Đề tài Kế hoạch và giải pháp thực hiện kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế 2006-2010

Trong những năm đổi mới, nhất là thời kỳ 1996-2004, quy mô và tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung, kinh tế công nghiệp, nông nghiệp và hoạt động dịch vụ nói riêng đã có nhiều chuyển biến tích cực theo hướng CNH-HĐH. Kết quả là đến năm 2004, các mục tiêu chủ yếu về chuyển dịch cơ cấu kinh tế đề ra cho kế hoạch 5 năm 2001-2005 đã được thực hiện. Cơ cấu GDP theo ba khu vực: nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ năm 2004 là: 21.76%; 40.09%;38.12% so với kế hoạch: 20-21%; 38-39%; 41-42%. Như vậy, đến năm 2004 đã có hai mục tiêu đạt được là tỷ trọng công nghiệp và nông nghiệp trong GDP, chỉ tiêu chưa đạt được là tỷ trọng dịch vụ quá thấp và có xu hướng giảm dần. Đó là vấn đề tồn tại nhất không chỉ trong cơ cấu GDP của nền kinh tế mà là của từng ngành, từng khu vực sản xuất công, nông nghiệp, xây dựng. Cơ cấu kinh tế trong nội bộ từng ngành sản xuất và hoạt động dịch vụ tuy có chuyển dịch theo hướng CNH-HĐH nhưng quy mô và tốc độ còn rất chậm so với yêu cầu đề ra, nhất là trong nông nghiệp. Tác động của chuyển dịch cơ cấu kinh tế đối với tăng hiệu quả kinh tế-xã hội, sản xuất và dịch vụ còn chưa rõ nét. Tính tự phát, manh mún và tự cấp tự túc không theo quy hoạch và kế hoạch còn phổ biến ở các ngành, các vùng và các địa phương. Do vậy, kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế năm 2006-2010 có vai trò đặc biệt quan trọng đối với việc thực hiện thắng lợi đường lối phát triển kinh tế xã hội. Đây là 5 năm cuối cùng trong quá trình thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm 2001-2010; Chiến lược đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền tảng đến năn 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp.

doc31 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1602 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Kế hoạch và giải pháp thực hiện kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế 2006-2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ảng cách này phụ thuộc vào nhiều nhân tố: Sự thay đổi của đối tượng dự báo, mức ổn định của các nhân tố ảnh hưởng, độ dài thời gian tiền sử… 1.2.Chức năng Theo quan điểm của triết học, dự báo là một hình thức nhận thức thế giới, nhận thức xã hội. Nó có hai chức năng cơ bản: Chức năng tham mưu: Trên cơ sở đánh giá thực trạng, hiện tại và tương lai, dự báo sẽ cung cấp thông tin cần thiết, khách quan làm căn cứ cho việc ra quyết định quản lý và xây dựng chiến lược, kế hoạch hoá các chương trình, dự án… Người quản lý và hoạch định chiến lược, người lập kế hoạch có nhiệm vụ phải lựa chọn trong số các phương án có thể có, tìm ra các phương án có tính khả thi cao nhất, có hiệu quả cao nhất. Để thực hiện tốt chức năng này dự báo phải thực sự đảm bảo tính khách quan, khoa học và tính độc lập tương đối với cơ quan quản lý và hoạch định chính sách. Chức năng khuyến nghị hay điều chỉnh. Với chức năng này dự báo tiên đoán các hậu quả có thể nảy sinh trong quá trình thực hiện các chính sách kinh tế- xã hội nhằm giúp cơ quan chức năng kịp thời điều chỉnh các mục tiêu cũng như cơ chế tác động quản lý để đạt hiệu quả kinh tế- xã hội cao nhất. Với hai chức năng đó, nếu xét trong quan hệ với kế hoạch thì dự báo gồm hai loại: Dự báo trước kế hoạch và dự báo sau kế hoạch. Dự báo trước kế hoạch là tiền đề khoa học đảm bảo tính khả thi của kế hoạch, còn dự báo sau kế hoạch giúp cho quá trình chỉ đạo thực hiện kế hoạch đạt hiệu quả cao nhất. 2. Chiến lược phát triển 2.1. Khái niệm Về cơ bản, chiến lược phát triển là hệ thống các phân tích, đánh giá và lựa chọn về quan điểm, mục tiêu tổng quát định hướng phát triển các lĩnh vực chủ yếu của đời sống xã hội và các giải pháp cơ bản trong đó bao gồm các chính sách về cơ cấu, cơ chế vận hành hệ thống kinh tế-xã hội nhằm mục tiêu đặt ra trong một khoảng thời gian dài. Như vậy, mục tiêu xây dựng các chiến lược phát triển là đạt tới mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội nhất định và tìm ra hướng đi tối ưu cho quá trình phát triển. Xây dựng và quản lý bằng chiến lược phát triển là một yêu cầu bức thiết đăt ra và có ý nghĩa rất quan trọng đối với mọi quốc gia trong nền kinh tế thị trường với không gian kinh tế được mở rộng đến mức không phân biệt biên giới. Điều này xuất phát từ: Thứ nhất, xây dựng và quản lý bằng chiến lược phát triển sẽ giúp cho các nhà lãnh đạo phải xem xét và xác định đất nước sẽ đi theo hướng nào và khi nào thì đạt tới một điểm cụ thể nhất định. Thư hai, trong điều kiện nền thị trường kinh tế mở, môi trường mà các quốc gia gặp phải luôn biến đổi nhanh chóng, những biến đổi này thường tạo ra các cơ hội trong tương lai, tận dụng các cơ hội đó và giảm bớt các nguy cơ liên quan đến điều kiện môi trường. Thứ ba, có xây dựng và quản lý bằng chiến lược phát triển, các nhà lãnh đạo và quản lý mới đưa ra các quyết định tác nghiệp phù hợp. 2.2. Chức năng Chức năng chủ yếu của chiến lược là đinh hướng, vạch ra các đường nét chủ yếu cho sự phát triển của đất nước trong thời gian dài, vì vậy chiến lược sẽ mang tính chất định tính là chủ yếu (như các quan điểm, phương hướng, chính sách…). Tuy vậy, chiến lược cũng phải có tính định lượng ở một mức độ cần thiết. Để định hướng, chiến lược cần làm tốt cả mặt định tính cũng như định lượng, tức là có cả các tính toán, các dự báo, các luận chứng cụ thể. Trên thế giới, nhiều nước đã đưa ra các chiến lược phát triển dài hạn theo quan niệm về một chiến lược định hướng, chiến lược “mềm” có thể điều chỉnh trong từng bước thực hiện cho phù hợp với những biến đổi của cuốc sống đất nước và hoàn cảnh quốc tế. 3. Quy hoạch phát triển 3.1.Khái niệm Không thể thiếu được quy hoạch trong lý thuyết và thực tiễn kế hoạch hoá. Nếu chiến lược phát triển là vạch ra các đường nét hướng đạo cho sự phát triển trong một thời gian dài thì quy hoạch phát triển thể hiện tầm nhìn, sự bố trí chiến lược về thời gian và không gian lãnh thổ, xây dựng khung vĩ mô về tổ chức không gian để chủ động hướng tới mục tiêu, đạt hiệu quả cao, phát triển bền vững. 3.2.Chức năng Chức năng của quy hoạch phát triển trước hết là sự thể hiện của chiến lược trong thực tiễn phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Quy hoạch cụ thể hoá chiến lược cả về mục tiêu và giải pháp. Nếu không quy hoạch sẽ mù quáng, lộn xộn, đổ vỡ trong phát triển, quy hoạch để định hướng, dẫn dắt, điều chỉnh trong đó có cả điều chỉnh thị trường. Mặt khác, quy hoạch còn có chức năng là cầu nối giữa chiến lược, kế hoạch và quản lý thực hiện chiến lược, cung cấp các căn cứ khoa học cho các cấp để chỉ đạo vĩ mô nền kinh tế thông qua các kế hoạch, các