Đề tài Khả năng sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ 21

Đứng trước tình hình khẩn cấp đó, Ban Bí thư TW Đảng cộng sản Việt nam đã có chỉ thị số 100 (ngày 13/01/1981) chính thức hoá cơ chế khoán sản phẩm đến nhóm và cá nhân người nông dân hay còn gọi là “khoán 100”, theo đó hộ xã viên nông dân được chủ động một khâu canh tác và được hưởng phần sản lượng vượt khoán. Nhờ đó, sản xuất lúa đã tăng mỗi năm gần 1 triệu tấn, năm 1985 đạt mức 15,875 triệu tấn. Từ vụ đông xuân 1987 - 1988, nhiều địa phương đã nghiên cứu cải tiến khoán 100 thành khoán gọn đến hộ xã viên và đạt kết quả tốt. Từ kinh nghiệm đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tổng kết và nâng lên thành Nghị quyết số 10 (ngày 5/04/1988) về đổi mới quản lý trong nông nghiệp, hay còn gọi là “Khoán 10”. Nghị quyết thừa nhận nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, trong đó có kinh tế tư nhân, và trong nông nghiệp thì có hộ gia đình là đơn vị kinh tế độc lập, tự chủ. Ruộng đất, trâu bò, nông cụ được giao lại cho hộ gia đình nông dân. Nông dân được quyền quyết định việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm làm ra trên phần đất được giao lại của họ.

doc84 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1344 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Khả năng sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ 21, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Độ đã là một nước xuất khẩu gạo có tiếng trên thị trường thế giới. Tuy nhiên, ấn Độ là một nước điển hình thất thường về xuất khẩu gạo . Nếu trong khoảng thời gian liên tiếp từ 1989 - 1993 ấn độ chỉ xuất khẩu chừng 0,5 - 0,7 triệu tấn gạo thì hai năm 1995 và 1998 ấn Độ tăng vọt mức xuất khẩu của mình lên 4,5 và 4,8 triệu tấn. Đây thực ra là kết quả của nhiều năm liên tiếp thời tiết thuận lợi, được mùa nên dự trữ cao. Năm 1998 ấn Độ bội thu lúa mỳ, do đó đã tăng phần tiêu dùng lúa mỳ lên để xuất khẩu gạo. Chính phủ ấn Độ quy định giá gạo xuất khẩu, do đó giá bán của ấn Độ khá cứng nhắc và thường cao hơn giá của Việt nam, Thái lan và Pakistan. Ngoài ra, giá nội địa cao, các vấn đề về phân phối, chi phí vận chuyển và khả năng giao hàng đúng thời hạn đang là những nguyên nhân làm giảm khả năng cạnh tranh của ấn Độ tại hầu hết thị trường thấp và trung bình. Bên cạnh đó, sản xuất lúa gạo trong nước của ấn độ còn ở tình trạng lạc hậu, năng suất thấp nên tuy có diện tích canh tác lớn nhưng sản lượng chưa cao. Do đó an ninh lương thực chưa được bảo đảm. Sản phẩm gạo của ấn Độ bao gồm: gạo thơm “Basmati” cho các thị trường Mỹ, EU, Trung đông, Nga, Nam Phi, gạo đồ hấp cho Nam Phi, Trung đông và gạo Indica, chất lượng trung bình cho Trung đông, châu á, trong đó Bangladesh chiếm tỷ trọng lớn do ưu thế về địa lý. Tuy khả năng sản xuất và xuất khẩu gạo của ấn Độ còn thất thường nhưng điều quan trọng mà ấn Độ đã làm được là có một danh mục gạo xuất khẩu khá phong phú, từ gạo phẩm cấp trong bình đến gạo cao cấp. Do vậy ấn Độ đã tận dụng được triệt để các nguồn lực và phát huy tốt khả năng thích ứng với nhu cầu đa dạng của thị trường thế giới. Đó cũng là một bài học cho các nhà hoạch định chính sách sản xuất và kinh doanh lúa gạo của Việt Nam khi danh mục gạo xuất khẩu của chúng ta phần lớn mới chỉ là gạo phẩm cấp thấp và trung bình với giá trị xuất khẩu không cao. 1.4. Kinh nghiệm sản xuất và xuất khẩu gạo của Trung quốc Với diện tích canh tác lúa: 31,4 triệu ha, năng suất trung bình: 60,6 tạ/ha, sản phẩm gạo xuất khẩu chủ yếu là gạo Indica chất lượng vừa và thấp và gạo Japonica cho Nhật và Hàn quốc; Trung quốc là trường hợp duy nhất vừa là nhà xuất khẩu, vừa là nhà nhập khẩu. Từ khoảng giữa những năm 1960 tới 1988 Trung quốc là nước xuất khẩu lớn thuần tuý (net exporter), thường giữ vị trí thứ 4 với lượng xuất khẩu hàng năm khoảng 1 - 2 triệu tấn. Năm 1973 Trung quốc xuất khẩu tới 2,73 triệu tấn, một kỷ lục lớn nhất vào thời điểm đó. Năm 1989 Trung quốc phải nhập khẩu gạo. Nhưng từ năm 1990 - 1994 lại tiếp tục xuất khẩu gạo với số lượng 0,8 - 1,2 triệu tấn. Tuy nhiên, vụ mùa 1993/1994 và 1994/1995 thu hoạch không tốt kết quả là hai năm 1996, 1997 Trung quốc phải nhập chừng 1,4 triệu tấn mỗi năm. Năm 1997 Trung quốc lại trở lại xuất khẩu và năm 1998 lượng xuất đạt kỷ lục 3, 4 triệu tấn, xếp thứ tư thế giới . Tới nay, Trung quốc tiếp tục là nước xuất khẩu lớn với 2,6 - 2,8 triệu tấn trong năm 1999 và 2000. Dự kiến năm 2001 Trung quốc sẽ xuất khẩu được 3,4 triệu tấn. Đây là kết quả của vài năm liên tiếp được mùa khiến lượng gạo dự trữ tăng lên rất lớn và dân số tăng ít (0,9%/năm) . Hiện nay chính phủ Trung quốc đang áp dụng chính sách (bắt đầu từ năm 1999) thu hẹp diện tích gieo trồng giống lúa mùa sớm, chất lượng thấp tại miền Nam, thường chỉ để dự trữ hoặc chăn nuôi. Hãy còn là quá sớm để đánh giá được ảnh hưởng lâu dài của chính sách này đối với tổng sản lượng cũng như khả năng xuất khẩu gạo của Trung quốc. Tuy nhiên các chuyên gia nghiên cứu của Bộ Nông nghiệp Mỹ thì cho rằng trong suốt thập kỷ này Trung quốc vẫn sẽ là nước xuất khẩu gạo tương đối của thế giới. 1.5. Kinh nghiệm sản xuất và xuất khẩu gạo của Pakistan Chỉ với một diện tích canh tác lúa nhỏ 2,3 triệu ha và năng suất lúa đạt mức trung bình của thế giới 30,75 tạ/ha, nhưng liên tục trong hơn 10 năm qua, Pakistan tham gia xuất khẩu với số lượng tăng dần từ 0,8 triệu tấn năm 1989 tới mức cao 2 triệu tấn năm 1997. Ba năm vừa qua, lượng xuất khẩu đều đặn trên 1,7 triệu tấn. Pakistan đứng hàng tư, thứ năm thế giới về xuất khẩu gạo. Cũng như ấn Độ, Pakistan xuất khẩu gạo Indica chất lượng trung bình và thấp. Gạo thơm “Basmati” chiếm khoảng 1/3 lượng xuất khẩu. Inđônêsia, Philippines, Trung đông, Tây Phi, Afganistan, EU, Bangladesh, tiểu Vương quốc ả rập, Arập Xêút là các thị trường chính của Pakistan Pakistan thực sự là đối thủ cạnh tranh của Thái Lan và Việt nam, đặc biệt là Thái Lan tại những thị trường cấp thấp như châu Phi với các loại gạo 15, 20 và 25% tấm. Giá bán của Pakistan thấp hơn, chi phí vận chuyển rẻ hơn ( từ 4-5 USD/ tấn so với Thái Lan nếu sử dụng loại tàu trọng tải 12.500 tấn) đã khiến Pakistan có thêm thị phần từ tay Thái Lan. Chính phủ Pakistan đang có những nỗ lực nhằm làm tăng sản lượng gạo thông qua các biện pháp thưởng trên giá, cung cấp các đầu vào cho canh tác lúa đầy đủ và kịp thời gian cũng như các hỗ trợ về kỹ thuật. Trong tương lai, Pakistan vẫn có thể duy trì mức xuất khẩu trên 1 triệu tấn/ năm và là đối thủ cạnh tranh sát sao của cả Thái lan, Việt nam, Trung quốc tại các thị trường châu á, châu Phi. 2. Định