Như vậy, qua bài viết này ta có thể thấy tầm quan trọng của nguồn nhân lực cũng như việc xây dựng Kế hoạch phát triển nguồn nhân lực đối với sự phát triển kinh tế –xã hội của một quốc gia.
Đối với nước ta trong quá trình đổi mới, việc xây dựng một kế hoạch phát triển nguồn nhân lực cho đất nước là một yêu cầu cấp thiết, để qua đó có thể đưa ra những dự báo, những định hướng, quy hoạch cho việc phát triển những con người phục vụ yêu cầu của quá trình CNH-HĐH đất nước. Việc xây dựng và thực hiện kế hoạch hoá nguồn nhân lực cần phải được nghiên cứu xem xét trong mỗi quan hệ biện chứng với các kế hoạch khác trong tổng thể hệ thống KHHPT KT-XH và trong bối cảnh thực tiễn của nên kinh tế. Từ đó, đặt ra những mục tiêu, và giải pháp cho việc phát triển nguồn nhân lực ở nước ta trong thời gian tới, góp phần đẩy nhanh sự nghiệp CNH-HĐH, phát triển một nền kinh tế hiện đại bền vững.
37 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1646 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Kế hoạch phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam giai đoạn 2001-2005 và những giải pháp thực hiện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bản cập nhật với tiến bộ của khoa học cônh nghệ. Đã thực hiện đổi mới trong phương pháp giáo dục đào tạo ở một số trường ĐH,CĐ, các trường THCN,CNKT, khắc phục lối truyền thụ một chiều như trước đây, nâng cao thời gian tự học cho sinh viên, thực hiện chính sách tuần học 5 buổi cho sinh viên ĐH từ năm 2000.
Về đổi mới công tác quản lý giáo dục, đã tăng cường dự báo và kế hoạch hoá sự phát triển của giáo dục đào tạo, đưa giáo dục vào quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội của cả nước và từng địa phương. Tuy nhiên, việc quy hoạch tổng thể về đào tạo nguồn nhân lực về mặt cơ cấu cấu trúc đào tạo trong thời gian qua còn chưa đượcthiết thực.
Thực hiện sử lý các tiêu cực trong ngành giáo dục, từ năm 97 trở đi gần như dứt điểm tình trạng tiêu cực trong thi, tuyển sinh, cũng như bảo vệ luận án, cơ cấp bằng…Đảm bảo một trình độ chất lượng đào tạo tương xứng với bằng cấp.
Ngoài ra, công tác giáo dục đào tạo còn được tăng cươ sự lãnh đạo của Đảng để gắn mục tiêu phát triển giáo dục đào tạo từ 1996-2000 và các năm tiếp theo để bảo đảm đào tạo nguồn nhân lực cho xã hội đáp ứng yêu cầu thời kỳ đổi mới.
3. Thực hiện giải quyết việc làm và sử dụng nguồn nhân lực trong thời gian qua.
Trong thời gian qua, cùng với thực hiện kết hợp với phát triển giáo dục đào tạo, chúng ta đã triển khai được chương trình quốc gia về giải quyết việc làm cho người lao động. Mỗi năm thu hút thêm khoảng 1,2 triệu lao động, giảm tỷ lệ lao động không có việc làm trong tổng LLLĐ.
Việc tổ chức thực hiện và kiểm tra thi hành Luật lao động cũng đã có hiệu quả, bên cạnh đó nhà nước ta đã có những cải tiến về chế độ tiền lương cho người lao động, nâng mức lương tối thiểu lên từ 180-210 ngàn đồng/người /tháng.
Từ 1996 đến nay cũng đã đẩy mạnh sản xuất trong nước, khuyến khích tạo thêm việc làm cho người lao động. Ban hành Luật doanh nghiệp (tháng 12/99) đã thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp tư nhân. Qua đó, tạo ra sự phát triển về sản xuất, tăng trưởng kinh tế nói chung và tạo thêm việc làm cho người lao động.
Tuy nhiên, quá trình thực hiện các chương trình quốc gia về việc làm vẫn còn một số điểm chưa đạt như mong muốn đề ra.
Ngoài việc phát triển nguồn nhân lực trên các mặt đã nói ở trên, từ năm 1996 đến nay, nhà nước ta cũng đã quan tâm phát triển triển nguồn nhân lực về mặt xã hội khác nữa, như thực hiện các chương trrình quốc gia về dinh dưỡng, vệ sinh môi trường, chăm sóc bảo vệ sức khỏe cộng đồngv.v.. và đã đạt những thành tựu nhất định vào việc phát triển nguồn nhân lực cũng như sự phát triển của nền kinh tế đất nước trong những năm qua.
IV. Đánh giá tình hình thực hiện KHNNL (1996-2000).
1. Những mặt tích cực đạt được trong phát triển nguồn nhân lực giai đoạn (1996-2000).
1.1. Tốc độ gia tăng dân số trong thời gian qua đã giảm.
Qua 5 năm thực hiện công tác vận động dân số kế hoạch hoá gia đình đã đạt được những kết quả đáng kể. Tốc độ gia tăng dân số hàng năm giảm dần. Cụ thể, tỷ lệ sinh bình quân mỗi năm giảm 0,78 %o (mục tiêu năm 96 đề ra là 0,6 %0) tỷ lệ tăng dân số giảm từ 1,7 %/ năm vào năm 95 xuống còn 1,4 % vào năm 2000, như vậy là vượt mục tiêu kế hoạch đã đề ra.
Các cơ sở vật chất phục vụ công tác và kế hoạch hoá gia đình được tăng cường đáng kể. Bình quân mỗi huyện có hai trung tâm liên xã làm dịch kế hoạch hoá gia đình (tính trên cả nước), bảo đảm 100% tuyến tỉnh huyện và 70% tuyến xã có trang thiết bị phù hợp. Với các tiến bộ trên, năm 1999 Việt Nam được LHQ tặng giải thưởng về cônng tác dân số là một trong những nước ĐPT đạt kết quả trong công tác dân số vượt bậc ngoài dự kiến. Với xu hướng này trong những năm tới Việt Nam sẽ giảm tỷ lệ sinh xuống còn dưới 1%.
1.2. Chỉ số HDI của Việt Nam tăng lên tronng những năm qua.
Cùng với công tác dân số kế hoạch hoá gia đình, hàng năm nước ta cũng tạo được phong trào toàn xã hội chăm sóc giáo dục bảo vệ trẻ em cũng như công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân có nhiều tiến bộ. Thực hiện được các mục tiêu quốc gia về trẻ em, xây dựng các điểm vui chơi (51% quận huyện có điểm văn hoá). Thực hiện chăm sóc được 70% trẻ em mồ côi. Trong công tác chăm sóc sức khoẻ cộng đồng, đã đưa chỉ số sức khoẻ cộng đồng của nước ta được nâng lên. Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng giảm từ 38 % năm 95 xuống còn 33% vào năm 2000. Tỷ lệ tử vong của trẻ em dưới 5 tuổi. Cơ bản thanh toán được các như bệnh bại liệt, uốn ván trẻ sơ sinh, thiếu Vitamin A vào năm 2000. Các bệnh về sốt rét, biếu cổ giảm gần 60% so với năm 1995.
Từ những kết quả trên và những thành tựu đạt trong phát triển kinh tế xã hội theo Báo cáo phát triển con người năm 2000 của UNDP đánh giá trình độ phát triển con người của các quốc gia thì chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam đạt thứ hạng 108 / 174 nước tham gia xếp hạng (với chỉ số HDI là 0,671). Với các chỉ tiêu tuổi thọ bình quân đạt 67,8 năm, tỷ lệ biết chữ của người lớn là xấp xỉ 93%, tỷ lệ huy động các cấp của trẻ em từ 6- 23 tuổi là 63%, chỉ số kiến thức đạt 0,83. GDP / đầu người tính theo sức mua tương đương đạt gần 1.700 USD. Như vậy so với năm 92 tăng 13 bậc và vượt 24 bậc trong thứ tự xếp hạng về GDP bình quân đầu người.
1.3. Trình độ giáo dục và đào tạo được nâng cao.
Theo đánh giá trong ĐH Đảng 9 về sự nghiệp giáo dục và đào tạo của nước ta trong thời kỳ 1996- 2000 là có sự phát triển mới về cả quy mô lẫn chất lượng cũng như hình thức đào tạo. Các bậc ngành học đáp ứng nhu cầu ngày càng lớn của nhân dân.
