Tỷ trọng của khu vực FDI trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp của Bình Dương đã tăng từ 53% năm 2000 lên 71% năm 2007. Trong thời gian gần đây, tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực FDI tại Bình Dương đạt bình quân khoảng 46%/năm, góp phần đưa giá trị sản xuất công ngiệp của tỉnh tăng bình quân 30,4%/năm và thúc đẩy cơ cấu kinh tế của tỉnh chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp trong GDP của Bình Dương từ 58,1% năm 2000 lên 64,4% năm 2007. Ngoài ra, khu vực FDI cũng góp phần nâng tỷ trọng của các ngành dịch vụ lên mức hợp lý so với các ngành nâng tỷ trọng các ngành dịch vụ trong GDP của Bình Dương tăng từ 25,2% năm 2000 lên 29,2% năm 2007.
Các dự án FDI tại Bình Dương đã giúp cho quá trình tiến hành chuyển giao công nghệ sản xuất, góp phần tạo ra những sản phẩm mới, đa dạng về chủng loại, chất lượng cao, đạt tiêu chuẩn quốc tế, đáp ứng được các yêu cầu của thị trường trong và ngoài nước. Vì vậy, kim ngạch xuất khẩu khu vực FDI tại Bình Dương tăng từ 217,7 triệu USD năm 2000( chiếm 41% kim ngạch xuất khẩu của tỉnh) lên gần 3,7 tỷ USD năm 2007( chiếm 78% kim ngạch xuất khẩu của tỉnh), góp phần đưa kim ngạch xuất khẩu của tỉnh trong những năm gần đây tăng bình quân 31% năm. Bên cạnh đó. các dự án FDI còn thú hút được một lực lượng lao động đông đảo. Tính đến cuối năm 2007, khu vực FDI trên địa bàn tỉnh đã thu hút được 310.000 người lao động, góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động, đào tạo nên một đội ngũ lao động lành nghề có khả năng tiếp thu, sử dụng công nghệ tiên tiến và cán bộ quản lý có trình độ cao cho tỉnh Bình Dương.
49 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1018 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Kế hoạch vốn đầu tư và giải pháp huy động vốn đầu tư cho thời kỳ kế hoạch 2006 - 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ận lợi hơn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, trong đó có các doanh nghiệp có vốn ĐTNN
Trong năm 2006 vị thế của nước ta trên thế giới tiếp tục nâng cao hơn sau khi trở thành thành viên thứ 150 của WTO, tổ chức thành công Hội nghị APEC lần thứ 14 và được Quốc hội Hoa Kỳ thông qua PNTR. Bên cạnh đó là việc triển khai các luật mới và thủ tục đầu tư được đơn giản hóa. Các yếu tố trên không chỉ mở ra triển vọng và động lực mới cho đầu tư của các thành phần kinh tế mà còn củng cố và tạo điều kiện thuận lợi cho cộng đồng các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là nhà đầu tư Hoa Kỳ đầu tư vào Việt Nam.
Việc hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách về đầu tư, kinh doanh của nước ta nhằm đáp ứng nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, tạo môi trường pháp lý bình đẳng, thông thoáng và minh bạch cho các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài cũng là yếu tố quan trọng được cộng đồng quốc tế quan tâm. Đặc biệt, Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp cùng với Luật Đấu thầu, Luật Cạnh tranh, Luật Sở hữu trí tuệ và một số luật khác được ban hành và có hiệu lực trong năm 2006 đã đánh dấu bước tiến quan trọng trong việc thể chế hoá kinh tế thị trường và đường lối mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta.Nhiều luật mới cũng đã được Quốc hội thông qua, tạo cơ sở pháp lý đồng bộ hơn, như Luật Chứng khoán, Luật Chuyển giao công nghệ, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của bộ Luật Lao động liên quan đến đình công.Hệ thống luật pháp chính sách về ĐTNN đã tiếp tục được hoàn chỉnh hơn tạo khuôn khổ pháp lý đầy đủ, minh bạch, bình đẳng và thông thoáng hơn cho hoạt động đầu tư kinh doanh. Cơ chế đối thoại giữa Chính phủ với các nhà đầu tư được tăng cường thông qua nhiều diễn đàn, nhất là Diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam giữa kỳ đã tạo thêm lòng tin của các nhà đầu tư đối với Chính phủ, các Bộ ngành và chính quyền địa phương.
Chính sách đổi mới, thể chế kinh tế thị trường đang được hoàn thiện, nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng cao liên tục trong nhiều năm đang là những yếu tố tạo lòng tin cho các nhà đầu tư. Thêm vào đó, quan hệ chính trị giữa Việt Nam với hầu hết các nước đang diễn biến theo chiều hướng tích cực cũng là nhân tố quan trọng tác động trực tiếp đến quan hệ kinh tế, đầu tư.Hoạt động xúc tiến đầu tư đã được triển khai tích cực ở cả trong nước và nước ngoài dưới nhiều hình thức đa dạng, nhằm vào các địa bàn trọng điểm, dự án quan trọng. Đặc biệt việc tổ chức các Hội thảo, Diễn đàn đầu tư trong khuôn khổ các chuyến thăm các nước của Lãnh đạo Chính phủ ta đã thu hút mối quan tâm của hàng trăm tập đoàn, công ty lớn của nước ngoài.
Những yếu tố trên cùng với nỗ lực nhằm nâng cấp kết cấu hạ tầng, cải cách hành chính, tăng cường chống tham nhũng đang tạo điều kiện thuận lợi để nâng cao khả năng cạnh tranh, thúc đẩy làn sóng đầu tư mới của nước ngoài vào nước ta.
Nhìn chung môi trường đầu tư của nước ta tiếp tục được cải thiện. Theo kết quả khảo sát của Tổ chức JBIC, các công ty Nhật Bản xếp nước ta vào hàng thứ 3 về mức độ hấp dẫn đầu tư sau Trung Quốc và Ấn Độ, trên Thái Lan là nước được xếp vị trí thứ 3 vào năm 2006
b.Những vấn đề còn tồn tại
Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp năm 2005 đánh dấu sự tiến bộ về môi trường pháp lý đối với đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, việc triển khai thực hiện 2 luật này trong giai đoạn đầu khó tránh khỏi những khó khăn, vướng mắc do có nhiều quy định mới đòi hỏi phải được hướng dẫn cụ thể. Đồng thời, việc phân cấp mạnh mẽ cho các địa phương trong việc cấp giấy chứng nhận đầu tư và quản lý đầu tư nước ngoài đòi hỏi phải khẩn trương kiện toàn tổ chức, bộ máy và nhân sự của các cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư của các địa phương để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mới.
Tuy trong thời gian qua kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội của nước ta đã được quan tâm đầu tư nâng cấp, nhưng thiếu vốn bảo dưỡng và duy trì, vẫn thuộc diện kém phát triển, còn nhiều bất cập, kém hấp dẫn hơn so với nhiều nước trong khu vực, chưa đáp ứng được yêu cầu sản xuất, kinh doanh trong bối cảnh nền kinh tế tăng trưởng nhanh. Tình trạng quá tải, gây ách tắc giao thông; nguy cơ quá tải của hệ thống mạng thông tin viễn thông, cảng biển và cấp - thoát nước đã và đang ảnh hưởng, gây cản trở hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, trong đó có các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Cải cách hành chính tuy đang được đẩy mạnh song chưa đạt kết quả mong muốn. Khâu quy hoạch, xây dựng và công bố danh mục dự án thu hút đầu tư nước ngoài còn chậm và nhiều bất cập. Tình trạng khan hiếm lao động có trình độ tay nghề cao và cán bộ quản lý đang có chiều hướng gia tăng là cản trở lớn đối với việc thu hút các dự án đầu tư có quy mô lớn, sản xuất các sản phẩm, dịch vụ có hàm lượng kỹ thuật cao.
Chi phí sản xuất gia tăng do giá cả một số mặt hàng, nhất là giá nhiên liệu tăng đáng kể, chi phí tiền lương tăng sau khi nâng mức lương tối thiểu... đang gây khó khăn cho nhà đầu tư và có nguy cơ làm giảm sự hấp dẫn đối với môi trường đầu tư tại Việt Nam.