hướng phát triển hoạt động sản xuất và xuất khẩu lúa gạo của Đảng và Nhà nước: Nghị quyết 09/2000/ NQ-CP ngày 15.6.2000 của Thủ tướng Chính phủ đã chỉ rõ: "Lúa gạo là ngành sản xuất có thế mạnh của nước ta, nhất là hai vùng đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng. Phải đảm bảo an toàn lương thực, đủ lúa gạo dự trữ quốc gia và có số lượng cần thiết để xuất khẩu. Mức sản lượng ổn định khoảng 33 tiệu tấn năm, trong đó, lúa gạo để ăn và dự trữ khoảng 25 triệu tấn, số còn lại để xuất khẩu và cho các nhu cầu khác. sản xuất lúa gạo chủ yếu dựa vào thâm canh, sử dụng giống có chất lượng cao, đáp ứng có hiệu quả yêu cầu của thị trường tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Giữ ổn định khoảng 4 triệu ha đất để có điều kiện tưới, tiêu chủ động để sản xuất lúa". Định hướng cụ thể cho hoạt động sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam trong thế kỷ 21: Xuất khẩu dựa trên việc nâng cao chất lượng, đa dạng hoá chủng loại và phẩm cấp gạo xuất khẩu, đáp ứng được thị hiếu và nhu cầu phong phú của thị trường thế giới. Nói đa dạng hoá chủng loại, cấp loại không có nghĩa là càng nhiều chủng loại, càng nhiều cấp loại càng tốt, mà sự đa dạng đó cũng phải theo nhu cầu của thị trường. Sẵn sàng đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng dù đó là nhu cầu loại gạo gì? Cấp loại nào? Quy mô lớn hay nhỏ? Ngoài ra nói đa dạng hoá xuất khẩu chủng loại gạo, cấp loại gạo nhưng phải theo hướng tăng dần tỷ trọng gạo đặc sản chất lượng cao, gạo có cấp loại cao trong tổng lượng gạo xuất khẩu của nước ta. Để có thể đáp ứng được nhu cầu mọi nơi, mọi lúc, muôn màu muôn vẻ, quy mô lớn hay nhỏ của khách hàng. Như vậy trong hệ thống tổ chức xuất khẩu gạo và cơ chế quản lý vĩ mô cần vừa có doanh nghiệp chủ đạo, vừa có doanh nghiệp hỗ trợ, vừa có cơ chế cứng, vừa có cơ chế mềm để hệ thống này có thể linh hoạt, uyển chuyển thích ứng kịp thời với những biến động của thị trường. Vấn đề là cần có sự phân chia, phân cấp thị trường cho các loại hình tổ chức xuất khẩu gạo một cách hợp lý. Cần có sự qui định cụ thể trách nhiệm cho các cơ quan chức năng trong hoạt động sản xuất, xuất khẩu gạo đồng thời mạnh dạn giao thêm quyền tự chủ cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này có vậy thì chúng ta mới có thể nhanh chóng đáp ứng được các đòi hỏi ngày càng cao và đa dạng của thị trường, thu được nguồn lợi tối đa về cho đất nước trong hoạt động xuất khẩu gạo. Xuất khẩu theo hướng mở rộng thị phần sẵn có, tạo lập các thị trường ổn định, lâu dài chiếm tỷ trọng lớn trong tổng lượng gạo xuất khẩu của Việt nam, nâng cao vị thế của Việt nam trên thị trường gạo thế giới Đã đến lúc các doanh nghiệp, các nhà quản lí, hoạch định chính sách của Việt Nam cần có những tầm nhìn xa và rộng hơn khi đưa ra các quyết sách kinh doanh. Hiện nay tình trạng các doanh nghiệp Việt Nam do thiếu kinh nghiệm, hiểu biết về thị thường lúa gạo thế giới là rất phổ biến. Bên cạnh đó còn có một số lượng không ít các doanh nghiệp kinh doanh theo kiểu chộp giật, tranh mua cướp bán, không thực hiện các hợp đồng đã kí với các đối tác nước ngoài. Chính những điều đó gây nên nhiều khó khăn cho việc giữ vững và mở rộng các thị trường sẵn có, và làm mất uy tín của gạo Việt Nam trên trường quốc tế. Để có thể ổn định và mở rộng các thị trường đã có, phát triển các thị trường mới, nâng cao vị thế của gạo Việt Nam, cần coi những thị trường quen thộc và ổn định là thị trường chiến lược, có những ưu tiên, hỗ trợ nhất định đối với khách hàng. Với những thị trường không ổn định cần coi đó là các thị trường thời cơ, cần có chính sách, hệ thống tổ chức thích hợp để sẵn sàng chiếm lĩnh khi có cơ hội. Xuất khẩu để đem lại nguồn thu ngoại tệ cho đất nước, ổn định đời sống người nông dân Ngay đến thời điểm này, khi Việt Nam đã là nước xuất khẩu gạo đứng hang đầuthế giới, thì nguồn thu ngoại tệ do xuất khẩu lúa gạo mang về cũng chưa hề tương xứng với tiềm năng vốn có. Hiện nay, trung bình mỗi tấn gạo xuất khẩu nhà nước phải bù lỗ tới 2 USD. Như vậy cứ một triệu tấn gạo xuất khẩu, nhà nước phải bù lỗ 2 triệu USD (Nguồn tin: Thời Báo Kinh Tế Việt Nam 14/11/2002). Thực tế này cho thấy, khả năng thu lợi từ xuất khẩu gạo của Việt Nam còn rất nhiều khó khăn. Nếu không có giải pháp tháo gỡ, xuất khẩu gạo của nước ta sẽ mãi mãi không thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn: hết trợ giá, dốc tiền ngân sách ra cho các doanh nghiệp mua lúa tạm trữ để hỗ trợ bà con nông dân, lại phải bù lỗ cho các doanh nghiệp để hoàn thành được các hợp đồng đã kí với nước ngoài hay kế hoạch đã đề ra. Một điều đáng buồn là, cuộc sống của người nông dân đến nay vẫn chưa hết những nhọc nhằn và lo toan. Mất mùa thì lo không có thóc gạo bán, được mùa thì giá thóc gạo lại tại giảm quá mạnh, thấp hơn cả chi phí và công sức đã bỏ ra. Định hướng trên của Nhà Nước nhằm cải thiện và ổn định cuộc sống cho người nông dân là rất thiết thực và cấp bách, nhưng để đưa định hướng tốt đẹp này trở thành hiện thực, thì cần tới không chỉ là sự nỗ lực của các tổ chức các nhân có liên quan mà là nỗ lực của toàn xã hội. 3. Giải pháp nhằm thực hiện chiến lược sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ 21: 3.1. Đối với Nhà nước (Nhóm giải pháp về cơ chế chính sách) 3.1.1. Cải cách cơ chế quản lý, điều hành của Nhà nước trong hoạt động sản xuất và xuất khẩu gạo: Tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước để đảm bảo an toàn lương thực quốc gia : Nhà nước giữ vai trò điều tiết thị trường lương thực để đảm bảo an toàn lương thực quốc gia. Căn cứ vào giá lương thực biến động tại thời điểm nhất định để điều tiết. Khi giá lương thực trong nước vượt quá giá nhập khẩu, Chính phủ cần giảm tiến độ xuất khẩu để tránh căng thẳng trong quan hệ cung và cầu tại thời điểm đó. Nếu tình hình quá căng thẳng, Chính phủ cần tạm ngừng xuất khẩu trong thời gian nhất định hoặc trong thời gian dài cho đến khi tình hình được cải thiện, đây chỉ là biện pháp bắt buộc cuối cùng, vì biện pháp này sẽ làm mất uy tín đối với bạn hàng nhập khẩu và sẽ bị vi phạm hợp đồng đã ký kết theo thông lệ thương mại quốc tế. Sử dụng linh hoạt và kịp thời hai lực lượng dự trữ quốc gia và dự trữ lưu thông. Bước đầu sử dụng tối đa lực lượng dự trữ lưu thông để kìm giá và kéo giá xuống đến mức giá trần cho phép. Nếu xu hướng giá thị trường chưa giảm rõ rệt. Nhà nước cần quyết định sử dụng lực lượng dự trữ quốc gia để cân bằng cung cầu nhằm kéo giá về trạng thái ổn định. Khuyến khích việc thành lập các hình thức kinh tế hợp tác dịch vụ tiêu thụ lúa gạo cho nông