chương trình dự án đầu tư, bảo đảm cho nền kinh tế phát triển nhanh, bền vững. 4. Chương trình dự án phát triển kinh tế-xã hội 4.1.Khái niệm Nếu trong nền kinh tế tập trung, hệ thống kế hoạch thường được thể hiện cụ thể bằng các chỉ tiêu pháp lệnh thì trong nền kinh tế thị trường, thực hiện các chương trình quốc gia giải quyết các vấn đề bức xúc về kinh tế-xã hội là một phương pháp kế hoạch hoá được áp dụng ở nhiều nước trên thế giới. Ở Việt Nam cùng với quá trình đổi mới và mở cửa nền kinh tế, phương pháp kế hoạch hoá quản lý theo các chương trình quốc gia cũng được áp dụng rộng rãi từ năm 1992. Kế hoạch hoá và quản lý theo các chương trình phát triển là đưa ra các chương trình mục tiêu để xử lý những vấn đề nổi cộm về kinh tế-xã hội của đất nước. Đây là một phương pháp quản lý vừa mang tính đặc biệt lại vừa mang tính nghệ thuật cao. Tính đặc biệt thể hiện ở chỗ nó vưa khác hẳn các phương pháp khác về cơ chế, chính sách, cách điều hành, kiểm tra, đánh giá kết quả, đối tượng hưởng thụ… Còn tính nghệ thuật là phải làm sao chọn đúng đối tượng các vấn đề cần xử lý bằng các chương trình. Tính nghệ thuật này còn được thể hiện trong khả năng lồng ghép các chương trình trong tổ chức chỉ đạo. 4.2.Chức năng Cụ thể hoá kế hoạch, đưa nhiệm vụ kế hoạch vào thực tiễn cuộc sống. Có thể gọi đây là một phương pháp tiến hành của kế hoạch. Với chức năng này, một chương trình quốc gia phải đảm bảo các mục tiêu cụ thể, các chỉ tiêu biện pháp và các giải pháp thực hiện. Xử lý các vấn đề gay cấn nhất về kinh tế-xã hội của một quốc gia. Các vấn đề cần phải xây dựng và quản lý bằng chương trình quốc gia là các vấn đề bức xúc, các khâu đột phá, các mắt xích quan trọng của nền kinh tế. Hiện nay theo xu hướng đổi mới kế hoạch hoá, các chương trình dự án phát triển lại được xem như là cơ sở để thực hiện phân bố nguồn lực như: Vốn đầu tư, ngân sách… thay cho hình thức phân bổ theo đối tượng như trước kia. 5. Kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế-xã hội 5.1.Vị trí trung tâm của KH 5 năm Nghị quyết đại hội 9 Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định “xây dựng kế hoạch 5 năm trở thành công cụ chủ yếu của hệ thống kế hoách hoá phát triển”. Thời hạn 5 năm là thời hạn thường trùng lặp với nhiệm kỳ làm việc của cơ quan chính phủ, là thời hạn ma theo đó lợi tức đầu tư bắt đầu có sau một năm hoặc một vài năm. Những kế hoạch trong phạm vi 5 năm thường chính xác hơn, dễ thực thi hơn những kế hoạch có thời hạn dài hơn. Kế hoạch 5 năm là sự cụ thể hoá các chiến lược và quy hoạch phát triển trong lộ trình phát triển dài hạn của đất nước. Nó xác định các mục tiêu, chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế, nâng cao phúc lợi xã hội trong thời kỳ 5 năm và xác định các cân đối, các chính sách phân bổ nguồn lực, vốn cho các chương trình phát triển của khu vực kinh tế Nhà nước và khuyến khích sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân. Nội dung chủ yếu của việc lập kế hoạch 5 năm bao gồm: Xác định nhiệm vụ tổng quát và các mục tiêu, chỉ tiêu chủ yếu phát triển kinh tế-xã hội của đất nước trong giai đoạn 5 năm như: Mục tiêu tămg trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, huy động tiết kiệm, các chỉ tiêu về phúc lợi xã hội. Xác định các chương trình và lĩnh vực phát triển. Các vấn đề được đưa vào chương trình và lĩnh vực phát triển có sự lựa chọn, nó thực sự phải là các vấn đề nổi cộm, trọng yếu cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế. Các chương trình phát triển chính là cơ sở để hoàn thành các nhiệm vụ và mục tiêu phát triển của kỳ kế hoạch 5 năm. Phần các giải pháp lớn của kế hoạch 5 năm sẽ bao gồm hai nội dung cơ bản: Thứ nhất là xác định các cân đối vĩ mô chủ yếu: Cân đối vốn đầu tư, cân đối xuất nhập khẩu, cán cân thanh toán quốc tế, cân đối sức mua của toàn xã hội; xác định các khả năng thu hút vốn cả trong và ngoài nước, đồng thời xác định những quan hệ lớn về phân bổ đầu tư giữa các vùng kinh tế, giữa công nghiệp, nông nghiệp và các lĩnh vực văn hoá, xã hội; xác định các quan hệ cung cầu một số vật tư hàng hoá chủ yếu. Thư hai là xây dựng, hoàn thiện những vấn đề cơ chế quản lý và các vấn đề tổ chức thực hiện. 5.2. Phương pháp xây dựng kế hoạch 5 năm Phương pháp xây dựng kế hoạch 5 năm áp dụng ở Việt Nam và các nước đang phát triển là xây dựng kế hoạch 5 năm theo giai đoạn cố định, ví dụ như kế hoạch 5 năm 1996-2000; kế hoạch 5 năm 2001-2005… Các chỉ tiêu kế hoạch được tính cho cả thời kỳ 5 năm, bình quân năm hoặc con số năm cuối. Đây là phương pháp truyền thống dễ xây dựng, dễ quản lý, dễ đánh giá. Hiện nay, các nước như Cộng hoà Pháp, Nhật Bản hay Đức đã áp dụng thành công phương pháp xây dựng kế hoạch 5 năm theo hình thái “cuốn chiếu”. Kế hoạch 5 năm sẽ xác định các mục tiêu tổng thể, bao gồm kế hoạch chính thức 1 năm đầu, kế hoạch thực hiện dự tính cho năm chính thức 1 năm đầu, kế hoạch thực hiện dự tính cho năm kế thứ hai và dự báo cho các năm tiếp theo. Mức độ chi tiết, cụ thể và chính xác của nội dung kế hoạch của nhưng năm sau phụ thuộc vào số lượng và độ tin cậy của thông tin có được. Kế hoạch 5 năm sẽ được xem xét vào thời gian cuối mỗi năm. Khi cơ quan kế hoạch Quốc gia hoàn tất năm đầu kế hoạch, họ bổ sung cho những dự trù, những mục tiêu, những dự án cho năm tiếp theo. Ví dụ, kế hoạch 2001-2005 sẽ được xem xét vào cuối năm 2001 và đề ra kế hoạch mới cho thời kỳ 2002-2006, trên thực tế kế hoạch được đổi mới vào thời gian cuối mỗi năm nhưng số năm vẫn giữ nguyên. Kế hoạch 5 năm được xây dựng theo phương pháp cuốn chiếu sẽ khắc phục được tính nhất thời, tuỳ tiện và thậm chí trái ngược nhau trong các mục tiêu cũng như trong các chính sách kinh tế. Phương pháp này đã được đưa ra trong nhiều đề án đổi mới kế hoạch hoá ở Việt Nam. II. Sự cần thiết phải thực hiện kế hoạch 5 năm chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế 1. Nhiệm vụ của kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế 1.1.Cơ cấu kinh tế Cơ cấu kinh tế là một tổng thể hệ thống kinh tế bao gồm nhiều yếu tố có quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại với nhau trong một không gian và thời gian nhất định, trong những điều kiện cụ thể, hướng vào thực hiện các mục tiêu đã định. Cơ cấu kinh tế thường gồm ba phương diện hợp thành. Đó là: Cơ cấu nghành kinh tế Cơ cấu thành phần kinh tế Cơ cấu vùng lãnh thổ Chỉ tiêu kinh tế làm cơ sở để biểu hiện cơ cấu là GDP(tổng sản phẩm nội địa). Cơ cấu nghành kinh tế là tổ hợp các ngành hợp thành các tương quan tỷ lệ, biểu hiện mối quan hệ giữa các ngành của nền kinh tế quốc dân. Cơ cấu ngành kinh tế phản ánh phần nào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội của một quốc gia. Cơ cấu kinh tế lãnh thổ được hình