Đề tài Khả năng và lợi ích và lộ trình của việc ra đời một đồng tiền chung cho các nước Asean

Xu thế khu vực hoá và toàn cầu hoá ngày càng mạnh mẽ cũng đã và đang khuyến khích sự ra đời của các liên minh tiền tệ. Sau sự ra đời của Liên minh tiền tệ châu Âu, lý thuyết và thực tiễn đều cho thấy rằng ở ASEAN có thể hình thành một liên minh tiền tệ. Nhưng cho dù ASEAN đã có những tiền đề cần thiết để hình thành một liên minh tiền tệ và nhận thức được rõ những lợi ích mà việc tham gia vào một liên minh tiền tệ như vậy đem lại thì con đường để tiến tới một liên minh tiền tệ thành công rõ ràng vẫn rất chông gai. Châu Âu đã phải mất gần nửa thế kỷ để vượt qua những khó khăn và hình thành một liên minh như thế. ASEAN cũng sẽ phải đối mặt với những thách thức không kém phần to lớn. Nhưng cũng cần nhớ rằng nếu như các nước châu Âu đã phải mất hàng thế kỷ để công nghiệp hoá thành công thì nhiều nước ASEAN chỉ phải mất vài thập kỷ để hoàn thành công việc đó. Tương tự như vậy, chúng ta có thể hy vọng rằng con đường tiến tới một liên minh tiền tệ ASEAN sẽ không quá dài như với EMU.

doc83 trang | Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 1238 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Khả năng và lợi ích và lộ trình của việc ra đời một đồng tiền chung cho các nước Asean, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n rút khỏi AFTA vì lợi ích lâu dài của quốc gia. Tiếp đến, các nước thành viên ASEAN cần tăng cường thương mại nội bộ khu vực. Thương mại nội bộ ASEAN tuy đã tăng từ 44,2 tỷ USD năm 1993 lên 97,8 tỷ năm 2000 song mới chỉ chiếm khoảng 20% tổng khối lượng thương mại của ASEAN, trong đó thương mại của từng nước thành viên với Singapore chiếm tới hơn 70% tổng khối lượng thương mại nội bộ. Như vậy, thị trường chủ yếu của các nước ASEAN vẫn là ba trung tâm kinh tế lớn Mỹ, EU và Nhật Bản. Liên kết kinh tế khu vực chỉ có thể đẩy nhanh khi các nước ASEAN tăng cường đẩy mạnh buôn bán và đầu tư lẫn nhau. Một trong những nguyên nhân quan trọng cản trở lộ trình thực hiện AFTA là nhận thức của người dân và các doanh nghiệp về AFTA chưa cao. Không chỉ các doanh nghiệp của Malaixia mà giới kinh doanh Inđônêxia cũng cho rằng AFTA là một hiệp định thương mại tự nguyện và không ràng buộc về mặt pháp lý như Hiệp định APEC. Có tới 60% doanh nghiệp Việt Nam khi trả lời phỏng vấn điều tra của Phòng Công nghiệp và Thương mại Việt Nam vào cuối năm 2002 không quan tâm tới hội nhập kinh tế. Số doanh nghiệp này cho rằng mình không có thị trường nước ngoài nên việc thực hiện AFTA sẽ không ảnh hưởng tới hoạt động của doanh nghiệp mình. Như vậy, có thể thấy nhiệm vụ cấp bách của hầu hết chính phủ các nước trong khu vực là tăng cường tuyên truyền, nâng cao nhận thức của giới doanh nghiệp và quần chúng nhân dân về ý nghĩa và vai trò của AFTA nói riêng và liên kết kinh tế khu vực nói chung. Để sự liên kết kinh tế trong ASEAN được bền vững, sự liên kết ASEAN cần được mở rộng ra ngoài phạm vi hợp tác về an ninh, kinh tế, chính trị mà cần mở sang cả các lĩnh vực khác như văn hoá, giáo dục, du lịch, thể thao, môi trường. Khi quần chúng nhân dân và giới doanh nghiệp đã có nhận thức đúng về liên kết kinh tế thì họ sẽ là những nhân tố tích cực đẩy mạnh hợp tác kinh tế, xúc tiến thành lập thị trường thống nhất trong khu vực Đông Nam á và tiến tới hình thành một đồng tiền chung ASEAN. 