chức điều hành quản lý của hợp tác xã buông lỏng, tan rã còn do trình độ kỹ thuật. Kinh nghiệm khai thác nắm vững ngư trường, việc sử dụng công cụ, thiết bị hiện đại còn nhiều hạn chế. Mặt khác đa số các dự án đều thiếu vốn lưu động để sản xuất, chưa có tàu ra khơi dài ngày nên chi phí quá lớn. Điều kiện bảo quản sản phẩm sau thu hoạch đi dài ngày chưa tốt làm giảm đi giá trị, trong khi đó giá cả thị trường bấp bênh. Công ngệ khai thác chưa hợp lý, tỷ lệ sản phẩm có giá trị thấp chiếm 80% , khâu xử lý, tiêu thụ bất cập. Công tác dịch vụ hậu cần đầu tư không đồng bộ.
Nuôi trồng thuỷ sản: trong những năm qua đã đạt được những kết quả đáng kể cả về diện tích, năng suất và sản lượng hải sản. đặc biệt là sản lượng tôm, nguồn nguyên liệu đạt khá đã góp phần làm đẩy giá trị sản lượng và giá trị xuất khẩu thuỷ sản. Đạt được những thành tựu đó là do trong thời gian qua nhận thức được giá trị to lớn của nuôi trồng thuỷ sản do đó có sự đầu tư lớn. Nhưng năng suất nuôi trồng đạt được còn thấp, chưa tạo được nguyên liệu ổn định cho chế biến xuất khẩu, hiệu quả nuôi trồng chưa cao, tính rủi ro lớn. Nguyên nhân là do thiếu quy hoạch cho từng vùng sinh thái, vùng nuôi tập trung, vốn đầu tư cho nuôi trồng còn thấp, hình thức nuôi đang ở dạng quảng canh và quảng canh cải tiến. Song nguyên nhân cơ bản là chưa có được một chiến lược đầu tư đồng bộ để phát triển nuôi trồng thuỷ sản trên phạm vi toàn ngành
Chế biến hải sản: Tuy đã có sự đầu tư đổi mới công nghệ ở một số xí nghiệp chế biến nhưng chế biến xuất khẩu tăng chậm, chưa ổn định. Sản phẩm là hàng hoá thu gom, tản mạn, các cơ sở và công nghệ cũ, lạc hậu. Chưa có khả năng chế biến sản phẩm cao cấp đủ sức cạnh tranh và xuất khẩu trực tiếp. Có những tồn tại trên là do: Các cơ sở chế biến thuỷ sản xuất khẩu, năng lực cán bộ lãnh đạo và quản lý còn hạn chế, trình độ chưa đáp ứng những đòi hỏi của thương trường; hơn nữa cơ sở vật chất kỹ thuật xuống cấp, vệ sinh môi trường kém. Việc đầu tư nâng cấp chưa được chú trọng, thiếu đồng bộ. Tình trạng thiếu vốn cho sản xuất kinh doanh và thua lỗ còn tiếp diễn kéo dài.
Công tác quản lý chất lượng hàng và vệ sinh an toàn thực phẩm theo Nghị định 86 CP về phân công trách nhiệm quản lý Nhà nước về chất lượng sản phẩm, thực phẩm, thực vật, động vật thuỷ sản; về chất lượng thức ăn và thuốc phòng trị bệnh cho nuôi trồng thuỷ sản; hiện tượng dùng phân URE ướp cá, đưa một số chất lạ vào tôm xuất khẩu, nước mắm giả,... chưa được phát hiện kịp thời. Lý do cơ bản là chưa có bộ phận chứ năng đủ điều kiện về vật chất và con người để thực hiện nhiệm vụ được giao.
Về công tác đào tạo và bộ máy toàn ngành:
+ Về đào tạo còn mang tính chắp vá do nguồn nhân lực con em ngư dân trình độ văn hoá thấp, không chịu đi học, cơ sở vật chất kỹ thuật để đào tạo thì quá nhỏ bé và lạc hậu, đào tạo chưa theo kịp với sự phát triển ở các lĩnh vực của các ngành và các thành phần kinh tế.
+ Về bộ máy quản lý Nhà nước từ tỉnh đến huyện, thị xã, phường thì không đồng bộ, thiếu các phòng chức năng, biên chế quá ít, ở huyện thị không có phòng thuỷ sản để chỉ đạo. Đội ngũ cán bộ nhất là cán bộ quản lý chuyên ngành thiếu và yếu chưa theo kịp với sự phát triển
Chương Ba
Xây dựng kế hoạch 5 năm phát triển
ngành thuỷ sản Thanh Hoá thời kỳ 2001- 2005
I/ Những căn cứ để xây dựng kế hoạch 5 năm phát triển ngành thủy sản Thanh Hoá.
1. Những cơ hội và thách thức cho phát triển ngành thuỷ sản Thanh hoá thời kỳ 2001- 2005.
1.1. Những cơ hội cho phát triển thuỷ sản Thanh hoá:
a) Nhu cầu tiêu dùng thuỷ sản trên thế giới.
Sự bùng nổ dân số thế giới với tốc độ tăng dân số trên phạm vi toàn cầu tăng nhanh hơn tốc dộ tăng sản xuất lương thực. Thực phẩm hậu quả của quá trình công nhiệp hoá, đô thị hoá ngày càng làm thu hẹp đất canh tác trong nông nghiệp, thêm vào đó là sự diễn biến khá phức tạp bất lợi của thiên nhiên, ảnh hưởng xấu của công nghiệp tới môi trường sản xuất nông nghiệp làm cho lương thực, thực phẩm luôn luôn là mặt hàng chiến lược trên thị trường thế giới. Do đó quá trình trao đổi luôn luôn bán hàng hoá lương thực, thực phẩm trên phạm vi toàn cầu ngày càng rộng rãi. Trong điều kiện đó sản phẩm thuỷ sản ngày càng chiếm vị trí quan trọng để giải quyết nguồn dinh dưỡng cung cấp thực phẩm cho nhân loại, phạm vi và khối lượng giao lưu của các mặt hàng trên toàn thế giới ngày càng tăng và sẽ tiếp tục tăng với mọi sự đa dạng của nó. Như vậy, phát triển sản xuất thuỷ sản ở những nước những nơi có điều kiện không chỉ còn đơn thuần đòi hỏi cấp bách và lâu dài cho việc giải quyết thực phẩm tại chỗ, giải quyết việc làm, không đơn thuần mang ý nghĩa nhân đạo nữa. Ngành sản xuất này đang và đầy hứa hẹn trở thành ngành sản xuất kinh doanh có lãi cao với xu thế ổn định lâu dài trên thị trường quốc tế. Đó điều kiện quan trọng bậc nhất, có tính quyết định, kích thích cho sự ra đời và phát triển của sản xuất kinh doanh hàng hoá lời.
b) Nhu cầu tiêu dùng thuỷ sản trong nước.
Thực phẩm từ thuỷ sản đã và đang càng chiếm vị trí quan trọng trong nhu cầu thực phẩm của thế giới nói chung và của nhân dân ta nói riêng. Dân ta có truyền thống ăn các sản phẩm thuỷ sản từ lâu đời. Lượng đạm nguồn gốc động vật do thuỷ sản cung cấp hiện nay chiếm khoảng 1/3 lượng đạm thực vật trong cả nước.
Nếu tính riêng về nhu cầu đạm động vật nhiều nước Châu á cũng như Châu Âu đã chứng minh có thể đưa đạm thuỷ sản lên tới trên 50% nhu cầu khẩu phần đạm trong bữa ăn tối ưu.
Giả sử để đạt mức 2100 calo/ người/ ngày, quy ra cả thực phẩm toàn phần là 25kg/người/năm, yêu cầu này là rất cao chúng ta không thể thoả mãn được vì khả năng khai thác của chúng ta còn rất kém.
Tuy vậy, sản xuất thực phẩm từ thuỷ sản ở nước ta có điều kiện thuận lợi và chí phí thấp hơn nhiều so với giá trị một lượng đạm tương đương khác, do đó giá bán sẽ rẻ tương đối so với các sản phẩm thay thế. Trong trường hợp thu nhập thực tế của người dân ở mức thấp như Việt Nam thì hàng hoá thực phẩm vẫn có sức cạnh tranh với sản phẩm thay thế từ các nguồn sản xuất khác.
c) Chính sách ưu tiên phát triển của Nhà nước.