dân, các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, kể cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp tham gia tiêu thụ lúa cho nông dân. Việc tiêu thụ lúa từ nay được tiêu thụ thông qua hợp đồng mua bán ngay từ đầu để người trồng lúa yên tâm sản xuất. Khi giá lương thực thấp hơn giá sàn, Uỷ ban nhân dân chỉ đạo các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế tăng mua lúa hàng hoá cho dân. Việc tăng cường mua lương thực hàng hoá dư thừa trong dân sẽ làm cho giá lương thực tăng lên hơn giá sàn, bảo vệ lợi ích cho nông thôn, Mặt khác, Nhà nước dùng mọi biện pháp để khuyến khích xuất khẩu gạo như : Khuyến khích bạn hàng tăng hợp đồng, ưu đãi thuế xuất, viện trợ bằng gạo hoặc khuyến khích trả nợ bằng gạo... Đối với trong nước tăng mức đầu tư cho các hoạt động cứu trợ xã hội và cơ sở hạ tầng lương thực. Nhà nước đầu tư thực hiện các chương trình để đảm bảo an toàn lương thực tới mọi nhà nhất là ở các hộ vẫn còn trong diện đói nghèo. Đồng thời nên đẩy mạnh việc phát triển thị trường lương thực. Thị trường lương thực hoạt động tốt sẽ góp phần rất lớn cho an toàn lương thực quốc gia, điều tiết lương thực từ vùng thừa đến vùng thiếu. Nhà nước duy trì chính sách tự do lưu thông lương thực đối với tất cả các thành phần kinh tế, thực hiện cả nước là một thị trường thống nhất. Mặt khác, Nhà nước cũng cần cung ứng lương thực đầy đủ và ổn định cho các đối tượng tiêu dùng với yêu cầu ngày càng cao về chất lượng và độ tiện lợi. Các đối tượng tiêu dùng bao gồm nguyên liệu cho công nghiệp chế biến thực phẩm, thức ăn chăn nuôi, dân cư phi nông nghiệp và cả dân cư nông nghiệp. Các đối tượng tiêu dùng này sẽ được đáp ứng đầy đủ và cả xác lập thông qua hệ thống cung cầu. Đồng thời, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ với cư dân sống ở vùng sâu, vùng xa không có điều kiện sản xuất lương thực và hệ thống giao thông còn kém và thiếu nên chi phí vận chuyển tới họ sẽ rất lớn. Làm tốt được việc cung ứng lương thực và đa dạng hoá sản phẩm cho đối tượng này còn góp phần bảo vệ và phát triển được rừng, bảo vệ môi trường sinh thái và định canh định cư. Tăng cường khả năng tiếp cận lương thực của người dân, tạo việc làm, nâng cao thu nhập và đời sống của người nghèo : đây là biện pháp rất hữu hiệu nhằm tăng khả năng mua lương thực của bộ phận dân cư nghèo khó. Có như vậy mới giải quyết được vấn đề an toàn một cách vững chắc và triệt để. Nâng cao thu nhập và đời sống tập trung vào những việc chính sau : Đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp : sản xuất nhiều loại cây trồng vật nuôi phù hợp thay thế cho hệ thống độc canh cây lúa nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng nông sản ngày càng đa dạng của xã hội đồng thời phát huy lợi thế của từng vùng kinh tế của Việt Nam. Đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp góp phần tăng thu nhập cho nông dân, tăng hiệu quả kinh tế xã hội của sản xuất nông nghiệp. Đa dạng hoá nông nghiệp hiểu theo nghĩa rộng không chỉ hạn chế trong nghề trồng trọt mà còn mở ra đối với nghề chăn nuôi, thuỷ sản, lâm nghiệp và chế biến nông lâm thuỷ sản. Đa dạng hoá nông nghiệp góp phần bảo đảm an toàn lương thực và ngược lại bảo đảm được an toàn lương thực thì tạo điều kiện để đa dạng hoá phát triển mạnh và vững chắc hơn. Bên cạnh đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp cần phát triển nông thôn toàn diện. Phát triển nông thôn toàn diện để phát huy thế mạnh từng địa phương ồê vị trí, đất đai, lao động, hành nghề truyền thống, văn hoá cổ truyền... tạo ra nhiều của cải vật chất, tinh thần khuyến khích dịch vụ phát triển góp phần nâng cao thu nhập cho nhân dân. Để phát triển nông thôn toàn diện, cần đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn về đường, điện, y tế văn hoá, giáo dục với phương thức Nhà nước và nhân dân cùng làm. Xây dựng chương trình giáo dục truyền thông về an toàn lương thực và dinh dưỡng : Chương trình giáo dục truyền thông về an toàn lương thực và dinh dưỡng nhằm nâng cao nhận thức của đại đa số dân về an toàn lương thực, về dinh dưỡng giúp cho từng gia đình xây dựng những hành động thực tế cho gia đình mình.Chương trình giáo dục về an toàn lương thực và dinh dưỡng cộng đồng cần tiến hành lồng ghép các chương trình về nông nghiệp, ytế, giáo dục... thông qua các hội và đoàn thể quần chúng cũng như phụ nữ, thanh niên, VACVINA, nông dân, chữ thập đỏ. Các hoạt động giáo dục và truyền thông được tiến hành thông qua nhiều hình thức như truyền thanh, hội họp, khuyến nông, hoặc thông qua mạng lưới tình nguyện viên cộng đồng được đào tạo trước. Cần tạo mọi điều kiện để người dân khai thác, tận dụng các nguồn lương thực, thực phẩm tại chỗ làm lương thực và thực phẩm cho người. Đồng thời khai thác các điều kiện tự nhiên của từng vùng để trồng trọt và chăn nuôi tăng nguông thực phẩm, cải thiện điều kiện dinh dưỡng cho gia đình và cho cộng đồng, tăng sản phẩm hàng hoá và tăng thu nhập. 3.1.2. Chính sách khuyến khích xuất khẩu: Thuế là công cụ điều chỉnh của Nhà nước và là đòn bẩy kinh tế tạo điều kiện cho các đơn vị các thành phần kinh tế phát triển bình đẳng và hiệu quả trong nền kinh tế thị trường. Cần thiết phải nghiên cứu biểu thuế xuất nhập khẩu hợp lý trong từng thời gian nhất định để khuyến khích cũng như hạn chế xuất nhập khẩu theo yêu cầu của Chính phủ. Thuế suất đối với xuất nhập khẩu gạo cần được điều chỉnh linh hoạt phù hợp với tình hình sản xuất và quan hệ cung cầu lương thực trong nước. Khi nào sản xuất lương thực trong nước đạt được kết quả tốt, thừa so với nhu cầu tiêu thụ trong nước cần hạ thuế suất xuất khẩu gạo xuống (có thể miễn thuế, thuế suất 0%) để tiêu thụ hết thóc thừa trong dân, góp phần duy trì sản xuất, ổn định giá mua thóc trong dân. Ngược lại khi sản xuất trong nước sút kém do thiên tai, sâu bệnh, sản xuất chỉ đáp ứng đủ nhu cầu tiêu thụ trong nước thì cần tăng thuế suất xuất nhập khẩu gạo để hạn chế xuất nhập khẩu gạo, tăng cung gạo cho nhu cầu tiêu thụ trong nước, ổn định giá lương thực trong nước, ổn định thị trường lương thực góp phần ổn định cuộc sống, ổn định xã hội. 3.1.3. Thực hiện chính sách hỗ trợ cho sản xuất kinh doanh lúa gạo bảo đảm giá có lợi cho người trồng lúa. Nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường, vấn đề trợ giá phải đặt ra như thế nào để khuyến khích nông dân đầu tư thâm canh tăng năng xuất, hạ giá thành lúa gạo, bảo vệ quyền lợi của người trồng lúa. Dưới đây là một số biện pháp hỗ trợ cho người trồng lúa: Giảm chi phí dịch vụ đầu vào phục vụ sản xuất như phân hoá học, chất thuốc trừ sâu, trừ cỏ, giảm