Đến năm 2000 nước ta đã có 100% tỉnh, thành phố đạt tiêu chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học và xoá mù chữ. Số người chưa biết chữ và chưa tốt nghiệp cấp 1 ngày càng giảm trong tổng dân số và lực lượng lao động (tỷ lệ này là 26,67 % năm 96 và 20,19 % năm 2000). Số lao động tôt nghiệp cấp 3 tăng nhanh, năm 96 tỷ lệ này là 13,47% trong tổng LLLĐ đến năm 2000 tăng lên 17,23 % (theo trung tâm thông tin – thống kê LĐ và XH).
Bên cạnh đó,việc đào tạo nghề cho lao động từ sơ cấp trở lên cũng tăng lên rõ rệt. Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo chiếm trong tổng LLLĐ là 11,81 % năm 96 đến năm 2000 tăng lên 15,21 % (trong đó tăng nhanh nhất là trình độ CĐvà ĐH trở lên 16, 86 % / 1 năm), tiếp đến là tốc độ tăng lao động đã qua đào tạo CNKT 7,58 %/ 1năm. Tỷ lệ lao động THCN cũng tăng lên tương tự.
Có thể nói trong 5 năm qua chất lượng và số lượng của giáo dục và đào tạo trên tất cả các vùng của cả nước đều diễn ra theo xu hướng tích cực - đó là kết quả đạt được không nhỏ trong sự nghiệp phát triển nguồn nhân lực ở nước ta.
1.4. Cơ cấu theo ngành của nguồn nhân lực có sự biến chuyển tích cực.
Cùng với việc thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo chiều hướng CNH-HĐH thì trong 5 năm thực hiện nghị quyết ĐH 8 cơ cấu lao động cũng có sự thay đổi theo chiều hướng tích cực. Tỷ lệ lao động có việc làm thường xuyên có xu hướng giảm trong ngành nông nghiệp (bao gồm cả nông – lâm – ngư nghiệp), và tăng lên trong các ngành công nghiệp và dịch vụ. Cụ thể, theo số liệu thống kê điều tra mẫu quốc gia về lao động và việc làm – 1/7/1996 và 1/7/2000 thì tỷ lệ lao động việc làm thường xuyên trong ngành nông nghiệp giảm từ 69,8% (1996) xuống còn 62,56% (2000); 6tỷ lệ này tăng lên trong ngành công nghiệp là từ 10,55% lên 13,15% và trong ngành dịch vụ là 19,65% lên 24,29%. Đây là những bước chuyển dịch cơ bản trong cơ cấu lao động theo ngành, thể hiện sự biến chuyển tích cực về cơ cấu kinh tế cũng như cơ cấu nguồn nhân lực trong thời gian qua.
2. Những hạn chế còn tồn tại và nguyên nhân.
2.1. Sự mất cân đối lớn trên các mặt trong cơ cấu LLLĐ.
Trong thời gian qua mặc dù có sự biến chuyển tích cực về chất lượng đào tạo và cơ cấu lao động, xong so với yêu cầu của đất nước về nguồn nhân lực đặc biệt là đối với LLLĐ đã qua đào tạo thì hiện nay sự phát triển của nguồn nhân lực nước ta vẫn còn nhiều bất cập. Trong đó đáng chú ý nhất là:
Sự phân bố LLLĐ đã qua đào tạo từ sơ cấp, học nghề trở lên cũng như từ CNKT có bằng trở lên chủ yếu tập trung ở các khu vực thành thị, đô thị trọng điểm. Hầu hết lao động đã qua đào tạo tập trung ở các thành phố lớn đặc biệt là các cán bộ có trình độ ĐH và trên ĐH (như Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh 15-20%; trong khi tỷ lệ này ở các tỉnh như Lai châu, các tỉnh Tây nguyên và các tỉnh miền Tây nam Bộ tỷ lệ này chưa đến 1%).
Một số nguyên nhân chủ yếu của tình trạng trên là các tỉnh vùng sâu vùng xa, miền núi điều kiện về đào tạo và làm việc cũng như nhu cầu về LĐKT chưa cao. Do đó phần lớn LĐKT (nổi bật là các cán bộ ĐH và CĐ) sau khi được đào tạo thường bám trụ lại các thành phố để có điều kiện làm việc tốt hơn. Một nguyên nhân nữa là do nhà nước chưa có chính sách hoặc còn yếu, để khuyến khích, vận động, tạo điều kiện cho LĐKT có trình độ làm việc tại các tỉnh vùng sâu, vùng xa.
Sự phân bố còn chưa hợp lý trong đội ngũ lao động đã qua đào tạo giữa các ngành kinh tế. Phần lớn LĐKT tập trung vào các ngành CN-XD và DV. Điều này dẫn đến sự khác nhau tỷ lệ lao động đã qua đào tạo trong tổng số lao động làm việc tại các ngành kinh tế (ngành CN 27,7%;DV 21,8%;NN chỉ có 3,85%). Ngành NN số lượng lao động đã qua đào tạo đã ít xong số cán bộ KHKT nông nghiệp lại có tới 89,3% làm ở cơ quan TƯ; 8,9% làm ở cấp tỉnh; 1,8% cấp huyện và ở cấp xã gần như không có.
Nguyên nhân của sự phân bố không cân đối LĐKT giữa các ngành kinh tế cũng tương tự như của các vùng: Vì giữa các ngành kinh tế có mối quan hệ mật thiết với các vùng kinh tế. Ngành CN và DV thường tập trung ở các vùng đô thị, trong khi NN lại thường là ở các tỉnh nông thôn và miền núi.
Sự mất cân đối thứ hai là mất cân đối trong cấu trúc đào tạo nguồn nhân lực. Thực sự đây là vấn đề vốn đã bất hợp lý nay càng bất hợp lý hơn. Tuy rằng chất lượng và quy mô đào tạo trong những năm qua được nâng cao, xong trong cơ cấu đào tạo còn nhiều điều không ổn. Điều đó gây ra tình trạng “thừa thầy, thiếu thợ” ở hầu hết các ngành kinh tế. Cấu trúc đào tạo năm 96 là 1-1,7-2,4 (tức là cứ 1 càn bộ ĐH,CĐ thì có 1,7 cán bộ THCN và 2,4 CNKT) năm 2000 cấu trúc này là 1-1,2-1,7 (trong khi mục tiêu nghị quyết ĐH8 đến năm 2000 cấu trúc đào tạo là 1-4-10).
Tình trạng mất cân đối trên có thể được giải thích do nhà nước chưa quản lý được cũng như chưa có các chính sách biện pháp để gắn đào tạo lao động với nhu cầu sử dụng lao động, để từ đó có thể đưa ra kế hoạch,định hướng về số lượng lao động từng loại trình độ, chuyên môn cần đào tạo để phục vụ cho nhu cầu lao động của nền kinh tế.
Mặt khác, thực tế còn cho thấy do tâm lý của bộ phận lớn cha mẹ cũng như học sinh một số năm trước đây và ngay cả bây giờ (đặc biệt là ở Miền Bắc) chỉ coi trọng việc đi học ĐH,CĐ. Nhiều học sinh ở nông thôn thi ĐH không đỗ mà điều này là không thể tránh khỏi, khi lượng thí sinh dự thi ngày một đông sẽ chấp nhận ở nhà làm nông nghiệp (học sinh nào có điều kiện hơn thì tiếp tục ôn thi để năm sau thi vào ĐH), chứ không dự thi vào các trường THCN hay các trường CNKT. Điều đó dẫn đến tình trạng một số trường đào tạo nghề lượng học sinh vào học rất ít thiếu chỉ tiêu đào tạo. Đó cũng là nguyên nhân của việc thiếu trầm trọng LĐKT có tay nghề cho nền KTQD.
2.2. Trình độ đào tạo còn thấp so với yêu cầu CNH-HĐH đất nước.
Nứoc ta vốn đã thiếu LĐKT xong trình độ đào tạo chuyên môn kỹ thuật lại chưa đáp ứng được yêu cầu công việc trong thời kỳ CNH-HĐH của đất nước. Điều đó thể hiện qua thực tế, năng suất lao động của chúng ta còn thấp, tay nghề đào tạo còn chưa vững. Nhiều lao động sau khi được đào tạo, dự tuyển vào các đơn vị sản xuất liên doanh với nước ngoài vẫn chưa đủ điều kiện xét tuyển.