Cạnh tranh thu hút vốn FDI giữa các nước trong khu vực ngày càng gia tăng, đòi hỏi phải tiếp tục nâng cao hơn nữa năng lực cạnh tranh của nước ta; đồng thời, cạnh tranh sẽ diễn ra gay gắt hơn, sâu rộng hơn trên bình diện quốc gia, giữa sản phẩm của ta với sản phẩm các nước do thuế nhập khẩu cắt giảm từ mức trung bình 17,4% hiện nay xuống 13,4% trong vòng từ 3 đến 4 năm tới. Cùng với việc gia tăng sức ép cạnh tranh, một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ gặp khó khăn, kinh doanh thua lỗ dẫn đến ngừng triển khai dự án hoặc rơi vào tình trạng phá sản. Mặt khác, nhận thức của người lao động và người sử dụng lao động về Luật Lao động chưa tốt, tiềm ẩn tình trạng đình công bất hợp pháp tại một số doanh nghiệp, ảnh hưởng tới sản xuất kinh doanh và môi trường đầu tư tại Việt Nam. Do vậy, cần phải nâng cao nhận thức về những thách thức nảy sinh trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế đối với cả cơ quan quản lý các cấp lẫn các doanh nghiệp và người lao động, nhất là khi Việt Nam đã là thành viên của WTO
2.Nhiệm vụ còn lại từ 2008 đến 2010
Trên cơ sở cân đối tích luỹ tiêu dung, đồng thời với việc trỉen khai đồng bộ các giải pháp để thu hút nguồn vốn trong và ngoài nước cho đầu tư phát triển,dự báo khả năng huy động nguồn vốn đầu tư phát triển năm 2008 vào khoảng 550 nghìn tỷ đồng(tuơng đương 34 tỷ USD),tăng 16,7% so với ước thực hiện năm 2007 và bằng 41% GDP .
Năm 2008,tập trung đầu tư xây dựng các công trình kêt cấu hạ tầng.huy động nhiều nguồn lực trong cũng như ngoài nước đầu tư xây dưng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế,xã hội thực hiện mục tiêu tăng trưởng nhanh và bềb vững của nền kih tế.Khẩn trương chuẩn bị các điều kiện và trine khai kế hoạch đầu tư 1 số công trình kết cấu hạ tầng quan trọng Quy mô lớn theo Quyết định số 412/QĐ-TTg ngày 11 tháng 4 năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ.Thực hiện các biện pháp đồng bộ để tăng cường hoạt đọng, đẩy nhanh tiến bộ giải ngân nguồn vốn ODA,khuyến khích huy động nguồn vốn FDI dể đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng với những hình thức thích hợp như:BOT,BT,BO,
Dự kiến huy động và định hướng đầu tư theo các nguồn vốn như sau:
Nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước khoảng 110 nghìn tỷ đồng,chiếm 20% tổn nguồn vốn đầu tư xã hội(đây là tỷ trọng thấp nhất trong các năm gần đây:năm 2006 chiếm 21,7%,năm 2007 ước thực hiện chiếm 22,0%) và tăng 5,3% so với ước thưc hiện năm 2007(tốc độ tăng cũng thấp nhất so với các năm trước).Nguồn vôn NSNN tiếp tục đựoc ưu tiên đầu tư cho các công trình kết cấu hạ tầng thiết yếu;cá công tình thuỷ lợi phục vụ tưới tiêu cho bà con nông dân; đầu tư chăm sóc và bảo vệ rừng; đầu tư cho các lĩnh vực:giáo dục và đào tạo,y tế,xã hội,tài nguyên môi trường
Nguồn vốn tín dụng nhà nước khoảng 38 nghìn tỷ đồng,chiếm 6,9% tổng nguồn vốn ,tăng 11,8% so với ước thực hiện năm 2007.Nguồn vốn tín dụng đầu tư nhà nước đựoc tập trung đầu tư chủ yếu sử dụng cho các dự án ngành công nghiệp như: điện,than,khia khoáng,luyện kim,Nguồn vốn tín dụng chính sách đươcj sử dụng chủ yếu cho muạc tiêu xoá đói giảm nghèo,nâng cao thu nhập của người dân.
Nguồn vốn ODA:tổng giá trị ODA ký kết trong năm 2008 dự kiến khoảng 3900 triệu USD,tăng 23,5% so với ước thực hiện năm 2007,trong đó: vốn vay dự kiến khoảng 3600 triệu USD,viện trợ không hoàn lại khoảng 300 triệu USD.Năm 2008 sẽ tiếp tục thực hiện các công tác chuẩn bị để triển khai 3 dự án lớn của Nhật Bản đồng thời kêu gọi các nguồn vốn để đầu tư các công trình kết cáu hạ tầng quan trọng;phát triển nông nghiệp và nông thôn kết hợp giảm nghèo;xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hộ trọng yếu.Căn cứ tiến độ thực hiện và giải ngân các dự án ODA,dự kiến năm 2007 giải ngân khoảng 2050 triệu USD trong đó: đầu tư phát triển thuộc nguồn NSNN khoảng 750 triệu(tương đương 12 nghìn tỷ đồng),vốn cho vay lại 735 triệ USD(tương đương 11900 tỷ đồng).
Nguồn vốn từ khu vực doanh nghiệp nhà nước khoảng 80 nghìn tỷ đồng ,chiếm khoảng 14,5% tổng nguồn vốn,tăng 25% so với ước thực hiện năm 2007.Các Tập đoàn kinh tế,các Tổng công ty lớn tiếp tục đầu tư phát trỉen các ngành lĩnh vực mình phụ trách như:công nghiệp dầu khí,công nghịep điện,bưu chính viễn thong, Đồng thời tham gia đầu tư các dự án,két cấu hạ tầng quan trọng giảm bớt gánh nặng ngân sách nhà nước.
Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài: năm 2008 dự kiến đăng ký ccáp mới và bổ sung vốn đầu tư nước ngoài khoảng 14,5 tỷ USD(tương đương 235 000 tỷ đồng).Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện dự kiến khoảng 91 nghìn tỷ đồng(5,6 tỷ USD),chiếm 16,5%tổng nguồn vốn và tăng 18,5% so với ước thực hiện năm 2007.Nguồn vốn đầu tư nước ngoài chủ yếu đựoc tập trung đầu tư cho các dự an thuộc ngành công nghiệp chế biến, đầu tư hạ tầng các khu công nghiệp,khu cong nghệ cao và các dưj án hạ tầng kỹ thuật điện,cảng biểnChú trọng thu hút đầu tư của các tập đoàn kinh tế lớn đầu tư vào các dự án có quy mo đầu tư lớn,có ý nghĩa kinh tế quan trọng.
Nguồn đầu tư của khu vực ngoài quốc doanh và dân cư khoảng 208 nghìn tỷ đồng,chiếm khoảng 37,8% tổng nguồn vốn,tăng 23,5% so với ước thực hiện năm 2007.Nguồn vốn đầu tư của khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh và dân cư chiếm tỉ trọng quan trọng nhất trong tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội.Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và dân cue sử dụng nguồn vốn này đeer đầu tư phát triển sản xuất, đầu tư công nghệ mới để nâng cao chất lượng và sản lượng hang hoa dịch vụ đẩy mạnh xuất khẩu và phục vụ thị trường trong nước.
Ngoài ra nguồn trái phiều chính phủ,trái phiếu quốc tế,nguồn xỏ só kiến thiết và các nguồn vốn khác dự kiến khoảng 23 nghìn tỷ đồng,trong đó nguồn vón trái phiêu chính phủ khoảng 12000 tỷ đồngtiếp tục đầu tư cho các công trình giao thong,thuỷ lơi quan trọng theo Quyết định 171/2006/QĐ-TTg;nguồn vón trái phiếu quốc tế khoảng 5000 tỷ đồng đầu tư phát triển công nghiẹp đóng tàu(của Tập đoàn công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam);dự án nhà máy lọc dầu Dung Quất,dư, án mua tàu vận tải(của Tỏng công ty Hàng Hải Việt Nam)và Dự án thuỷ điện Xê ca mản 3(của Tỏng công ty cổ phần đầu tư và phát triển điện Việt –Lào).