giá điện bơm nước ban đêm, bù giá điện bơm nước tiêu úng. Giữ giá mua thóc gạo cho nông dân khi thấp hơn chi phí sản xuất để bảo vệ lợi ích của người sản xuất lúa gạo (giữ giá sàn). Đồng thời, không cho giá lên cao bằng cách Nhà nước xuất dự trữ lưu thông hoặc dự trữ quốc gia bán để đảm bảo lợi ích người tiêu dùng, nhất là dân nghèo thành thị (giữ giá trần). Song song với các hoạt động trên, Nhà nước có thể hỗ trợ lãi xuất tiền vay cho các doanh nghiệp làm nhiệm vụ mua gom phục vụ cho dự trữ, lưu thông trong nước và xuất khẩu, là chính sách tình thế chỉ áp dụng trong ngắn hạn. Trong thời gian tới phải được quy định theo luật cung cầu trên thị trường lúa gạo và được thay cho việc dùng Ngân sách cấp bù lãi xuất bằng việc hình thành Quỹ hỗ trợ xuất khẩu. Quỹ này do Hiệp hội Lương thực Việt Nam tự tổ chức trên cơ sở tự nguỵên đóng góp của các thành viên tham gia xuất khẩu để hỗ trợ khi giá xuâtd khẩu xuống thấp phát sinh lỗ và được quản lý sử dụng theo quy chế hướng dẫn của Bộ tài chính. 3.1.4. Xây dựng quỹ bảo hiểm cho những người sản xuất và kinh doanh lúa gạo. Nông dân là tầng lớp lao động vất vả của xã hội vì phải tiếp xúc với mưa nắng, gió bão. Thế nhưng nếu được mùa thì giá hạ khó tiêu thụ, nếu lúc sắp thu hoạch gặp thiên tai lũ lụt thì bị thất thu toàn bộ, không thể nào hoàn lại những chi phí đã đầu tư. Nhiều khi được mùa thì giá thóc gạo hạ, nông dân phải bán thấp hơn giá thành sản xuất. Mặt khác,do đặc điểm sản xuất nông dân miền Nam thường bán hết thóc ngay sau khi thu hoạch nên họ thường bị ép giá, đồng thời cũng gây nhiều khó khăn về vốn đối với các doanh nghiệp để mua hết thóc của nông dân vào thời điểm này. Do vậy, cần xây dựng quỹ bảo hiểm cho người nông dân trồng lúa những lúc giá lúa hạ thấp hơn giá thành sản xuất hoặc bị mất mùa do thiên tai, sâu bệnh. Quỹ này do người trồng lúa đóng góp trên cơ sở tự nguyện, một phần từ Ngân sách, từ nguồn viện trợ không hoàn lại của tổ chức, các cá nhân ngoài nước và một phần từ nguồn thuế sử dụng đất nông nghiệp được để lại địa phương. Phần lớn người sản xuất lúa còn nghèo nên phí đóng bảo hiểm cần vừa phải để nhiều nông dân có thể tham gia mua bảo hiểm sản xuất lúa gạo. Việc chi trả bảo hiểm cũng cần đơn giản, nhanh gọn và chính xác. Quỹ bảo hiểm này cần có sự giám sát của đại diện nông dân và chính quyền, nhất là trong việc xác minh thiệt hại để chi trả được chính xác. 3.1.5. Tạo điều kiện thuận lợi về tín dụng cho nông dân và các doanh nghiệp tiêu thụ lúa gạo. Nhà nước cần tạo mọi điều kiện cho các doanh nghiệp có đủ vốn để mua thóc. Ngân hàng cần đơn giản hoá thủ tục vay vốn để các doanh nghiệp có vốn kịp thời mua gom thóc của dân. Các doanh nghiệp có đủ tiền mua thóc vừa góp phần ổn định giá thóc lúa vụ thu hoạch, hạn chế tư thương ép giá nông dân, vừa tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chủ động nguồn hàng đáp ứng cho các hợp đồng xuất khẩu gạo có khối lượng ốn định. Mặt khác, các doanh nghiệp cũng cần tôn trọng các nguyên tắc quản lý và bảo tồn vốn do Ngân hàng đặt ra nhằm hạn chế các rủi ro đáng tiếc. Để tạo điều kiện cho nông dân có vốn để sản xuất vụ sau, Nhà nước cần tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có vốn để mua hết lượng thóc hàng hoá trong dân. Vấn đề tiêu thụ thóc hàng hoá ở hai vùng sản xuất lương thực hàng hoá chính là vùng đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng là rất cấp thiết và có tác dụng duy trì sản xuất. Việc Nhà nước hỗi trợ vốn cho các doanh nghiệp mua hết thóc hàng hoá của dân vào vụ thu hoạch đã hạn chế việc ép giá mua thóc đồng thời các doanh nghiệp cũng sẽ chủ động được nguồn hàng và chất lượng thóc gạo. Hình thành quỹ bảo lãnh tín dụng : Để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, thuộc mọi thành phần kinh tế, các tổ chức kinh tế hợp tác... vay đủ vốn mua thóc gạo hàng hoá cho người trồng lúa, chế biến và chờ xuất khẩu. Như vậy các doanh nghiệp xuất khẩu sẽ chủ động được hàng, đưa hàng ra xuất khẩu vào thời điểm giá có lợi nhất đồng thời mua hết thóc gạo hàng hoá trong dân, tạo điều kiện cho nông dân có vốn đầu tư sản xuất vụ sau. Nhà nước cần huy động các nguồn vốn như vốn Ngân sách Nhà nước, vốn của Ngân hàng huy động, vốn vay của các tổ chức tài chính quốc tế và nước ngoài để hàng năm bổ sung cho Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Ngân hàng phục vụ người nghèo. Nhà nước cần đảm bảo đủ loại tín dụng thông thường cho dân vay để mua vật tư, phân bón đầu tư cho sản xuất lúa gạo, đặc biệt là các vùng quy hoạch sản xuất lúa gạo đặc sản tập trung. Cho nhóm hộ hoặc các hộ tư nhân vay vốn để đầu tư các thiết bị sấy thóc theo kiểu sàn phẳng công suất 3 - 5 tấn/mẻ. Góp phần giảm tổn thất sau thu hoạch và tăng chất lượng gạo. Vốn đầu tư này rất cần thiết đối với nông dân vùng đồng bằng sông Cửu Long, nhất là vụ lúa hè thu thu hoạch vào mùa mưa làm giảm chất lượng thóc rất nhanh. Cho các cơ sở xay sát chế biến thóc gạo vay vốn trung hạn và dài hạn để đầu tư nâng cấp thiết bị xay sát hoàn thiện dây chuyền công nghệ để sản xuất ra các loại gạo theo nhu cầu và thị hiếu của các thị trường. Hình thức thủ tục cho vay cần gọn nhẹ đơn giản phù hợp với khả năng kinh tế và trình độ của người vay vốn. Tuy nhiên cũng cần tuân thủ nguyên tắc bảo toàn vốn của Ngân hàng đối với khách hàng vay lượng vốn lớn. Song song với các nguồn vốn vay Nhà nước cần tiếp tục đầu tư xây dựng mới và bảo dưỡng các công trình thuỷ lợi đầu mối, khai hoang xây dựng đồng ruộng. quy hoạch các vùng sản xuất lúa đặc sản tập trung. 3.2. Đối với ngành Nông nghiệp (Nhóm giải pháp mang tính kỹ thuật) 3.2.1.Quy hoạch các vùng lúa chuyên canh để phục vụ hoạt động xuất khẩu: Dân số Việt Nam đến năm 2010 sẽ đạt khoảng 90 triệu người. Mục tiêu đến năm 2010, phấn đấu cải tiến khẩu phần ăn để đạt mức 2100- 2300 Kcal/ngày/người. Xu hướng giảm lượng gạo trong khẩu phần ăn hàng ngày, tăng lượng thực phẩm giàu đạm như thịt, cá, trứng, sữa, đường và hoa quả. Ngoài nhu cầu lương thực cho người để đảm bảo an toàn lương thực còn có nhu cầu về giống để tái sản xuất, nhu cầu thức ăn cho chăn nuôi, nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và xuất khẩu. Căn cứ vào nhu cầu lương thực cho người tiêu dùng trong nước, chăn nuôi, để giống và cho xuất khẩu và căn cứ vào khả năng đất, các tiến bộ kỹ thuật, đến năm 2000 diện tích gieo trồng cây lương thực đạt 8,8triệu ha, trong đó lúa đạt 7,6 triệu ha, ngô đạt 1 triệu ha còn lại là diện tích khoai lang và sắn. Sản lượng lương thực đạt 35,5 triệu tấn, trong đó thóc đạt 32 triệu tấn, ngô đạt 2 triệu tấn. Đến năm 