1.1.2 Thúc đẩy tiến trình hình thành khu vực đầu tư ASEAN và xúc tiến mở cửa thị trường lao động Việc mở cửa đối với các dòng vốn và lao động là một yêu cầu không thể thiếu của một liên minh tiền tệ. Hiện nay, sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế của các nước ASEAN còn rất lớn, thậm chí lớn hơn nhiều so với sự chênh lệch giữa các nước thành viên sáng lập ERM vào năm 1979. Khoảng cách thu nhập bình quân đầu người giữa Singapore, nước giàu nhất khu vực với Myanma, nước nghèo nhất khu vực là xấp xỉ 300 lần. Kể cả trong các nước ASEAN 5 thì chênh lệch thu nhập của Singapore và Inđônêxia cũng là 40 lần. ở một số nước đông dân trên thế giới như Trung Quốc, Hoa Kỳ... sự chênh lệch trong thu nhập giữa các vùng khác nhau cũng không kém phần nghiêm trọng. Tuy nhiên, các nước này vẫn có thể sử dụng một đồng tiền chung do lao động và các dòng vốn ở các nước này được tự do di chuyển, một điều mà ở ASEAN chưa có, và cũng do trong nội bộ một nước dễ thực hiện việc thi hành một chính sách ngân sách và tài chính nhằm giảm bớt sự mất cân đối giữa các vùng hơn. Phân tích trên đây cho thấy rằng việc cho phép lao động và các dòng vốn được tự do di chuyển giữa các nước ASEAN là một điều kiện quan trọng để tiến tới hình thành một liên minh tiền tệ. Điều này sẽ cần đến sự phối hợp của tất cả các nước thành viên. Cho tới nay, khu vực đầu tư ASEAN (AIA) là một nỗ lực đầu tiên nhằm đạt tới mục tiêu này. Việc mở cửa thị trường có nghĩa là mọi cản trở trong chu chuyển vốn giữa các nước thành viên đều được dỡ bỏ và mọi đối xử trên thị trường vốn giữa các nước thành viên phải được công bằng và bình đẳng. Tuy nhiên, chặng đường từ nay tới khi hoàn thành khu vực đầu tư ASEAN còn dài, đòi hỏi những biện pháp và bước đi phù hợp cụ thể. Theo nghiên cứu của các nhà kinh tế, một số bước đi cụ thể hiện nay với các nước thành viên ASEAN, chủ yếu là các nước thành viên mới là: Xây dựng một hệ thống chính sách để cải thiện môi trường đầu tư theo hướng sửa đổi thêm một số quy định để tạo thuận lợi hơn cho việc thu hút đầu tư nước ngoài như các quy định về thủ tục cấp phép, về tỷ lệ góp vốn và việc góp vốn trong các liên doanh, chuyển lợi nhuận về nước và quy định thuê mướn và sử dụng lao động. Thiết lập các chuẩn mực đối xử và bảo hộ có điều kiện các ngành sản xuất trong nước. Các nước thành viên AIA phải thực hiện chính sách bảo hộ có điều kiện, tránh bảo hộ tràn lan, làm mất đi các yếu tố cần thiết thúc đẩy cạnh tranh và đầu tư. Việc bảo hộ cần đạt được những điều kiện như bảo hộ cho một số ngành, lĩnh vực hẹp mà nước đó có khả năng tự lực phát triển; bảo hộ trên cơ sở kết hợp các điều kiện đầu tư với các ưu đãi đầu tư đối ở những ngành cần thu hút FDI có công nghệ nguồn để phát triển một số ngành công nghiệp chủ chốt trong nước. Việc bảo hộ phải được quy định cụ thể trong từng trường hợp, từng thời gian cụ thể, không bảo hộ vĩnh viễn cho bất kỳ ngành nào, lĩnh vực nào (trừ các lĩnh vực có liên quan đến an ninh, quốc phòng). Bảo hộ chỉ có thể tiến hành trên nguyên tắc có điều kiện vì phần lớn các nước ASEAN đều đang tranh thủ các nguồn lực từ bên ngoài, đặc biệt là vốn FDI để thực hiện quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hóa đất nước. Phối hợp chặt chẽ hơn nữa tự do hoá thương mại với tự do hoá đầu tư. Tự do hoá thương mại với tự do hoá đầu tư có mối quan hệ chặt chẽ và khăng khít với nhau. Thông thường, việc tự do hóa việc di chuyển hàng hoá giữa các nước diễn ra trước, rồi đến việc tự do hoá di chuyển của các yếu tố sản xuất như vốn, lao động. Quá trình này cũng đang được định hình dần ở các quốc gia ASEAN, bắt đầu là từ lịch trình 2003 của AFTA cho đến 2010 của AIA song vẫn chưa có sự gắn kết mạnh mẽ trong các bước tự do hoá hai lĩnh vực này. Đổi mới và đẩy mạnh công tác vận động, xúc tiến đầu tư ở các nước thành viên mới. Công tác