thành bởi việc bố trí sản xuất theo không gian địa lý. Trong cơ cấu lãnh thổ, có sự biểu hiện của cơ cấu ngành trong điều kiện cụ thể của không gian lãnh thổ. Tuỳ theo tiềm năng phát triển kinh tế, gắn liền với sự hình thành và phân bố dân cư trên lãnh thổ để phát triển tổng hợp hay ưu tiên một vài ngành kinh tế nào đó. Việc chuyển dịch cơ cấu lãnh thổ phải đảm bảo sự hình thành và phát triển có hiệu quả của các ngành kinh tế trên lãnh thổ và trên pham vi cả nước. Cơ cấu thành phần kinh tế biểu hiện hệ thống tổ chức kinh tế với các chế độ sở hữu khác nhau có khả năng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, thúc đẩy phân công lao động xã hội. Cơ cấu thành phần kinh tế cũng là một nhân tố tác động đến cơ cấu ngành kinh tế và cơ cấu vùng, lãnh thổ trong quá trình phát triển. Ba loại hình cơ cấu trên đặc trưng cho cơ cấu kinh tế của nền kinh tế quôc dân. Chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó cơ cấu ngành kinh tế có vai trò quan trọng hơn cả. Cơ cấu ngành và thành phần kinh tế chỉ có thể được hình thành và phát triển trên pham vi vùng lãnh thổ và trên phạm vi cả nước. Đồng thời, việc phân bổ sản xuất trên pham vi vùng lãnh thổ một cách hợp lý có ý nghĩa rất quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển các ngành và các thành phần kinh tế trên vùng lãnh thổ. 1.2. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Cơ cấu ngành kinh tế lại có thể xét thấy trên nhiều góc độ. Với việc xem xét các các yếu tố đầu vào là cơ cấu lao động, cơ cấu kỹ thuật. Thông thường cơ cấu đầu ra tính theo giá trị sản xuất được sử dụng để phản ánh cơ cấu ngành. Sự chuyển dịch cơ cấu này mang tính quy luật, đó là khi thu nhập đầu người tăng lên thì tỷ trọng nông nghiệp trong tổng sản phẩm sẽ giảm xuống, còn tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ sẽ tăng nhanh hơn tỷ trọng của công nghiệp. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành đã được hai nhà kinh tế học là E. Engel và A. Fisher ngiên cứu khi đề cập đến sự thay đổi về nhu cầu chỉ tiêu và sự thay đổi cơ cấu lao động. Ngay từ cuối thế kỷ 19, E. Engel đã nhận thấy rằng, khi thu nhập các gia đình tăng lên thì tỉ lệ chi tiêu cho lương thực, thực phẩm giảm đi nên tất yếu dẫn đến tỷ trọng nông nghiệp trong toàn bộ nền kinh tế sẽ giảm đi khi thu nhập tăng lên. Quy luật E.Engel được nghiên cứu cho sự tiêu dùng lương thực, thực phẩm, nhưng có ý nghĩa quan trọng trong việc nghiên cứu tiêu dùng cho các loại sản phẩm khác. Các nhà kinh tế gọi lương thực, thực phẩm là sản phẩm thiết yếu, hàng công nghiệp là sản phẩm tiêu dùng lâu bền và việc cung cấp dịch vụ là hàng tiêu dùng cao cấp. Thực tế phát triển của các nước đã chỉ ra xu hướng chung là khi thu nhập tăng lên thì tỉ lệ chi tiêu cho hàng tiêu dùng lâu bền tăng phù hợp với tốc độ tăng thu nhập, còn chi tiêu cho hàng tiêu dùng cao cấp có tốc độ tăng nhanh hơn. Cùng với quy luật tiêu thụ sản phẩm E.Engel, quy luật tăng năng suất lao động của A.Fisher cũng làm rõ xu hướng chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế qua việc phân bố lao động. Trong quá trình phát triển, việc tăng cường sử dụng máy móc và các phương thức canh tác mới đã tạo điều kiện nâng cao năng suất lao động. Kết quả là, để đảm bảo lương thực, thực phẩm cho xã hội sẽ không cần đến lực lượng lao động như cũ, có nghĩa là tỉ lệ lao động trong nông nghiệp sẽ giảm đi. Ngược lại, tỉ lệ lao động thu hút vào công nghiệp sẽ ngày càng tăng do tính co giãn về nhu cầu sản phẩm của hai khu vực và khả năng hạn chế hơn trong việc áp dụng tiến bộ kỹ thuật để thay thế lao động, đặc biệt là hoạt động dịch vụ. 1.3. Nhiệm vụ của kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Mặc dù xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành là mang tính quy luật, nhưng trong thực tế không có một mô hình chuyển dịch chung cho tất cả các nước. Trong công tác kế hoạch những vấn đề thường phải đặt ra như cần ưu tiên cho nông nghiệp đến mức độ nào đó so với công nghiệp trong thời kỳ đầu phát triển, các mối liên kết kinh tế được phát huy thế nào qua các thời kỳ. Do đó, nhiệm vụ đặt ra cho kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là: Xác định các điều kiện, yếu tố và các quan điểm chi phối sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đây chính là cơ sở để đưa ra các hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Nó bao hàm các vấn đề kinh tế-xã hội, khoa học, công nghệ, các mối quan hệ kinh tế quốc tế và các nguồn lực của đất nước. Xác định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cụ thể hoá bằng các quan hệ tỉ lệ giữa các ngành sao cho đảm bảo phù hợp với xu thế biến đổi chung và phản ánh được đặc điểm của nền kinh tế trong những điều kiện cụ thể. Xác định hướng huy động và sử dụng các yếu tố đầu vào đặc biệt là cơ cấu vốn đầu tư và cơ cấu lao động nhằm đảm bảo cơ cấu đầu ra theo hướng đã định. Đề xuất các chính sách, biện pháp kinh tế-xã hội cần thiết để hướng dẫn hoạt động nền kinh tế sao cho đáp ứng được các yêu cầu của sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. 2. Nội dung kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế 2.1. Xác định cơ cấu kinh tế Để xác định cơ cấu ngành trong kỳ kế hoạch, phương pháp được sử dụng phổ biến là dựa vào mô hình Vào-Ra. Mô hình này nghiên cứu những mối liên hệ tỉ lệ cân đối đặc trưng cho việc phân phối sản phẩm giữa các ngành và mối quan hệ giữa khối lượng sản phẩm và chi phí để sản xuất ra những sản phẩm này. Việc phân phối sản phẩm trong nền kinh tế được đặc trưng bằng quan hệ tỉ lệ: Xi = Xi1 +Xi2 +...+Xin + Yi (i = 1,2,...,n) (1) trong đó: Xi: tổng sản phẩm của ngành i Xij: khối lượng sản phẩm ngành i tiêu dùng cho sản phẩm ngành j với tư cách là chi phí trung gian. Yi: khối lượng sản phẩm cuối cùng của ngành i. Tổng số ij phản ánh khối lượng sản phẩm ngành i sẽ tiếp tục chế biến trong các ngành sản xuất, lượng sản phẩm này được gọi là sản phẩm trung gian. Sản phẩm cuối cùng (Yi) là những sản phẩm được đưa ra khỏi sản xuất hàng năm được dùng để bù đắp hao mòn, sử dụng cho tiêu dùng, tích luỹ và khối lượng chênh lệch xuất-nhập khẩu. Khi xây dựng mô hình Vào-Ra người ta thường giả thiết rằng khối lượng sản phẩm của ngành i tiêu dùng cho ngành j tỉ lệ thuận với khối lượng sản phẩm của ngành j: Xị = aij Xj (i,j = 1,2,...,n) (2) trong đó aij là hao phí trực tiếp sản phẩm ngành i để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm ngành j - được gọi là hệ số hao phí trực tiếp. Hợp nhất phương trình (1) và (2) sẽ có: Xi = aij Xj + Yi (i=1,2,...,n) Như vậy, để xác định cơ cấu ngành của nền kinh tế người ta thường dựa vào kế hoạch của sản phẩm cuối cùng của các ngành với hệ số hao phí trực tiếp phù hợp với trình độ kỹ thuật của từng ngành. 