2010, diện tích gieo trồng cây lương thực đạt 9,6 triệu ha, trong đó lúa 7,9 triệu ha, ngô 0,8- 1,0 triệu ha, còn lại là diện tích khoai lang hoặc sắn. Sản lượng lương thực đạt 46- 47 triệu tấn, trong đó thóc đạt 38- 39 triệu tấn, ngô đạt 5,0- 6,0 triệu tấn. Từ hiện trạng và dự báo về thị trường gạo, vấn đề đang đặt ra cho chúng ta là không nên tiếp tục tăng sản lượng gạo xuất khẩu mà phải chuyển sang hướng nâng cao khả năng cạnh tranh của gạo Việt Nam để tiêu thụ hết, tiêu thụ nhanh với hiệu quả cao số lượng gạo hiện nay khoảng 4-5 triệu tấn. Có thể nêu lên một số công việc cụ thể cần thực hiện để có thể giải quyết được vấn đề trên. Về lâu dài, nước ta duy trì ở mức 4,0 triệu ha đất canh tác lúa (chủ yếu là diện tích được tưới, đã có thể sản xuất 35-36 triệu tấn). Tập trung thâm canh, thay đổi giống lúa có chất lượng cao phù hợp với yêu cầu thay đổi của thị trường trong nước bảo đảm an ninh lương thực quốc gia. Xây dựng vùng sản xuất lúa xuất khẩu ở đồng bằng sông Cửu Long để sản xuất đủ tiêu chuẩn xuất khẩu (kể cả vùng lúa sạch, lúa không biến đổi gen), để nâng cao năng lực chế biến và kỹ năng kinh doanh để chiếm lĩnh thị trường thế giới. Duy trì xuất khẩu ở mức 4-5 triệu tấn/ năm. Mở rộng sản xuất khi có thị trường, trước mắt chuyển một phần lúa một vụ hoặc mùa vụ bấp bênh sang trồng các loại cây trồng khác có thị trường đạt hiệu quả cao hơn hoặc nuôi trồng thuỷ sản, giảm diện tích lúa vụ 3 ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Việc mở rộng diện tích canh tác lúa bằng hình thức khai hoang và ngọt hoá ở đồng bằng sông Cửu Long phải được cân nhắc kỹ giữa việc tăng thêm diện tích, sản lượng với việc duy trì, bảo vệ rừng ngập mặn, nuôi trồng thuỷ hải sản và bảo vệ môi trường sinh thái.. Tiếp tục làm thuỷ lợi để hỗ trợ đồng bào vùng cao phát triển sản xuất lương thực ở những nơi có điều kiện để tự giải quyết một phần lương thực tại chỗ. Dưới đây xin được trình bày một số phác thảo cho việc quy hoạch các vùng lúa chuyên canh. Vùng đồng bằng sông Hồng, đến năm 2010 bố trí khoảng 300.000 ha sản xuất thóc chất lượng cao và đặc sản truyền thống. Trong đó, trên những vùng đất thấp, trũng, hơi chua và mặn phù hợp với đặc tính của giống lúa Tám thơm, quy mô diện tích gieo trồng khoảng 18.000- 20.000 ha, đạt sản lượng khoảng 54.000- 60.000 tấn lúa Tám thơm các loại, chủ yếu là ở 7 tỉnh ven biển của tỉnh Nam định và Thái Bình. Bố trí khoảng 20.000- 22.000 ha trên phạm vi các tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng gieo trồng các loại lúa nếp hoa vàng, nếp cái và nếp lý, đạt sản lượng 70.000- 80.000 tấn. Diện tích còn lại xây dựng các vùng trồng lúa chất lượng được các khách hàng nước ngoài ưa chuộng để xuất khẩu. Vùng đồng bằng sông Hồng đầu tư phát triển một vùng lúa gạo đặc sản, chất lượng cao tập trung theo phương thức sản xuất hàng hoá đáp ứng nhu cầu nội địa và xuất khẩu. Trong giai đoạn trước mắt. Tập trung tác động vào khâu giống và chế biến bảo quản lúa gạo. Trước mắt cung cấp giống nguyên chủng đảm bảo chất lượng của các giống lúa chất lượng cao đã được thị trường chấp nhận như C70, C71, Mộc tuyền, X21 Ngoài các giống lúa chất lượng cao, chọn lọc các giống lúa đặc sản truyền thống như lúa tám thơm, nếp. Lúa tám thơm bố trí trên các chân đất thấp, trũng, đất hơi chua và mặn của các huyện ven biển Xuân Trường, Giao thuỷ, Hải Hậu, Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định và Kiến Xương, Tiền Hải, Thái Thuỵ tỉnh Thái Bình. Chọn lọc các giống lúa nếp hoa vàng, nếp cái và nếp lý để phát triển trên đất thấp, trũng của tất cả các tỉnh của vùng đồng bằng sông Hồng. Vùng đồng bằng sông Cửu Long, bố trí khoảng 950.000ha đất thành các vùng tập trung để xây dựng vùng sản xuất lúa gạo chất lượng cao phục vụ cho nhu cầu tiêu thu gạo chất lượng cao trong nước và xuất khẩu. Sản xuất các giống lúa thơm truyền thống của vùng, các giống Khao Daw Mali, Jasmin và các giống chất lượng cao được thị trường trong nước thế giới ưa chuộng. Sản lượng lúa chất lượng cao năm 2010 đạt khoảng 11 triệu tấn thóc. Vùng đồng bằng sông cửu Long có sản lượng thóc chiếm khoảng một nửa sản lượng thóc toàn quốc, đồng thời là vùng có sản lượng thóc hàng hoá cao nhất cả nước. Lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam những năm qua phần lớn từ vùng này. Trong tương lai đây cũng là vũng cung cấp lượng gạo chủ yếu cho xuất khẩu. Do vậy, cần quy hoạch vùng sản xuất gạo chất lượng cao phục vụ cho xuất khẩu để tăng chất lượng và hiệu quả xuất khẩu gạo, tăng độ đồng đều của lô hàng xuất khẩu và giảm thời gian thu gom gạo đủ cho một hợp đồng xuất khẩu. Vùng được quy hoạch sản xuất lúa đặc sản chất lượng cao nằm ở các tỉnh thuộc vùng. Năm tỉnh An Giang, Cần Thơ, Sóc Trăng, Đồng Tháp và Kiên Giang mỗi tỉnh bố trí trên 100.000 ha. Các tỉnh còn lại của vùng mỗi tỉnh khoảng 50.000 ha. Trước mắt, mỗi tỉnh chọn một số vùng tập trung đại diện cho các mô hình làm thí điểm để rút kinh nghiệm trong việc đầu tư từng mô hình như mô hình đại diện cho vùng sản xuất 3 vụ được kiểm soát lũ cả năm, mô hình đại diện cho vùng mặn ven biển được ngọt hoá và mô hình đại diện cho vùng sản xuất 2 vụ lúa đông xuân- hè thu chỉ phải kiểm soát lũ tháng 8. Ngoài việc đầu tư chung cho nông nghiệp nông thôn, những vùng được quy hoạch để sản xuất lúa chất lượng cao và lúa đặc sản cần được ưu tiên đầu tư về thuỷ lợi, thuỷ nông và cải tạo đồng ruộng; nghiên cứu nhân giống lúa và khuyến nông; cơ giới hoá nông nghiệp; xây dựng nhà kho; sấy lúa và xay xát, đánh bóng gạo. Vùng đồng bằng sông Cửu Long việc xây dựng hoàn chỉnh hệ thống thuỷ nông nội đồng rất quan trọng, làm tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả của sản xuất. Có thể hoàn thiện hệ thống thuỷ nông nội đồng theo hướng : bao lửng né lũ cho mô hình 2 vụ lúa đông xuân, hè thu; mô hình bao kín để tưới tiêu tự chảy hoặc bao khép kín tiêu tự chảy và tưới bằng bơm nhỏ cho mô hình trồng 3 vụ lúa màu; mô hình bờ bao khép kín ngăn mặn, trữ ngọt cuối mùa mưa ở vùng đất mặn ít không có nguồn nước ngọt. Tổ chức dịch vụ thu mua lúa xuất khẩu với sự tham gia của các thành phần kinh tế : quốc doanh, tập thể và tư thương, theo hướng tận dụng tối đa vai trò của các Hợp tác xã, chủ vựa, tư thương có kinh nghiệm, phương tiện, đứng ra làm đại lý cho các Công ty trực tiếp thu mua lúa của nông dân ở các xã, huyện theo khung gía thống nhất của Công ty ở từng thời điểm và được hưởng dịch vụ đại lý. Đồng thời, Công ty cũng xây dựng mạng lưới thu mua lúa gạo ngay tại các nhà kho, các nhà máy xay xát để giữ vai trò kiểm soát thị trường và có thể can thiệp