Nhận thức được tiềm năng và lợi thế của ngành mà Đảng và Nhà nước ta đã xác định ngành thuỷ sản là 1 trong những ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước, đặc biệt là ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Đó chính là những cơ hội để cho những ngành có thể được hưởng những chính sách ưu đãi của Nhà nước như chính sách thuế, chính sách xuất khẩu .... để có thể thúc đẩy ngành thuỷ sản Thanh Hoá nói riêng và Việt Nam nói chung phát triển xứng đáng với tiềm năng của nó.
d) Quá trình hội nhập khu vực và thế giới.
Chính sách mở cửa hội nhập của nước ta tạo điều kiện rất thuận lợi cho các doanh nghiệp trao đổi hàng hoá giữa các nước với nhau. Việt Nam tham gia các tổ chức quốc tế và khu vực ASEAN. APEC. WB, ký hiệp ước thương mại Việt Mỹ và tiếp tới tham gia WTO là những cơ hội to lớn cho ngành thuỷ sản mở rộng thị trường sang Mỹ , EU ... là những thị trường xuất khẩu khó tính. Đó cũng là điều kiện tốt cho hàng thuỷ sản nước ta cạnh tranh được với sản phẩm của các nước khác.
1.2. Những thách thức đối với phát triển thuỷ sản Thanh hoá.
Mặc dù ngành thuỷ sản Việt Nam gần đây đã có thị trường rộng lớn trên khắp thế giới. Tuy nhiên cạnh tranh của ngành chưa do việc thiếu vốn nghiêm trọng, nhất là vốn lưu động và vốn đầu tư chiều sâu đổi mới công nghệ nên các sản phẩm thuỷ sản của Việt Nam ít có hàm lượng công nghệ cao. Chủ yếu coi là sơ chế.
Thêm vào đó với trình độ công nghệ hiện có các Xí nghiệp chế biến đã có nhiều cố gắng nhằm đa dạng hoá mặt hàng song cơ cấu sản phẩm đơn điệu so với nhu cầu thị trường thế giới ( chủ yếu vẫn là mặt hàng đông lạnh chiếm 87 - 89% về sản lượng và 78 - 82% về giá trị ). Do vậy chưa tạo được thế chủ động về thị trường. Phần lớn sản phẩm sản xuất cho Nhật Bản, các thị trường tái chế trong khu vực, tỷ trọng xuất sang các thị trường thu nhập cao ( Tây Âu, Bắc Mỹ, Oxtralia....) còn thấp. Chỗ đứng và uy tín của hàng thuỷ sản Việt Nam trên thị trường thế giới còn chưa đủ vững chắc.
Trong khi đó, các nước nhập khẩu lại có chính sách nhất quán chỉ khuyến khích mua nguyên liệu thuỷ sản, hạn chế đối với sản phẩm chế biến, sản phẩm có giá trị gia tăng và đánh thuế nhập khẩu cao.
Đứng trước những thách thức đó sản phẩm thuỷ sản Việt Nam muốn gia tăng tỷ trọng vào thị trường có thu nhập cao thì trước hết ngành chế biến phải có những bước đổi mới căn bản để cho chất lượng hàng thuỷ sản ngày càng được nâng cao đáp ứng được yêu cầu của các thị trường đó.
2. Những thuận lợi và khó khăn đối với ngành thuỷ sản Thanh hoá.
2.1. Những thuận lợi cho phát triển thuỷ sản thanh hoá:
- Nguồn lợi và tiềm năng kinh tế biển Thanh Hoá còn rất lớn.
- Tình hình kinh tế của xã hội cả nước nói chung đạt được những thành tựu khả quan. Các lĩnh vực nghề cá không ngừng được đầu tư phát triển và đang phát huy hiệu quả.
- Đảng và Nhà nước có nhiều cơ chế, chính sách, nhiều chủ trương và chương trình lớn về phát triển kinh tế thuỷ sản những năm tới.
- Những bài học kinh nghiệm về lãnh đạo chỉ đạo thực hiện rút ra từ thời kỳ 1996 - 2000.
2.2. Những khó khăn cho phát triển thuỷ sản Thanh hoá
- Lực lượng lao động nghề cá tuy nhiều nhưng năng lực quản lý điều hành trình độ quản lý còn hạn chế.
- Tư tưởng trông chờ, ỉ lại Nhà nước còn nặng nề.
- Công tác điều tra nguồn lợi, dự báo ngư trường, quy hoạch các vùng bảo tồn sinh thái, công tác bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản và môi trường là những khó khăn trong kỳ kế hoạch.
- Việc đầu tư phát triển ngành một cách đồng bộ hiện đại đòi hỏi nhiều về vốn trong khi khả năng đáp ứng hạn chế.
- Sự cạnh tranh trên thị trường hàng hoá thuỷ sản trong nước cũng như thế giới ngày càng gay gắt và quyết liệt.
- Tình hình thời tiết, khí hậu diễn biến phức tạp, thất thường.
3. Các chủ trương, chính sách làm cơ sở xây dựng kế hoạch 5 năm phát triển ngành thuỷ sản Thanh Hoá.
- Quyết định 251/1998/QĐ-TTg ngày 25 tháng 12 năm 1998 của Thủ tướng Chính phủ " về việc phê duyệt chương trình phát triển xuất khẩu thuỷ sản đến năm 2005 ".
Mục tiêu là đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đaị hoá ngành sản xuất, đưa kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản tăng nhanh đạt 1,1 tỷ USD vào năm 2000 và 2 tỷ USD vào năm 2005; đưa kinh tế thuỷ sản phát triển thanh ngành mũi nhọn trong nền kinh tế đất nước, tạo thêm nhiều việc làm, góp phần nâng cao đời sống nhân dân, cải thiện bộ mặt nông thôn và ven biển, đồng thời góp phần giải quyết các vấn đề về môi trường sinh thái.
Quyết định 224/1998/QĐ-TTg ngày 8 tháng 12 năm 1997 của Chính phủ "về việc phê duyệt chương trình phát triển nuôi trồng thuỷ sản thời kỳ 1999-2010".
Mục tiêu phát triển nuôi trồng thuỷ sản nhằm bảo đảm an ninh lương thực và tạo nguồn nguyên liệu chủ yếu cho xuất khẩu. Phấn đấu đến 2010 tổng sản lượng nuôi trồng thuỷ sản đạt trên 2 triệu tấn, giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt 2,5 tỷ USD, tạo việc làm và thu nhập cho 2 triệu người, góp phần tích cực vào phát triển kinh tế xã hội đất nước và an ninh ven biển.
Mục tiêu cụ thể của chương trình nuôi trồng thuỷ sản đến năm 2010 là nuôi tôm sú đạt 260 nghìn ha (trong đó 60 nghìn ha nuôi công nghiệp, 100 nghìn ha nuôi bán thâm canh), 100 nghìn ha nuôi theo mô hình cân bằng sinh thái, nuôi luân canh, xen canh.
- Quyết định 393/TTg ngày 9 tháng 6 năm 1997 của Chính phủ ban hành quy chế quản lý và sử dụng vốn tín dụng đầu tư theo kế hoạch Nhà nước cho các dự án đóng mới, cải hoán tàu đánh bắt và tàu dịch vụ đánh bắt hải sản xa bờ.
II. Kế hoạch 5 năm phát triển ngành thuỷ sản tỉnh Thanh Hoá thời kỳ 2001-2005.
1. Những định hướng cho việc xây dựng kế hoạch phát triển ngành thuỷ sản Thanh Hoá thời kỳ 2001-2005.
1.1. Quan điểm phát triển ngành thuỷ sản ở Việt Nam.
Đẩy mạnh Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá ngành thuỷ sản. Thực hiện chuyển đổi mạnh mẽ cơ cấu kinh tế, bảo đảm tăng trưởng ổn định bền vững đến năm 2005 đạt tổng sản lượng thuỷ sản 245 triệu tấn và kim ngạch xuất khẩu 2,5 tỷ USD đến 2,7 tỷ USD. Nâng cao vai trò khoa học công nghệ, tạo động lực cho sự phát triển, đẩy mạnh hợp tác quốc tế để thu hút thêm nguồn vốn, tiếp thu công nghệ mới, đẩy mạnh quá trình hội nhập và góp phần đào tạo nguồn nhân lực cho phát triển. Thu hút các thành phần kinh tế vào đầu tư phát triển thuỷ sản, tiếp tục phát triển mạnh kinh tế hộ gần với tổ chức các hình thức hợp tác phù hợp. Thực hiện xoá đói giảm nghèo và giải quyết các vấn đề kinh tế xã hội vùng nông thôn ven biển. Tăng cường năng lực thể chế, bộ máy tổ chức và cán bộ, cải tiến các thủ tục hành chính, tạo điều kiện sản xuất và kinh doanh phát triển mạnh mẽ.
1.2. Phương hướng phát triển ngành thuỷ sản Thanh Hoá thời kỳ 2001-2005.
Nhận thức được tầm quan trọng của phát triển ngành thuỷ sản đối với phát triển kinh tế xã hội đất nước, Đảng và Nhà nước ta trong phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2001-2005 đã xác định hướng phát triển ngành thuỷ sản như sau: “phát triển khai thác hải sản xa bờ và điều chỉnh nghề cá ven bờ hợp lý. Đầu tư phát triển mạnh ngành nuôi trồng thuỷ sản, xây dựng vùng nuôi trồng tập trung, gắn với phát triển công nghiệp chế biến chất lượng cao; đẩy mạnh nuôi tôm xuất khẩu theo phương thức tiến bộ, bảo vệ môi trường. Xây dựng đồng bộ công nghiệp khai thác cả về đội tàu, cảng, bến cá, đóng và sửa tàu thuyền, dệt lưới, dịch vụ hậu cần, an toàn trên biển. Phấn đấu đạt sản lượng thuỷ sản năm 2005 vào khoảng 2,4 triệu tấn, giá trị xuất khẩu thuỷ sản khoảng 2,5 tỷ USD”.
Căn cứ vào định hướng phát triển ngành thuỷ sản trong cả nước, dựa vào tiềm năng thuỷ sản của tỉnh, ngành thuỷ sản cần có hướng phát triển ngành theo những định hướng cụ thể như sau:
- Phát huy tiềm năng và thế mạnh của biển, các vùng nước ngọt, lợ, tiềm lực lao động, khả năng hợp tác quốc tế, kết hợp liên ngành nông lâm, thuỷ lợi, du lịch v.v.... để phát triển sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường, dưới sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đưa thuỷ sản thành ngành kinh tế mũi nhọn góp phần Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá nước nhà.
- Sắp xếp lại nghề nghiệp khai thác ven bờ, chuyển mạnh cơ cấu sang khai thác xa bờ, xây dựng các mô hình sản xuất có tính hợp tác và trình độ công nghệ cao đối với vùng xa bờ. Tăng cường công tác bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản. Phát triển mạnh muôi trồng thuỷ sản làm thay đổi cơ cấu nông thôn vùng ven biển, bảo vệ môi trường duy trì cân bằng sinh thái ở những vùng nuôi, khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường nuôi, đồng thời có biện pháp phòng ngừa hữu hiệu dịch bệnh phát sinh.
Phát triển nuôi trồng thuỷ sản theo hướng phát triển bền vững, gắn với bảo vệ môi trường sinh thái; bảo đảm sản xuất và ổn định đời sống nhân dân.
Nuôi trồng thuỷ sản phải từng bước hiện đại hoá, phát triển theo hướng nuôi công nghiệp là chính, kết hợp với phương pháp nuôi khác phù hợp với điều kiện từng vùng.
Hướng mạnh vào phát triển nuôi trồng thuỷ sản nước lợ và nuôi biển, đồng thời phát triển nuôi nước ngọt.
Tạo chuyển biến mạnh mẽ trong nuôi tôm xuất khẩu, đồng thời chú trọng nuôi trồng thuỷ sản khác phục vụ cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học công nghệ tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong việc sử dụng và ứng dụng những thành tựu khoa học công nghệ trong cả nước, kinh doanh và quản lý nâng cao hàm lượng khoa học công nghệ trong sản phẩm cũng như trong các quyết định quản lý, thực hiện thành công 3 chương trình kinh tế ngành.
Tập trung xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của ngành, ưu tiên đầu tư vào các yêu cầu hiện đại về quản lý nghề cá. Tăng cường đầu tư và đổi mới một cách cơ bản công tác đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ chuyên môn kỹ thuật giỏi và những người lao động nghề cá giỏi. Đổi mới cơ chế đào tạo thi tuyển, bồi dưỡng sử dụng cán bộ. Tích cực tinh giảm biên chế, xây dựng đội ngũ cán bộ công chức năng lực, hiệu quả đáp ứng yêu cầu giai đoạn mới.
Bảo đảm an toàn sản xuất và tham gia tích cực công tác quốc phòng và bảo vệ an ninh vùng biển.
2. Kế hoạch khai thác hải sản thời kỳ 2001- 2005.
2.1. Dự kiến phát triển khai thác đến năm 2005.
* Cơ cấu sản lượng khai thác.
Đến năm 2005 đại sản lượng khai thác 51.000 tấn tăng 12.000 tấn so với năm 2001 ( 39.000 tấn ), với tốc độ tăng trưởng 11%. Trong đó sản lượng đánh bắt xa bờ tăng 6.000 tấn năm 2001 lên 10.000 tấn năm 2005, bình quân thời kỳ 2001 - 2005 là 7.700 tấn hải sản xa bờ so với 2.000 tấn thời kỳ 1996 - 2000. Giá trị sản xuất do đánh bắt hải sản năm 2001 là 140 tỷ đồng, chiếm 30,4% giá trị sản xuất và năm 2005 là 300 tỷ đồng chiếm 46% tổng giá trị sản xuất. Như vậy cơ cấu sản lượng đánh bắt hải sản có sự dịch chuyển theo hướng đánh bắt xa bờ là chính, hạn chế đánh bắt ở gần bờ.
* Cơ cấu đội tàu đánh bắt.
Xây dựng đội tàu đánh bắt xa bờ có công xuất từ 90 CV trở lên, phấn đấu đến năm 2005 đạt 100 chiếc từ 90 - 150 CV và 160 chiếc có công xuất từ 150 CV trở lên vươn ra đánh bắt xa bờ. Nâng cao tổng số tàu thuyền máy từ 3.800 chiếc năm 2001 lên 4.000 chiếc năm 2005 và tổng công xuất là 8.500 CV năm 2005
.
Biểu17: Dự kiến xây dựng kế hoạch khai thác hải sản năm 2001-2005.
Chỉ tiêu
ĐVT
2000
2001
2002
2003
2004
2005
1- Sản lượng khai thác
tấn
36000
39.000
42.000
45.000
48.000
51.000
- Sản lượng đánh bắt xa bờ
"
3600
6.000
6.500
7.500
8.500
10.000
Trong đó:
+ Cá
"
30600
33.000
35.400
37.600
39.800
42.100
+ Tôm
"
1400
2.000
2.200
2.500
2.800
3.100
+ SL nghêu, sò, điệp
"
4000
4.000
4.400
4.900
5.400
5.800
- Tỷ lệ sản phẩm cho XK
%
11,8
15
15
15
15
15
2- Phương tiện đánh bắt
* Tổng số tàu thuyền
chiếc
4050
4.150
4.150
4.170
4.220
4.300
- Công xuất
CV
54000
65.000
70.000
75.000
80.000
85.000
Số lượng thuyền máy
chiếc
3640
3.800
3.850
3.870
3.920
4.000
- Số lượng thuyền thủ công
"
410
350
300
300
300
300
* Phân loại tàu thuyền máy
"
3.800
3.850
3.870
3.920
4.000
- Dưới 20 CV
"
2790
2.620
2.505
2.360
2.140
1.940
- Từ 21 - 45 CV
"
600
800
900
1.000
1.200
1.400
- Từ 46 - 90 CV
"
70
200
250
300
350
400
- Từ 90 - 150 CV
"
40
60
70
80
90
100
- Từ 150 CV trở lên
"
140
120
125
130
140
160
Nguồn: Sở thuỷ sản thanh hoá
2.2. Các biện pháp để đạt mục tiêu kế hoạch.
* Đối với khai thác hải sản xa bờ: Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo hướng dẫn quản lý của ngành trên tất cả các mặt từ trình độ kỹ thuật, tổ chức quản lý điều hành sản xuất, kiện toàn hợp tác xã và tổ hợp có dự án đầu tư 1996 - 1999. Đảm bảo có hiệu quả hoạt động, trả nợ cho Nhà nước đầy đủ.