Một mặt nữa cho thấy, đó là khối lượng học sinh đào tạo ngắn hạn lại nhiều hơn là lượng học sinh đào tạo chính quy dài hạn (năm 1999 có 900 nghìn học sinh học nghề các loại thì chỉ có 130 nghìn học sinh học chính quy dài hạn). Trình độ của hầu hết các học sinh đào tạo ngắn hạn là chưa được vững vàng trong chuyên môn, công việc, hàng năm cần có sự bồi dưỡng và đào tạo lại.
Có rất nhiều lý do khiến cho chất lượng đào tạo nguồn nhân lực của nước ta chưa đạt như mong muốn để có thể đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế là vì:
Thứ nhất, do điều kiện kinh tế nước ta còn nghèo, việc thiếu cơ sở vật chất, kỹ thuật –chậm dược cải thiện chưa xứng với nhu cầu học hỏi của sinh viên. Đặc biệt, sách giáo khoa, tài liệu tham khảo, điều kiện học tập thực hành cho sinh viên thiếu nghiêm trọng.
Thứ hai, các nội dung chương trình đào tạo, phương pháp giảng dạy cũng như nhiều hình thức đào tạo của nước ta còn nhiều bất cập, lạc hậu. Điều kiện cải tiến, đổi mới các mặt trên còn chưa có, trừ một số trường lớn có uy tín do TƯ quản lý. Do đó, chất lượng sinh viên tốt nghiệp còn thấp so với yêu cầu của đất nước và so với các nước trong khu vực và thế giới, chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động.
2.3. Sử dụng nguồn nhân lực chưa hợp lý.
Trong quản lý và sử dụng lao động, chúng ta còn có những điểm hạn chế do đó chưa phát huy được hiệu qủa sử dụng lao động, hạn chế sự năng động, sáng tạo của nguồn nhân lực. Việc sử dụng lao động chưa hợp lý thể hiện qua các mặt sau:
Thứ nhất, như đã nói ở trên ngoài sự phân bố lao động ở nước ta còn có sự khác biệt lớn giữa các ngành và các vùng thì tỷ lệ thời gian lao động sử dụng còn thấp. Điều đó gây ra lãng phí thời gian lao động, (đặc biệt là ở các vùng nông thôn ở nước ta, tính đến nay tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn mới đạt khoảng 70%).
Thứ hai, trong sử dụng lao động, thì chế độ tiền công, tiền lương còn chưa thoả đáng làm mất đi động lực kinh tế của người lao động. Chế độ tiền công tiền lương của nước ta còn thấp, còn mang nặng tính bình quân (một phần cũng là do nền kinh tế còn kém phát triển và năng suất,chất lượng lao động chưa cao) vì vậy chưa thực sự khuyến khích nâng cao trình độ,phát huy hết năng lực cũng như tâm trí cho công việc.Mặt khác, với chế độ tiền công, tiền lương như vậyđã không thu hút được những lao động giỏi, những người trí thức có trình độ cao vào làm việc trong các cơ quan, đơn vị sản xuất trong nước gây ra hiện tượng chảy máu chất xám ra nước ngoài rồi kéo theo các tệ nạn tham nhũng, hối lộ…
Một trong những hạn chế nữa là việc sử dụng lao động trí thức có trình độ PTS trở lên hầu hết tập trung ở các trường ĐH, các cơ quan TƯ và hai thành phố lớn là Hà nội và Tp.HCM. Số lượng cán bộ khoa học –kỹ thuật lại chủ yếu tập trung trong các cơ quan hành chính sự nghiệp chiếm 63,7%,trong đó riêng ngành giáo dục ciếm 43%, còn các ngành sản xuất kinh doanh chỉ cố 32,7%(chỉ tiêu này ở các nước như Thái Lan là 58,2%; Hàn Quốc là 48%;Nhật 64,4%).Là một nước nông nghiệp với gần 80% dân số sống ở nông thôn, xong có tới 89,3% số cán bộ KH-KT có chuyên môn thuộc lĩnh vực này lại làm việc ở các cơ quan TƯ.Điều đó thể hiện sự yếu kém trong viêc quản ký và sử dụng nguồn nhân lực ở nước ta.
2.4. Thiếu việc làm cho LLLĐ.
Tính đến năm 2000 tổng LLLĐ ở nước ta là trên 38,5 triệu người. Hàng năm có thêm khoảng 1,2 triệu người tham gia vào LLLĐ. Trong 5 năm qua nhờ những giải pháp tích cực của nhà nước, cộng đồng nên bình quân mỗi năm ta cũng giải quyết việc làm cho được hơn 1 triệu lao động. Tuy nhiên, đó mới chỉ xấp xỉ gần bằng so với số lượng người hàng năm bước vào tuổi lao động. Do đó vẫn còn một bộ phận lao động nữa chưa có việc làm. Hiện nay tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm của người lao động đang là mối quan tâm hàng đầu của nhiều ngành nhiều cấp và bản thân người lao động. Qua những tìm hiểu về thị trường lao động thị lý do gây ra tình trạng trên trong nhiều năm qua và giai doạn 96-2000chủ yếu là:
Do dân số nước ta đông, tốc độ tăng dân số cũng như nguồn nhân lực cao dẫn đến cung lao động vượt quá cầu đã gây sức ép lớn về giải quyết việc làm.
Do trình độ tay nghề và cơ cấu đào tạo nguồn nhân lực không thống nhất với cầu về LĐK T. Trong khi lao động kỹ thuật thì thiếu mà đội ngũ cán bộ trí thức thì thừa cũng dẫn đến tình trạng thất nghiệp lao động trí thức do thừa, thất nghiệp lao động phổ thông do thiếu tay nghề.
2.5. Có sự yếu kém trong quản lý nguồn nhân lực.
Một trong những yếu tố quan trọng xong còn nhiều hạn chế đó là về quy hoạch phát triển nguồn nhân lực ở nước ta còn yếu, chưa đáp ứng được quy luật của nền kinh tế thị trường.
Chúng ta chưa có nhận thức thống nhất về các khái niệm, nội dung, phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu tính toán tiên tiến trong lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực hoà nhập với thế giới và khu vực.
Trong quan điểm của chủ trương nhà nước đặt ra về mục tiêu chung đề ra về phát triển nguồn nhân lực trong ĐH8 của Đảng đề ra là tương đối đúng đắn, xong tổng kết cách làm còn chưa phù hợp. Chúng ta gần như chưa có được một chiến lược quy hoạch tổng thể toàn diện về phát triển nguồn nhân lực nối chung cũng như môt quy hoạch hệ thống đối với hệ thống đào tạo nghề tương thích. Đáng ra việc này ta còn phải đi trước đón đầu (như các nước phát triển đã làm) để tạo lập đội ngũ nguồn nhân lực đáp ứng cho nhu cầu PTKT-XH. Ta thiếu đi sự điều hành vĩ mô của nhà nước đối với sự phát triển nguồn nhân lực cho thời kỳ CNH-HĐH đất nước.
Trên đây là những thực trạng phát triển nguồn nhân lực ở nước ta. Bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được thì chúng ta cũng còn có nhiều hạn chế, những mặt chưa đạt được trong mục tiêu mà kế hoạch 96-2000 đã đề ra. Điều đó đòi hỏi trong kế hoạch 5 năm tới (2001-2005) về phát triển nguồn nhân lực chúng ta cần có những đúc rút kinh nghiệp, đặt ra những vấn đề tồn tại cần giải quyết, và những mục tiêu mới cần thực hiện đối với kế hoạch phát triển nguồn nhân lực cho thời kỳ 2001-2005.
Chương III
Kế hoạch phát triển nguồn nhân lực ở nước ta giai đoạn 2001-2005 và những giải pháp thực hiện.
I. Cơ sở khoa học cho việc xây dựng KHNNL (2001-2005).
Sự phát triển của nguồn nhân lực vừa phải đáp ứng mục tiêu cuối cùng về phát triển con người vừa phải đáp ứng những đỏi hỏi yêu cầu về PTKT-XH. Vì con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển. Do đó, việc nghiên cứu xây dựng KH PTNNL của đất nước cho thời kỳ 2001-2005 cần được dựa trê các cơ sở sau đây.