Xu hướng gia tăng dòng vốn đầu tư nước ngoài dự báo sẽ tiếp tục được duy trì trong các năm tới. Trong 5 năm (2006 - 2010), vốn cấp mới sẽ có thể đạt trên 30 tỉ USD, bình quân mỗi năm khoảng trên 6 tỉ USD; vốn đầu tư nước ngoài thực hiện đạt khoảng 24 - 25 tỉ USD, bình quân gần 5 tỉ USD/năm. Cơ cấu đầu tư phân theo đối tác sẽ có sự chuyển biến tích cực theo hướng gia tăng tỷ trọng đầu tư từ các nước công nghiệp phát triển, nhất là từ Nhật Bản, Hoa Kỳ và EU. Đầu tư phát triển sản xuất công nghiệp sẽ tập trung chủ yếu trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao và khu kinh tế. Một số dự án quy mô lớn đang đàm phán sẽ được thực thi.
Sự tăng tốc của đầu tư nước ngoài vào Việt Nam được thể hiện ở cả ba nguồn, bao gồm nguồn vốn đầu tư trực tiếp, nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức và nguồn vốn đầu tư gián tiếp.
Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) ngay từ khi chỉ mới nghe tin Việt Nam chuẩn bị gia nhập WTO đã có dấu hiệu khởi sắc, năm 2006 đã đạt kỷ lục cả về lượng vốn đăng ký (10,2 tỉ USD), cả về lượng vốn thực hiện (4,1 tỉ USD). Hai tháng đầu năm nay, theo số liệu được cập nhật mới nhất, đầu tư trực tiếp nước ngoài tiếp tục vượt trội trên nhiều mặt: Lượng vốn đăng ký của các dự án mới đã đạt khá lớn (trên 1,5 tỉ USD), có tốc độ tăng khá cao so với cùng kỳ năm trước (27%) - một tốc độ tăng cao hiếm thấy trong hai tháng của cùng kỳ nhiều năm qua. Đây là thời gian có hai tết (cả Tây và Ta), đạt được quy mô và tốc độ tăng như trên là một cố gắng lớn và là tín hiệu khả quan để năm nay sẽ vươn lên kỷ lục mới.
Có chuyên gia đã nghĩ tới con số 20 tỉ USD, bởi trên bàn ở các cơ quan chức năng đã có hồ sơ dự án với tổng số vốn đăng ký trên 20 tỉ USD, trong đó có nhiều dự án lớn mới được đề xuất trong 2 tháng đầu năm nay, như dự án xây dựng khách sạn, trung tâm hội nghị, văn phòng, căn hộ cao cấp tại Hà Nội của Tập đoàn Gamuda (Malaysia) với số vốn 1 tỉ USD; dự án xây dựng nhà máy nhiệt điện công suất 2.640 MW và 2 cảng trung chuyển container quốc tế tại khu kinh tế Vân Phong (Khánh Hòa) của Tập đoàn Sumitomo (Nhật Bản) với số vốn khoảng 3,5 - 4 tỉ USD; Tập đoàn Foxcon (Đài Loan) dự kiến đầu tư 5 tỉ USD xây dựng thành phố công nghệ sản xuất các sản phẩm điện tử cao cấp tại Bắc Ninh - Bắc Giang, trong đó năm 2007 đăng ký đầu tư 1 tỉ USD; Tập đoàn Rivier (Nhật Bản) dự định đầu tư khách sạn 5 sao với trên 500 triệu USD ở Hà Nội; tại Vĩnh Phúc, Tập đoàn Compell (Đài Loan) dự định đầu tư 500 triệu USD cho dự án sản xuất điện tử và một số nhà đầu tư Hàn Quốc đề nghị đầu tư 500 triệu USD xây dựng trường đua ngựa
Lượng vốn đăng ký bổ sung của các dự án cũ để mở rộng quy mô hoạt động với số vốn tăng thêm đạt trên 500 triệu USD, lớn gấp ba lần cùng kỳ, cũng là mức tăng hiếm thấy trong cùng kỳ của nhiều năm qua. Lượng vốn này cộng với lượng vốn đăng ký đạt gần 2 tỉ USD, cao gần gấp rưỡi cùng kỳ năm trước. Không những tăng tốc về lượng vốn đăng ký, lượng vốn thực hiện trong hai tháng đầu năm cũng tăng tốc, với số vốn đạt gần 700 triệu USD, tăng 34% so với cùng kỳ năm trước.
Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) cuối năm trước các nhà tài trợ đã cam kết cho Việt Nam đạt cao nhất từ trước tới nay (4,45 tỉ USD). Khả năng thực hiện của năm nay sẽ tăng khá và năm thứ 3 liên tục vượt kế hoạch đề ra, bởi không chỉ lượng vốn cam kết tăng cao mà lượng vốn ký kết tính đến cũng đạt khá.
Nguồn vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài những năm trước kia không đáng kể, từ nửa cuối năm 2006 đã chảy vào Việt Nam khá mạnh (lên đến 3 tỉ USD) góp phần làm cho thị trường chứng khoán Việt Nam nóng lên với chỉ số giá chứng khoán "phi mã". Đầu năm nay, lượng vốn thuộc nguồn này còn tăng mạnh hơn, ước tính đến nay đã lên đến trên 4 tỉ USD, chiếm gần 1/3 tổng giá trị vốn hóa thị trường (khoảng 14 tỉ USD, bằng 23% GDP). Tới đây, khi có nhiều công ty đại gia được cổ phần hóa và niêm yết lên sàn, số vốn này sẽ còn tiếp tục chảy vào.
Sự tăng tốc của nguồn vốn nước ngoài đặt ra vấn đề cấp thiết là nâng cao năng lực để hấp thụ vốn, đẩy nhanh tiến độ thẩm định và cấp giấy chứng nhận đầu tư, đưa nhanh những dự án đầu tư vào triển khai thực hiện mà cốt lõi là cải cách hành chính, phát triển cơ sở hạ tầng, phát triển nguồn nhân lực...
Chương 3:Các giải pháp để hoàn thành
kế hoạch
I.Giải pháp huy động hiệu quả nguồn vốn đầu tư
1.Giải pháp huy động vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI
Để tranh thủ cơ hội thuận lợi nhằm tạo một làn sóng đầu tư mới, đòi hỏi phải có những giải pháp thích hợp nhằm khắc phục khó khăn, trở ngại, tiếp tục cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư.
Về luật pháp, chính sách:Các chính sách mới phải đủ sức hấp dẫn để khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các dự án thuộc các lĩnh vực ưu tiên như: sản xuất vật liệu mới, năng lượng mới; sản xuất sản phẩm công nghệ cao, công nghệ sinh học, công nghệ thông tin; cơ khí chế tạo; các dự án nuôi trồng, chế biến nông, lâm, thuỷ sản; sản xuất giống nhân tạo, giống cây trồng và giống vật nuôi; bảo vệ môi trường sinh thái; nghiên cứu, phát triển và ươm tạo công nghệ cao; xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng; dự án quan trọng có quy mô lớn; phát triển giáo dục, đào tạo, y tế; phát triển ngành nghề truyền thống và những lĩnh vực sản xuất, dịch vụ khác cần khuyến khích. Ngoài ra, cần tiếp tục tập trung thu hút FDI từ các tập đoàn đa quốc gia (TNCs) theo cả hai hướng: thực hiện những dự án lớn, công nghệ cao hướng vào xuất khẩu; tạo điều kiện để một số TNCs xây dựng các trung tâm nghiên cứu, phát triển, vườn ươm công nghệ gắn với đào tạo nguồn nhân lực. Nghiên cứu để có các giải pháp thu hút đầu tư thích hợp đối với TNCs của các nước phát triển, trước hết là Nhật Bản, Hoa Kỳ và EU.
Bên cạnh đó cần triển khai thực hiện có hiệu quả Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp năm 2005. Ngoài các Nghị định hướng dẫn đã được ban hành, cần tiếp tục xây dựng các văn bản hướng dẫn còn thiếu và các văn bản hướng dẫn thi hành các luật mới khác có liên quan đến hoạt động đầu tư,kinh doanh. Tiến hành rà soát để sửa đổi, bổ sung các chính sách thuế, chính sách ưu đãi đầu tư và các chính sách khác nhằm khuyến khích hơn nữa đầu tư vào các lĩnh vực và địa bàn ưu tiên. Rà soát và có chương trình triển khai đầy đủ, theo đúng tiến độ các cam kết hội nhập liên quan đến mở cửa thị trường; công bố các cam kết của nước ta với các nước trong các Hiệp định song phương và đa phương để tạo sự minh bạch về các lĩnh vực đầu tư có điều kiện.Đồng thời, tiếp tục thực hiện có hiệu quả Giai đoạn II Sáng kiến chung Việt Nam - Nhật Bản nhằm nâng cao hơn nữa khả năng cạnh tranh của môi trường đầu tư nước ta.