vận động, xúc tiến đầu tư cần được đổi mới về nội dung và phương thức thực hiện, theo một kế hoạch và chương trình chủ động, có hiệu quả. Cụ thể, các nước đang phát triển trong khu vực cần thực hiện chủ trương đa phương hoá các đối tác đầu tư nước ngoài để tạo thế chủ động trong mọi tình huống. Cùng với việc tiếp tục thu hút các nhà đầu tư truyền thống ở châu á và ASEAN vào các dự án mà họ có kinh nghiệm và thế mạnh như chế biến nông sản, sản xuất hàng tiêu dùng xuất khẩu..., các quốc gia nói trên cần chuyển hướng sang các đối tác Tây Âu, Bắc Âu, Bắc Mỹ nhằm tranh thủ tiềm lực vốn, công nghệ, kỹ thuật hiện đại để nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, đặc biệt chú ý các dự án lớn, dự án vừa và nhỏ nhưng công nghệ hiện đại. Trên cơ sở quy hoạch ngành, sản phẩm, lãnh thổ và danh mục dự án kêu gọi đầu tư được phê duyệt, các ngành, các địa phương, các cơ quan liên quan tới đầu tư nước ngoài cần chủ động tiến hành vận động, xúc tiến đầu tư một cách cụ thể, trực tiếp đối với từng dự án, trực tiếp với từng tập đoàn, công ty và nhà đầu tư có tiềm năng. Đến năm 2008, khi khu vực thương mại tự do ASEAN hoàn tất, tất cả các nước tham gia AFTA sẽ xoá bỏ các loại hàng rào thương mại, tạo lập một "sân chơi bình đẳng" xuyên biên giới cho việc lưu thông hàng hoá, dịch vụ và vốn giữa các nước thành viên, trong khi mỗi nước thành viên vẫn được phép theo đuổi những chính sách riêng trong nhiều lĩnh vực khác, đặc biệt là chính sách về tài chính, tiền tệ. Với mức độ hội nhập này, các nước ASEAN mới chỉ đạt tới trình độ "những người láng giềng thân thiện", thấp hơn so với cấp độ "một gia đình hạnh phúc mà các nước thành viên Liên minh tiền tệ châu Âu EMU đã đạt được. Ngay cả đến năm 2020, khi khu vực đầu tư tự do AIA được mở cửa với các nhà đầu tư ngoài ASEAN thì liên kết kinh tế khu vực ASEAN vẫn còn kém xa liên kết kinh tế khu vực châu Âu. Muốn đạt tới một liên minh tiền tệ như EMU, các nước ASEAN cần phải có thêm các giải pháp khác trong lĩnh vực tài chính ngân hàng. 1.2 Các giải pháp về tài chính, ngân hàng 1.2.1 Tiếp tục cải cách hệ thống tài chính, ngân hàng của các nước trong khu vực để tiến tới hội nhập Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực đã cho thấy rằng khi một nước có hệ thống tài chính, ngân hàng yếu kém phụ thuộc nặng nề vào nguồn vốn nước ngoài và neo giá vào một đồng tiền nào đó, các vấn đề của hệ thống ngân hàng có thể biến thành một cuộc khủng hoảng tỷ giá hối đoái. Do đó, hệ thống ngân hàng yếu kém có thể làm phương hại đến bất cứ thoả thuận về một đồng tiền chung nào. Hệ thống ngân hàng của các nước ASEAN nói chung hiện nay còn nhiều yếu kém, mặc dù sau cuộc khủng hoảng, các nước đã tiến hành nhiều biện pháp cải cách đáng kể. Vấn đề chủ yếu là nhà nước can thiệp quá sâu vào hệ thống tài chính, ngân hàng, và sau đó lại tự do hoá khi chưa có đủ các điều kiện cần thiết. Về vấn đề cải cách hệ thống tài chính ngân hàng, các nước ASEAN cần đưa ra các quy định đòi hỏi các ngân hàng thận trọng hơn trong việc cho vay vốn, giảm các khoản nợ khó đòi của ngân hàng, tăng cường hiệu quả của hệ thống giám sát trong lĩnh vực tài chính ngân hàng. Đối với việc mở cửa thị trường tài chính, nhà nước luôn phải giữ vững vai trò điều tiết của mình, đảm bảo tốc độ mở cửa hợp lý và khả năng thanh toán các khoản nợ nước ngoài. Các nước trong khu vực cũng cần xây dựng thị trường vốn cân bằng hơn, tránh dựa quá nhiều vào cổ phiếu như hiện nay. Riêng về vấn đề tỷ giá hối đoái, cho dù các nước ASEAN áp dụng phương án nào trong số các phương án đã nêu ở trên hay thậm chí là một phương án nào khác