1. Xây dựng KH dựa trên những đánh giá về nguồn nhân lực.
Thông qua việc đánh giá về tình hình phát triển KTXH nước ta nói chung và tình hình phát triển NNL nói riêng, ta có thể xác định điểm xuất phát của nước ta khi bước vào thời kỳ kế hoạch.Từ những kết quả đạt được và những mặt còn tồn tại trong thời gian qua ta có thể xác định vị trí của nguồn nhân lực của nước ta trong tiến trình phát triển và cũng có thể so sánh với các nước ĐPT trong khu vực và trên thế giới để từ đó xây dựng mục tiêu,phương hướng phát triển cho nguồn nhân lực trong thời kỳ kế hoạch 2001-2005. Qua xem xét đánh giá những thuận lợi và thách thức ta thấy có những nét nổi bật sau:
Trong các giai đoạn của tiến bộ kỹ thuật, thì nước ta đang ở giai đoạn 3 của tiến trình phát triển–tức là đang từ thủ công lên cơ khí hoá thì đội ngũ nguồn nhân lực của nước ta vẫn còn quá thấp về chuyên môn, kỹ thuật để có thể đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước.
Cũng với các chỉ tiểu trên về chuyên môn, trình độ và cơ cấu nguồn lao động của nước ta so với các nước trong khu vực thì trình độ của nước ta vẫn còn thấp kém và cơ cấu lao động còn lạc hậu hơn rất nhiều.
Từ những đánh giá trên, ta có thể xác định được điểm xuất phát của nước ta, từ đó có thể xây dựng kế hoạch đề ra những mục tiêu cho phát triển nguồn nhân lực thời kỳ kế hoạch 2001-2005.
2. Từ thực trạng đặt ra những vấn đề cấp bách cần giải quyết trong phát triển nguồn nhân lực.
Để định ra những quan điểm và nội dung cơ bản của KHHNNL trong kế hoạch 5 năm tới đây thì ngoài việc đánh giá tình hình, xác định điểm xuất phát ở trên, ta cũng cần nhìn lại kế hoạch 5năm (96-2000), qua đó khẳng định những thành tựu đạt được, những hạn chế còn tồn tại cũng như các vấn đề bức xúc cần giải quyết và rút ra những bài học kinh nghiệm, đặt ra những mục tiêu cần đạt cho được trong thời kỳ kế hoạch.
Thực tế như đã đánh giá ở chương trước, trong kế hoạch nguồn nhân lực ở nước ta thời kỳ 96-2000 đã đạt những thành tựu đáng kể tạo “bước đà” cho kế hoạch 5 năm tới về phát triển nguồn nhân lực như: hạn chế tăng quy mô dân số và nguồn nhân lực; thực hiện chăm sóc sức khoẻ cộng đồng; nâng cao trình độ của giáo dục và đào tạo...Xong bên cạnh đó, kế hoạch phát triển nguồn nhân lực cho 5năm tới cần phải hạn chế khắc phục những yếu kém về cân đối nguồn nhân lực (theo ngành và theo lãnh thổ), cơ cấu cấu trúc đào tạo của LLLĐ đã qua đào tạo (về số lượng và chất lượng đào tạo), những yếu kém về sử dụng và quản lý lao động v.v…
3. áp lực từ vấn đề đào tạo nghề giải quyết việc làm cho người lao động.
Do sự phát triển như vũ bão củaKH-CN,sự đòi hỏi phải tăng trưởng kinh tế nhanh ở nước ta, mà đòi hỏi về những giá trị con người cũng phải có những yêu cầu mới. Phổ biến hơn cả là sự đòi hỏi cần có những con người thông minh, sáng tạo (hiện nay còn đưa ra quan niệm về con người hiện đại gắn bó chặt chẽ với nền sản xuất hiện đại trong nền kinh tế tri thức và với dân tộc mình). Mác nói: “Sức lao động của con người tồn tại trong nhân cách sinh động của con người”. Đó là thể lực, trí lực và đạo đức, phẩm chất của mỗi con người. Những phẩm chất đó chỉ có thể thông qua giáo dục đào tạo và lao động thực sự. Đó cũng là mục tiêu cần đạt đến năm 2005 cho kế hoạch phát triển nguồn nhân lực ở nước ta.
Ngoài việc đào tạo con người có phẩm chất như trên còn phải biết sử dụng và huy động sức lao động. Phát triển nguồn nhân lực cũng có nghĩa là tạo cơ hội cho người lao động được làm việc và có việc làm. Với một nước đông dân cư như nước ta thì LLLĐ cũng sẽ rất đông. Nếu không có chính sách và giải pháp hỗ trợ đồng bộ có hiệu quả để giảm nhanh tỷ lệ thất nghiệp,giải quyết việc làm cho người lao động thì sẽ gây ra nhiều vấn đề xã hội bức xúc.Điều đó cần được tính đến khi xây dựng kế hoạch phát triển nguồn nhân lực ở nước ta.
4. Từ thách thức của xu thế hội nhập.
Cuộc cách mạng KH-CNđương đại đang thúc đẩy sự phát triển vượt bậc và triệt để về chất các yếu tố của LLSX. Chính cuộc cách mạng này đã tạo ra những điều kiện để thúc đẩy nhanh quá trình toàn cầu hoá. Trong điều kiện hiện nay, khả năng cạnh tranh của mỗi nước được xác định nhiều hơn bởi chất lượng các nguồn lực con người, tri thức khoa học-công nghệ. Tri thức là lợi thế so sánh trường kỳ. Vì vậy, cần nhấn mạnh rằng việc tham gia vào các tổ chức quốc tế khu vực và toàn cầu (ASEAN,AFTA,APEC,WTO…)đòi hỏi yếu tố không thể thiếu dược trong con người Việt nam là năng lực làm chủ công nghệ mới,tiếp cận nhanh với những công nghệ hiện đại. Đầu tư vào phát triển con người là vấn đề sống còn của một quốc gia,dân tộc.
Bối cảnh quốc tế, khu vực và thực trạng phát triển nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay đang đặt ra cho đất nước chúng ta-một nước nghèo, còn chưa đạt tới một xã hội CNH, chất lượng nguồn nhân lực còn thấp xa so với yêu cầu của một nước công nghiệp-những thách thức rất lớn về phát triển con người và đòi hỏi những người làm chiến lược,hoạch định phát triển, ra các quyết định về đầu tư phải chủ động lựa chọn ngay từ bây giờ trong xây dựng chiến lược và quy hoạch PTKT-XH và định hướng điều hành đạt mục tiêu đề ra.
Đối với nước ta,việc xây dựng KHNNL dựa vào căn cứ trên có ý nghĩa rất lớn. Thật vậy, khi xu thế hội nhập hợp tác trở thành cu thế lớn của thời đại, thì phát triển tiến bộ nguồn nhân lực của nước ta sẽ có những thuận lợi sau:
Tận dụng lợi thế lịch sử (lợi thế của nước phát triển đi sau) thông qua nguồn nhân lực được phát triển toàn diện sẽ có thể tranh thủ cơ hội tiếp thu KH-CN là điều kiện đón đầu trong phát triển kinh tế.Từ đó có thể rút ngắn khoảng cách phát triển cách biệt với các nước công nghiệp phát triển.
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực sẽ hạn chế được tình trạng phân biệt đối sử giữa lao động trong nước và lao động ngoài nước khi hợp tác kinh tế quốc tế. Thực tế những năm qua cho thấy lương của lao động Việt nam so với lao động nước ngoài thấp hơn rất nhiều lần. Trong cạnh tranh kinh tế, phát triển nguồn nhân lực có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Hoặc người Việt nam sẽ là những người lao động sáng tạo, làm chủ các công nghệ tiên tiến, hiện đại hay sẽ chỉ là những người lao động giản đơn, lao động cơ bắp, nặng nhọc, phục vụ, làm thuê cho các ông chủ nước ngoài trong thế kỷ 21, điều này hoàn toàn phụ thuộc vào CL PT con người được xác định và bắt đầu ngay từ bây giờ.