Về thủ tục hành chính, nhất thiết phải minh bạch hóa quy trình, thủ tục hành chính đối với đầu tư nước ngoài; tăng cường thực hiện cơ chế “một cửa” trong việc giải quyết thủ tục đầu tư; rà soát các vướng mắc về thủ tục hành chính ở tất cả các lĩnh vực, các cấp nhằm đẩy nhanh tiến độ cấp phép đầu tư mới và điều chỉnh giấy chứng nhận đầu tư, các thủ tục liên quan tới triển khai dự án đầu tư như thủ tục về đất đai, xuất nhập khẩu, cấp dấu, xử lý tranh chấp... Đồng thời, cần quan tâm xử lý dứt điểm các vướng mắc trong quá trình cấp, điều chỉnh giấy chứng nhận đầu tư và các vấn đề vướng mắc trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp.
Về kết cấu hạ tầng,thúc đẩy công tác quy hoạch đi trước một bước nhằm tạo điều kiện có địa điểm kêu gọi đầu tư để công bố công khai:
Làm tốt các công tác giải phóng mặt bằng và cung cấp hạ tầng ngoài hàng rào; tập trung xây dựng hệ thống giao thông quan trọng phục vụ phát triển kinh tế xã hội, giải quyết tốt yêu cầu về giao thông cho các khu công nghiệp, các dự án đầu tư lớn.Tiếp tục tập trung sức nâng cấp hệ thống kết cấu hạ tầng, trước mắt giải quyết tốt vấn đề nhu cầu năng lượng cho các nhà đầu tư. Có cơ chế khuyến khích tư nhân đầu tư phát triển các công trình kết cấu hạ tầng, trong đó có các nhà máy điện độc lập, các công trình giao thông, cảng biển...Nhanh chóng xây dựng mạng lưới công nghệ thông tin và xây dựng hệ thống thông tin kinh tế-xã hội, cơ sở dữ liệu hỏi đáp phục vụ xúc tiến đầu tư, tạo điều kiện để các tổ chức, nhà đầu tư trong và ngoài nước có thể dễ dàng tìm hiểu, khai thác thông tin trên mạng.Có cơ chế khuyến khích tư nhân đầu tư phát triển các công trình kết cấu hạ tầng, trong đó có các nhà máy điện độc lập, các công trình giao thông, cảng biển...
Về xúc tiến đầu tư, công bố Danh mục dự án quốc gia kêu gọi đầu tư nước ngoài giai đoạn 2006 - 2010 và chuẩn bị các tài liệu đầu tư làm cơ sở tiến hành vận động đầu tư theo các phương thức mới, nhằm vào các tập đoàn lớn và các dự án trọng điểm. Chủ động tiếp cận và hỗ trợ các nhà đầu tư tiềm năng có nhu cầu đầu tư vào Việt Nam; chuẩn bị để sớm đặt thêm các văn phòng đại diện xúc tiến đầu tư tại một số địa bàn trọng điểm ở nước ngoài.
Về lao động, tiền lương, tăng cường công tác đạo tạo nghề, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng được nhu cầu sử dụng lao động của các nhà đầu tư. Đặc biệt là đào tạo, xây dựng được đội ngũ những nhà quản trị trẻ tài năng. Bên cạnh đó cần khắc phục tình trạng đình công bất hợp pháp trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài diễn ra trong thời gian. Đồng thời nâng cao vai trò của tổ chức công đoàn trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Về phát triển công nghiệp phụ trợ, triển khai các giải pháp đồng bộ để phát triển ngành công nghiệp phụ trợ như khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư vào các ngành công nghiệp phụ trợ.
Nếu các giải pháp cơ bản nói trên được thực hiện nhất quán với sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành và giữa Trung ương với địa phương thì triển vọng đầu tư nước ngoài tại Việt Nam sẽ rất sáng sủa, mặc dù phải đương đầu với không ít khó khăn, thách thức.
2.Nguồn vốn tài trợ phát triển chính thức ODA.
Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, thu hút và sử dụng vốn ODA; đồng thời xây dựng danh mục các chương trình, dự án quan trọng đầu tư bằng nguồn vốn ODA theo ngành và lĩnh vực (kể cả các lĩnh vực xã hội) tới năm 2010, đệ trình Chính phủ vào quý IV năm 2004.
Các chương trình, dự án ưu tiên đầu tư theo định hướng: phát triển nông nghiệp và nông thôn gắn với tiếp tục thực hiện xóa đói, giảm nghèo. ưu tiên sử dụng vốn ODA cho các chương trình, dự án hỗ trợ chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp, phát triển ngành nghề, xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn, nước sạch, công trình thủy lợi, trường học, trạm y tế...), đặc biệt chú trọng đầu tư cho các địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít người...
Tiếp tục thực hiện các dự án phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội theo quy hoạch, kế hoạch đã được phê duyệt nhằm tăng thêm năng lực các công trình giao thông vận tải (đường, cầu, cảng...) năng lượng điện, thủy lợi, thông tin liên lạc, các dự án phát triển giáo dục và đào tạo, y tế và các chương trình xã hội, bảo vệ môi trường...
Các bộ, cơ quan, địa phương, đơn vị thực hiện các biện pháp thiết thực để đẩy nhanh tiến độ giải ngân nguồn vốn ODA. Trong đó, cần thực hiện việc hài hòa về thủ tục với các nhà tài trợ theo nhóm hoặc song phương, từng bước giải quyết những vướng mắc về thủ tục chuẩn bị thực hiện dự án, trước hết là hài hòa kết cấu nội dung và hình thức các văn kiện dự án (báo cáo nghiên cứu khả thi), các quy trình và thủ tục đấu thầu, báo cáo triển khải các dự án ODA. Ban hành và tổ chức thực hiện, chính sách giải tỏa mặt bằng gắn với tái định cư, tạo điều kiện thực hiện việc giải ngân ODA nhanh, đúng quy định của các chương trình, dự án ODA đã cam kết.Trong chỉ đạo thực hiện kế hoạch cần ưu tiên đảm bảo đủ vốn đối ứng cho các chương trình, dự án ODA để thực hiện nghiêm chỉnh các cam kết với các nhà tài trợ. Tiếp tục hoàn thiện, bổ sung, sửa đổi cơ chế quản lý sử dụng vốn ODA, nhất là các vấn đề liên quan đến chính sách thuế, cho vay lại, định mức chi tiêu: tăng cường công tác đánh giá, thẩm định hiệu quả của các chương trình, dự án ODA.
Các bộ, tỉnh và thành phố cần kiện toàn tổ chức quản lý và sử dụng ODA; nghiêm chỉnh thực hiện quy chế quản lý các dự án, quy chế hoạt động của Ban quản lý dự án và nâng cao năng lực của cán bộ tham gia công tác quản lý ODA ở các cấp trong việc chuẩn bị, tổ chức thực hiện. Trong đó, thực hiện nghiêm túc chế độ báo cáo định kỳ và báo cáo kết thúc dự án, thực hiện kiểm toán các dự án ODA theo hướng tập trung vào một đầu mối để thực hiện có hiệu quả chức năng quản lý ODA được phân cấp theo các quy định hiện hành. Có biện pháp ngăn chặn những biểu hiện gây lãng phí, tham nhũng trong quá trình thực hiện dự án, tạo lòng tin cho các đối tác và cho những người được thụ hưởng lợi ích của dự án.
3.Giải pháp huy động vốn đầu tư trong nước
Coi việc tạo ra môi trường sản xuất, kinh doanh thuận lợi là yếu tố rất quan trọng để huy động nguồn vốn đầu tư trong nước, tiếp tục tháo gỡ khó khăn, chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp, nâng cao năng lực cạnh tranh của các sản phẩm công nghiệp và các ngành dịch vụ; nâng cao hiệu qủa của các doanh nghiệp Nhà nước, tạo điều kiện cho dân và các doanh nghiệp có đủ quyền kinh doanh có cơ hội mở mang thông tin kinh tế, thị trường, tiếp cận với nguồn vốn và cộng nghệ mới.