2.2. Các yếu tố tác động đến cơ cấu ngành Sự hình thành cơ cấu ngành thực chất là kết quả của việc phân phối các yếu tố đầu vào và cách thức tổ chức sản xuất. Nói chung, trong mỗi ngành càng có nhiều vốn, nhiều lao động, kỹ thuật tiên tiến, tổ chức sản xuất ngày càng khoa học thì năng lực sản xuất ngày càng tăng. Do vậy, cơ cấu ngành cũng là mô hình phân bố các yếu tố sản xuất các ngành. Nó vừa là sự phân phối tài nguyên, lao động, vừa là sự phân phối máy móc, thiết bị, các yếu tố trung gian và kỹ thuật. Trong mô hình trên, hệ số chi phí trực tiếp aij phản ánh hao phí sản phẩm cần thiết của ngành i để trực tiếp sản xuất ra một đơn vị sản phẩm ngành j. Trong thời kỳ kế hoạch, hệ số này phụ thuộc trình độ công nghệ sản xuất, cho nên cũng được gọi là hệ số kỹ thuật. Để xem xét sự tác động của hệ số kỹ thuật đối với cơ cấu ngành chúng ta giả đình rằng cơ cấu các yếu tố trung gian đầu vào không thay đổi. Trong điều kiện đó, nếu tình hình kỹ thuật của các ngành công nghiệp không thay đổi, hoặc thay đổi theo cùng một hướng, với cùng một tỉ lệ tốc độ thì hệ số hiệu suất đầu ra của các yếu tố đầu vào giữa các ngành cũng không thay đổi. Nếu kỹ thuật của một số ngành thay đổi, còn ở những ngành khác vẫn như cũ, hoặc tốc độ thay đổi, còn ở những ngành khác vẫn như cũ, hoặc tốc độ thay đổi kỹ thuật của các ngành không giống nhau thì hế số hiệu suất đầu ra của các ngành cũng thay đổi. Xét trong thời ngắn hạn, có thể có trường hợp thứ nhất, nhưng trong dài hạn thì chỉ có thể xảy ra trong trường hợp sau: Như vậy tiến bộ kỹ thuật là yếu tố thúc đẩy hệ số kỹ thuật thay đổi và sự thay đổi này lại là yếu tố quyết định thay đổi cơ cấu ngành được thể hiện ở chỗ: Tiến bộ kỹ thuật thúc đẩy ngành mới ra đời. Tiến bộ kỹ thuật, nâng cao sức mạnh cạnh tranh quốc tế của sản phẩm, thúc đẩy việc hợp lý cơ cấu ngành. Trong trường hợp hệ số kỹ thuật của các ngành không thay đổi, nếu thay đổi cơ cấu tài sản cố định và tỉ lệ các yếu tố trung gian đầu vào thì năng lực sản xuất của tài sản cố định gia tăng và theo đó gia tăng các sản phẩm trung gian thì các ngành này cũng sẽ gia tăng sản phẩm đầu ra. Sự thay đổi cơ cấu tài sản cố định và các yếu tố trung gian đầu vào chính là kết quả của sự thay đổi cơ cấu đầu tư. Cơ cấu đầu tư là tỉ lệ phân phối vốn đầu tư vào các ngành khác nhau. Do đó, có thể nói cơ cấu đầu tư là yếu tố quyết định đối với cơ cấu ngành. CHƯƠNG II: ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC HIỆN KẾ HOẠCH 5 NĂM 2001-2005 VỀ CHUYỂN CHỊCH CƠ CẤU KINH TẾ I. Mục tiêu của kế hoạch đề ra 2001-2005 về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế 1.Mục tiêu chung Đại hội Đảng lần thứ IX đã đặt ra mức phấn đấu cao trong kế hoạch 5 năm 2001-2005 là: “Tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững: ổn định và cải thiện đời sống nhân dân. Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công ngiệp hoá, hiện đại hoá. Nâng cao rõ rệt hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Mở rộng kinh tế đối ngoại. Tạo chuyển biến mạnh về giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, phát huy nhân tố con người. Tạo việc làm, cơ bản xoá đói, giảm số hộ nghèo; đẩy lùi các tệ nạn xã hội; hình thành một bước quan trọng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia”. 2. Các chỉ tiêu về chuyển dịch cơ cấu ngành 2.1. Chỉ tiêu về tốc độ tăng trưởng các ngành Tổng GDP năm 2005 gấp 2 lần so với năm 1995. Nhịp độ tăng trưởng bình quân hàng năm là 7.5%, trong đó nông, lâm, ngư nghiệp tăng 4,0-4.3%, công nghiệp và xây dựng tăng 10.4%-10.8%, dịch vụ tăng 6.2%-6.8%. Giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp tăng 4.8%/năm; giá trị sản xuất ngành công nghiệp tăng 13%/năm; giá trị sản xuất các ngành dịch vụ tăng 7.5%. Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 16%/năm. 2.2. Chỉ tiêu về thay đổi tỉ trọng của các ngành trong GDP Đến năm 2005: -Tỷ trọng nông, lâm, ngư nghiệp trong GDP khoảng 20-21% -Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng trong GDP khoảng 38-39% -Tỷ trọng các ngành dịch vụ trong GDP khoảng 41-42% 3. Những yếu tố tác động đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế 3.1. Công nghệ Công nghệ là yếu tố thúc đẩy hệ số kỹ thuật thay đổi và sự thay đổi này lại là yếu tố quyết định thay đổi cơ cấu ngành. Thực tế cho ta thấy sự tác động của tiến bộ kỹ thuật đến cơ cấu ngành được thể hiện ở chỗ: Tiến bộ kỹ thuật làm nâng cao năng suất lao động, tác động đến cơ cấu lao động và tiến bộ kỹ thuật, nâng cao sức cạnh tranh quốc tế của sản phẩm, thúc đẩy việc hợp lý cơ cấu ngành. Trong trường hợp hệ số kỹ thuật của các ngành không thay đổi, nếu năng lực sản xuất của tài sản cố định gia tăng và theo đó gia tăng các sản phẩm trung gian thì các ngành này cũng sẽ tăng sản phẩm đầu ra. 3.2. Cơ cấu đầu tư Cơ cấu đầu tư là tỉ lệ phân phối vốn đầu tư vào các ngành khác nhau. Vì thế, xác định tỷ lệ, cơ cấu vốn đầu tư theo ngành, theo các lĩnh vực, đối tượng, khu vực đầu tư là một công việc rất quan trọng bởi vì điều đó đặt ra mối quan hệ chặt chẽ giữa kế hoạch vốn đầu tư với các kế hoạch về chuyển dịch cơ cấu kinh tế và các đặc trưng đầu tư của từng ngành, vùng, các thành phần kinh tế. Do đó, có thể nói cơ cấu đầu tư là yếu tố quyết định đối với chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. 3.3. Xu hướng chung của các nước trên thế giới Xu hướng chuyển mạnh sang các ngành kinh tế tri thức, các ngành công nghiệp cao sẽ làm giảm lợi thế cạnh tranh của các nguồn tài nguyên và lao động ở nước ta. Sự chuyển đổi và giao lưu công nghệ quốc tế sẽ tạo ra các điều kiện thuận lợi để nước ta có thể lựa chọn và tiếp nhận các công nghệ thích hợp với điều kiện cụ thể của nước ta, phát triển những ngành và sản phẩm mới có triển vọng và phù hợp với trình độ phát triển và lợi thế so sánh của nước ta. Cạnh tranh quốc tế sẽ quyết liệt hơn về mặt mở rộng thị trường cũng như tranh thủ các nguồn lực từ bên ngoài. Do vậy, nước ta phải đẩy mạnh đổi mới và chủ động hộp nhập hơn nữa nhằm phát huy nội lực và tranh thủ nguồn lực từ bên ngoài. Mặt khác, xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá phát triển nhanh chóng và tác động mạnh mẽ đến kinh tế nước ta. Toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế khách quan, không một quốc gia nào có thể đứng ngoài cuộc chơi này được. Cốt lõi của vấn đề là trên nguyên tắc đảm bảo lợi ích dân tộc, chủ động hội nhập với kinh tế khu vực và kinh tế thế giới, khai thác tối đa mặt tích cực và hạn chế tối đa mặt hạn chế tối thiểu của mặt tiêu cực của quá trình toàn cầu hoá đối với đất nước, để thực hiện thành công chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của từng giai đoạn. Rõ ràng là bối cảnh quốc tế tạo cho nước ta nhiều cơ hội nhưng cũng không ít thách thức. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hội nhập kinh tế quốc tế là phải vượt qua các thách thức đó, tranh thủ được các cơ hội để tạo lập một cơ cấu kinh tế mới phù hợp, tiến bộ và hiệu quả hơn. 3.4. Chính sách phát triển kinh tế của Nhà nước Trong quá trình chuyển dịch cơ cấu, trước mắt có ngành cần bảo hộ. Nhưng việc bảo hộ phải bảo đảm nguyên tắc. Bảo hộ có thợi hạn, có điều kiện, có định hướng,; Cần yêu cầu các ngành hàng, các doanh nghiệp được bảo hộ phải có chương trình, biện pháp cụ thể để từng bước nâng cao năng lực cạnh tranh và có thể đứng vững trên thị trường khi chấm dứt bảo hộ. Nhà nước giữ vai trò là người điều hoà các nguồn lợi có được trong quá trình hội nhập để có những hỗ trợ cần thiết cho các ngành, các doanh nghiệp phải điều chỉnh cơ cấu. Ngày nay, với xu thế toàn cầu hoá, tăng cường hợp tác quốc tế thì sự can thiệp của Nhà nước là rất cần thiết để chuyển dịch cơ cấu kinh tế đi theo đúng quỹ đạo mà Đảng và Nhà nước đã vạch ra. Đó là: Chủ động hội nhập quốc tế phải đặt trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ, bảo vệ lợi ích dân tộc, bản sắc văn hoá và định hướng xã hội chủ nghĩa., không bỏ lỡ thời cơ song phải chủ động về lộ trình, khắc phục các mặt bất lợi. Do vây, các chính sách phát triển kinh tế của Nhà nước cần phải có tác động tích cực, hỗ trợ và giúp cho quá trình chuyển dịch cơ cấu nghành kinh tế diễn ra nhanh hơn, hiệu quả hơn đạt được mục tiêu đã đề ra. II. Đánh giá thực hiện kế hoạch 5 năm 2001-2005 về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế 1. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam giai đoạn 2001-2005 1.1Những thành tựu Tỷ trọng nông, lâm và thuỷ sản giảm xuống khoảng 20.5% năm 2005. Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng lên khoảng 41% năm 2005. Tỷ trọng các ngành dịch vụ khoảng 38.5% trong giai đoạn 2001-2005, tốc độ tăng trưởng còn thấp. Tỷ trọng các ngành phi nông nghiệp tăng lên, tạo ra sự thay đổi đáng kể cơ cấu kinh tế. Bước đầu đã hình thành mốt số ngành, lĩnh vực, sản phẩm quan trọng tạo động lực cho phát triển như: công nghiệp dầu khí, luyện thép, xi măng, cơ khí đóng tàu, lắp ráp ô tô xe máy... Sự nỗ lực cao của các ngành và các chủ thể kinh tế trong việc vượt qua những trở ngại thách thức, mở rộng quy mô sản xuất đáp ứng yêu cầu thị trường trong và ngoài nước. Điều này được thể hiện rất rõ trong sự phát triển nông nghiệp (vượt qua khó khăn của thiên tai và dịch bệnh) và của nhiều ngành công nghiệp (vượt qua thách thức của “cơn bão giá nguyên liệu” và cạnh tranh quốc tế). Sự chuyển dịch cơ cấu nội tại các ngành kinh tế thể hiện rõ nét hơn động thái chuyển từ khai thác những yếu tố sẵn có sang sản xuất hàng hoá theo yêu cầu của thị trường; tính định hướng thị trường của chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế biểu hiện ngày càng rõ hơn không chỉ với sản xuất công nghiệp mà còn cả với nhiều ngành sản xuất nông ngiệp. Sự tăng lên đột biến của một số ngành nông nghiệp (chẳng hạn đồ gỗ, đóng tàu...) thể hiện sự năng động trong việc nắm bắt cơ hội do thị trường mang lại... Các ngành dịch vụ truyền thống như thương nghiệp, vận tải, bưu chính viễn thông, khách sạn, nhà hàng phát triển khá. Đặc biệt một số ngành có chi phí trung gian thấp như ngân hàng, bảo hiểm... đã phát triển khá nhanh, góp phần làm cho giá trị tăng thêm của ngành dịch vụ tăng cao và làm cho cơ cấu các lĩnh vực dịch vụ trong gía trị tăng thêm của ngành dịch vụ đã có sự chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng của ngành dịch vụ có chất lượng cao. Trong động thái chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế sự tác động trực tiếp của Nhà nước đang chuyển dần sang sự tác động qua vai trò định hướng, qua các cơ chế chính sách khuyến khích và hỗ trợ; sự tác động của thị trường đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ngày càng tăng lên... Nói cách khác, việc sử dụng các quan hệ thị trường trong điều kiện sản xuất và phân bổ các nguồn lực đã có những chuyển biến nhất định. 1.2Hạn chế Tỷ trọng dịch vụ trong cơ cấu ngành kinh tế, về cơ bản chưa có sự chuyển biến đáng kể. Ở nước ta, nhiều năm gần đây phát triển của khu vực dịch vụ hầu như chưa đạt được mục tiêu đề ra. Đại hội toàn quốc lần thứ IX của Đảng đề ra mục tiêu đến năm 2005 tỷ trọng của khu vực dịch vụ trong GDP phải đạt 41-42% và đến năm 2010 phải đạt 42-43%. So với các nước trong khu vực đây không phải là mục tiêu cao, nếu không nói là thấp, nhưng sau khi đạt mức cao nhất (đạt 44.06% vào năm 1995) tỷ trọng khu vực này trong GDP liên tục bị giảm sút: năm 1996 còn 42.51%, năm 2001 còn 38.63%, năm 2002 còn 38.46% và năm 2003 chỉ còn 38.22%. Tốc độ tăng GDP do khu vực dịch vụ tạo ra cũng liên tục bị sút giảm và thường xuyên thấp hơn tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế: năm 2002 là 6.54% so với 7,08% , năm 2003 là 6.57% so với 7.26%. Điều đó chứng tỏ dịch vụ chưa thực sự là một động lực quan trọng trong tăng trưởng kinh tế. Một số ngành dịch vụ quan trọng vẫn chiếm tỷ lệ thấp và đang có xu hướng giảm dần: tài chính ngân hàng năm 1995 chiếm 2.01% thì đến năm 2003 chỉ còn 1.08% ... Nhiều loại dịch vụ như nhà khách, bảo vệ, vệ sinh tạp vụ, kế toán, y tế... hiện đang được các cơ quan, đơn vị kiêm nhiệm, chưa được tách ra để các đơn vị khác kinh doanh tập trung, nên một mặt đã làm hạn chế đến việc tập trung vào nhiệm vụ chính, mặt khác dẫn đến hiệu quả hoạt động của các hoạt động kiêm nhiệm này còn thấp. Tính tự phát của quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế còn khá đậm nét, điển hình là trong sản xuất nông nghiệp. Trong điều kiện quyền tự chủ của các hộ nông dân được đề cao, họ có quyền chủ động được sử dụng ruộng đất được giao vào mục đích kinh doanh, nhưng năng lực thị trường lại hết sức hạn chế nên dễ bị sự điều tiết tự phát của thị trường và do đó gặp rủi ro trong quá trình kinh doanh trên thị trường. Việc phát triển nuôi trồng thuỷ sản, đặc biệt nuôi tôm rộng rãi ỡ nhiều vùng, phát triển cá bè ở đồng bằng sông Cửu Long... là ví dụ điển hình. Khó khăn về thị trường tiêu thụ, tình trạng được mùa rớt giá... có nguyên nhân từ chính người nông dân và hiệu quả công tác định hướng của Nhà nước trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tính kém hiệu quả của chuyển dịch cơ cấu kinh tế quốc dân và cơ cấu nội tại từng ngành kinh tế. Trong công nghiệp, công nghiệp khai thác tài nguyên (than và dầu khí) , công nghiệp gia công cho nước ngoài (giày dép, dệt may, điện tử) chiếm tỷ trọng cao đóng góp vào kim ngạch xuất khẩu, phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu nước ngoài (dệt may, da giầy, đồ gỗ, đồ nhựa...). Trong nông nghiệp, chăn nuôi còn chiếm tỷ trọng khá khiêm tốn trong gía trị sản xuất của ngành (trong nhiều năm chưa vượt ngưỡng 21% tổng giá trị sản xuất nông nghiệp và ở nhiều vùng chưa thoát khỏi địa vị ngành sản xuất phụ). Trong dịch vụ, chủ yếu mới chỉ tập trung vào những dịch vụ phổ thông (thương mại, dich vụ) thiếu vắng hoặc phát triển ở trình độ thấp những dịch vụ cao cấp và những dịch vụ thiết yếu của thị trường. Chuyển dịch cơ cấu lao động diễn ra hết sức chậm chạp, trong khi cơ cấu kinh tế lại có những động thái tích cức thì cơ cấu lao động lại chưa có sự chuyển biến rõ nét: lao đông nông nghiệp vẫn còn chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu kinh tế, nhưng Việt Nam chưa thoát khỏi trạng thái của một nước nông nghiệp. Tuy năm 2004 đã giải quyết việc làm cho hơn 1.5 triệu lao động, nhưng định hướng giải quyết việc làm trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá vẫn còn hết sức bế tắc. Nói cách khác, lao động và việc làm vẫn là một “nút thắt” cản trở quá trình phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Giải quyết vấn đề này đòi hỏi những giải pháp đồng bộ từ nhiều phía, trong đó nâng cao chất lượng toàn diện cho đội ngũ lao động được coi là biện pháp then chốt nhất. Song trên thực tế , công tác giáo dục và đào tạo lại có quá nhiều vấn đề quá bức xúc chưa được giải quyết. 2. Đánh giá chung về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam giai đoạn 2001-2005 2.1. Tốc độ tăng trưởng các ngành Trong nông nghiệp, các phương thức canh tác tiên tiến chậm được áp dụng trên diện rộng. Năng suất nhiều cây trồng, vật nuôi và chất lượng sản phẩm nông nghiệp còn thấp, còn phụ thuộc nhiều vào thời tiết, khí hậu. Chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp và nông thôn còn chậm, nhiều nơi mang tính tự phát, chưa bền vững. Công nghiệp hóa, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn chưa được triển khai một cách bài bản. Nhiều sản phẩm chủ yếu của nông nghiệp chưa được xây dựng được thương hiệu nên hiệu quả kinh tế còn thấp. Mặc dù giá trị sản xuất nông, lâm, thuỷ sản, tăng cao và vượt mục tiêu đề ra nhưng chi phí sản xuất cao, nên giá trị tăng thêm của toàn ngành không đạt mục tiêu, chỉ tăng 3.6% so với mục tiêu đề ra là 4-4.3%. Cơ sở hạ tầng nông thôn chưa đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn. Vấn đề việc làm ở nông thôn vẫn còn nhiều bức xúc. Tình trạng ô nhiễm môi trường, đặc biệt là ô nhiễm nguồn nước, nhất là các làng nghề chưa được giải quyết. Hình thức sản xuất theo hợp đồng tiêu thụ sản phẩm chưa được áp dụng rộng rãi, dịch vụ cung cấp đầu vào, đầu ra của sản xuất chưa được tổ chưc tốt. Sản xuất công nghiệp tuy có tốc độ tăng trưởng cao nhưng chất lượng và hiệu quả toàn ngành chưa được cải thiện. Giá trị sản xuất ngành công nghiệp 5 năm 2001-2005 tăng bình quân 15.7%/năm, nhưng giá trị tăng chưa tương xứng (bình quân 5 năm chỉ tăng 10.3%/năm). Ngành công nghiệp chế tác đóng góp vào tăng trưởng của toàn ngành công nghiệp, khoảng 50-60%, nhưng lại là ngành có chi phí nguyên vật liệu cao nên giá trị gia tăng thấp, đặc biệt là các ngành công nghiệp gia công như: may mặc, da giày, chế biến gỗ xuất khẩu … có giá trị sản xuất cao, nhưng phần lớn chi phí lại là vật tư nguyên liệu nhập khẩu từ nước ngoài. Hàm lượng quốc gia trong sản phẩm thấp. Tốc độ tăng trưởng của khu vực dịch vụ tuy đạt mục tiêu kế hoạch, nhưng còn thấp so với tiềm năng; chất lượng và hiệu quả hoạt động dịch vụ chưa cao; nhiều loại phí dịch vụ còn bất hợp lý và cao hơn nhiều nước trong khu vực. Năng lực tiếp cận thị trường của các doanh nghiệp còn yếu. Các ngành dịch vụ có giá trị tăng thêm cao như dịch vụ tài chính, tiền tệ, dịch vụ giao dịch bất động sản… gần đây có chuyển biến, nhưng nhìn chung phát triển chậm. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm dịch vụ còn yếu thể hiện ở việc giá thành cao và chất lượng dịch vụ thấp. Năng lực tiếp cận thị trường của các doanh nghiệp còn yếu kém. 2.2. Thay đổi tỷ trọng các ngành trong GDP Xét theo 3 khu vực lớn là nông, lâm nghiệp-thuỷ sản, công nghiệp-xây dựng và dịch vụ, thì cơ cấu kinh tế đã chuyển dịch theo hướng: Tỷ trọng của khu vực nông, lâm-ngư nghiệp đã giảm nhanh, còn tỷ trọng của khu vực công nghiệp-xây dưng đã tăng nhanh. Tỷ trọng của khu vực nông, lâm nghiệp-thuỷ sản đã giảm từ 38.74% năm 1990 xuống 22.54% năm 2003 và xuống còn 21.76% năm 2004, tức là giảm gần 17% trong 15 năm, hay giảm trên 1.1%/năm. Riêng tỷ trọng nông, lâm nghiệp-thuỷ sản trong GDP đã giảm mạnh, chỉ còn 20.5% vượt so với mục tiêu đề ra cho năm 2005 (giảm xuống còn 20-21%) Tỷ trọng khu vực công nghiệp-xây dựng đã tăng nhanh từ 22.67% năm 1990 lên 39.46% năm 2003 và lên 40.09% năm 2004. Đến năm 2005 tỷ trọng công nghiệp trong GDP tăng lên đạt 41% vượt so với kế hoạch đặt ra (năm 2005 đạt 38-39%). Tỷ trọng khu vực dịch vụ đạt đỉnh cao nhất vào năm 1995 là 44.0%, nhưng đã giảm 8 năm liền: năm 2003 chỉ còn 38% và đến năm 2005 vẫn chỉ đạt 38.5% không đạt được mục tiêu đề ra. 2.3. So sánh quốc tế về cơ cấu nền kinh tế Đ ơn v ị: % Tên nước Cơ cấu kinh tế Nông nghiệp Công nghiệp Dịch vụ Việt Nam 23.0 39.0 38.0 Trung Quốc 15.0 53.0 32.0 Philippine 14.0 32.5 53.0 Inđônêxia 17.0 44.0 40.0 Malaixia 9.0 49.0 42.0 Thái Lan 9.0 41.0 50.0 Hàn Quốc 3.0 35.0 62.0 Xingapo 0.0 35.0 65.0 Nguồn số liệu: Báo cáo phát triển thế giới năm 2005 của Ngân hàng thế giới, ESCAP Nếu lấy cơ cấu nền kinh tế làm thước đo cho trình độ phát triển , thì cơ cấu kinh tế của Việt Nam năm 2003 chỉ tương đương với cơ cấu kinh tế của những nước trong khu vực vào những năm 80 của thế kỷ trước.Tìm hiểu quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các nước trong khu vực cho thấy, họ rất coi trọng phát triển dịch vụ và tìm cách nâng cao tỉ trọng của khu vực này trong GDP. CHƯƠNG III: KẾ HOẠCH VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN KẾ HOẠCH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ 2006-2010 I. Quan điểm và nội dung chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thời kỳ 2006-2010 1. Quan điểm cơ bản chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế 1.1.Chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải gắn liền với tiến trình hộp nhập quốc tế Các mốc quan trọng cho việc mở cửa kinh tế và tự do hoá thương mại của Việt Nam và bước chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là vào năm 2006,2010 và 2020. Các mốc này cũng phù hợp với kế hoạch 5 năm đầu thế kỷ 21, chiến lược phát triển kinh tế-xã hội đến năm 2010 và mục tiêu đưa đất nước cơ bản trở thành công nghiệp hoá vào năm 2020. Chủ động hội nhập quốc tế phải đặt trên cơ sở giữ vững độc lập tự chủ, bảo vệ lợi ích dân tộc, bản sắc văn hoá và định hướng XHCN, không bỏ lỡ thời cơ song phải chủ động về lộ trình, khắc phục, hạn chế mặt bất lợi. Thách thức lớn nhất trong hội nhập quốc tế là phải tăng được sức cạnh tranh của nền kinh tế, của các doanh nghiệp, của hàng hoá dịch vụ trên thị trường quốc tế và thị trường trong nước thì mới đứng vững và phát triển được trong môi trường cạnh tranh quyết liệt toàn cầu. Đồng thời phải tạo lập các yếu tố đảm bảo sự ổn định kinh tế vĩ mô, tăng cường khả năng ứng phó với tác động bất lợi về kinh tế từ bên ngoài. 