Tiếp tục đầu tư phát triển tàu khai thác hải sản xa bờ một cách đồng bộ, có chọn lọc, loại nghề có hiệu quả và chủ dự án đủ năng lực quản lý sản xuất. Bên cạnh đó phải tiến hành đào tạo đội ngũ thuyền trưởng có đủ trình độ ở xa khơi, trang bị công cụ, dụng cụ đánh bắt đầy đủ, hiện đại phù hợp với công xuất của tàu. Đồng thời phải có sự nghiên cứu điều tra , dự báo ngư trường để xác định được trữ lượng hải sản.
* Khai thác hải sản gần bờ: ( vùng dở lộng, dở khơi ).
Sắp xếp bố trí chuyển đổi cơ cấu nghề nghiệp, cải tiến phương tiện hiện có theo hướng khai thác hiệu quả gắn với kết quả điều tra quy hoạch, với bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản và bảo đảm an toàn trên biển. Huy động nhiều nguồn vốn để đóng góp mới vào cải hoán tàu thuyền, phấn đấu hàng năm có 50 tầu đánh bắt vùng dở khơi, dở lộng ( công xuất từ 45 - 90 CV trở lên để thay thế dần thuyền nghề nhỏ ven bờ.
* Đẩy nhanh tiến độ xây dựng các cảng cá, biển cá, các khu dịch vụ hậu cần nghề cá tại:
- Cảng cá Lạch Hới ( giai đoạn II ).
- Xây dựng trung tâm nghề cá Lạch Trường.
- Bến cá nhân dân Lạch Ghép.
- 3 Khu trú bão tàu thuyền ( Hậu Lộc, Tĩnh Gia, Sầm Sơn ).
3. Kế hoạch nuôi trồng thuỷ sản thời kỳ 2001- 2005:
Biểu 18: Dự kiến kế hoạch nuôi trồng thuỷ sản 2001 - 2005
Chỉ tiêu
ĐVT
2000
2001
2002
2003
2004
2005
1- Sản lượng NTTS
tấn
12500
12.600
13.500
14.700
16.500
18.900
Nước ngọt
"
6500
6.600
6.700
6.900
7.200
7.600
Nước mặn, lợ
"
6000
6.000
6.800
7.800
9.300
11.300
- Cá
"
7.938
8.407
9.107
10.220
11.740
- Tôm
"
667
800
1.000
1.400
2.000
- Thủy sản khác
2- Diện tích nuôi trồng
ha
15000
15.100
15.380
15.600
16.500
16.500
- Nước lợ, mặn
ha
6500
6.600
6.880
7.100
8.000
8.000
- Nước ngọt
ha
8500
8.500
8.500
8.500
8.500
8.500
Nguồn: Sở thuỷ sản thanh hoá
3.1. Nuôi trồng thuỷ sản mặn, lợ.
Trong 5 năm tới lấy nuôi tôm công nghiệp làm đột phá để tăng tốc độ tăng trưởng của ngành thuỷ sản theo hướng Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá, nhằm thay đổi cơ cấu kinh tế vùng nông thôn ven biển tỉnh nhà. Kế hoạch nội dung cần phải triển khai thực hiện là:
Khẩn trương tập trung quy hoạch đồng bộ để xây dựng các vùng nuôi tôm công nghiệp ( vùng trung cao triều ) và chương trình 773 ở các huyện thị ven biển phấn đấu đến năm 2005 toàn ngành đạt 1.500 - 2000 ha đủ điều kiện nuôi tôm sú thâm canh năng suất từ 2 - 4 tấn 1ha/vụ ( gồm Tĩnh Gia: 400ha, Quảng Xương: 350 ha, Sầm Sơn: 100 ha, Hoằng Hoá: 500 ha, Hậu Lộc: 400 ha, Nga Sơn: 100 ha, Nông Cống: 50 ha ).
Đầu tư cải tạo, nâng cấp ao đầm cũ vùng hạ tiêu đủ điều kiện để nuôi quảng canh cải tiến và bán thâm canh đạt năng suất 3 - 3,5 tấn/ha/vụ. Phấn đấu đến năm 2005 đạt 1.500 ha.
- Xây dựng mới từ 10 - 20 trại giống mi ni công xuất 5 triệu con/năm, khuyến khích các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh tham gia.
- Cải tạo nâng cấp 3 trại giống tôm của ngành đến năm 2005 đạt 100 triệu con/năm, xây dựng 3 cơ sở ương tôm giống tại các vùng có nhu cầu nuôi tôm lớn.
- Hình thành mạng lưới cung cấp giống tôm từ miền trung ra với chất lượng tốt không bệnh tật.
- Đầu tư mới 2 xưởng sản xuất thức ăn cho tôm công xuất 1tấn/ ngày/ xưởng ( tại Hoằng Hoá và Quảng Xương ),
- Mở rộng phát triển nuôi các loại hải đặc sản.
+ Nuôi ngao: Diện tích tăng từ 600ha ( 2001) lên 1.000 ha năm 2005.
+ Nuôi rau câu và các loại hải sản lồng trên biển.
3.2. Nuôi nước ngọt.
- Duy trì ổn định sản xuất giống và nuôi các loại cá truyền thống. Cần du nhập các loại giống mới có giá trị kinh tế cao là nguyên liệu cho xuất khẩu như tôm càng xanh, cá chim trắng.
- Đầu tư nâng cấp các trại cá giống ( Hậu Lộc, Thiệu Hoá, Cẩm Thuỷ ) đủ sức giữ gen đàn cá giống gốc và sản xuất đạt từ 200 - 300 triệu cá bột/năm. ưu tiên phát triển nuôi ở vùng trung Đảng uỷ miền núi của tỉnh.
Khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia trên nguyên tắc đảm bảo chủng loại và chất lượng giống.
4. Kế hoạch phát triển chế biến sản phẩm thuỷ sản:
Phát triển ngành chế biến thuỷ sản sao cho sử dụng được tốt để sản lượng đánh bắt và nuôi trồng vào sản xuất thực phẩm trực tiếp, gián tiếp và hàng xuất khẩu, sản phẩm chế biến phải phù hợp với sức mua của từng giai đoạn, thuận tiện trong lưu thông và đáp ứng được thị hiếu của người tiêu dùng trong và ngoài nước. Phát triển nhanh ngành chế biến hiện đại để xây dựng công nghiệp chế biến các sản phẩm công nghiệp với hàm lượng kỹ thuật cao từ nguồn nguyên liệu thuỷ sản.