khi có những biến động lớn. Tăng chất lượng lúa gạo trong quá trình sản xuất trồng trọt bằng cách đổi mới các hình thức khuyến nông và dịch vụ phù hợp như : Dịch vụ cung ứng lúa giống : được đảm nhận bởi Công ty giống cây trồng trung ương, Công ty giống cây trồng các tỉnh và đại diện ở các huyện. Dịch vụ cung ứng lúa giống, các doanh nghiệp Nhà nước nên giữ vai trò chủ đạo trong việc cung ứng nguồn hàng, tư thương tham gia vào bán lẻ tới nông dân. Các loại giống lúa cung ứng ra thị trường cần đảm bảo chất lượng, đúng tiêu chuẩn chất lượng, đáp ứng sản phẩm cho xuất khẩu và các giống lúa có năng suất cao đảm bảo an toàn lương thực quốc gia. Tăng cường nhập nội các giống lua mới có năng suất cao, chất lượng tốt, phù hợp với thị hiếu thị trường. Các giống lúa mới trước khi đưa ra dịch vụ đại trà cần được khảo nghiệm cẩn thận tại địa phương để tránh rủi ro cho nông dân. Ngoài việc nhập nội các giống lúa cần tuyển chọn duy trì các giống lúa thơm, đặc sản truyền thống của dân tộc. Các giống này được thị trường cao cấo trong nước ưa chuộng. Dịch vụ cung ứng phân hoá học và thuộc trừ sâu : Đây là những dịch vụ rất quan trọng trong sản xuất lúa gạo. Để thực hiện tốt dịch vụ này cần điều hành việc nhập khẩu, dự trữ phân bón, thuốc trừ sâu một cách khoa học thông qua quan hệ cung cầu về phân bón và thuốc trừ sâu nhằm khuyến khích sản xuất trong nước và tránh các đợt đột biến giá do khủng hoảng thiếu. Mặt khác, Nhà nước cũng cần quản lý chặt chẽ về chất lượng và mẫu mã hàng để tránh nhầm lẫn với nông dân. Tham gia cung ứng dịch vụ này tới nông dân bao gồm Tổng công ty vật tư nông nghiệp và các chi nhánh tại các tỉnh huyện, đồng thời khuyến khích các thành phần kinh tế tập thể và tư nhân tham gia. Đi đôi với việc cung ứng cần khuyến cáo nông dân sử dụng cân đối phân hoá học N.P.K và bón phân phù hợp với nông hoá thổ nhưỡng và phù hợp với từng loại lúa giống. Chương trình khuyến nông sử dụng các loại giống lúa mới gồm các giống lúa lai năng suất cao, giống lúa đặc sản và giống lúa năng suất cao. Dịch vụ các giống lúa tốt đảm bảo chất lượng, đặc tính kỹ thuật của giống, quy trình canh tác, quy trình phơi sấy và vật tư kỹ thuật phục vụ cho thâm canh giống lúa mới. Chương trình khuyến nông về công nghệ sản xuất : phổ biến và hướng dẫn nông dân sử dụng các công cụ,máy móc nhỏ trong các khâu làm đất, bơm nước, giặt đập, phơi sấy, xay xát... Chương trình khuyến nông bảo vệ sản xuất: Tại các vùng có điều kiện khuyến cáo nông dân áp dụng các biện pháp phòng trừ sâu bệnh tổng hợp (IPM), bảo vệ và khuyến khích phát triển những loài thiên địch có lợi cho cây trồng và môi trường. Tuy nhiên, tại những vùng không có điều kiện áp dụng các biện pháp IPM, hướng dẫn nông dân xác định đúng các loại sâu bệnh và cung ứng các loại thuốc thực vật đặc chủng để diệt trừ sâu bệnh. áp dụng các biện pháp sinh học và thủ công để diệt trừ chuột và ốc bươu vàng hại lúa. Hạn chế đến mức tối đa việc dùng hoá chất để diệt chuột. Khuyến cáo nông dân sử dụng các loại thuốc trừ sâu bằng thảo mộc để tránh độc hại cho người sử dụng và hạn chế độc tố trên sản phẩm và môi trường. Sau một thời gian thực hiện khoán theo tinh thần Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị, sản xuất gia tăng theo hướng phát triển hàng hoá nhưng hệ thống hợp tác xã nông nghiệp trước đây gần như mất dần vai trò quản lý, chỉ đạo, điều hành sản xuất. Khi kinh tế hàng hoá tương đối phát triển thì nhu cầu thông tin và dịch vụ tăng lên, các hợp tác xã nông nghiệp hoạt động theo cơ chế cũ không đáp ứng được đòi hỏi của thực tế. Trong nông nghiệp nông thôn đã hình thành hợp tác xã với những nội dung hoạt động khác nhau. Hợp tác xã nông nghiệp dịch vụ kinh doanh tổng hợp hoạt động trên nhiều lĩnh vực: Dịch vụ sản xuất nông nghiệp, kinh doanh thương mại, chế biến và sản xuất kinh doanh ngành nghề. Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp chủ yếu tổ chức các hoạt động dịch vụ sản xuất nông nghiệp cho hộ xã viên, nông dân trên địa bàn. Hợp tác xã dịch vụ tưới tiêu, điện và các hợp tác xã theo những ngành nghề cụ thể. Do vậy, cần đổi mới và củng cố lại các hợp tác xã nông nghiệp theo tinh thần của Luật hợp tác xã để các hợp tác xã hoạt động có hiệu quả và thực sự là chỗ dự của nông dân trong nền kinh tế nông nghiệp sản xuất hàng hoá. 3.2.2. Tuyển chọn và lai tạo giống lúa theo nhu cầu nước nhập khẩu Gạo là nhu cầu thực phẩm hàng ngày không thể thiếu vắng đối với mọi thành viên trong xã hội. Mức tăng nhu cầu tiêu thụ gạo phụ thuộc chủ yếu vào mức tăng dân số. Dân số các nước phát triển (tiêu thụ chủ yếu là lúa mì) chỉ tăng bình quân 0,5%, trong khi đó dân số các nước đang phát triển (tiêu thụ chủ yếu là gạo) vẫn tăng gần 2%/năm. Theo tính toán của FAO, muốn đảm bảo an toàn lương thực thực phẩm thì mức tăng sản lượng lương thực phải gấp 1,5- 2 lần mức tăng dân số. Dự báo trong giai đoạn 2000- 2015, số dân tăng thêm hàng năm trên thế giới vẫn còn ở mức khá cao, trung bình hàng năm tăng 87 triệu người và sau đó tốc độ tăng mới từng bước giảm nhiều hơn. Số dân tăng thêm hàng năm sẽ chỉ còn khoảng 70 triệu người vào thập niên 30 của thế kỷ 21 và khoảng hơn 50 triệu người vào thập niên 50. Khi đó tốc độ dân số chung toàn cầu sẽ tương đương với tỉ lệ tăng dân số hiện nay của các nước phát triển (0,5%/năm). Mặt khác theo dự báo của Bộ Nông nghiệp Mỹ sản lượng gạo thế giới đến năm 2009 đạt 429 triệu tấn, tốc độ tăng trưởng cung gạo đạt 2,7%/năm (trong khi giai đoạn 1989- 1999 chỉ là 1,4%), nhiều nước thiếu lương thực đã vươn lên để tự túc lương thực. Hiện nay thiếu lương thực đã giảm từ 80 nước xuống còn 38 nước, trong đó có 20 nước ở châu Phi. Thương mại gạo toàn cầu trong giai đoạn 2000- 2009 tăng với tốc độ trên 2%/năm. Về số lượng gạo thương mại toàn cầu sẽ tăng lên 22,5 triệu tấn vào năm 2002, và đạt 26,7 triệu tấn vào năm 2009, tăng hơn 6% so với kỷ lục năm 1998. Cùng với xu hướng nhu cầu gạo bình quân đầu người có giảm dần ở một số nước Châu á có thu nhập tăng nhanh. Khả năng cung cấp về gạo chất lượng cao Japonica giảm sẽ dẫn tới cầu lớn hơn trên thị trường gạo chất lượng cao, do đó giá gạo loại này sẽ tăng khá. Nhu cầu gạo chất lượng thấp sẽ giảm nếu không có những đột biến về thiên tai hay khủng hoảng kinh tế, tuy nhiên chiều hướng này sẽ được bù đắp khi nhu cầu về loại gạo chất lượng thấp do chăn nuôi tăng lên. Thị trường gạo thế giới đang được phân chia thành 4 nhóm : Các nước có thu nhập thấp như ấn độ và các nước Châu Phi là những nước trong tương lai sẽ tiêu thụ gạo nhiều hơn; Các nước Châu á, kể cả Trung Quốc và Inđônesia