1.2. Chuyển dịch cơ cấu ngành phải dựa trên hiệu quả và lợi ích của toàn bộ nền kinh tế quốc dân Để điều chỉnh cơ cấu ngành kinh tế phù hợp với xu thế hội nhập sẽ có những ngành, những doanh nghiệp nâng cao được khả năng cạnh tranh, đứng vững trên thị trường trong và ngoài nước. Ngược lại, cũng có những ngành, những doanh nghiệp phải thu hẹp hoặc chuyển hướng sản xuất kinh doanh. Trong mọi trường hợp cần phải đặt lợi ích của tổng thể nền kinh tế lên trên lợi ích của từng ngành, các doanh nghiệp phải điều chỉnh cơ cấu. Trong quá trình chuyển dịch cơ cấu, trước mắt có các ngành cần bảo hộ. Nhưng việc bảo hộ phải đảm bảo nguyên tắc. Bảo hộ có thời hạn, có điều kiện, có định hướng. Cần yêu cầu các ngành hàng, các doanh nghiệp được bảo hộ phải có chương trình, biện pháp cụ thể để từng bước nâng cao năng lực cạnh tranh và có thể đứng vững trên thị trường khi chấm dứt bảo hộ. 1.3. Chuyển dịch cơ cấu ngành phải tiến hành từng bước với sự nỗ lực đồng bộ của các ngành các cấp và người lao động Trước mắt cần khẩn trương triển khai đưa vào nội dung của chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, kế hoạch 5 năm và hàng năm. Hội nhập kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải tiến hành theo các chương trình kế hoạch với các bước đi vững chắc.Phát triển, hội nhập và đổi mơi có quan hệ mật thiết và tác động lẫn nhau, trong đó phát triển là mục tiêu, hội nhập và hướng về xuất khẩu vừa là điều kiện vừa là động lực cho sự phát triển. Phát triển nhanh và bền vững phải bao trum mọi mặt đời sống xã hội. Phát triển kinh tế là nhiệm vụ của toàn dân và là nhiệm vụ trong tâm. Đồng thời phải gắn kết với thực hiện công bằng xã hội, giữ gìn và cải thiện môi trường, giữ vững ổn định chính trị xã hội, đảm bảo an ninh xã hội. Phát triển nhanh và bền vững sẽ đưa lại kết quả chuyển dịch cơ cấu nhanh và môi trường trong sạch, nâng cao chất lượng cuộc sống. 1.4 Chuyển dịch cơ cấu ngành cần kết hợp với cơ cấu thành phần và cơ cấu vùng-lãnh thổ. Cơ cấu ngành kết hợp với cơ cấu thành phần thể hiện ở việc sử dụng các chính sách, biện pháp động viên sự phát triển của các thành phần kinh tế để thu hút tối đa và sử dụng hiệu quả các nguồn lực của đất nước. Cơ cấu ngành gắn với cơ cấu vùng-lãnh thổ thông qua việc xây dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất, các trung tâm công nghiệp, vừa tạo động lực cho sự phát triển kinh tế, vừa tạo điều kiện để đô thị hoá nông thôn. Cần chú ý phát triển công nghiệp trung ương đi đôi với phát triển công nghiệp địa phương và công nghiệp nông thôn theo hướng phát huy thế mạnh của mỗi vùng, mỗi địa phương, thực hiện chuyển đổi cơ cấu lao động tại chỗ. 2. Nội dung chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thời kỳ 2006-2010 2.1 Mục tiêu chung Mục tiêu tổng quát của kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2006-2010 là: Đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, đạt được bước chuyển biến quan trọng theo hướng phát triển nhanh và bền vững. Cải thiện rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá tinh thần của nhân dân. Tạo được nền tảng để đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và từng bước phát triển kinh tế tri thức. Giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội. Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia. Nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế. 2.2. Các chỉ tiêu chuyển dịch cơ cấu ngành thời kỳ 2006-2010 Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm thời kỳ 5 năm 2006-2010 đạt 7.5-8%, trong đó nông, lâm, ngư nghiệp tăng 3-3.2%, công nghiệp và xây dựng tăng 10-10.2%, dịch vụ tăng 7.7-8.2%. Cơ cấu các ngành kinh tế trong GDP đến năm 2010 dự kiến: Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản khoảng 15-16%; công nghiệp và xây dựng khoảng 42-43%; các ngành dịch vụ khoảng 41-42%. II. Một số giải pháp nhằm thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam thời kỳ 2006-2010 1. Công tác quy hoạch, kế hoạch là một tiền đề quan trọng để xác định cơ cấu đầu tư và cơ cấu lại nền kinh tế.Công tác này đã sớm được đề ra và thực hiện, nhưng hiện còn nhiều khâu yếu, và bộc lộ thiếu tầm nhìn tổng thể. Cụ thể là, sự phối hợp giữa các địa phương và giữa địa phương với các ngành trong quy hoạch còn chưa tốt; còn tập trung vào kinh tế Nhà nước, chưa bao quát hết toàn bộ nền kinh tế; quy hoạch chỉ tập trung nêu các vấn đề chúng ta có thể làm được, thiếu dự báo về thị trường đầu ra, thiếu các giải pháp thực hiện khả thi và các cân đối lớn; còn thiếu những quy hoạch chuyên ngành cụ thể… 2. Phải thực hiện những việc làm thiết thực để đảm bảo đầu tư tạo nên cơ cấu kinh tế có hiệu quả. Chuyển đổi cơ cấu phải xét trong trạng thái động. Muốn vậy, một mặt, phải xác định được trọng tâm của cơ cấu ngành, cơ cấu sản phẩm, sau đó mới hình thành ngành và vùng… Trong các hoạt động điều tiết nền kinh tế, Nhà nước cần lưu ý có các chính sách để những nguồn lực đầu tư được sử dụng phù hợp với quy luật cung cầu của thị trường, có hiệu quả thì việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế mới bảo đảm đúng hướng. 3. Trong ba khu vực, cần chuyển dịch cơ cấu theo hướng khu vực công nghiêp-xây dựng và khu vực dịch vụ chiếm tỷ trọng ngày càng cao bởi phát triển nông nghiệp chỉ tạo nên yếu tố quan trọng đầu tiên là nguyên liệu và cung cấp lương thực, thực phẩm cho đời sống hàng ngày, bảo đảm an ninh lương thực quốc gia chứ không thể làm giàu. Tuy nhiên, không đầu tư cho nông, lâm, ngư nghiệp sẽ không thể khai thác các tiềm năng, lợi thế của đất đai và lao động, ổn định cuộc sống của 2/3 dân số đất nước, tạo tích luỹ cho kinh tế hộ, từ đó chuyển dịch lao động từ nông nghiệp sang các ngành khác. Chỉ hướng vào công nghiệp và dịch vụ mới thực sự có thể tăng trưởng nhanh, trong đó dịch vụ sẽ góp phần làm giàu nhanh hơn cả, đồng thời cũng có thể thu hút lực lượng đông đảo lao động nông thôn đang chưa được đào tạo một cách cơ bản. 4. Ngoài các vấn đề vốn đầu tư, lao động… cần có chính sách đúng đắn với mốt số nhóm sản phẩm như sau: Đối với nhóm sản phẩm đã có trên thị trường quốc tế, song nhu cầu đã ở mức ổn định (như cà phê, gạo…), không nên mở rộng quy mô sản xuất, thực hiện giảm đầu tư