Đồng thời khẩn trương xây dựng, sửa đổi, bổ sung các thể chế cần thiết tạo khung pháp lý thuận lợi cho các hoạt động kinh doanh. Luật Đất đai sẽ được sửa đổi, bổ sung theo hướng tạo thuận lợi hơn trong việc thực hiện các quyền sử dụng đất. Xúc tiến việc xây dựng Luật Cạnh tranh và Kiểm soát độc quyền, Luật Kế toán, tạo điều kiện cho cho lưu thông hàng hóa. Kiến nghị Quốc hội bãi bỏ thuế buôn chuyến, tránh đánh thuế trùng lặp. Luật thuế giá trị gia tăng sẽ sửa đổi, bổ sung theo hướng giảm bớt số lượng thuế suất, cải tiến phương pháp tính thuế, mở rộng diện tự khai và nộp thuế. Hoàn thiện một bước cơ chế, chính sách tín dụng, tách bạch ngân hàng chính sách và ngân hàng thương mại tạo điểu kiện cho doanh nghiệp và nhân dân nhanh chóng tiếp cận tín dụng ngân hàng
Huy động mạnh nguồn vốn cho dân đầu tư vào sản xuất, kinh doanh, đầu năm 2000, Chính phủ đã ban hành một số văn bản quy phạm về đăng ký kinh doanh, hướng dẫn thi hành Luật Doanh nghiệp, về kinh tế trang trại... Từ đó, việc cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh rút ngắn thời gian rất nhiều. Chính do chủ động kinh doanh mà các cơ hội kinh doanh đã được tận dụng, không bị bỏ lỡ như trước đây từng xảy ra.
Trong điều kiện nguồn vốn đầu tư của ngân sách nhà nước còn khó khăn, cần có cơ chế chính sách thông thoáng hơn nhằm tăng mức huy động nguồn lực trong dân bằng các hình thức đa dạng, phong phú như phát hành trái phiếu dài hạn, trái phiếu công trình, mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động của thị trường chứng khoán... nhằm đáp ứng kế hoạch tăng trưởng kinh tế.
Cần tiếp tục mở rộng cơ hội đầu tư cho dân không chỉ tạo điều kiện và khuyến khích kinh tế dân doanh trong các ngành sản xuất, dịch vụ thông thường mà cả trong một số lĩnh vực dịch vụ công lâu nay chỉ có Nhà nước làm hoặc chủ yếu do Nhà nước làm như y tế, giáo dục, vệ sinh môi trường, giao thông công cộng, đô thị, bảo trì và phát triển các công trình phúc lợi công cộng, một số công việc dịch vụ trong cơ quan hành chính, sự nghiệp Nhà nước...
II.Giải pháp sử dụng hợp lý nguồn vốn đầu tư
Tăng tốc vốn đăng ký là quan trọng, nhưng tăng tốc độ vốn thực hiện còn quan trọng hơn, bởi vì đây mới là lượng vốn thực tế đưa vào đầu tư sản xuất kinh doanh.Vấn đề nan giải mà Việt Nam đang phải đối mặt hiện nay chính là thách thức giải ngân.
Theo Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), trong 20,3 tỷ USD vốn đăng ký, năm 2007 mới chỉ giải ngân được 4,6 tỷ USD, chiếm 30%. Điều này cho thấy nhiệm vụ trọng tâm cho những năm tiếp theo là tập trung cho giải ngân FDI. Ước tính, năm 2008, FDI đạt 15 tỷ USD và phấn đấu giải ngân vốn 5,6 - 6 tỷ USD. "Giải ngân sẽ là một trong những nhiệm vụ trọng trách của năm 2008", ông Thắng nói.
Làn sóng đầu tư mới từ các đối tác tiềm năng như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Hoa Kỳ, Trung Đông, đã đến Việt Nam với cam kết thoả thuận hàng chục tỷ USD, trong đó có một số dự án có quy mô vốn trên 1 tỷ USD... nhưng đứng trước các dự án lớn chúng ta càng nhận ra nhiều các hạn chế, thách thức trước mắt để chuẩn bị điều kiện tiếp nhận và khả năng hấp thụ các dự án quy mô vốn lớn của Việt Nam.
Khi nguồn vốn đầu tư thu hút được càng lớn thì càng mừng nhưng mối lo cũng càng lớn lên để làm sao giải ngân được hiệu quả. Hơn nữa là phải tạo điều kiện tốt nhất bằng những chính sách thích hợp để đồng vốn của các nhà đầu tư vào và phát triển. Chúng ta phải nhận thức rõ một điều giải ngân chậm sẽ làm cho các nhà đầu tư nản lòng, từ chỗ tin tưởng mà gây cho họ hoài nghi về môi trường đầu tư của chúng ta.
Hiện nay, ở hầu hết các lĩnh vực đầu tư có điều kiện cũng như điều kiện của các dự án đầu tư chậm ban hành văn bản quy định các điều kiện cụ thể làm căn cứ để thẩm tra, cấp GCNĐT, gây lúng túng cho các địa phương và nhà đầu tư. Nhiều vấn về đầu tư gián tiếp, trình tự, thủ tục mở chi nhánh, thanh lý, giải thể; chế độ báo cáo thống kê.v.v. chưa được hướng dẫn đầy đủ, hoặc chưa được sửa đổi phù hợp cũng làm giảm tiến độ triển khai dự án. Bên cạnh đó, việc xử lý về quan điểm đối với một số dự án lớn còn lúng túng, kéo dài.Đặc biệt, vấn đề cơ sở hạ tầng vẫn chưa theo kịp tiến độ phát triển đầu tư, ảnh hưởng tới tâm lý của nhà đầu tư. Việc chưa chuẩn bị sẵn sàng về đất đai (đặc biệt đối với các dự án lớn cần mặt bằng sản xuất rộng) cũng như việc giải phóng mặt bằng, đền bù, di dời và tái định cư dân khu vực đầu tư còn nhiều bất cập đã hạn chế việc tiếp nhận các dự án mới cũng như đẩy nhanh tiến độ đã được cấp giấy chứng nhận.
Bên cạnh đó, vấn đề nhận lực đang nổi lên và một thách thức lâu dài. Thực tế có không ít dự án đều phải vừa xây dựng vừa chuẩn bị nguồn nhân lực.Đơn cử, dự án máy tính xách tay của Vĩnh Phúc đang cần ngay 3.000 lao động có tay nghề nhưng ông chủ tịch tỉnh phải thừa nhận là việc huy động hiện nay là rất khó. Do vậy, chủ dự án đã phải đào tạo gấp số lao động này trong 6 tháng để họ có trình độ tối thiểu có thể vận hành dây chuyền sản xuất
Một số giải pháp chủ yếu để có thể sử dụng nguồn vốn đầu tư có hiệu quả là:
1. Rà soát, điều chỉnh, bổ sung và nâng cao chất lượng quy hoạch tổng thể, ngành, vùng, sản phẩm chủ lực đến 2010, định hướng đến 2020:Tập trung chỉ đạo xây dựng Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh đến năm 2020. Từng bước nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, đồng thời tăng cường công tác quản lý nhà nước về quy hoạch, thực hiện công bố công khai quy hoạch để các thành phần kinh tế, nhân dân biết, thực hiện theo quy hoạch và giám sát việc thực hiện quy hoạch.
2. Cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư, kinh doanh:
Tập trung rà soát, bổ sung hoàn chỉnh lại một số cơ chế, chính sách đã ban hành, đồng thời nghiên cứu xây dựng một số chính sách mới theo hướng ổn định, thông thoáng, công khai, lâu dài, dễ thực hiện và dễ kiểm tra để tạo môi trường, điều kiện thuận lợi nhất cho các thành phần kinh tế phát triển sản xuất kinh doanh. Nhanh chóng cải thiện kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, đẩy mạnh cải cách hành chính trong các lĩnh vực liên quan đến đất đai, đầu tư xây dựng và thành lập doanh nghiệp, theo hướng đơn giản hóa và rút ngắn thời gian xử lý các thủ tục hành chính.