là những nước sẽ chuyển từ tiêu thụ gạo chất lượng thấp sang tiêu thụ gạo chất lượng cao; Đông Nam á và Trung Đông, những khu vực này sẽ tiêu thụ gạo chất lượng cao; Bắc Mỹ và Châu Âu là những khu vực ngày càng quan tâm hơn đến tác động của kỹ thuật và môi trường. Do trong tương lai các thị trường tiềm năng của gạo Việt Nam vẫn là Châu á và có thể mở rộng sang thị trường của các nước châu Phi, vì vậy ngoài việc tiếp tục cung cấp gạo phẩm cấp thấp và trung bình (phục vụ thị trường châu Phi), Việt Nam cần phải tichs cực nghiên cứu lai tạo và trồng trên diện rộng các giống lúa có chất lượng cao thì mới có thể giữ vững và phát triển tại thị trường truyền thống là thị trường châu á 3.2.3. Đầu tư xây dựng cơ sở chế biến, xay xát, công nghệ sau thu hoạch Chế biến và công nghệ sau thu hoạch: Phấn đấu đến năm 2010 giảm mức hao hụt về mặt số lượng xuống 10- 13% so với hiện nay là 13- 16%. Trước mắt cần tập trung khắc phục những nguyên nhân chính gây ra tổn thất trong các khâu phơi sấy, bảo quản và xay xát lúa gạo. Ba khâu này chiếm tới 68- 70% tổng tổn thất. Cải tiến kỹ thuật và công nghệ làm khô lương thực : hiện nay, tại Việt Nam làm khô thóc vẫn chủ yếu dựa vào ánh nắng mặt trời để giảm độ ẩm của thóc từ 19- 21% xuống còn 15 - 16% ở vùng đồng bằng sông Cửu Long và xuống 13-14% ở vùng đồng bằng sông Hồng và các tỉnh duyên hải miền Trung. Tuy nhiên do thiếu sân phơi, người nông dân ở các tỉnh phía Nam thường phơi thóc trên đường nhựa làm cản trở giao thông và gây ra độ gẫy nát cao lúc xay xát. Mặt khác, vụ hè thu ở Nam bộ thu hoạch vào mùa mưa nên không thể phơi nắng đã làm giảm đáng kể đến chất lượng và sản lượng thóc gạo. Ngô thu hoạch vào mùa mưa nên cũng không đủ nắng để phơi, nấm mốc phát triển sinh độc tố gây nguy hiểm cho vật nuôi. Cần nghiên cứu hoàn thiện một số mô hình thiết bị sấy kiểu sàn phẳng với nhiều quy mô phù hợp và sử dụng các loại nhiên liệu có sẵn ở các địa phương như rơm, rạ, trấu, than củi... Các mô hình này đã được kiểm chứng thực tế tại vùng đồng bằng sông Cửu Long, nhiều nông dân đã áp dụng đạt kết quả tốt. Cần phổ biến và khuyến cáo rộng rãi để nông dân áp dụng với hình thức nhóm hộ hợp tác đầu tư xây dựng thiết bị sấy này. Cải tiến kỹ thuật và công nghệ bảo quản lương thực, như : áp dụng công nghệ bảo quản kín gạo xát trắng, gạo lật bằng cách sử dụng màng PVC trong môi trường khí CO2 hoặc khí ni tơ trong các kho dự trữ quốc gia và dự trữ lưu thông. áp dụng công nghệ bảo quản mát thóc, gạo ở nhiệt độ 15 - 160C tại một số cụm kho dự trữ quốc gia hiện đại. Sản xuất và áp dụng một số chế phẩm vi sinh vật, các chế phẩm từ thực vật có tác dụng diệt côn trùng mà không gây độc hại cho người và gia súc, không làm nhiễm bẩn môi trường để bảo quản lương thực trong kho tập trung và phương tiện cất giữ ở gia đình. Cải tiến kỹ thuật và công nghệ xay xát : đối với hệ máy nhỏ dưới 1 tấn/ giờ dùng máy xay quả lô cao su, sàng phân ly kiểu Yanmar và máy xát dùng máy xát Noda. Các loại máy này đã được VINAPRO sản xuất và được thị trường ưa chuộng. ở miền Bắc đã lắp đặt một dây chuyền máy 1 tấn/giờ tại huyện Quỳnh Phụ theo công nghệ của Yanmar. Dây chuyền máy kiểu này có thể sản xuất gạo 5-10% tấm và có tỉ lệ thu hồi gạo 68- 72%. Cuối dây chuyền có lắp đặt máy đóng gói gạo theo định lượng. Để nâng cao chất lượng và tỉ lệ thu hồi gạo đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng nâng cao cũng như để giảm tổn thất xay xát cần tập trung cải tạo, nâng cấp đối với hệ xay xát nhỏ ở miền Bắc, miền Trung và hệ xay xát cũ ở phía Nam. Đối với hệ máy xay xát 15 tấn/ca (2 tấn/giờ) cần cải tạo và bổ xung vào đoạn cuối của dây chuyền các thiết bị tách, đánh bóng ẩm và phân loại theo định lượng, phẩm cấp. Đối với hệ máy cũ miền Nam 8- 15 tấn/ca (1-2 tấn/giờ) cần nghiên cứu cải tạo, nâng cấp công nghệ và thiết bị. Chính phủ Đan Mạch viện trợ không hoàn lại để xây dựng 3 nhà máy xay xát với thiết bị và công nghệ hiện đại tại Thái Bình, Cần Thơ, Sóc Trăng. Ba nhà máy này sắp đưa vào sử dụng sẽ góp phần làm tăng chất lượng gạo và bao bì phù hợp với yêu cầu của thị trường. Khi các nhà máy này hoàn thành, cần tổng kết, rút kinh nghiệm để mở rộng cho các địa phương khác. Đồng thời từng bước cổ phần hoá trong đó cổ đông là nông dân, để thu hồi vốn và đầu tư cơ sở mới. Phát triển các thiết bị sấy khô thóc với các công suất khác nhau phù hợp với hộ hay nhóm hộ và sử dụng nguyên liệu có sẵn tại địa phương như rơm rạ, trấu và than củi. Thóc gạo được làm khô đến độ ẩm cho phép sẽ tạo điều kiện tốt cho lưu kho. 3.3. Đối với các Doanh nghiệp kinh doanh lúa gạo (Các giải pháp về nghiên cứu thị trường và Marketing) 3.3.1. Nghiên cứu và tìm hiểu nhu cầu thị trường: Đầu tư nghiên cứu cập nhật các thông tin mới nhất về tình hình sản xuất và tiêu thụ của các thị trường trên thế giới, chú ý tập chung vào các thị trường đã có quan hệ với Việt Nam. Nghiên cứu kỹ tình hình biến động về giá cả các loại gạo của thị trường. Nghiên cứu đặc tính, thị hiếu của từng thị trường. Xây dựng hệ thống thông tin thị trường xuất khẩu gạo. Thông tin này cung cấp cho các đơn vị xuất khẩu gạo để tránh thua thiệt cho các đơn vị, và tránh hiện tượng vì thiếu thông tin nên chào hàng với giá thấp, tạo ra mâu thuẫn giữa các đơn vị xuất khẩu. Ngoài những thông tin trên, hệ thống thông tin thị trường xuất khẩu gạo cần cung cấp cho các đơn vị xuất khẩu gạo của Việt Nam để tránh hiện tượng lừa đảo trong thương mại. Đồng thời với việc xây dựng hệ thống thông tin thị trường xuất khẩu gạo là việc xây dựng thương hiệu cho gạo xuất khẩu của Việt Nam. Việc có thương hiệu sẽ làm tăng uy tín của các sản phẩm gạo Việt Nam trên thị trường quốc tế đặc biệt là đối với các loại gạo có phẩm cấp cao như Tám Thơm hay Nàng Hương. Việt Nam có lợi thế về xuất khẩu gạo so với một số nước khác. Mặt hàng gạo có thể đưa vào giao dịch trên thị trường hàng hoá sau của Việt Nam. Do đó, cần nghiên cứu hình thành thị trường hàng hoá giao sau của Việt Nam. Nhằm tạo điều kiện thuận lợi để người bán gạo và người mua gạo trực tiếp gặp nhau trao đổi tiến hành ký kết hợp đồng tiêu thụ. Người bán gạo bao gồm các hộ nông dân, chủ trang trại, các doanh nghiệp là những người trực tiếp sản xuất có nhu cầu tiêu thụ thóc gạo của mình, đáp ứng nhu cầu về tái sản xuất và, không vì lợi ích lợi nhuận của họ là tự bảo hiểm về giá, đề phòng những diễn biến bất lợi mà thị trường giao ngay mang lại rủi ro với họ. Người mua những người này là bảo hiểm về giá cho nguyên liệu đầu vào xác định để ký kết các hợp đồng xuất khẩu. Những hợp đồng này đều kết thúc bằng việc giao