5. Mục tiêu CL,QH PTKT-XH đặt ra.
Xuất phát từ mục tiêu từ nay đến năm 2020 ra sức phấn đấu đưa đất nước cơ bản trở thành nước công nghiệp với định nghĩa CNH-HĐH trong nghị quyết TƯ 7 Khoá8 đã nêu ra “ CNH-HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý KT-XH, từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến lao động cùng với công nghệ phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ KHCN, tạo ra năng suất lao động XH cao”. Do đó tạo ra sự biến đổi cao trong chất lượng nguồn nhân lực là cực kỳ quan trọng.
Ngay trong mục tiêu tổng quát đề ra của KHPTKT-XH 5 năm 2001-2005: “Tiến tới phát triển kinh tế nhanh bền vững, ổn định, cải thiện đời sống nhân dân, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng CNH-HĐH, nâng cao rõ rệt hiệu quả trong sức cạnh tranh của nền kinh tế. Mở rộng kinh tế đối ngoại tạo chuyển biến mạnh về giáo dục và đào tạo khoa học công nghệ, phát huy nhân tố con người. Tạo việc làm cơ bản xoá đói giảm nghèo, đẩy lùi các tệ nạn xã hội… Việc xây dựng kế hoạch cho nguồn nhân lực cho thời kỳ kế hoạch 5 năm là bước thực hiện trước mắt những mục tiêu đề ra ở trên và mới có thể đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững. Đồng thời, đó cũng là một bước thực hiện cho mục tiêu chiến đến 2010 là tạo ra nền tảng của một nưóc công nghiệp và đến năm 2020 đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại như Nghị quyết ĐH8 và ĐH9 đã đề ra.
Ngoài yêu cầu của sự phát triển KTXH như ở trên thì từ chíng mục tiêu phát triển con người trong sự nghiệp của thế giới hiện đại sẽ là một căn cứ cho KH nguồn nhân lực, cho chất lượng của sự phát triển, là tác nhân cũng là mục đích của sự phát triển. Như vậy con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển kinh tế xã hội. Theo báo cáo UNDP năm 92 khẳng định:“ các thị trường chỉ là phương tiện sự phát triển con người mới là mục đích”. Việc nhận thức con ngưòi là một thực thể năng động có tiềm năng vô hạn, nên cần phải xây dựng thế nào để phát huy được các mặt tích cực của nguồn nhân lực con người, phục vụ cho sự phát triển của chính con người và của cả sự phát triển XH. Đồng thời, hạn chế những tiêu cực do con người tạo ra.
II- Phương hướng phát triển nguồn nhân lực và những mục tiêu đạt trong giai đoạn 2001-2005.
Từ những yêu cầu cấp thiết đặt ra cho quy hoạch phát triển nguồn nhân lực và dựa trên các căn cứ ở trên, việc xây dựng quy hoạch nguồn nhân lực cho thời kỳ KH 2001-2005 cần có các phương hướng, mục tiêu cơ bản sau đây.
1. Phát triển nguồn nhân lực trên hai phương diện.
1.1. Số lượng nguồn nhân lực.
Phương hướng xây dựng kế hoạch phát triển nguồn nhân lực ở nước ta xét trên phương diện số lượng thực chất là tiếp tục giảm tốc độ tăng dân số, làm sao cho tới năm 2005 sớm ổn định quy mô dân số nước ta ở mức hợp lý khoảng 83 triệu người. Phấn đấu giảm mức sinh bình quân hàng năm 0,5 %0, tốc độ tăng dân số vào năm 2005 vào khoảng 1,2%. Dự kiến mục tiêu là để đến năm 2005 lực lượng lao động của cả nước sẽ vào khoảng 42,665 triệu người trong đó lao động thành thị là 26%, nông thôn là 74%.
1.2. Về mặt chất lượng.
Vì nước ta dân số đông, LLLĐ có thể nói là rất dồi dào cho phát triển kinh tế. Cho nên trong những năm trước mắt để phát triển NNL ở nước ta thì chủ yếu là phát triển về mặt chất lượng và cơ cấu NNL mới thực sự là vấn đề mấu chốt. Mục tiêu phát triển về mặt chất lượng chủ yếu là mục tiêu về sức khoẻ, thể lực, tinh thần...và những mục tiêu về trình độ, trí tuệ, tay nghề chuyên môn (riêng phần tay nghề chuyên môn sẽ được trình bày cụ thể hơn ở phần sau).
Về sức khoẻ của nguồn nhân lực nói riêng và dân số nói chung, đặt ra các phương hưóng mục tiêu những năm tới là cải thiện các chỉ tiêu về sức khoẻ, thể trạng, tầm vóc của con người Việt nam. Thực hiện các mục tiêu về trẻ em, giảm tỷ lệ trẻ em tử vong dưới 1 tuổi xuống còn 30%0; tỷ lệ tử vong trẻ em dưới 5 tuổi xuống còn 35%0; mở rộng tiêm chủng từ 8-10 loại vắcxin, giảm tỷ lệ tử vong của bà mẹ liên quan đến thai sản xuống còn 0,9%0, giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5tuổi xuống còn từ 22-25% vào 2005. Xoá nạn mù chữ phấn đấu không còn trẻ em mù chữ ở độ tuổi 15, 70% trẻ em được phổ cập trung học cơ sở, nâng cao trình độ văn hoá bình quân là hết lớp 9/12. Tạo môi trường cho các hoạt động của trẻ em, mục tiêu đến năm 2005 là 50% cơ sở có điểm văn hoá vui chơi, 80% trẻ em có hoàn cảnh khó khăn được bảo vệ chăm sóc.
Về y tế, tiếp tục hoàn chỉnh, quy hoạch phát triển mạng lưới y tế cơ sở, có bác sĩ làm việc ở tất cả các trạm y tế đồng bằng, trung du và phần lớn các xã miền núi. Bảo đảm 40% nhu cầu thuốc chữa bệnh được sản xuất trong nước với chất lượng cao. Bảo đảm sự bình đẳng thụ hưởng các dịch vụ y tế trong các tầng lớp dân cư. Từng bước ngăn chặn và giảm tốc độ phát triển bệnh dịch HIV,AIDS tập trung sức cho việc phòng trừ và giảm tệ nạn xã hội. Bên cạnh đó, đặt ra mục tiêu kết hợp hài hoà giữa PTKT-XH với cải thiện môi trường sống theo hướng phát triển bền vững. Tiến tới bảo đảm cho mọi người dân đều được sống trong môi trường có chất lượng tốt về môi trường không khí, nước v.v..
2. Tiếp tục đổi mới nâng cao công tác đào tạo chuyên môn kỹ thuật cho người lao động.
Trong giai đoạn tới phải nâng cao chất lượng dạy và học cho người lao động. Mục tiêu và phương hướng đặt ra trong Nghị quyết ĐH 9 về định hướng phát triển GD-ĐT trong kế hoạch 5 năm 2001-2005 là: “Xây dựng hoàn chỉnh phát triển các trường ĐH,CĐ theo mạng lưới hợp lý để hình thành một số trường ĐH có chất lượng đào tạo ngang tầm với các trường ĐH có chất lượng cao trong khu vực...” Số học sinh tuyển mới vào ĐH và CĐ hàng năm thêm 5%. Đặc biệt, chú trọng đào tạo chất lượng cao một số ngành công nghiệp, kinh tế, quản lý nhà nước để đáp ứng nhu cầu về nhân lực và nhân tài.
Tiếp tục đổi mới chương trình, nội dung và phương pháp giảng dạy cũng như phương thức đào tạo đội ngũ lao động có chất lượng cao, đặc biệt trong các ngành kinh tế, kỹ thuật mũi nhọn, công nghệ cao. Gắn việc hình thành các khu CN khu công nghệ cao với hệ thống các trường đào tạo nghề, mở rộng các hình thức đào tạo đa dạnh linh hoạt năng động phát triển nhanh và phân bố hợp lý các trường dạy nghề trên địa bàn cả nước. Phấn đấu từ nay đến năm 2005 bình quân đưa số lượng CNKT lên 11-12%/năm, từ đó nâng cao số lượng lao động đã qua đào tạo lên để đến năm 2005 có khoảng 30% lao động được đào tạo, đến 2010 là 40% (hiện nay tỷ lệ này là 18-20%).