3. Thực hiện đồng bộ các giải pháp để huy động các nguồn vốn cho đầu tư phát triển và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư:
- Tập trung đẩy nhanh tiến độ thi công các dự án lớn của Trung ương trên địa bàn, xúc tiến để sớm triển khai thực hiện các dự án liên hợp lọc hóa dầu Nghi Sơn, nhiệt điện Nghi Sơn, dự án mở rộng nhà máy xi măng Nghi Sơn, Bỉm Sơn...; các dự án trong chương trình thực hiện Nghị quyết 37, Nghị quyết 39 của Bộ Chính trị, các dự án thực hiện bằng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ, vốn ODA
- Đa dạng hoá các hình thức huy động vốn; tiếp tục đẩy nhanh tiến độ lập quy hoạch chi tiết, lập kế hoạch cụ thể hàng năm để tổ chức tốt việc đấu giá đất, tạo vốn đầu tư xây dựng các công trình trọng điểm của tỉnh; khai thác tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong nhân dân; tiếp tục thực hiện và mở rộng cơ chế phân cấp đầu tư và hỗ trợ đầu tư đối với một số công trình hạ tầng để huy động đa dạng các nguồn vốn trong xã hội.
- Phân định rõ trách nhiệm trong quản lý đầu tư xây dựng; tăng cường trách nhiệm của các chủ đầu tư trong chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư và thanh quyết toán công trình; qui định rõ vai trò, trách nhiệm của các cấp chính quyền, các ngành chức năng trong việc thanh tra, kiểm tra, giám sát đầu tư; đồng thời tạo điều kiện để người dân tham gia giám sát hoạt động đầu tư xây dựng.
4. Tập trung chỉ đạo thực hiện có hiệu quả các chương trình trọng điểm về phát triển kinh tế, đồng thời chú trọng việc tổng kết và nhân rộng các mô hình, điển hình tiên tiến:
- Các ngành chức năng được phân công chủ trì triển khai các chương trình xây dựng Khu kinh tế Nghi Sơn, phát triển kinh tế - xã hội miền Tây, đào tạo, sử dụng nguồn nhân lực, phát triển xuất khẩu, phát triển du lịch có trách nhiệm lập kế hoạch thực hiện các chương trình, đề án hàng năm và triển khai thực hiện đảm bảo các mục tiêu yêu cầu đề ra.
- Trong quá trình triển khai thực hiện kế hoạch 5 năm 2006 - 2010, các ngành, các huyện, thị xã, thành phố cần quan tâm phát hiện, xây dựng và phát triển các mô hình, điển hình tiên tiến gắn với tổng kết, nhân rộng các mô hình.
5. Khai thác thế mạnh về nguồn nhân lực trong và ngoài tỉnh:
Khai thác tốt tiềm năng của lực lượng lao động trong tỉnh, có chính sách khuyến khích thu hút số sinh viên tốt nghiệp loại khá, giỏi ở các trường đại học, những cán bộ có trình độ cao, tay nghề giỏi ở ngoài tỉnh về địa phương công tác. Phải gắn thu hút với bố trí sử dụng cán bộ; quan tâm bố trí những cán bộ trẻ, được đào tạo cơ bản, có phẩm chất chính trị và đạo đức tốt, có năng lực để giữ những chức danh phù hợp nhằm đào tạo, bồi dưỡng nguồn cán bộ chủ chốt từ tỉnh đến cơ sở.
6. Tăng cường xã hội hoá các hoạt động văn hoá - xã hội:
Đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục đào tạo, y tế, văn hoá, thể dục thể thao theo tinh thần Nghị quyết số 05/2005/NQ-CP của Chính phủ và đề án của UBND tỉnh bao gồm cả 3 nội dung: tăng cường quản lý nhà nước; đổi mới cơ chế quản lý, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các cơ sở công lập; phát triển mạnh các cơ sở ngoài công lập và các mô hình hoạt động tự quản theo qui định của pháp luật, nhằm phát huy cao nhất tiềm năng trí tuệ và vật chất trong nhân dân, huy động toàn xã hội chăm lo sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hoá, thể dục thể thao; tạo điều kiện để toàn xã hội, đặc biệt là các đối tượng chính sách, người nghèo được thụ hưởng thành quả giáo dục, y tế, văn hoá, thể dục thể thao ở mức độ ngày càng cao.
7. Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác chỉ đạo điều hành; tăng cường thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, tham nhũng:
- Tập trung triển khai Chương trình tổng thể cải cách hành chính thời kỳ 2006 - 2010; khẩn trương điều chỉnh và qui định mới phân cấp quản lý nhà nước đối với một số lĩnh vực.
- Quy định trách nhiệm cá nhân của người đứng đầu các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của cơ quan; đặc biệt là để xảy ra tình trạng không hoàn thành nhiệm vụ, có cán bộ, công chức vi phạm pháp luật, tham nhũng, gây khó khăn, phiền hà cho tổ chức và công dân.
- Tăng cường kiểm tra việc thực hiện cải cách hành chính; thanh tra việc thực thi công vụ ở các lĩnh vực; kiểm tra việc thực hiện qui chế làm việc và việc ban hành văn bản, phát hiện và đề xuất bãi bỏ kịp thời những văn bản trái pháp luật và trái thẩm quyền. Nâng cao trách nhiệm cá nhân của cán bộ, công chức trong thực thi công vụ; kiên quyết không bố trí những cán bộ, công chức không đủ trình độ, năng lực chuyên môn, yếu kém về phẩm chất đạo đức vào việc giải quyết các công việc của tổ chức và công dân; xử lý nghiêm minh những trường hợp lợi dụng quyền hạn, chức trách để nhũng nhiễu, gây phiền hà cho tổ chức và công dân.
- Xây dựng và triển khai kịp thời Đề án đổi mới cơ chế hoạt động đối với các đơn vị sự nghiệp công lập theo tinh thần Nghị định 43/2006/NĐ-CP của Chính phủ, giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các đơn vị trên cả 3 mặt: tổ chức thực hiện nhiệm vụ; tổ chức bộ máy, biên chế; quản lý tài chính.
- Tăng cường công tác quán triệt, triển khai và hướng dẫn thực hiện các Nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước, đặc biệt là các chế độ chính sách, các văn bản pháp luật mới ban hành, nhằm đẩy mạnh công cuộc đổi mới một cách toàn diện, tạo động lực mới cho sự phát triển.
- Tổ chức triển khai thực hiện tốt Luật phòng chống tham nhũng, Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở, bảo đảm công khai, minh bạch các hoạt động kinh tế, tài chính trong các cơ quan hành chính, đơn vị cung ứng dịch vụ công và doanh nghiệp nhà nước; tập trung thanh tra, kiểm tra việc quản lý đất đai, đầu tư xây dựng cơ bản, quản lý thu chi ngân sách; quản lý tài sản công, công tác tuyển dụng, bố trí cán bộ. Tăng cường thanh tra các công trình, dự án dư luận phản ánh có dấu hiệu tiêu cực, các doanh nghiệp lớn thuộc các ngành xây dựng, thuỷ lợi, giao thông.
Chương4:kết luận
Để tổng kết đề tài,chúng tôi xin trích một phần trong bài phát biểu của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư-ông Võ Hồng Phúc tại hội nghị kinh tế đối ngoại “ VIỆT NAM – NGÔI SAO ĐANG LÊN Ở CHÂU Á” như một lời tổng kết về tình hình thực hiện kế hoạch vốn đầu tư 2006-2010 cho đến thời điểm hiện tại
“Trong hơn 20 năm thực hiện công cuộc Đổi mới đất nước, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội. Vai trò và vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế không ngừng được củng cố và tăng cường. Ngay trong năm 2007, năm thứ hai thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010, Việt Nam đã đạt được những kết quả tích cực trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, xã hội, môi trường và phát triển bền vững.
Trong năm 2007, nền kinh tế Việt Nam đạt tốc độ tăng trưởng 8,5 %, cao nhất trong vòng 10 năm qua. Các cân đối kinh tế vĩ mô cơ bản được bảo đảm, tạo điều kiện cho việc phát triển kinh tế một cách ổn định. Đầu tư phát triển của nền kinh tế tăng cao, chiếm hơn 40% GDP và tăng hơn 16% so với năm ngoái, nhiều công trình cơ sở hạ tầng và sản xuất được đưa vào sử dựng, tạo tiền đề quan trọng để phát triển đất nước trong những năm tiếp theo. Lĩnh vực xã hội đạt đuợc những tiến bộ rõ rệt với tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 18% năm 2006 xuống còn khoảng 14% năm 2007. Y tế, chăm sóc sức khoẻ nhân dân và giáo dục và đào tạo tiếp tục có những bước cải thiện quan trọng. Công tác bảo vệ tài nguyên và môi trường tiếp tục được đẩy mạnh trên cơ sở thực hiện Luật Bảo vệ môi trường và quyết định của Thủ tướng Chính phủ trong việc kiểm soát ô nhiễm không khí, ô nhiễm nguồn nước và quản lý chất thải.