thì việc cải cách chính sách tỷ giá cũng sẽ đòi hỏi áp dụng chính sách neo giá vào một rổ tiền tệ thay cho neo giá vào một đồng tiền duy nhất và một biên độ dao động thay cho chế độ tỷ giá cố định hiện vẫn áp dụng trong khu vực như hiện nay. Do hệ thống ngân hàng của các nước trong khu vực có nhiều vấn đề giống nhau nên việc cải cách hệ thống tài chính, ngân hàng có thể nên được phối hợp tiến hành giữa các nước. Điều này sẽ giúp các nước không những có thể giúp các nước học tập kinh nghiệm của nhau, tiết kiệm được nguồn lực đầu tư vào quá trình cải cách, mà còn là một tiền đề để các nước ASEAN hội nhập trong lĩnh vực tài chính ngân hàng sau này. 1.2.2 Phối hợp chính sách tiền tệ giữa các nước ASEAN và thiết lập một thiết chế tiền tệ khu vực Phối hợp chính sách tiền tệ giữa các nước trong khối là tiền đề để tiến tới xoá bỏ ranh giới giữa các đồng tiền và ranh giới chính sách tiền tệ giữa các quốc gia. Về vấn đề này, như trên đã nêu, khu vực Đông á đã có một bước tiến quan trọng được thực hiện ở Chiang Mai vào ngày 6/5/2000 nhằm xây dựng một thoả thuận tài chính khu vực để bổ sung cho các hạn mức tín dụng quốc tế hiện có. Thêm vào đó, nhằm tăng cường tính ổn định tài chính trong khu vực, các Bộ trưởng tài chính cũng cam kết hợp tác chặt chẽ hơn nữa trong việc kiểm soát các dòng vốn và tăng cường cơ chế giám sát khu vực. Cơ chế giám sát này nên tập trung vào việc thiết lập một hệ thống cảnh báo để ngăn chặn từ sớm các cuộc khủng hoảng. Thời gian để cho ra đời một đồng tiền chung ASEAN có thể phải rất lâu, do các quốc gia thành viên có những đặc điểm kinh tế chính trị khác nhau và sự cách biệt nhau lớn giữa các nước đang phát triển và các nền kinh tế đã công nghiệp hoá. Tuy nhiên, để hình thành một liên minh tiền tệ ở ASEAN, ngay từ lúc này đã cần phải tiến hành các bước đi đầu tiên, trước hết là xây dựng một khung chính sách tiền tệ chung, thống nhất. Mục đích chính của một chính sách tiền tệ chung trong khu vực sẽ là duy trì sự ổn định giá cả, vì chỉ khi giá cả được duy trì ổn định trong giới hạn cho phép thì khu vực mới có thể thi hành một chính sách kinh tế chung. Chính sách tiền tệ áp dụng cho khu vực phải là một chính sách có khả năng đóng góp vào chính sách kinh tế và giảm được thất nghiệp thông qua mục tiêu chính là ổn định giá cả. Trong môi trường một chính sách tiền tệ thống nhất, sự linh hoạt của thị trường sẽ góp phần làm giảm sự mất cân đối giữa các quốc gia và khu vực. Chính sách tiền tệ sẽ được thực thi thống nhất trên toàn khu vực đồng tiền chung chứ không áp dụng riêng cho một quốc gia hay một nhóm các quốc gia nào. Tuy nhiên, do các trạng thái chu kỳ giữa các nước thành viên sẽ không hoàn toàn cùng pha ở thời kỳ đầu của giai đoạn thực hiện chính sách tiền tệ chung nên những khác biệt giữa các quốc gia sẽ được khắc phục sau một thời gian nhất định. Những sự mất cân đối giữa các quốc gia thường được xử lý thông qua yếu tố tỷ giá. Trong môi trường đồng tiền chung Châu Âu mà đặc trưng là một chính sách tiền tệ thống nhất với mục đích là duy trì sự ổn định giá cả trong toàn khu vực đồng Euro thì yêu cầu điều chỉnh là chính sách ngân sách, mặt bằng giá quốc gia, chính sách tiền lương và việc huy động sức lao động và tư bản. Một điều quan trọng là cần phải có một tổ chức chỉ đạo, hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ chung. Đó phải là một Ngân hàng Trung ương, tương tự như Ngân hàng trung ương Châu Âu, gồm ngân hàng trung ương ASEAN và ngân hàng trung ương quốc gia của các nước thành viên tham gia đồng tiền chung khu vực. Một nhiệm vụ quan trọng khác không thể thiếu khi hoạch