Biểu19: Dự kiến các chỉ tiêu chế biến sản phẩm
Chỉ tiêu
ĐV
2000
2001
2002
2003
2004
2005
1. Chế biến xuất khẩu
tấn
8.910
9.870
11.900
15.000
18.600
- Tôm đông lạnh
- Cá đông lạnh
- Mực đông lạnh
- Cá đá
- Hải sản đông lạnh khác
- Tôm khô
- Mực khô
- Cá khô các loại
- Hải sản khô các loại
tấn
"
"
"
"
"
"
"
"
450
70
350
5000
350
70
600
150
200
800
300
350
6.000
250
100
650
180
280
1.000
350
400
6.500
300
120
700
200
300
1.700
400
450
7.500
350
150
750
250
350
2.200
500
600
9.650
500
200
850
300
400
2.800
600
700
11.750
600
250
1.000
400
500
2. Chế biến nội địa
1000 l
- Nước mắm
- Mắm các loại
- Khô các loại
- Bột cá
- Thức ăn cho tôm
"
tấn
"
"
"
8500
4500
1800
9.000
4.800
2.000
100
150
9.500
5.500
2.400
200
380
10.000
6.200
2.800
500
600
10.500
7.000
3.300
1.800
1.000
11.000
8.000
3.600
2.000
1.500
Nguồn: Sở thuỷ sản thanh hoá
4.1. Chế biến nội địa :
Sản phẩm cho tiêu dùng trong nước gồm các mặt hàng : Cá ăn tươi, cá Đông, các loại sản phẩm phân ra (nước mắm, mắm các loại ) các chế phẩm thuỷ sản ở dạng khô và nhão, các loại sản phẩm khô, thức ăn chín, bột cá chăn nuôi. Phấn đấu đến năm 2005 chế biến được 11.000 (1.000 lít) nước mắm, 8.000 tấn mắm các loại, 2.000 tấn bột cá, 1.500 tấn thức ăn cho tôm.
Để đạt được mục tiêu chế biến trên cần phải nâng cấp, cải tạo các cơ sở chế biến ở địa phương, cổ phần hoá các Xí nghiệp chế biến của Nhà nước. Đồng thời phát huy hiệu quả, tăng cường các cơ sở chế biến của các hộ gia đình, hợp tác xã theo hướng truyền thống để tận dụng được kinh nghiệm chế biến truyền thống của nhân dân lao động ven biển. Tuy nhiên cần phải có sự thống nhất kết hợp giữa khai thác, chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Nhà nước phải hỗ trợ tìm kiếm thị trường tiêu thụ cho người dân.
- Tăng cường chế biến sản phẩm thô để cung cấp cho các nhà máy chế biến xuất khẩu.
- Phải có bước đột phá về sản xuất bột cá chăn nuôi để đáp ứng nhu cầu chăn nuôi gia xúc, gia cầm.
4.2. Chế biến xuất khẩu :
Lấy chế biến xuất khẩu làm mũi nhọn để đầu tư công nghệ mới vào sản phẩm có giá trị trên thị trường quốc tế. Khuyến khích mọi thành phần có giá trị kinh tế tham gia chế biến (kể cả chế biến công nghiệp ) để đa dạng hoá mặt hàng và nâng cao chất lượng sản phẩm. Từng bước đổi mới công nghiệp chế biến bằng hình thức liên doanh liên kết tạo thị trường ổn định. Đặc biệt ưu tiên cho các sản phẩm cao cấp đạt tiêu chuẩn vào các siêu thị.
Trước mắt đầu tư chiều sâu cho 2 xí nghiệp : Đông lạnh, Thuỷ sản xuất khẩu Hoàng Trường và Mật Sơn, từng bước đưa 2 xí nghiệp này đảm nhận lớn các sản phẩm chế biến xuất khẩu ở Thanh Hoá và một phần tiêu thụ nội địa.
Phải coi các vùng nguyên liệu là một bộ phận (tế bào ) của các nhà máy chế biến xuất khẩu này.
- Xây dựng thêm 1 số cơ sở sản xuất đá ở Lạch Hới, Quảng Nam, Hậu Lộc, Nga Sơn, Tĩnh Gia, Đảo Mê với công xuất 15 - 30 tấn/ ngày.
- Xây dựng 2 phân xưởng chế biến thuỷ sản xuất khẩu công xuất 1 - 2 tấn/ngày ở Lạch Hới và Lạch Bạng.
- Xây dựng mới nhà máy chế biến thỷ sản xuất khẩu. Tại Tính Gia với thiết bị công nghệ hiện đại, sản phẩm chất lượng cao, làm đầu mối để xuất khẩu trực tiếp.
Phấn đấu đến năm 2001 đạt 6.000 triệu USD xuất khẩu trực tiếp và 14.000 triệu USD vào năm 2005.
5. Kế hoạch tiêu thụ và mở rộng thị trường.
5.1. Dự báo thị trường thuỷ sản thời kỳ 2001 - 2005 :
5.1.1. Thị trường thuỷ sản thế giới :
Nhu cầu tiêu thụ sản phẩm của tất cả các quốc gia đã và đang tăng mạnh, kéo theo việc tăng khả năng chu chuyển hàng hoá thuỷ sản trên quy mô lớn. Trong thập niên qua, kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản thế giới tăng bình quân 25%/năm, nhập khẩu tăng 26,6%/năm năm 1950 lên trên 50%/năm vào đầu những năm 90.
Từ nay đến năm 2010 cho thành quả của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật sẽ có nhiều thay đổi trong công nghệ sản xuất thuỷ sản, tuy nhiên theo dự báo về cơ bản cơ cấu mặt hàng thuỷ sản sẽ không thay đổi so với hiện nay. Yêu cầu về chất lượng ngày càng cao, xu thế sử dụng thuỷ sản tươi sống và hàng đông lạnh sẽ phát triển với mức độ cao.
Các sản phẩm thuỷ sản chủ yếu bao gồm 4 nhóm mặt hàng chính.
+ Giáp xác và nhuyển thể đông lạnh : Nhu cầu có thể tăng với mức độ 20 - 22%/năm.
+ Cá sống, tươi, đông lạnh : Nhu cầu sẽ tiếp tục duy trì mức tăng 25 - 30%/năm.
+ Cá hộp chủ yếu là cá ngừ : Nhu cầu sẽ tiếp tục tăng ở mức 15 - 25%/năm.
+ Đồ hộp giáp xác và chuyển thể, thực phẩm phối chế đẩy mạnh với mức 20 - 25%/năm.
Các thị trường thuỷ sản chính vẫn là Nhật Bản, Châu Âu, Bắc Mỹ và Đông Nam á, nhưng sẽ có sự phân công mới và thế cân bằng mới giữa các thị trường này... Do chuyển dịch cơ cấu kinh thế, các nước thuộc thị trường này không nới lỏng dần các biện pháp hạn chế nhập sản phẩm giá trị gia tăng từ các nước đang phát triển.
5.1.2. Thị trường thuỷ sản trong nước :
Do đã tiếp cận và hội nhập với khu vực và thế giới, thị trường trong nước sẽ chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi các thị trường nước ngoài các loại nguyên liệu có thể xuất khẩu ngày càng đa dạng về chủng loại về cơ cấu sản phẩm cá tươi, cá ướp đá, thuỷ sản đông lạnh và sống vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tiêu dùng nội địa. Các sản phẩm chế biến sẵn theo phương thức công nghiệp ngày càng có nhu cầu lớn, sẽ được sử dụng phổ biến sau năm 2000. Do du lịch phát triển nhu cầu xuất khẩu tại chỗ sẽ tăng, mức giá các loại hàng thuỷ sản sẽ cao ngang với giá xuất khẩu. Thị trường vùng đô thị sẽ thay đổi lớn về chủng loại và yêu cầu chất lượng. Thị trường nông thôn miền núi và các khu công nghiệp chủ yếu vẫn tiêu thụ thuỷ sản tươi, đông lạnh, khô và mắm nhưng yêu cầu về chất lượng sẽ tăng. Một số mặt hàng truyền thống (cá khô, nước mắm loại thường ) sẽ có tỷ trọng giảm dần.
5.2. Các biện pháp nhằm tiêu thụ và mở rộng thị trường thuỷ sản ở Thanh Hoá.
Hình thành các trung tâm buôn bán, giao dịch hàng thuỷ hải sản qua đó có thể trao đổi thông tin về thị trường, các doanh nghiệp có điều kiện quảng cáo sản phẩm của mình. Tuy nhiên cần có sự trợ giúp của cơ quan Nhà nước trong việc tìm kiếm thông tin cung cấp cho thị trường.
- Các doanh nghiệp chế biến cần có sự hợp đồng, liên kết chặt chẽ với người khai thác và nuôi trồng thuỷ sản. Các công ty này có thế nên đầu tư tàu thuyền lớn để có thể vừa thu mua hải sản của tàu vừa cung cấp nhiên liệu dụng cụ cho tàu khai thác hải sản xa bờ ở ngoài khơi. Hoặc có thể đóng vai trò trung gian trong việc cung cấp giống. Thức ăn cho những người nuôi trồng thuỷ sản đổi lại họ sẽ được thu mua sản phẩm nuôi trồng theo giá cả thị trường.