Mở cửa đất nước để đón nhận những luồng gió mới nhằm chấn hưng nền kinh tế là chủ trương xuyên suốt trong công cuộc Đổi mới của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Một năm ngay sau khi tiến hành công cuộc Đổi mới, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Luật Đầu tư nước ngoài (FDI), tạo lập môi trường pháp lý để huy động nguồn vốn đầu tư nước ngoài phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước. Sau đó 7 năm, vào năm 1993, khi điều kiện đã chín muồi, Việt Nam đã nối lại quan hệ với cộng đồng tài trợ quốc tế và tiếp nhận nguồn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA). Nguồn vốn này cùng với nguồn vốn FDI đã tạo thành các kênh vốn đầu tư từ bên ngoài có ý nghĩa quan trọng đối với Việt Nam trong sự nghiệp phát triển kinh tế và xã hội của đất nước.
Đối với nguồn vốn FDI, trong thời kỳ 1988 – 2007 (tính cuối năm 2007), cả nước đã có hơn 9.500 dự án FDI được cấp giấy phép đầu tư với tổng số vốn đăng ký đạt khoảng 98 tỷ USD (kể cả vốn tăng thêm). Trừ các dự án hết thời hạn hoạt động và giải thể trước thời hạn,hiện có hơn 8.590 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký hơn 83 tỷ USD, trong đó vốn thực hiện đạt trên 43 tỷ USD, chiếm hơn 52,2% số vốn đăng ký. Hơn 82 quốc gia và vùng lãnh thổ có các hoạt động đầu tư tại Việt Nam. Cơ cấu vốn FDI hỗ trợ đắc lực cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam, tập trung cho công nghiệp và xây dựng (68,6% vốn thực hiện); Dịch vụ (24,5% vốn thực hiện) và Nông lâm nghiệp (6,9% vốn thực hiện). Vốn FDI đã lan đến tất cả các tỉnh và thành phố, kể cả những địa phương nghèo, còn chậm phát triển như Điện Biên, Lai Châu, Đắc Nông,Vốn FDI đã đóng góp 18% tổng vốn đầu tư toàn xã hội tạo ra hơn 1,2 triệu việc làm trực tiếp, góp phàn chuyển dịch cơ cấu, nâng cao năng lực sản xuất, chuyển giao công nghệ...
Cùng với nguồn vốn FDI, trong thời gian qua Việt Nam đã chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của khối doanh nghiệp trong nước, nhất là khu vực dân doanh và đây là nét nổi bật trong phát triển đầu tư ở Viêt Nam. Chỉ tính riêng khu vực dân doanh, các doanh nghiệp đã đóng góp hơn 40 % GDP và 29 % tổng kim ngach xuất khẩu của cả nước. Khu vực này luôn duy trì tốc độ tăng trưởng trên 18%/năm và đóng góp hơn 14 % tổng thu ngân sách Nhà nước.
Đối với nguồn vốn ODA, Việt Nam hiện có trên 50 nhà tài trợ song phương và đa phương đang hoạt động. Tổng giá trị ODA cam kết của các nhà tài trợ cho Việt Nam trong thời kỳ 1993-2007 đạt trên 42 tỷ USD với mức cam kết năm sau cao hơn năm trước và đạt con số kỷ lục trên 5,4 tỷ USD trong năm 2007. Mức cam kết cao đã thể hiện sự ủng hộ mạnh mẽ của cộng đồng quốc tế đối với chính sách đúng đắn, hợp lòng dân của Đảng và Nhà nước ta, coi Việt Nam là địa chỉ đầu tư đáng tin cậy. Trong số vốn ODA cam kết, 45% đã được giải ngân tạo ra nhiều cơ sở hạ tầng kinh tế quan trọng như phát triển hệ thống đường giao thông, năng lượng điện, cấp thoát nước,tạo điều kiện để thu hút các nguồn vốn đầu tư khác như FDI, đầu tư trong nước,
Cơ hội phát triển dành cho mọi quốc gia. Song cơ hội đến và có thể tuột khỏi tầm tay nếu như quốc giá đó không biết chớp lấy và nhân lên để tạo ra xung lực cho sự phát triển.
Từ một Luật Đầu tư nước ngoài áp dụng riêng cho các nhà đầu tư nước ngoài, kể cả những quy định phân biệt đối xử giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, từng bước Việt Nam hoàn thiện hệ thống luật pháp và tiến đến ban hành trong năm 2005 một bộ Luật Đầu tư thống nhất áp dụng chung cho cả đầu tư trong nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài. Với Luật này Việt Nam đã tạo ra một môi trường đầu tư bình đẳng và cạnh tranh lành mạnh theo cơ chế thị trường đối với tất cả các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Luật Doanh nghiệp ban hành năm 2005 là một Luật duy nhất áp dụng chung cho cả các doanh nghiệp trong nước cũng như doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đây thật sự là bước đột phá cho các nhà đầu tư nước ngoài có thể lựa chọn loại hình doanh nghiệp để kinh doanh dưới sự bảo trợ của Luật này. Điều quan trọng là Luật Doanh nghiệp không phân biệt đối xử đối với doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, bình đẳng trước pháp luật, bình đẳng trong việc tiếp cận đất đai, nguồn tài chính và lao động cũng như được hưởng các ưu đãi đầu tư như nhau.
Những đạo luật mà Việt Nam đã ban hành, những cam kết quốc tế mà Việt Nam đã chấp nhận phù hợp với chủ trương, chính sách đổi mới đất nước, do vậy Việt Nam có cam kết chính trị rất cao để triển khai thực hiện trong thực tế. Hơn nữa, Việt Nam đang trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền, do vậy việc thực hiện các quy định của luật pháp là tất yếu. Đối với nhà đầu tư, điều quan trọng là lường trước những rủi ro trong các hoạt động kinh doanh của mình, do vậy Việt Nam bảo đảm tính ổn định của pháp luật, nếu những quy định sau ưu đãi hơn quyết định trước thì nhà đầu tư được hưởng những quy định ưu đãi hơn không tuỳ thuộc vào văn bản đã ký trước đó.
Về lĩnh vực đầu tư, Việt Nam quy định nhà đầu tư có thể bỏ vốn vào bất kỳ lĩnh vực nào mà luật pháp không cấm. Hình thức đầu tư đã không ngừng đuợc cải thiện từ hình thức liên doanh là chủ yếu, nay đã có thêm nhiều hình thức mới như mua lại và sáp nhập (M&A), mua cổ phần, góp vốn để tham gia quản lý xí nghiệp hoặc đầu tư gián tiếp. Loại hình doanh nghiệp cũng đuợc mở rộng đáng kể, không chỉ giới hạn ở hình thức thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn mà có thể áp dụng các hình thức khác như công ty cổ phần, công ty hợp doanh,... Có thể nói chưa bao giờ nhà đầu tư ở Việt Nam đứng trước những cơ hội rộng lớn như hiện nay để thực hiện ý tưởng chiến lược và kế hoạch đầu tư của mình.
Xuất phát từ trình độ phát triển kinh tế thấp, lại trải qua nhiều năm trong cơ chế kế hoạch tập trung, bao cấp, Việt Nam phải vượt qua nhiều khó khăn để thắng sức ỳ của thói quen và tâm lý trong quá trình cải cách hành chính trong lĩnh vực đầu tư nói chung và đầu tư trực tiếp nước ngoài nói riêng. Hiện nay, cơ chế một cửa đã được thiết lập ở hầu hết các cơ quan Trung ương, các tỉnh và thành phố trong việc giải quyết các thủ tục hành chính như thủ tục gia nhập thị trường đã được tinh giản đáng kể, cho phép doanh nghiệp đa dự án và mở rộng diện áp dụng chế độ đăng ký thay cho cấp phép và ứng dụng công nghệ thông tin để cải tiến mạnh mẽ quy trình và thủ tục này.