hàng thực sự, cho nên buộc các nhà sản xuất và xuất khẩu phải tham gia vào thị trường hàng hoá giao sau, với mục đích chính là tự bảo hiểm và là cơ sở cho việc hạch toán sản xuất và kinh doanh... Người bán và người mua không phụ thuộc vào thành phần kinh tế, có nghĩa là doanh nghiệp Nhà nước, tập thể và tư nhân đều có thể tham gia trên thị trường hàng hoá giao sau này. 3.3.2. Củng cố và mở rộng các thị trường hiện tại, phát triển các thị trường mới: Từ các số liệu tại bảng 11, ta có thể thấy được thị trường xuất khẩu gạo chủ yếu của Việt Nam chủ yếu là các nước châu á, chiếm tới hơn 80% tổng lượng gạo xuất khẩu của nước ta . Trong khi đó một thị trường rất phù hợp cho các loại gạo có phẩm cấp thấp và trung bình của Việt Nam là thị trường Châu Phi, Trung Đông lại chưa được quan tâm đúng mức. Tại thị trường Phi châu tuy mức xuất khẩu hàng năm của chúng ta có tăng nhưng hiện tại mới chỉ chiếm khoảng hơn 10% tổng lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam. Đây là một con số quá thấp so với thực tế khả năng xuất khẩu của Việt Nam và nhu cầu nhập khẩu từ các nước Châu Phi và khu vực Trung Đông. Trong thời gian tới theo dự báo và đánh của FAO và Bộ Nông nghiệp Mỹ_USDA thì châu Phi chính là thị trường lớn cho các nước xuất khẩu gạo có phẩm cấp thấp và trung bình như Việt Nam. Vì vậy việc đẩy mạnh quan hệ giao lưu kinh tế với các thị trường dễ tính này đang được đặt ra như một vấn đề cấp thiết. Có thể nói Đảng và Nhà nước, ngành nông nghiệp đã và đang có những bước đi quyết định để chiếm lĩnh thị trường trên. Chuyến tham hữu nghị chính thức một loạt các nước Châu phi, Trung Đông vừa qua của Chủ tịch nước Trần Đức Lương là một minh chứng cho quyết tâm này của Việt Nam. kết luận Cùng với những thành tựu to lớn trong đường lối phát triển nông nghiệp của Đảng và Nhà nước trong những năm vừa qua, sản xuất và xuất khẩu gạo từ năm 1989 đến nay đã đạt được những thành quả đáng khích lệ. Sản xuất và xuất khẩu gạo đã có tác động tích cực trở lại đối với sản xuất nông nghiệp nói riêng và sự phát triển kinh tế nói chung của đất nước. Mặc dù chỉ là một mặt hàng cụ thể, nhưng lúa gạo có vai trò, có ý nghĩa hết sức quan trọng vì nó là mặt hàng nhạy cảm. Biến động giá lúa gạo do việc kiểm soát yếu kém sẽ ảnh hưởng ngay đến đời sống của gần 80% dân số trong khối nông nghiệp, ảnh hưởng đến an toàn lương thực quốc gia và an ninh trật tự xã hội Không chỉ ở bình diên quốc gia, ngay cả trên thế giới các nhà kinh tế cũng đã nghiên cứu và đưa ra nhận định: " thế giới có đủ khả năng sản xuất lương thực để nuôi sống hơn 6 tỷ người hiện nay nhưng vẫn có nguy cơ bị đói'. Với trên 700 triệu ha đang được sử dụng để sản xuất lương thực (trong đó có lúa), chưa kể việc tăng năng suất cây trồng và mở rộng thêm diện tích canh tác đó là khả năng đảm bảo lương thực của toàn thể nhân loại. Tuy nhiên nguy cơ bị đói vẫn còn do việc nghiên cứu sản xuất và tiêu dùng lương thực hiện nay của thế giới chủ yếu do các tổ chức tư nhân thực hiện. Quyền lợi tiếp cận và được đáp ứng nhu cầu lương thực của con người chưa được đảm bảo và quan tâm đúng mức ở nhiều quốc gia; ấy là chưa kể đến yếu tố thiên tai khó lường trước và thường xuyên xảy ra ở mọi nơi. Đối với Việt Nam, trong thời gian tới gạo vẫn là mặt hàng cần được quan tâm và hỗ trợ trong các khâu từ sản xuất, chế biến dự trữ đến xuất khẩu bởi vì hiện nay chúng ta phải duy trì và ổn định sản lượng lương thực do vẫn còn chứa đựng các yếu tố đe doạ an ninh lương thực quốc gia. Sản xuất và xuất khẩu gạo có tác động tích cực đến việc phát huy nguồn lực trong nước, góp phần đáng kể để phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá, góp phần rút ngắn khoảng cách giữa nước ta và các nước khác trên thế giới, góp phần thực hiện thành công mục tiêu xoá đói giảm nghèo của Đảng. Chúng ta vừa đi qua một chặng đường 1989-2002. Việc sản xuất và xuất khẩu gạo trong thời gian tới, trong thế kỷ 21 đang có thế và lực mới. Nhà nước đã có khá đủ chủ trương, chính sách cơ chế mở lối thông thoáng cho sản xuất và xuất khẩu, đặc biệt có đường lối, sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, với nỗ lực cao của Chính phủ, của các ngành, các cấp, của chính quyền địa phương và của các doanh nghiệp, hy vọng rằng mọi thử thách sẽ được vượt qua, những yêu cầu nêu trên trong nhiệm vụ của sản xuất lúa hàng hoá - xuất khẩu gạo chắc chắn sẽ được thực hiện một cách tốt đẹp. Nhìn lại những chặng đường đã qua trong hoạt động sản xuất lúa gạo, chúng ta không thể không tự hào ghi nhận những thành quả to lớn mà nghành nông nghiệp nói riêng và hàng triệu người nông dân Việt Nam đã đạt được. Để có được những thành tựu to lớn, được thế giới ngưỡng mộ như ngày hôm nay, mỗi người Việt Nam không thể quên được những khó khăn vất vả, những thử thách lớn lao trong những ngày đầu đổi mới. Từ đó rút ra những bài học làm tiền đề cho sự phát triển của tương lai đất nước. Hà Nội, ngày 18 tháng 12 năm 2002. Sinh viên thực hiện, Trần Trung Hiếu Trung 1- K37D, ĐHNT Các tài liệu tham khảo Tiếng Việt: Chỉ thị số 100 (13/10/1981) Ban Chấp hành TW Đảng CSVN Nghị Quyết 10 (05/04/1987) Ban chấp hành TW Đảng CSVN Thủ tướng Phan Văn Khải - Đẩy mạnh phát triển và nông nghiệp và kinh tế nông thôn - Nông nghiệp Việt nam, những thành tựu - Nhà xuất bản Lao động, 1998 Giáo sư Viện sỹ Vũ Tuyên Hoàng - Thành tựu sản xuất lương thực Việt nam và sự phát triển Nông nghiệp bền vững - Nông nghiệp Việt nam, những thành tựu - Nhà xuất bản Lao động, 1998 TS. Nguyễn Trung Vãn – Lương thực Việt nam thời đổi mới, hướng xuất khẩu – Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 1998 TS. Nguyễn Trung Vãn – Vấn đề, gải pháp và định hướng xuất khẩu gạo Việt Nam PTS Nguyễn Đình Long, PTS Nguyễn Thế Mạnh - Phát huy lợi thế, nâng cao khả năng cạnh tranh của nông sản xuất khẩu Việt nam - Nhà xuất bản Nông nghiệp 1999 KS Trần Thanh Cảnh, Bộ NN-PTNT - Đồng bằng Sông Cửu long, thành tựu xuất khẩu lúa gạo lớn nhất ở Việt nam - Nông nghiệp Việt nam, những thành tựu - Nhà xuất bản Lao động, 1998 Niên giám thống kê Việt nam, Nhà xuất bản thống kê, Hà nội 1991, 1997, 1998, 1999,2000. Số liệu thống kê nông - lâm - thuỷ sản Việt nam 1975-2000, dự báo năm 2000 - Nhà xuất bản Thống kê 1999 Tạp chí thương mại các số năm 2000,2001,2002 Thời báo Kinh tế Việt Nam các số năm 2002 Tiếng Anh: USDA- Rice year book 2001 USDA- World Trade Calender Year 2002 USDA (ERS) - Rice Outlook Apr,23,2002. USDA (ERS) - Rice Outlook Oct,15,2002. FAO - Database

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKhoa Luan Tot Nghiep.doc
Tài liệu liên quan