- Nhà nước giúp đỡ, các doanh nghiệp nỗ lực cải tiến công nghệ theo hướng hiện đại đáp ứng theo các tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm của thế giới. Muốn vậy phải đầu tư đồng bộ từ khâu thu mua, tổ chức chế biến đến tiêu thụ.
- Nhà nước có chính sách ưu đãi cho những doanh nghiệp xuất khẩu về thuế, vốn đầu tư, thông tin...
6. Tổng hợp các chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch phát triển thuỷ sản:
Biểu 20 : Mục tiêu chủ yếu kế hoạch thời kỳ 2001- 2005
Chỉ tiêu
ĐVT
2001
2005
Tốc độ tăng trưởng bình quân
2001 - 2005%
So với (%)
1996 - 2000
1- Tổng sản lượng
tấn
51.600
69.000
11,0
145
Trong đó:
- Khai thác hải sản
tấn
39.000
51.000
10,0
141
- Nuôi mặn, lợ
tấn
6.000
11.300
12,0
205
- Nuôi nước ngọt
tấn
6.600
7.600
6,0
117
2- Chế biến xuất khẩu
tấn
8.910
18.600
12,5
268
- Tôm đông lạnh
tấn
800
2.800
13,5
600
3- Giá trị kim ngạch XK
tr USD
16.500
25.000
11,5
178
- Chính ngạch
tr USD
6.500
16.000
12,5
372
4- Nộp ngân sách Nhà nước
tr đ
2.200
3.200
10,0
153
5- Giải quyết việc làm
LĐ
43.000
50.000
8,0
120
6- Tổng vốn đầu tư
tr đ
109.500
267.000
12,0
356
Nguồn: Sở Kế hoạch - Đầu tư Thanh Hoá
Iii/ Các giải pháP thực hiện kế hoạch phát triển ngành thuỷ sản thanh hoá
1. Giải pháp huy động vốn cho phát triển ngành thuỷ sản Thanh Hoá thời kỳ 2001-2005.
Nhu cầu vốn cho phát triển ngành thuỷ sản trong thời gian tới cần một lượng rất lớn để đầu tư cho khai thác, nuôi trồng, chế biến hải sản. Để huy động được nguồn vốn đó cần có các giải pháp đồng bộ để có thể khai thác được nguồn vốn trong nước và thu hút được đầu tư nước ngoài.
Đối với nguồn vốn cho khai thác hải sản: Đây là nguồn vốn để đầu tư cho đóng mới và cải hoán tàu đánh bắt hải sản xa bờ đòi hỏi một lượng vốn lớn. Do đó cần huy động nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước, đặc biệt là vốn tín dụng ưu đãi của Nhà nước, vốn vay của ngân hàng kết hợp với nguồn vốn tự có của nhân dân. Để huy động được vốn này cần giảm bớt thủ tục hành chính rườm rà gây ảnh hưởng tới việc tiếp cận nguồn vốn, nâng cao trình độ thẩm định các dự án của các cán bộ tài chính để đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn. Bên cạnh đó phải cung cấp thông tin đầy đủ cho người dân tiếp cận được nguồn vốn nhưng cần chú ý là nguồn vốn vay được phải được người dân tiếp nhận và trực tiếp đầu tư để có thể tận dụng được năng lực sản xuất hiện có và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn, tránh tình trạng vốn vay chỉ qua ngân hàng đến các xí nghiệp đóng tàu và người vay vốn chỉ được tiếp nhận tàu đánh bắt. Thực trạng đó dẫn đến không khuyến khích ngư dân bỏ vốn vào đầu tư. Tuy nhiên, trong thời gian tới cần phải được đầu tư có trọng điểm tránh tình trạng đầu tư dàn trải, kém hiệu quả. Cần kiên quyết thu hồi những tàu khai thác thua lỗ thường xuyên không có khả năng hoàn trả nợ.
Đối với nguồn vốn cho nuôi trồng thuỷ sản: cần khuyến khích các hộ gia đình bỏ vốn đầu tư nuôi trồng thuỷ sản theo hướng kinh tế trang trại. Bên cạnh đó tạo điều kiện cho các hộ nuôi trồng thuỷ sản tiếp cận và vay được nguồn vốn ngân hàng để đảm bảo vốn cho việc mua giống và thức ăn phục vụ nuôi trồng. Muốn vậy các ngân hàng và tổ chức tín dụng cần có ưu đãi đặc biệt là khâu thế chấp, chấp nhận hộ nuôi trồng vay vốn lấy đất đai làm tài sản thế chấp.
Tuy nhiên để phát triển được nuôi trồng cần có đầu tư lớn và đồng bộ trong xây dựng cơ sở hạ tầng nuôi trồng thuỷ sản. Do đó phải huy động nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước là chủ yếu, đặc biệt là nguồn vốn ưu đãi từ chương trình nuôi trồng thuỷ sản để sử dụng vào việc xây dựng hệ thống kênh mương cấp thoát nước, hệ thống đê chắn ngăn mặn, máy bơm và chú trọng hơn vào xây dựng hạ tầng nuôi công nghiệp. Do đó cần có sự quy hoạch, lập dự án khả thi để trình lên cơ quan cấp trên làm điều kiện xin cấp ngân sách Nhà nước. Tích cực thu hút nguồn vốn ODA vào xây dựng hạ tâng nuôi trông thuỷ sản.
Trong chế biến thuỷ sản cần huy động vốn từ kênh trực tiếp đó là khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư xây dựng các nhà máy chế biến, đổi mới công nghệ, đặc biệt là thu hút nguồn vốn FDI đầu tư vào lĩnh vực chế biến thuỷ sản. Để làm được điều đó cần phải có chính sách thông thoáng, ưu tiên cho các doanh nghiệp chế biến về thuế, chính sách đất đai, chính sách xuất khẩu.
2. Giải pháp đổi mới công nghệ.
Từng bước đầu tư đổi mới đội tàu khai thác xa bờ, nâng cao công suất của tàu, trang bị các công cụ dụng cụ, phương tiện khai thác đồng bộ, hiện đại tương ứng với công suất của tàu, đồng thời nghiên cứu đổi mới hiện đại hoá, trang bị các cơ sở bảo quản, sơ chế ngay trên tàu đảm bảo cho tàu được bám biển lâu dài. Liên kết giữa các cơ sở nghiên cứu khoa học của ngành thuỷ sản như các viện, trường, trại để nghiên cứu dự báo nguồn lợi thuỷ sản, dự báo môi trường để hướng dẫn cho các tàu khai thác đảm bảo được hiệu quả cao.
Trong nuôi trồng thuỷ sản cần nghiên cứu quy hoạch vùng nuôi đảm bảo môi trường sinh thái, hướng việc đổi mới công nghệ vào áp dụng hình thức nuôi mới lấy nuôi công nghiệp là chính, chủ yếu sử dụng máy móc như máy bơm nước, máy đo ô xi, máy đo độ PH,... đảm bảo việc nuôi trồng chủ động trong nguồn nước làm tăng mật độ nuôi. áp dụng công nghệ nhân giống nhân tạo tiến tới chủ động cung cấp giống cho nuôi trồng, tiếp tục giữ gen đàn giống gốc, nghiên cứu công nghệ sinh học để tạo ra các loại giống lai có năng suất và chất lượng cao cung cấp cho nhu cầu giống của nhân dân. Đồng thời tăng cường công tác kiểm dịch để đảm bảo phát hiện nhanh dịch bệnh và có biện pháp để phòng chống dịch bệnh.