Trong quá trình thực hiện đầu tư, những tranh chấp giữa các bên có thể xảy ra, tuy không mong muốn song không thể loại trừ. Để khắc phục tình trạng này, Việt Nam đã đề ra cơ chế giải quyết tranh chấp để nhà đầu tư lựa chọn trọng tài trong nước hoặc trọng tài quốc tế với mục đích bảo đảm tốt nhất quyền lợi cho các nhà đầu tư.
Trong giai đoạn phát triển hiện nay đang diễn ra cuộc cạnh tranh gay gắt giữa các quốc gia nhằm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, giữa các doanh nghiệp trong nước với nhau và với doanh nghiệp nước ngoài. Trong cuộc cạnh tranh này, môi trường đầu tư mà Nhà nước tạo ra là yếu tố tiên quyết. Về mặt này, như đã trình bày với quý vị trong phần trên, Chính phủ Việt Nam đã làm tất cả để môi trường Đầu tư ở Việt Nam ngày càng hoàn thiện, thông thoáng, minh bạch hơn và cạnh tranh hơn. Tuy nhiên, Việt Nam hiện còn gặp nhiều khó khăn, thách thức liên quan đến hạ tầng kinh tế còn nhiều yếu kém; chi phí sản xuất gia tăng trong bối cảnh giá cả gia tăng chưa có dấu hiệu suy giảm; khan hiếm lao động có tay nghề và cán bộ có trình độ quản lý tiên tiến; tổ chức và cán bộ ở các địa phương còn nhiều bất cập; thủ tục hành chính còn nhiều phức tạp, gây phiên hà, nhũng nhiễu nhà đầu tư và doanh nghiệp.
Để tạo lập nền tảng cho sự phát triển nhanh và bền vững trong thời kỳ 5 năm 2006-2010 và sau năm 2010 nhằm mục tiêu trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020, Việt Nam tiếp tục huy động mọi nguồn lực trong và ngoài nước, trong đó vốn ODA và FDI có vị trí quan trọng .
Trong thời kỳ 2006-2010, Việt Nam dự kiến giải ngân khoảng 11,9 tỷ USD vốn ODA để hỗ trợ phát triển nông nghiệp và nông thôn; xây dựng cơ sở hạ tầng theo hướng đồng bộ và hiện đại; phát triển cơ sở hạ tầng xã hội; bảo vệ môi trường và nguồn tài nguyên thiên nhiên; phát triển thể chế và tăng cường năng lực con người.
Chúng tôi hoan nghênh tất cả các nhà đầu tư từ khắp các Châu lục đến làm ăn tại Việt Nam . Chúng tôi đặc biệt chú trọng thu hút đầu tư nước ngoài từ các tập đoàn đa quốc gia. Trong giai đoạn đến năm 2010, các đối tác đầu tư nước ngoài chủ yếu của Việt Nam tiếp tục là Nhật Bản, Hoa Kỳ, các quốc gia thành viên EU. Những đối tác khác như Trung Quốc, Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan,.. cũng sẽ tiếp tục tăng đầu tư vào Việt Nam.
Nhằm thực hiện đuợc những mục tiêu thu hút nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài, trước hết là ODA và FDI, Chính phủ Việt Nam quyết tâm thực hiện nhiều biện pháp thiết thực, tập trung vào các nhóm giải pháp chủ yếu sau:
Thứ nhất, đẩy nhanh việc xây dựng mới và bổ sung các quy hoạch để thống nhất với các quy định của Luật Đầu tư và phù hợp với cam kết quốc tế của Việt Nam. Hoàn chỉnh quy hoạch sử dụng đất, công bố rộng rãi quy hoạch, tạo điều kiện để đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng cho các dự án đầu tư.
Thứ hai, tiếp tục hoàn chỉnh chính sách và luật pháp để thực hiện đúng các cam kết kết với WTO và có những giải pháp bảo đảm quyền lợi của các nhà đầu tư có liên quan. Khẩn trương ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành luật pháp và kiểm tra chặt chẽ quá trình thực hiện. Tăng cường hài hoà hoá quy trình và thủ tục giải ngân vốn ODA với các nhà tài trợ.
Thứ ba, tăng cường xúc tiến đầu tư ở trong nước cũng như ở nước ngoài để nâng cao hình ảnh Việt Nam như một địa chỉ tin cậy của các nhà đầu tư và các nhà tài trợ, chú trọng các đối tác trọng điểm để thu hút FDI và vận động ODA.
Thứ tư, phát triển nhanh, mạnh cơ sở hạ tầng thông qua việc tổng rà soát, bổ sung và điều chỉnh, phê duyệt và công bố quy hoạch kết cấu hạ tầng cơ sở đến năm 2020 làm cơ sở thu hút FDI và vận động ODA. Thực hiện các biện pháp bảo đảm ưu tiên thực hiện các dự án hạ tầng trọng điểm.Phát triển kết cấu hạ tầng đòi hỏi nguồn vốn lớn, đầu tư lâu dài, do vậy cần sớm ban hành những chính sách, cơ chế và biện pháp khuyến khích mọi thành phần kinh tế trong và ngoài nước và nguồn vốn tài trợ ODA để xây dựng các công trình trong lĩnh vực này.
Thứ năm, thực hiện kế hoạch đào tạo để nâng cao năng lực con nguời, trước hết bảo đảm cung cấp nguồn lao động được đào tạo nghề cho các nhà đầu tư. Đồng thời, thực hiện chính sách lao động và tiền lương phù hợp với tình hình mới.
Thứ sáu, cải cách thủ tục hành chính là hoạt động trọng tâm để cải thiện môi truờng đầu tư, tập trung vào thực hiện tốt chính sách phân cấp quản lý nhà nước về FDI và ODA; đơn giản hóa và công khai quy trình, thủ tục hành chính đối với đầu tư nước ngoài, thực hiện cơ chế “một cửa “ trong việc giải quyết thủ tục đầu tư; tinh giản hoá quy trình thủ tục ODA với nhà tài trợ. Song song với việc cải thiện thủ tục hành chính cần coi trọng tăng cường năng lực cán bộ của các cơ quan công quyền trong việc giải quyết các các vấn đề liên quan tới thủ tục đầu tư.
Cùng với việc thực hiện các giải pháp trên cần kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực và tình trạng nhũng nhiễu đối với nhà đầu tư; sử dụng sai mục đích nguồn vốn tài trợ, đề cao trách nhiệm cá nhân trong xử lý công việc, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong tất cả các khâu quản lý và thực hiện đầu tư.
Nếu sau khi Việt Nam ban hành Luật Đầu tư nước ngoài vào năm 1987 và từ đó bắt làn sóng đầu tư lần thứ nhất thì hiện nay làn sóng đầu tư thứ hai vào Việt Nam đang dâng lên, lớn hơn nhiều về quy mô và cao hơn nhiều về chất lượng. Đầu tư trực tiếp nước ngoài cùng với nguồn vốn viện trợ ODA và nguồn đầu tư trong nước đang khơi dậy những nguồn lực tiềm tàng trong nước để Việt Nam sớm đạt được trình độ một nước đang phát triển có mức thu nhập trung bình và tiến tới một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020.
Chính phủ và nhân dân Việt Nam khẳng định quyết tâm cao độ và sự nỗ lực hết mình để thực hiện các mục tiêu phát triển nói trên và hy vọng các nhà đầu tư cùng đồng hành trên con đường này.
Mục lục
Lời nói đầu.2
Chương1:Lý luận chung
I.Khái niệm chung về khối lượng vốn đầu tư và Kế hoạch khối lượng vốn đầu tư ..3
II.Phương pháp lập kế hoạch khối lượng vốn đầu tư ..4
III.Kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư của một số địa phương4
Chương2. Kế hoạch vốn đầu tư thời kỳ 2006-2010
I.Kế hoạch vốn đầu tư thời kỳ kế hoạch 2006-2010 ...13
II.Tình hình thực hiện kế hoạch vốn đầu tư thời kỳ 2006-2007 ..24
III. Đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch giai đoạn 2006-2007 và nhiệm vụ còn lại giai đoạn 2008-2010 .28
Chương3: Các giải pháp để hoàn thành kế hoạch
I.Giải pháp huy động hiệu quả nguồn vốn đầu tư ..36
II.Giải pháp sử dụng hợp lý nguồn vốn đầu tư .40
Chương4:Kết luận.45
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 6003.doc