Ưu tiên phát triển giáo dục đào tạo à bồi dưỡng đội ngũ các nhà quản lý, các CNKT lành nghề trong các lĩnh vực hoạt động kinh tế xã hội. Chủ động hình thành và phát triển nguồn nhân lực với chất lượng cao phục vụ yêu cầu của nền kinh té hiện đại. Đó là những nhân tố hàng đầu trong việc khai thác thế mạnh quốc gia để đạt tốc độ phát triển cao, đồng thời phát huy tác dụng của độ ngũ lao động này với các nhóm dân cư còn ở trình độ thấp và địa bàn chậm phát triển.
3. Mục tiêu chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng CNH-HĐH.
Vấn đề phát huy nội lực là giải pháp cơ bản quyết định thành công của sự nghiệp CNH-HĐH đất nước-là giải pháp cơ bản đảm bảo tính hiệu quả bền vững của sự phát triển. Có nhiều nguồn lực cùng tác động vào quá trình phát triển KT-XH trong đó nguồn lực con người là quan trọng nhất. Vì vậy, đi đôi với nâng cao chất lượng và số lượng nguồn nhân lực thì việc thực hiện chuyển dịch cơ cấu nguồn nhân lực phục vụ cho sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH là một yêu cầu tất yếu. Ngày nay, cơ cấu lao động của nước ta còn lạc hậc so với yêu cầu của sự phát triển cũng như so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Vì vậy, chuyển dịch cơ cấu lao động đến 2005 được xác định trên hai mặt sau:
Thực hiện chuyển dịch về cơ cấu trình độ của LLLĐ. Phương hướng đặt ra là tới năm 2005 nâng cao tỷ lệ lao động lên 30% và giảm tỷ lệ lao động phổ thông xuống còn khoảng 70%. (Hiện nay tỷ lệ lao động đã qua đào tạo ở các nước phát triển vào khoảng xấp xỉ 60%).
Trong bản thân đội ngũ lao động đã qua đào tạo cũng cần phải đổi mới về cấu trúc đào tạo sao cho tương xứng với nhu cầu về LĐKT, khắc phục tình trạnh “thừa thầy thiếu thợ” hiện nay. (Cấu trúc đào tạo của nước ta năm 2000 là 1kỹ sư CĐ,ĐH có 1,2 THCNvà 1,7 CNKT, trong khi các nước phát triển cấu trúc này là 1- 4-12). Như vậy, từ nay đến năm 2005 chúng ta cần nâng tỷ lệ CNKT lên cao hơn nữa mới có thể đáp ứng được nhu cầu về vốn nhân lực có tay nghề cho quá trình phát triển.
Tiếp tục thực hiện chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành kinh tế, để thúc đẩy quá trình chuyển dịch của các ngành kinh tế. Phương hướng từ nay đến năm 2005 là giảm tỷ trọng lao động ngành NN xuống và tăng tỷ trọng lao động các ngành CNvà DV lên. Mục tiêu đặt ra là đến 2005 tỷ trọng giá trị sản lượng của NN trong GDP khoảng 20-21% thu hút 56-57% lao động xã hội,CN-XD là 38-39% GDP thu hút khoảng 20% lao động xã hội, ngành DV là 41-42% GDP thu hút 23-24% lao động xã hội. Từng bước, thực hiện chuyển tạo tiền đề cho các năm tiếp theo.
4. Kết hợp giải quyết việc làm và sử dụng nguồn nhân lực.
Để thựcc hiện phát triển nguồn nhân lực, thì giải quyết việc làm và sử dụng nguồn nhân lực là một vấn đề cấp thiết đặt ra, đặc biệt là đối với tình hình nước ta hiện nay.
Các hoạt động của chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm giai đoạn 2001-2005 được xác định tiến hành trên 2 lĩnh vực: Phát triển KT-XH tạo mở việc làm, đẩy mạnh xuất khẩu lao động và chuyên gia; tăng cường các hoạt động hỗ trợ trực tiếp để giải quyết việc làm cho người thất nghiệp, người thiếu việc làm và các đối tượng yếu thế trong lực lượng lao động có nhu cầu làm việc.
Theo tính toán ban đầu, số lao động cần giải quyết việc làm trong 5 năm tới là khoảng 15 triệu người, bao gồm lao động mới tăng thêm mỗi năm khoảng 1,2 triệu người và số lao động chưa được gải quyết việc làm từ 5 năm trước đó chuyển sang. Trong đó ở nông thôn tính theo ngày công quy đổi là khơảng 12,5 triệu người, ở thành thị khoảng 2,5 triệu.
Trong 5 năm tới dự tính sẽ thu hút và tạo việc làm thêm cho khoảng 7,5 triệu lao động trong các ngành KTXH. Bình quân mỗi năm khoảng trên 1,5 triệu người. Phấn đấu đưa số lao động ở nông thôn có việc làm vào năm 2005 khoảng 28 triệu người (dự kiến có thể thu hút và tạo thêm khoảng 9 triệu lao động tính theo ngày công quy đổi nhờ các chương trình chuyển đổi cơ cấu sản xuất...) nâng thời gian sử dụng lao động ở nông thôn lên 80 %. Đối với khu vực thành thị, dự kiến trong 5 năm có thể thu hút và tạo việc làm thêm khoảng 1,78 triệu người trong các ngành sản xuất công nghiệp, xây dựng và dịch vụ đưa tổng số lao động có việc làm ở thành thị lên 11 triệu người, giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị xuống còn 5,4 % số lao động trong độ tuổi.
Bên cạnh tạo ra việc làm cho nguồn nhân lực cũng cần kết hợp với việc sử dụng nguồn nhân lực một cách hợp lý để có thể tiếp tục phát huy tính năng động sáng tạo, hiệu quả lao động. Thông qua đó, phát huy vai trò của nguồn nhân lực trong hoạt động sản xuất nhằm đạt mục tiêu phát triển KT-XH.
5. Bồi dưỡng chuyên môn kỹ thuật cho nguồn nhân lực nông nghiệp nông thôn.
Có thể nói, lao động nông thôn là nguồn nhân lực quan trọng nhất ở nước ta. Với khoảng 29,9 triệu người chiếm 3/4 lao động cả nước, lực lượng này chiếm phần lớn và phân bố rộng khắp trên cả nước. Tuy vậy, nguồn nhân lực nông nghiệp nông thôn vẫn chưa phát huy được hết tiềm năng vốn có do trình độ chuyên môn kỹ thuật còn thấp. Hiện nay hơn 90% lao động nông thôn chưa được qua đào tạo vì vậy năng suất lao động nông thôn ở nước ta rất thấp. Để đáp ứng yêu cầu CNH-HĐH kinh tế nông thôn, ngoài những chương trình dự án mang tầm quốc gia (như đã được triển khai) thì việc bồi dưỡng chuyên môn kỹ thuật cho nguồn nhân lực nông thôn là một trong những phương hướng cực kỳ quan trọng để nâng cao trình độ và năng suất lao động nông nghiệp nông thôn, thúc đẩy sự phát triển bền vững kinh tế nông thôn Việt Nam. Phương hướng đặt ra cho phát triển nguồn nhân lực nông thôn trong giai đoạn 2001-2005 và chiến lược đến 2010 là: Nhanh chóng đào tạo và đào tạo lại lực lượng lao động nông nghiệp nông thôn; đào tạo và phát triển nguồn nhân lực nông thôn cần hướng vào phục vụ chương trình CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn. Phấn đấu đến năm 2005 có khoảng 13-14% lực lượng lao động nông thôn được đào tạo và đến 2010 có khoảng 17-18%. Cùng với mục tiêu về mở rộng quy mô đào tạo cũng cần đổi mới, cải tiến nâng cấp nội dung và chương trình đào tạo, đây cũng là một yêu cầu cần thiết và cấp bách cho KHPT nguồn nhân lực nông thôn ở nước ta.
III- một số chính sách và giải pháp thực hiện kế hoạch phát triển nguồn nhân lực ở nước ta trong giai đoạn 2001-2005.
1. Tiếp tục thực hiện công tác vận động dân số và kế hoạch hoá gia đình.
Để khắc phục và hạn chế áp lực về dân số và giải quyết việc làm cho nguồn nhân lực từ nay đến 2005 và các năm tiếp theo thì chúng ta phải tiếp tục thực hiện công tác vận động Dân số và Kế hoạch hoá gia đình để nhằm giảm tốc độ gia tăng dân số, giảm quy mô nguồn nhân lực và áp lực về giải quyết việc làm trong những năm sau này đồng thời giảm các chi phí xã hội, nâng cao đời sống cho nhân dân.