chiểu rộng, tăng đầu tư chiều sâu. Hỗ trợ nghiên cứu để giảm chi phí, nâng cao chất lượng và củng cố quan hệ với khách hàng, xây dựng thương hiệu nhăm duy trì thị phần trên thị trường thế giới. Khuyến khích lập các hiệp hội xuất khẩu, hoặc hiệp hội ngành nghề và các quỹ bình ổn (hoặc bảo hiểm rủi ro) trên nguyên tắc tự nguyện và tự quản, nhằm giải quyết khó khăn của người sản xuất gặp thiên tai, hoặc khi giá cả trên thị trường thế giới có biến đổi mạnh. Trong trường hợp phải thu hẹp quy mô sản xuất, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ cho quá trình chuyển đổi sản xuất thông qua ưu đãi tín dụng trung hạn, ưu đãi thuế… Trong trường hợp việc thu hẹp sản xuất gây khó khăn năng nề cho người dân ở khu vực, Nhà nước cần áp dụng trợ cấp xã hội trực tiếp cho người dân thay thế cho biện pháp trợ giá, hoặc áp đặt giá tối thiểu. Đối với nhóm hàng mang tính gia công, lắp ráp như: dệt, may, giay dép, xe máy, tivi,… nên từng bước “nội địa hoá” các sản phẩm đầu vào. Nhà nước tạo điều kiện khuyến khích phát triển các ngành, sản phẩm liên quan đến lĩnh vực “nội địa hoá”. Đối với các sản phẩm gia công xuất khẩu, Nhà nước tiếp tục cải thiện quan hệ với các khối kinh tế và các quốc gia để mở rộng hạn ngạch hoặc giúp các doanh nghiệp tìm kiếm, mở rộng bạn hàng. Đối với cơ chế phân bổ hạn ngạch theo hướng bình đẳng, minh bạch, công khai. Khuyến khích hình thành, củng cố các hiệp hội ngành nghề trong xuất khẩu nhằm giảm nhẹ sức ép khi thương lượng, ký kết hợp đồng với các bạn hàng quốc tế. Đối với các sản phẩm gia công tiêu thụ chủ yếu trong nước nên chỉ sử dụng các biện pháp bảo hộ có thời hạn và có điều kiện theo mục tiêu hỗ trợ doanh nghiệp, nâng cao sức cạnh tranh. Từng bước dỡ bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan nhằm tạo sức ép cạnh tranh đối với doanh nghiệp, đồng thời bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng toàn xã hội. Đối với các sản phẩm có xu hướng tăng trưởng trong tương lai như: xây dựng và vật liệu xây dựng, ngân hàng, bảo hiểm, du lịch, thuỷ sản, …cần nâng cao kỹ thuật, chất lượng sản phẩm, uy tín… nhằm từng bước mở rộng thị trường. Trước mắt tập trung vào sản phẩm có vị trị tương đối quan trọng trong kim ngạch xuất khẩu như thuỷ sản (tăng cơ sở chế biến đạt tiêu chuẩn vệ sinh, môi trường, cung cấp giống, thức ăn chế biến để mở rộng nuôi trông thuỷ sản…) nhằm tăng thêm kim ngạch xuất khẩu cho đất nước. 5. Để đáp ứng yêu cầu nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, vấn đề chính sách nhân lực chiếm vị trí hàng đầu , cả trong lao động, quản lý và đào tạo. Có thể xác định khâu đột phá trong chính sách nhân lực ở lĩnh vực quản lý nhà nước về nền kinh tế và quản lý kinh doanh. Đổi mới trên lĩnh vực này phải đồng bộ trên ba mặt: cán bộ, tổ chức, người đứng đầu. - Về cán bộ: Việc đào tạo, lựa chọn, bố trí nhất thiết phải căn cứ vào công việc. Đồng thời, thường xuyên đánh giá, đào tạo lại, hoặc sắp xếp lại phù hợp sự biến đổi trong nền kinh tế. - Về tổ chức: Các tổ chức kinh tế, tổ chức quản lý trong kinh tế thị trường khác với các tổ chức trước đây cho nên phải cải cách. Nét mới ở đây phải tính đến mối quan hệ giữa tổ chức với cán bộ. Chỉ trong một tổ chức hợp lý thì cán bộ tốt mới phát huy tốt được, cán bộ kém mới không trở nên xấu. - Về người đứng đầu: Là khâu quyết định khẳng định sức mạnh của một tổ chức, và sáng tạo của cán bộ. Vấn đề cấp bách hiện nay là phải gắn bó giữa quyền lực với trách nhiệm bằng pháp luật, bằng thực hiện quy chế dân chủ. 6. Xây dựng chiến lược thị trường xuất khẩu, đa dạng hoá thị trường, đảm bảo thị trường lâu dài có quy mô thích hợp. Xây dựng hệ thống thông tin, dự báo sự biến động của thị trường. Thành lập trung tâm xúc tiến thương mại đối với từng mặt hàng. 7. Nâng cao công nghệ đối với toàn bộ quá trình sản xuất, chế biến, vận chuyển, dịch vụ. Chú trọng tính đồng bộ trong đầu tư giữa các khâu sản xuất, chế biến, cung cấp nguyên liệu. Việc cắt giảm thuế quan có thể tiến hành với tốc độ nhanh, trong thời gian ngắn với nguyên tắc hàng sơ chế chịu thuế quan thấp hơn hàng chế biến; nguuyên liệu chịu thuế thấp hơn thành phẩm; nhưng mức chênh lệch thuế này là thấp. Kết luận Trong những năm đổi mới, nhất là thời kỳ 1996-2004, quy mô và tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung, kinh tế công nghiệp, nông nghiệp và hoạt động dịch vụ nói riêng đã có nhiều chuyển biến tích cực theo hướng CNH-HĐH. Kết quả là đến năm 2004, các mục tiêu chủ yếu về chuyển dịch cơ cấu kinh tế đề ra cho kế hoạch 5 năm 2001-2005 đã được thực hiện. Cơ cấu GDP theo ba khu vực: nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ năm 2004 là: 21.76%; 40.09%;38.12% so với kế hoạch: 20-21%; 38-39%; 41-42%. Như vậy, đến năm 2004 đã có hai mục tiêu đạt được là tỷ trọng công nghiệp và nông nghiệp trong GDP, chỉ tiêu chưa đạt được là tỷ trọng dịch vụ quá thấp và có xu hướng giảm dần. Đó là vấn đề tồn tại nhất không chỉ trong cơ cấu GDP của nền kinh tế mà là của từng ngành, từng khu vực sản xuất công, nông nghiệp, xây dựng. Cơ cấu kinh tế trong nội bộ từng ngành sản xuất và hoạt động dịch vụ tuy có chuyển dịch theo hướng CNH-HĐH nhưng quy mô và tốc độ còn rất chậm so với yêu cầu đề ra, nhất là trong nông nghiệp. Tác động của chuyển dịch cơ cấu kinh tế đối với tăng hiệu quả kinh tế-xã hội, sản xuất và dịch vụ còn chưa rõ nét. Tính tự phát, manh mún và tự cấp tự túc không theo quy hoạch và kế hoạch còn phổ biến ở các ngành, các vùng và các địa phương. Do vậy, kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế năm 2006-2010 có vai trò đặc biệt quan trọng đối với việc thực hiện thắng lợi đường lối phát triển kinh tế xã hội. Đây là 5 năm cuối cùng trong quá trình thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm 2001-2010; Chiến lược đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền tảng đến năn 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Tài liệu tham khảo Đảng cộng sản VN: Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX; NXB chính trị quốc gia;2001. Bộ kế hoạch và đầu tư: kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2006-2010 Trường đại học KTQD: Giáo trình kế hoạch hoá phát triển kinh tế-xã hội Nguyễn Quang Thái: Mấy vấn đề về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam. Nghiên cứu kinh tế số 313- tháng 6/2004 Viện khoa học xã hội Việt Nam- Viện kinh tế và chính trị thế giới: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ 21. Nhà xuất bản khoa học xã hội; Hà Nội-2004 Lâm Đào: Cơ cấu lại nền kinh tế. Thời báo kinh tế Việt Nam Bộ kế hoạch đầu tư: kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm 2001-2005 Mục Lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28130.doc
Tài liệu liên quan