định chính sách tiền tệ chung là quy định mức dự trữ tối thiểu đối với các tổ chức tín dụng trong khu vực đồng tiền chung nhằm ổn định lãi suất thị trường và kiểm soát lượng cung tiền. Bước đầu để tiến tới một ngân hàng trung ương khu vực như trên sẽ là phát triển Sáng kiến Chiang Mai thành một thoả thuận tài chính khu vực và hình thành một quỹ tiền tệ cho ASEAN theo đó, các nước sẽ đóng góp một tỷ lệ nào đó dự trữ ngoại tệ của mình vào một quỹ chung. Tỷ lệ này sẽ được quyết định dựa trên tổng hợp các biến số kinh tế vĩ mô như GDP trên đầu người, quy mô so sánh của các nền kinh tế, tỷ trọng thương mại trong khu vực,... Mô hình cho một quỹ tiền tệ như vậy sẽ là Quỹ hợp tác tiền tệ châu Âu (EMFC), tiền thân của Viện tiền tệ châu Âu và Ngân hàng trung ương châu Âu. Các nước thành viên sẽ có thể nhận được các khoản tín dụng từ quỹ chung này, dựa trên tỷ lệ đóng góp của mình và với những điều kiện đã được tất cả các bên thống nhất. Một dấu hiệu thực tế đáng mừng là ASEAN đã quyết định sẽ thành lập Ngân hàng ASEAN. Trước mắt, ngân hàng mới chỉ có vai trò giúp đỡ người nghèo ở các nước ASEAN với các khoản vay nhỏ, nhưng đây cũng là một tín hiệu cho thấy rằng các thiết chế khu vực đang dần hình thành ở ASEAN. 1.3 Các giải pháp khác 1.3.1 Đề ra các tiêu chí gia nhập và một lịch trình cụ thể cho tiến trình hình thành đồng tiền chung Kinh nghiệm của EMU cho thấy rằng để hội nhập thành công trên lĩnh vực tiền tệ, cần phải đề ra những tiêu chí gia nhập cụ thể như tỷ lệ lạm phát, lãi suất, chính sách tài khoá.... Quá trình hội nhập cũng cần phải có một lịch trình cụ thể, có tính đến trình độ phát triển khác nhau của tất cả các nước thành viên tương lai, được tất cả các bên chấp thuận và cam kết thực hiện. Để đẩy nhanh quá trình hội nhập, một thoả thuận đa phương về các tiêu chí và lịch trình gia nhập như vậy có thể quy định một mốc thời gian gia nhập sớm hơn cho các nước phát triển hơn. Các nước khác sẽ tham gia vào một thời điểm muộn hơn sau khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện đã đề ra. 1.3.2 Chuẩn bị cho giai đoạn chuyển đổi và đưa đồng tiền chung vào lưu thông Giải pháp này có thể là quá sớm ở thời điểm hiện tại. Tuy nhiên, nếu muốn hình thành một liên minh tiền tệ thành công, một điều quan trọng là phải chuẩn bị cho sự ra đời của một đồng tiền chung cùng với tất cả những vấn đề phức tạp có thể xảy ra trong giai đoạn chuyển đổi. Các nước EMU đã phải có một thời kỳ 3 năm đồng tiền chung tồn tại song song với các đồng tiền quốc gia để chuẩn bị các điều kiện về cơ sở vật chất, về luật pháp, thể chế và để phổ biến rộng rãi về đồng tiền chung cho dân chúng. Một liên minh tiền tệ ở ASEAN nếu muốn thành công cũng không thể bỏ qua những vấn đề như vậy. III.2 Các vấn đề của Việt Nam trong tiến trình hội nhập ASEAN - hướng tới hình thành một đồng tiền chung. Trong tiến trình hội nhập ASEAN, hướng tới việc hình thành một đồng tiền chung, Việt nam cần phải : -Chủ động xây dựng một chiến lược hội nhập phù hợp Chiến lược hội nhập là định hướng chính sách tổng thể lâu dài cho quá trình hội nhập của một quốc gia vào các thể chế kinh tế toàn cầu và khu vực. Chiến lược này bao gồm những nội dung liên quan đến mục tiêu, phương châm, bước đi và biện pháp theo đuổi. Trước hết, cần xác định mục tiêu lâu dài và mục tiêu từng giai đoạn của quá trình hội nhập. Những mục tiêu này không thể tách rời những mục tiêu chiến lược của đường lối chính trị-kinh tế của đất nước và phải nhằm phục vụ những mục tiêu chiến lược đó. Chiến lược hội nhập cần đề ra những phương châm và bước đi thích hợp của quá trình hội nhập đối