Mở rộng tuyên truyền toàn dân thực hiện kế hoạch hoá gia đình, đặc biệt là dân cư ở nông thôn và các vùng miền núi. Tổ chức tuyên truyền dưới nhiều hình thức qua các phương tiện thông tin đại chúng, đài, báo và trực tiếp là các cán bộ địa phương, các cán bộ huyện,tỉnh đi tuyên truyền vận động trong nhân dân. Nội dung vận động có thể có nhiều hình thức: Vận động người dân sinh đẻ kế hoạch, mỗi gia đình chỉ nên có từ 1-2 con, không phân biệt nam nữ. Giáo dục về sức khoẻ và giới tính cho ngưòi dân đặc biệt là đối với nam nữ thanh niên kể cả ở thành thị và nông thôn, tránh tình trạng lập gia đình quá sớm khi chưa đủ tuổi quy định...
Đi đôi với thực hiện tuyên truyền vận động thì cũng cần có những biện pháp cụ thể giúp người dân thực hiện kế hoạch hoá gia đình như: Tổ chức các trung tâm y tế, các phòng ban kế hoạch hóa gia đình đến cấp xã để giúp người dân thực hiện các biện pháp tránh thai, triệt sản...Đồng thời kết hợp với các chương trình chăm sóc sức khoẻ bà mẹ trẻ em, chăm sóc sức khoẻ cộng đồng. Bên cạnh đó, cũng cần phải có những biện pháp để sử lý những vi phạm đối với những trường hợp không chịu thực hiện kế hoạch hoá gia đình, sinh đẻ vượt kế hoạch…
Những biện pháp trên sẽ là những giải pháp chủ yếu để hạn chế sự gia tăng quá nhanh của dân số cũng như giảm sự gia tăng số lượng lao động, hạn chế các áp lực về vấn đề giải quyết việc làm và các vấn đề xã hội nảy sinh.
2. Ưu tiên phát triển giáo dục và đào tạo.
Phải khẳng định rằng, đào tạo là một giải pháp quyết định nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho nước ta hiện nay. Thực tế hiện nay, đào tạo nguồn nhân lực nước ta chưa thống nhất với nhu cầu sử dụng lao động. Để thực hiện kế hoạch phát triển chất lượng nguồn nhân lực thì sự nghiệp giáo dục đào tạo cần giải pháp tác động đến nguồn nhân lực trên 3 phương diện:
Thứ nhất, thực hiện nâng cao dân trí, bảo đảm một trình độ dân trí, học vấn của người dân không ngừng đựoc tăng lên.
Thứ hai, đào tạo nguồn nhân lực, tạo điều kiện để nâng cao năng suất lao động, tăng hiệu quả hoạt động sản xuất.
Thứ ba, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước, những con người có trình độ học vấn cao, những người có tay nghề chuyên môn giỏi, những người có tư duy về khoa học kỹ thuật, quản ký kinh tế và có thể đóng góp những tài năng của mình cho đất nước.
Để GD-ĐT thực sự phát huy vai trò tích cực trong việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho sự nghiệp xây dựng đất nước, Thì những giải pháp quan trọng mà Đảng và nhà nước đã và đang đề ra đó là:
Tăng cường các nguồn lực cho GD-ĐT, có chính sách ưu tiên, ưu đãi về in ấn sách vở, trang thiết bị phục vụ giảng dạy học tập và nghiên cứu khoa học. Xây dựng đội ngũ giáo viên đủ tiêu chuẩn phục vụ cho sự nghiệp đào tạo nhân lực của đất nước. Khuyến khích tạo động lực cho người dạy và người học. Đổi mới nội dung, phương pháp GD và ĐT cũng như đổi mới về công tác quản lý giáo dục.
Để đạt mục tiêu về chất lượng nguồn nhân lực và cân đối về chất lượng đào tạo thì ngoài những chính sách và ưu tiên giáo dục các cấp bậc học phổ thông thì việc đào tạo nghề chuyên môn cần giải quyết tốt những mặt sau:
Duy trì quy mô đào tạo nhân lực có trình độ ĐH,CĐ và trên ĐH hiện có. Tăng cường kiểm tra đánh giá, thanh tra chất lượng đào tạo. Lập lại kỷ cương của nhà trong GD-ĐT nâng cao chất lượng của sản phẩm đào tạo. GD-ĐT hiệu quả của nó phải được đo bằng năng lực trí tuệ, trình độ chuyên môn vững vàng, tư duy sáng tạo chứ không phải chỉ là quy mô đào tạo.
Đào tạo nghề phải xuất phát từ nhu cầu về nhân lực. Hiện nay ta đang thiếu vốn nhân lực về lao động kỹ thuật (CNKT, NVKT) có tay nghề thành thạo. Do vậy, để khắc phục tình trạng trên, GD-ĐT nước ta cần nhanh chóng mở rộng các hình thức đào tạo các cán bộ có trình độ THCN, các CNKT lành nghề. Ngoài các trường TƯ thì phải tăng cường đào tạổ các cấp địa phương. Các tỉnh, thành phố cần tăng cường số lượng các trường THCN và trung tâm đào tạo CNKT nhằm đáp ứng nhu cầu cán bộ ở địa phương mình. Và để các trung tâm dạy nghề phát triển có hiẹu quả cũng cần thiết lập mối quan hệ giữa các trung tâm dạy nghê với các trung tâm xúc tiến viẹc làm. S ự liên kết giữa dạy nghề và việc làm trên địa bàn quận, huyện nhằm giú nhân dân địa phương có nghề để tạo việc làm, ổn định tình hình KT-XH của địa phương.
3. Phát triển các chương trình giáo dục bồi dưỡngchuyên môn kỹ thuật cho lao động nông thôn và miền núi.
Do đặc điểm của lao động nông thôn ở nước ta là dư thừa lao động và thiếu kỹ năng, trình độ chuyên môn, thiếu thông tin kiến thức. Để thực hiện phát triển kinh kinh tế của các vùng nông thôn và miền núi, cần tăng cường đào tạo kỹ năng cho lao động nông thôn cần và tìm ra các hình thức đào tạo đa dạng linh hoạt, giản đơn phù hợp và ít tốn kém sao cho mọi người đều có cơ hội được đào tạo thường xuyên, thiết thực, có kết qủa.
Thực hiện kết hợp chặt chẽ giữa các loại hình đào tạo, giữa đào tạo từng lớp khuyến nông, khuyến lâm. Ngoài ra, cần có chính sách ưu tiên hơn nữa cho người nông dân và con em của họ được học tập và bồi dưỡng kiến thức đầy đủ thường xuyên để khi học xong trở về phục vụ cho quê hương như các chính sách: Hỗ trợ học sinh nghèo, học sinh vùng sâu vùng xa, vùng cao và miền núi…Để nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật cho lao động nông nghiệp nông thôn (và để đạt mục tiêu đến năm 2005 có từ 13-15% lao động nông thôn được đào tạo, đến 2010 là 17-18%), cần phải áp dụng đồng bộ nhiều biện pháp. Các biện pháp chủ yếu có thể trình bày tóm tắt như sau:
Thứ nhất, xây dựng chương trình và nội dung học tập thiết thực cho lao động nông nghiệp nông thôn. Chương trình và nội dung học tập cần phù hợp với trình độ của lao động nông thôn và phục vụ cho nông nghiệp nông thôn trong giai đoạn trước mắt và 10 năm tới. Trước mắt cần trang bị những kiến thức và kỹ thuật về trồng trọt, chăn nuôi; các loại hình sản xuất nông nghiệp mới, khoa học hơn cũng như phổ biến các mô hình làm kinh tế mới cho kinh tế nông thôn…Bên cạnh đó, cũng cần tổ chức đào tạo kiến thức mới phục vụ CNH-HĐH dần dần các vùng nông thôn và miền núi, đáp ứng yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở nước ta.