Thay thế dần công nghệ chế biến lạc hậu, chủ yếu là công nghệ đông lạnh (BLOCK) sang áp dụng công nghệ đông rời là công nghệ thế giới đang sử dụng vào bảo quản chế biến sản phẩm để đảm bảo chất lượng sản phẩm đủ sức xuất khẩu trực tiếp. Phấn đấu trong thời gian tới các sản phẩm chế biến đạt các tiêu chuẩn về vệ sinh thực phẩm của thế giới. Để đổi mới công nghệ thành công cần đầu tư thích đáng cho công tác nghiên cứu khoa học, có chế độ ưu đãi khuyến khích những người làm công tác khoa học. Đồng thời tạo điều kiện cho các cơ sở nghiên cứu, các doanh nghiệp tăng cường hợp tác quốc tế trong việc đào tạo, chuyển giao công nghệ, mở rộng liên doanh liên kết với các nước có trình độ khoa học công nghệ cao trong lĩnh vực thuỷ sản để tiếp thu kỹ thuật mơi.
3. Giải pháp đào tạo lao động cho phát triển ngành thuỷ sản Thanh Hoá.
Bổ sung tiếp nhận lực lượng cán bộ trẻ có trình độ về chuyên môn, ngoại ngữ, tin học. Đào tạo bổ túc kiến thức mới cho số cán bộ đã tốt nghiệp lâu năm. Hàng năm gửi đi học nâng cao về nghiệp vụ, chính trị cho cán bộ chủ chốt, cán bộ quản lý trong ngành.
Mở các lớp đào tạo thuyền trưởng, thuyền viên đảm bảo sử dụng công nghệ hiện đại cho vận hành tàu khai thác hải sản xa bờ.
Mở lớp tập huấn cho các chủ hộ nuôi trồng thuỷ sản để họ tiếp thu được kiến thức cơ bản về kỹ thuật nuôi, cách phát hiện và phòng chống dịch bệnh, tiếp cận dần đến phương thức nuôi công nghiệp.
Tăng cường đầu tư cho trường trung cấp thuỷ sản của tỉnh trong việc đào tạo lao động lạnh nghề cung cấp cho ngành thuỷ sản Thanh Hoá.
4. Giải pháp khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển ngành thuỷ sản.
Khuyến khích các hợp tác xã đầu tư khai thác hải sản xa bờ. Sự hình thành các hợp tác xã mới sẽ tạo điều kiện đảm bảo tàu khai thác xa bờ hoạt động hiệu quả hơn. Bởi lẽ thực tế là khai thác xa bờ muốn đạt hiệu quả tốt cần phải có sự hỗ trợ, hợp tác, liên kết giữa các chủ tàu với nhau trong các khâu đánh bắt, cung cấp dịch vụ hậu cần, bảo quản,... do đó mô hình hợp tác xã sẽ thích hợp cho việc liên kết giữa các đội tàu với nhau. Có thể hợp tác xã chỉ đảm nhận một số khâu trong quá trình sản xuất như khâu dịch vụ hậu cần: cung cấp dầu, thực phẩm, công cụ đánh bắt cho tàu bám biển dài ngày hay khâu bảo quản, chế biến, vận chuyển,... điều đó sẽ tạo điều kiện cho các tàu khai thác làm ăn tốt hơn. Tuy nhiên các hợp tác xã nghề cá phải đảm bảo nguyên tắc bình đẳng, tự nguyện, gắn lợi ích với trách nhiệm của các xã viên và hoạt động theo cơ chế thị trường. Đồng thời phải khuyến khích các công ty trách nhiệm hữu hạn đầu tư vào lĩnh vực khai thác hải sản xa bờ. Bên cạnh đó cần tận dụng những hộ gia đình có vốn ít, phương tiện nhỏ, tập trung khai thác gần bờ đảm bảo tăng thu nhập.
Phát triển nuôi trồng thuỷ sản theo mô hình kinh tế trang trại gia đình là chủ yếu, kết hợp với kinh tế tiểu chủ. Để làm được đòi hỏi Nhà nước và các địa phương có chính sách đất đai hợp lý để khuyến khích các hộ gia đình bỏ vốn, công sức để khai hoang, cải tạo các vùng ven biển thành các ao đầm nuôi trồng thuỷ sản. Nhưng để phát huy được các trang trại cần lấy thị trường là trung tâm, phát triển cơ cấu nuôi trồng hợp lý đảm bảo cung cấp sản phẩm phù hợp với nhu cầu thị trường, cần lựa chọn các loại hải sản nuôi trồng có giá trị cao như tôm sú, tôm he, tôm càng xanh, cua,... . Nên đầu tư trên cả hai vùng nước mặn lợ và nước ngọt.
Tiếp tục thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước làm ăn kém hiệu quả. Thực hiện các hình thức cho thuê, khoán, bán đối với các doanh nghiệp kinh doanh hiệu quả thấp. Khuyến khích các thành phần kinh tế khác tham gia vào lĩnh vực chế biến thuỷ sản như kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
5. Giải pháp cơ cấu lại và phát triển các lĩnh vực sản xuất nghề cá:
Nuôi trồng thuỷ sản : Song song với việc tiếp tục củng cố nghề nuôi thuỷ sản nước ngọt, nuôi cá lồng bể, cần tạo bước nhảy vọt trong cơ cấu nuôi trồng nước lợ và đặc biệt là trong nghề nuôi hải sản trên biển. Nhanh chóng xây dựng các mô hình nuôi chuyên canh tập trung năng suất cao với các đối tượng tôm sú, rong câu ... đồng thời đầu tư công nghệ sớm có các quy trình sản xuất giống để chủ động đối với các đối tượng hải sản có giá trị cao khác. Trong tương lai, sản lượng nuôi trồng sẽ vượt qua sản lượng khai thác và là nguồn nguyên liệu chủ yếu ổn định cho chế biến xuất khẩu.
Khai thác hải sản : Đổi mới mạnh mẽ cơ cấu tàu thuyền, nghề nghiệp, đối tượng khai thác để tiếp tục giữ vững và phát huy vị trí chủ lực của khai thác hải sản trong các lĩnh vực sản xuất thuỷ sản. Phát triển hợp lý, có hiệu quả khai thác xa bờ, tăng nhanh tỷ trọng sản lượng hải sản khai thác xa bờ trong tổng sản lượng khai thác. Điều chỉnh cơ cấu khai thác ven bờ, giảm dần sản lượng khai thác hải sản ven bờ xuống mức giới hạn cho phép để đảm bảo khả năng tái tạo, phát triển của nguồn lợi. Đi đôi với phát triển, chuyển đổi cơ cấu biển và hải đảo. Cần chuyển một lực lượng đáng kể từ khai thác sang nuôi trồng thuỷ sản và tổ chức xuất khẩu một bộ phận lao động đánh bắt sang các nước có nhu cầu lao động có nghề cá phát triển.
Chế biến thuỷ sản : Nâng cấp điều kiện sản xuất và đổi mới công nghệ trong các nhà máy chế biến thuỷ sản đông lạnh để sản xuất các sản phẩm có giá trị gia tăng có chất lượng có đáp ứng được đòi hỏi khắt khe của thị trường quốc tế theo tiêu chuẩn HACCP và GMP.
Đối với chế biến tiêu thụ . Bên cạnh việc duy trì và hiện đại hoá các ngành nghề và sản phẩm chế biến truyền thống thì phải đổi mới công nghệ, đổi mới cơ cấu sản phẩm để vừa bảo tồn, vừa thích nghi cuộc sống công nghệ hiện đại.
Đầu tư đồng bộ nâng cấp cơ sở hạ tầng dịch vụ nghề cá :
Đây là một giải phát cực kỳ quan trọng để phát triển nghề cá trong thời kỳ tới, không có được một hệ thống cơ sở hạ tầng dịch vụ hầu cần tương xứng, không thể phát triển được nghề cá công nghiệp hiện đại. Do đó nhất thiết phải quy hoạch lại hệ thống cơ sở hạ tầng và hậu cần dịch vụ hiện có bao gồm : Cầu cảng, bến cá, chợ cá, cơ sở sản xuất, dịch vụ cơ khí, lưới sợi, đóng sửa tàu thuyền, vui chơi, giải trí ... từ quy hoạch đó xây dựng kế hoạch đồng bộ, dứt điểm từng hạng mục, từng bến cá đưa vào khai thác sử dụng phục vụ cho khai thác xa bờ, cho các vùng nuôi tập trung, cho các cơ sở chế biến. Đồng thời việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng phải thống nhất quy hoạch xây dựng các tụ điểm, thị trấn, thị tứ, xây dựng các trung tâm nghề cá giàu đẹp.