với từng giai đoạn. Một nguyên tắc quan trọng là các bước đi của quá trình hội nhập phải đồng bộ và phù hợp với tiến trình cải cách, điều chỉnh toàn diện bên trong, đảm bảo hai tiến trình này không trái ngược, triệt tiêu hiệu quả của nhau mà hỗ trợ, bổ sung cho nhau. Các bộ phận của chiến lược hội nhập là chính sách thương mại, chính sách đầu tư, sản xuất kinh doanh, lưu thông phân phối, chính sách tài chính, chính sách trợ cấp, chính sách giá cả, quy định về quyền sở hữu trí tuệ, chính sách xuất nhập cảnh và lưu trú, các thủ tục hành chính, hệ thống tư phápphải vận hành ăn khớp, thống nhất vì mục tiêu, phương châm chung, có tính toán kỹ các hậu quả kinh tế-xã hội có thể xảy đến khi thực hiện tiến hành hội nhập. -Tích cực xây dựng lộ trình Hội nhập phù hợp Lộ trình thực hiện các yêu cầu của các thể chế quốc tế gồm 3 loại: (1) lộ trình tích cực (3-5 năm), (2) lộ trình trung bình (5-7 năm) và (3) lộ trình chậm (7-10 năm). Chọn lộ trình nào là tuỳ thuộc vào sự cân nhắc hiệu quả và các hệ quả xã hội. Nhìn chung, trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, Việt Nam cần một lộ trình tích cực để rút ngắn con đường phát triển, chống tụt hậu. -Chủ động đàm phán đa phương và song phương có hiệu quả với các nước và các tổ chức khu vực, toàn cầu Cần chuẩn bị kỹ các phương án đàm phán về từng lĩnh vực, vấn đề, sản phẩm. Khôn khéo vận dụng quy chế xử lý tranh chấp và đòi hỏi hoàn thiện các quy chế đó có lợi cho các nước đang phát triển . Tranh thủ đạt được những cách giải thích có lợi cho mình về những thuật ngữ và khái niệm còn mơ hồ, có thể giải thích nhiều cách khác nhau, trong các hiệp định quốc tế và các quy tắc toàn cầu hóa. Muốn vậy, cần phải thực hiện tốt các vấn đề sau: 2.1 Điều chỉnh và hoàn thiện chính sách thương mại Chính sách thương mại của Việt Nam hiện nay còn nhiều điểm bất cập, không phù hợp với thông lệ quốc tế và còn thiếu nhiều quy định được các nước thừa nhận và sử dụng rộng rãi. Để quá trình tham gia AFTA của Việt Nam hướng tới hình thành đồng tiền chung, thu được lợi ích lớn nhất, hạn chế những tác động tiêu cực của tự do hoá thương mại khu vực, việc điều chỉnh và hoàn thiện chính sách thương mại cần phải theo hướng thông thoáng, có tính ổn định và phù hợp với thông lệ trong buôn bán khu vực và quốc tế đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho tất cả các thành phần kinh tế nâng cao khả năng cạnh tranh của mình. Việc điều chỉnh chính sách thương mại cần tuân theo những nguyên tắc sau: - Điều chỉnh chính sách thương mại phải đảm bảo hiệu quả kinh tế xã hội, nghĩa là phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam, phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế không gây nên những bất ổn, biến động mạnh, ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân. - Tuân thủ các quy định không những của Hiệp định CEPT mà cả các Hiệp định và Thoả thuận quốc tế mà Việt Nam đã ký kết và hướng tới những quy định của WTO. Điều chỉnh và hoàn thiện chính sách thương mại của Việt Nam cần tập trung vào các vấn đề lớn sau: Thứ nhất, chính sách thương mại cần chú trọng hơn tới mục tiêu nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh, hay nói cách khác là bên cạnh tốc độ tăng trưởng cần chú ý hơn tới chất lượng tăng trưởng. Cho tới nay, xuất nhập khẩu thường được bàn đến trên phương diện lượng (tốc độ tăng trưởng, kim ngạch xuất khẩu,...) trong khi các vấn đề mang tính quyết định như hiệu quả và sức cạnh tranh mới được đề cập một cách rất chung, chưa được chi tiết hoá biện pháp cụ thể. Các biện pháp và công cụ chính sách thời gian tới, đặc biệt là các biện