Thứ hai, đa dạng hoá hình thức và thời gian đào tạo bồi dưỡng. Có nhiều loại đối tượng đào tạo, do đặc điểm của lao dộng nông thôn: Có người có thể thoát ly công việc để tập trung học tập một cách hệ thống. Đối với những đối tượng này nên được tổ chức đào tạo tập trung chính quy. Xong, phần lớn là những người lao động vừa công tác vừa học tập, thì nên thực hiện hình thức đào tạo tại các lớp bồi dưỡng linh hoạt, đào tạo các kiến thức cơ bản, thiết thực và có thể thành lập thêm các lớp học tại nơi làm việc như tại xưởng sản xuất gia đình, tại trang trại hay ngay trên đồng ruộng để người nông dân có thể tranh thủ thời gian vừa sản xuất vừa học tập.
Thứ ba, thực hiện xã hội hoá các hình thức đào tạo bồi dưỡng. Đó là việc tổ chức đào tạo gắn liền với việc liên hệ các cấp các ngành của địa phương cũng như các hội quần chúng các tổ chức nông thôn (như hội làm vườn, hội nông dân, hội phụ nữ v.v.). Thông qua đó, mỗi người có thể trao đổi kinh nghiệm học hỏi lẫn nhau.
Thứ tư, về phía nhà nước cần ban hành các chính sách khuyến khích động viên người được đào tạo về chuyên môn kỹ thuật phát huy tài năng vì sự nghiệp phát triển nông nghiệp nông thôn xây dựng quê hương.
4. Chính sách phát triển việc làm và điều kiện làm việc cho người lao động.
Như đã nói ở phần trên, việc giải quyết việc làm cho người lao động ở nước ta đang là vấn đề cấp bách đặt ra được nhà nước và nhiều ngành nhiều cấp qan tâm. Để giải quyết vấn đề về việc làm cho người lao động trong những năm tới đây, trước mắt cần có những chính sách giải pháp phân bổ lao động hợp lý, chuyển dịch nhanh cơ cấu nguồn nhân lực và tạo thêm việc làm cho người lao động. (Tuy nhiên thực tế cũng cho thấy đây không phải là một việc có thể thực hiện dễ dàng và có thể kết hợp được một cách đồng bộ).
Trước tiên, thực hiện khuyến khích phát triển sản xuất trong nước, khuyến khích các doanh nghiệp phát triển thuộc mọi thành phần kinh tế nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các trang trại ở các vùng trong nước sản xuất ra nhiều sản phẩm cho sản xuất và cho tiêu dùng trong nước và đặc biệt hướng đến xuất khẩu để thu hút thêm lao động. Nước ta nên chọn chiến lược phát triển định hướng việc làm hướng vào xuất khẩu. Đó là xu thế của thế giới đồng thời là giải pháp tối ưu cho phát triển kinh tế nước ta, để thu hút lao động dư thừa nông thôn và thành thị vào các ngành sản xuất sử dụng nhiều lao động đáp ứng nhu cầu tiêu dùng thiết yếu của nhân dân và nhu cầu xuất khẩu. Các chính sách về tạo môi trường kinh doanh, môi trường pháp lý, điều kiện kinh tế để mở rộng phát triển các ngành nghề. Ban hành các chính sách bảo vệ quyền lợi của người lao động và người sử dụng lao động, thiết lập quan hệ lao động lành mạnh bình đẳng. Ngoài ra có thể sử dụng việc điều tiết vĩ mô hợp lý để sản xuất trong nước như các chính sách về tín dụng, chính sách thuế, tăng cường vốn đầu tư tạo thêm việc làm…
Bên cạnh đó ta cũng nên chọn hướng đẩy mạnh xuất khẩu lao động và các chuyên gia để giải quyết việc làm tăng thu nhập cho người lao động, tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước. Muốn vậy phải tăng cường tìm kiếm, mở rộng thi trường lao động ở nước ngoài và coi đây là giải pháp quan trọng để giải quyết việc làm. Nhà nước đẩy mạnh nghiên cứu thị trường lao động quốc tế để chuẩn bị đào tạo nhân lực phục vụ cho xuất khẩu lao động.
Riêng đối với việc giải quyết tạo điều kiện tăng việc làm cho lao động nông thôn, thì cần có sự quy hoạch lại điểm dân cư nhằm phân bổ lại lực lượng lao động trong nông nghiệp, thúc đẩy quá trình đô thị hoá ở nông thôn làm cơ sở cho việc đẩy nhanh quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế và phân công lao động ở nông thôn. Nhà nước kích thích quá trình này bằng cách xây dựng cơ sở cấu trúc hạ tầng nông thôn như các mạng lưới điện, giao thông, thông tin và các trung tâm thương mại dịch vụ. Khuyến khích mọi người tìm kiếm cơ hội làm việc và tự tạo việc làm ngay tại quê hương như phát triển các làng nghề, các xã nghề, các ngành nghề truyền thống…Khuyến khích mọi người phát triển các mô hình kinh tế nông thôn, kinh tế trang trại, vườn đồi khai thác các vùng đất hoang hoá, các bãi bồi, tận dụng mặt nước nuôi trồng thuỷ hải sản để tạo thêm việc làm và sử dụng thời gian lao động. Bên cạnh đó Nhà nước cũng cần có những ưu đãi về vay vốn, trợ cấp, hướng dẫn kỹ thuật để cho người nông dân có điều kiện thực hiện phát triển kinh tế và có việc làm.
5. Thực hiện các chương trình bảo vệ sức khoẻ cho cộng đồng.
Đây là biện pháp quan trọng để nâng cao chất lượng cho nguồn trước mắt và lâu dài đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH-HĐH. Các biện pháp để làm tốt công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, nâng cao thể lực, phát triển giống nòi và tăng tuổi thọ.
Tiếp tục thực hiện có hiệu quả các chương trình xoá đói giảm nghèo, quan tâm xây dựng kết cấu hạ tầng cho các vùng nghèo, nâng cấp cải tạo các hệ thống giao thông, nối các vùng nghèo với các khu trung tâm và với các vùng phát triển khác tạo điều kiện giao lưu phát triển kinh tế.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục và nâng cao chất lượng các dịch vụ về dân số kế hoạch hoá gia đình. Đồng thời hình thành phong trào rộng lớn trong việc nâng cao chất lưọng công tác y tế, chăm sóc sức khoẻ, đẩy mạnh phong trào thể dục thể thao trong mọi tầng lớp nhân dân và mọi lứa tuổi…
Kết hợp làm tốt công tác phòng bệnh, phòng dịch vệ sinh, an toàn thực phẩm, nước sinh hoạt cho mọi tầng lớp nhân dân đặc biệt là đối với những người dân ở vùng sâu vùng xa, dân nghèo ở thành thị và nông thôn.
Cải thiện môi trường sống, giáo dục tuyên truyền cho người dân ý thức bảo vệ môi trường nơi sinh sống, nhằm cải thiện môi trường theo hướng bền vững kết hợp giữa phát triển KT-XH-MT. Trước mắt, tập trung giải quyết tình trạng suy thoái môi trường, đặc biệt tại các khu công nghiệp khu dân cư đông đúc chật chội ở thành phố lớn và một số vùng nông thôn. Kiểm soát ô nhiễm môi trường và ứng cứu sự cố môi trường do thiên tai lũ lụt gây ra qua đó nâng cao điều kiện sống đảm bảo tốt hơn cuộc sống cho người dân.
Kết luận
Như vậy, qua bài viết này ta có thể thấy tầm quan trọng của nguồn nhân lực cũng như việc xây dựng Kế hoạch phát triển nguồn nhân lực đối với sự phát triển kinh tế –xã hội của một quốc gia.
Đối với nước ta trong quá trình đổi mới, việc xây dựng một kế hoạch phát triển nguồn nhân lực cho đất nước là một yêu cầu cấp thiết, để qua đó có thể đưa ra những dự báo, những định hướng, quy hoạch cho việc phát triển những con người phục vụ yêu cầu của quá trình CNH-HĐH đất nước. Việc xây dựng và thực hiện kế hoạch hoá nguồn nhân lực cần phải được nghiên cứu xem xét trong mỗi quan hệ biện chứng với các kế hoạch khác trong tổng thể hệ thống KHHPT KT-XH và trong bối cảnh thực tiễn của nên kinh tế. Từ đó, đặt ra những mục tiêu, và giải pháp cho việc phát triển nguồn nhân lực ở nước ta trong thời gian tới, góp phần đẩy nhanh sự nghiệp CNH-HĐH, phát triển một nền kinh tế hiện đại bền vững.
Mục lục
Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35169.doc