6. Giải pháp liên kết giữa sản xuất và chế biến thuỷ sản.
Tiến tới xây dựng và phát triển quan hệ liên kết theo chiến lược sản phẩm và thị trương thống nhất giữa doanh nghiệp chế biến tiêu thụ với các nhà sản xuất nguyên liệu là một giải pháp vừa mang tính chiến lược tình thế, vừa mang tính chiến lược lâu dài. Việc liên kết nên thực hiện theo nhiều hình thức: quốc doanh cung cấp nhiên liệu, ngư lưới cụ cho ngư dân để mua lại thuỷ sản đưa vào chế biến. Liên doanh giữa các cấp hành chính tỉnh, huyện với các doanh nghiệp lớn như Seaprodex Hà Nội với các huyện Hâu Lộc, Tĩnh Gia bằng cách cung ứng vốn cho bà con nuôi tôm đổi lấy sản phẩm. Xí nghiệp liên hiệp Hải Phòng đầu tư tàu đánh cá cho ngư dân ở Quảng Nam Đà Nẵng. Hoặc như công ty Agifish An Giang đầu tư 50% vốn cho người nuôi cá bè.
Khi có nguyên liệu phải quy hoạch hệ thống chế biến đưa công suất chế biến lên 1.000 tấn sản phẩm/ngày vào năm 2000 và 1.500 tấn sản phẩm/ngày vào năm 2005. Như vậy các cơ sở chế biến đều được áp dụng hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến, bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm và chất lượng xuất khẩu. Tỷ trọng hàng có giá trị gia tăng hiện nay từ 25-30% có thể lên đến 40-45% vào năm 2005.
7. Bố trí xắp xếp lại hệ thống các đơn vị trong ngành theo hướng tinh giản đủ khả năng công tác và phát huy hiệu quả trong sản xuất kinh doanh.
- Khối hàng chính sự nghiệp :
+ Có cơ quan văn phòng sở : Thành lập phòng kỹ thuật.
+ Chi cục bảo vệ nguồn loại :
Năm 2001 - 2002 : Thành lập trạm BVNL thuỷ sản Lạch Trường.
Năm 2004 - 2005 : Thành lập trạm BVNL thuỷ sản Lạch Ghép.
+ Trung tâm khuyến ngư : Thành lập một trại thực nghiệm nước lợ.
+ Thành lập trung tâm kiểm tra chất lượng và vệ sinh thuỷ sản .
+ ở các huyện thị : Thành lập các phòng thuỷ sản .
- Khối doanh nghiệp :
+ Năm 2000 : Thực hiện cổ phần hoá Xí nghiệp tàu thuyền Tân Châu.
+ Chỉ đạo thực hiện theo nghị định 103/CP với 4 doanh nghiệp về bán, khoán, cho thuê (XN nuôi tôm xuất khẩu, XN nuôi trồng thuỷ sản Hoằng Hoá, Công ty Thuỷ sản Sầm Sơn, Công ty thuỷ sản Tĩnh Gia ).
+ Củng cố phát triển 4 doanh nghiệp : Công ty thuỷ sản Thanh Hoá, Công ty XNK thuỷ sản Thanh Hoá, Xí nghiệp đông lạnh XNK Hoằng Hoá, Công ty giống thuỷ sản Thanh Hoá.
Iv/ Một số kiến nghị nhằm thực hiện kế hoạch phát triển thuỷ sản thanh hoá:
- Bộ thuỷ sản, UBND tỉnh Thanh Hoá ưu tiên đầu tư cơ sở hạ tầng các dự án cho hậu cần như cảng cá, bến cá, nạo vét luồng lạch, khu trú bão tàu thuyền, phương tiện cứu hộ, cứu nạn ... bằng vốn ngân sách Nhà nước.
- UBND tỉnh chỉ đạo các tổ chức tín dụng cho các thành phần kinh tế nghề cá vay vốn với cơ chế, thủ tục thuận lợi, lãi xuất thấp, cho các hộ nghèo vay vốn sản xuất nhỏ không cần thế chấp.
- UBND tỉnh duy trì chính sách trợ giá sản xuất giống thuỷ sản và ưu tiên đầu tư cho các đề tài nghiên cứu triển khai trong lĩnh vực phát triển giống.
- Nhà nước có chính sách khuyến khích, hỗ trợ kinh phí đào tạo, bổ túc tay nghề cho con em ngư dân, đặc biệt là với lao động cho tàu cá xa bờ.
Nhà nước xây dựng các hình thức chợ, trung tâm buốn bán thuỷ sản ở các thành phố, thị trấn ven biển.
Đề nghị Nhà nước có chính sách hỗ trợ về giống và tìm cơ chế hỗ trợ rủi ro đối với các dự án nuôi trồng và đánh bắt hải sản.
Nhà nước thành lập Hiệp hội thuỷ sản Việt Nam để tập hợp các nhà sản xuất và kinh doanh thuỷ sản nhằm giúp đỡ nhau về công nghệ, thông tin kinh tế - thương mại nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp.
Nhà nước đầu tư xây dựng hệ thống tín hiệu báo hiệu cho tàu khai thác biết để hạn chế tai nạn trên biển do thiên tai gây ra.
Nhà nước hoàn thiện chính sách đất đai đảm bảo lợi ích lâu dài cho người đầu tư nuôi trồng thuỷ sản.
Kết luận
Trong mấy năm gần đây ngành thuỷ sản Thanh Hoá đã phát triển khá nhanh, xứng đáng là ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh nhà, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Ngành đã có sự đầu tư đẩy mạnh vào phát triển cơ sở hạ tầng cho khai thác, nuôi trồng và chế biến. Do đó sản lượng và giá trị khai thác, nuôi trồng ngày càng tăng, giá trị xuất khẩu nhất là xuất khẩu chính ngạch tăng đã tạo ra nhiều ngoại tệ cho đất nước. Đặc biệt là thị trường tiêu thụ ngày càng mở rộng, đáng chú ý là thị trường xuất khẩu sản phẩm đã vươn tới những thị trường khó tính như : EU, Mỹ và từ chỗ xuất khẩu sản phẩm thô là chủ yếu đã dần dần chuyển sang sản xuất các sản phẩm tinh chế đủ tiêu chuẩn để xuất khẩu trực tiếp sang các thị trường.
Tuy nhiên để tiếp tục phát huy được nhữg lợi thế của mình, nâng cao giá trị sản phẩm thì ngành thuỷ sản Thanh Hoá cần tiếp tục đầu tư đổi mới công nghệ theo hướng hiện đại làm động lực cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ngành. Trong đó phải xác định khai thác xa bờ là chủ yếu, chuyển đổi phương thức nuôi trồng theo hướng nuôi công nghiệp là chính, đồng thời phát triển ngành công nghiệp chế biến tương xứng đảm bảo chế biến tinh để xuất khẩu
Tất nhiên muốn thực hiện được các mục tiêu trên ngoài sự nỗ lực của ngành cần phải có sự quan tâm và ưu đãi của Nhà nước cũng như sự hỗ trợ, hiệp lực tích cực của các ngành có liên quan.
Tài liệu tham khảo
1. Chiến lược phát triển Thuỷ sản Thanh Hoá đến năm 2010
- Sở Thuỷ sản Thanh Hoá-
2. Báo cáo xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2001 - 2005 ngành Thuỷ sản Thanh Hoá
- Sở Thuỷ sản tháng 8/2000 -
3. Thực trạng kinh tế xã hội 5 năm 1996 - 2000 tỉnh Thanh Hoá
- Cục Thống kê tỉnh Thanh Hoá tháng 12/2000 -
4. Tạp chí kinh tế và phát triển.
- Số 44 tháng 2/2001-
5. Tạp chí thuỷ sản.
- Số tết Tân tỵ -
6. Tạp chí thuỷ sản
- Số 6/2000-
7. Niên giám Thống kê tỉnh Thanh hoá
8. Kế hoạch hoá kinh tế vĩ mô.
- NXB Chính trị quốc gia năm 2000 -
9. Tạp chí kinh tế và dự báo.
Mục lục
Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 6669.doc