pháp khuyến khích xuất khẩu cần tập trung vào việc nâng cao chất lượng, hiệu quả cũng như sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam. Thứ hai, chính sách thương mại còn cần khai thác triệt để thế mạnh của chính sách kinh tế nhiều thành phần để tăng cường tính năng động và khả năng thích ứng nhanh. Một trong những hệ quả tất yếu của hội nhập kinh tế quốc tế là chuyển dịch cơ cấu và bố trí lại nguồn lực. Dưới sức ép cạnh tranh một ngành sản xuất không hiệu quả có thể sẽ phải mất đi để nhường chỗ cho một ngành khác có hiệu quả hơn. Quá trình này sẽ diễn ra một cách suôn sẻ hơn, với chi phí thấp hơn nếu nền kinh tế có được tính năng động và khả năng thích ứng cần thiết. Đối với nước ta, hai đặc tính này sẽ được tăng cường nếu khai thác được hết thế mạnh của chính sách kinh tế nhiều thành phần. Chính sách thương mại một mặt cần thúc đẩy việc nâng cao hiệu quả của các doanh nghiệp quốc doanh, mặt khác cần khuyến khích sự phát triển của các thành phần khác trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, trong đó đặc biệt chú trọng tới các doanh nghiệp ngoài quốc doanh để tận dụng triệt để tiềm năng và khả năng thích ứng nhanh của họ. Thứ ba, chính sách thương mại cũng cần hướng tới một sự thay đổi căn bản về đối tượng và phương thức quản lý nhập khẩu. Hiện nay để điều tiết hàng hoá xuất nhập khẩu, chúng ta còn dùng nhiều biện pháp phi thuế quan. Các công cụ này đều là đối tượng phải bãi bỏ trong tiến trình hội nhập. Tiến trình loại bỏ các hàng rào phi thuế cần được tiến hành kết hợp chặt chẽ với việc cắt giảm thuế quan. Chính phủ và các Bộ ngành cần xem xét loại bỏ những biện pháp không cần thiết, đơn giản hoá các biện pháp còn lại, tạo điều kiện cho hoạt động xuất nhập khẩu. Trước hết, chúng ta nên bắt đầu bằng các biện pháp quản lý hành chính, tiếp đến là các biện pháp phi thuế quan phổ thông như giấy phép, hạn ngạch. Đối với những mặt hàng vẫn cần duy trì giấy phép, Bộ Thương mại tăng cường phối hợp với các Bộ, ngành chức năng cải tiến các thủ tục cấp giấy phép, bãi bỏ cơ chế "xin - cho", tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam xuất nhập khẩu. Việt Nam cần tự do hoá hoàn toàn quyền kinh doanh xuất nhập khẩu để tất cả các mặt hàng không phải chịu hạn chế định lượng (trừ các mặt hàng vì lý do sức khoẻ, an ninh, môi trường) và được nhập khẩu tự do với mức thuế suất thích hợp. Đối với những mặt hàng cần được bảo hộ để duy trì sự tồn tại và phát triển của các ngành sản xuất trong nước cũng cần loại bỏ dần các quy định về giấy phép nhập khẩu và hạn ngạch, chuyển sang bảo hộ bằng thuế quan cao trong thời gian đầu sau đó, cắt giảm dần thuế quan để tránh tư tưởng trông chờ vào bảo hộ của các doanh nghiệp và thực hiện các cam kết theo CEPT. Đồng thời trong khuôn khổ AFTA, Việt Nam cùng với các nước ASEAN sẽ ký các Hiệp định thừa nhận các tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh, an toàn, chất lượng của nhau, xoá bỏ những rào cản kỹ thuật trong thương mại nội bộ khối. Đồng thời, Việt Nam cần bổ sung, hoàn thiện chính sách thương mại bằng các công cụ quản lý xuất nhập khẩu tiên tiến như hạn ngạch thuế quan, thuế tuyệt đối, thuế chống phá giá, thuế chống trợ cấp, phí môi trường và các biện pháp chống chuyển giá đối với một số loại hàng hoá nhập khẩu để bảo hộ sản xuất trong nước, bảo đảm thương mại công bằng và bảo vệ môi trường. Đây là công cụ được các nước dùng phổ biến và không bị loại bỏ trong quá trình thực hiện CEPT/AFTA. Như vậy, chính sách thương mại của Việt Nam cần phải loại bỏ các quy định không phù hợp với thông lệ quốc tế đồng thời bổ sung những công cụ quản lý tiên tiến được các nước thừa nhận và áp dụng. 2.2 Sửa đổi và hoàn thiện hệ thống thuế Một trong những yêu cầu của quá trình thực hiện CEPT/AFTA hướng tới hình thành đồng tiền chung là phải điều chỉnh hệ thống thuế, mà quan trọng nhất là thuế xuất khẩu, nhập khẩu. Đồng thời, hệ thống thuế của Việt Nam hiện nay vẫn còn nhiều điểm chưa hợp lý cần phải sửa đổi và hoàn thiện. Việc điều chỉnh hệ thống thuế phải đáp ứng một số nguyên tắc: - Điều chỉnh hệ thống thuế của Việt Nam phải thúc đẩy quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các nước trong khu vực ASEAN, tăng cường sức cạnh tranh so với các nước trong khu vực để thu hút đầu tư nước ngoài. - Phát huy nội lực của nền kinh tế và đóng góp nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. Việc cắt giảm thuế nhập khẩu theo cam kết phải đi cùng với việc điều chỉnh các loại thuế nội địa hợp lý hơn, chống thất thu thuế để không ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách Nhà nước. - Thuế xuất khẩu, nhập khẩu phải là công cụ điều tiết xuất nhập khẩu để tiến tới bỏ hạn chế xuất nhập khẩu theo hạn ngạch và định hướng. Những điều chỉnh về chính sách thuế được xác định theo hai mục tiêu chính: cố gắng hạn chế phần giảm thu ngân sách khi thực hiện các cam kết về giảm thuế nhập khẩu, đồng thời sử dụng hệ thống thuế như một công cụ kinh tế vĩ mô để khuyến khích sản xuất và xuất khẩu, góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam. Hai mục tiêu này cần được thực hiện thông qua toàn bộ hệ thống thuế vì tác động đến các nhà sản xuất và xuất khẩu không chỉ có thuế xuất khẩu, nhập khẩu mà cả các loại thuế khác. Trước hết, hệ thống thuế cần phải được điều chỉnh một cách toàn diện, khắc phục những bất cập của tất cả các sắc thuế nhằm hạn chế thất thu thuế cho ngân sách Nhà nước, đồng thời tạo sự công bằng cho các doanh nghiệp, thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển. Trong thời gian qua, chính sách thuế, với vai trò là công cụ quản lý vĩ mô trong nền kinh tế đã thể hiện rất rõ sự ưu đãi, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp giảm chi phí sản xuất, kinh doanh hàng xuất khẩu, tăng khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường quốc tế, khuyến khích đầu tư vốn vào sản xuất chế biến hàng xuất khẩu, bước đầu thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng: giảm xuất khẩu hàng nguyên liệu thô, tăng xuất khẩu hàng hoá đã qua chế biến có giá trị gia tăng cao, tận dụng nguyên liệu và lao động trong nước. Tuy nhiên, những thành tựu nói trên vẫn còn thấp so với tiềm năng và khả năng phát triển của nước ta. Để tiếp tục khuyến khích đầu tư sản xuất trong nước, khuyến khích xuất khẩu, đón trước quá trình hội nhập và hạn chế tối đa các bất lợi cho sản xuất trong nước khi trở thành thành viên AFTA cũng như WTO, trong thời gian tới chính sách thuế nên điều chỉnh theo hướng sau: - Tiếp tục mở rộng những ưu đãi về thuế gián thu (cụ thể là áp dụng thuế suất 0% thuế giá trị gia tăng, không thu thuế xuất khẩu và thuế tiêu thụ đặc biệt với hầu hết hàng xuất khẩu, không thu thuế giá trị gia tăng, xử lý hoàn thuế giá trị gia tăng, thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt đối với nguyên liệu và máy móc, thiết bị nhập khẩu dùng để gia công, sản xuất hàng xuất khẩu,...) tạo điều kiện cho các doanh nghiệp giảm giá thành của hàng hoá xuất khẩu, tăng sức cạnh tranh về giá của hàng hoá Việt Nam so với các nước khác trong khu vực. Theo đó, sẽ thu hẹp mặt hàng chịu thuế xuất khẩu, tiến tới chỉ thu thuế xuất khẩu đối với dầu thô, đá quý, kim loại và phế liệu kim loại, da trâu bò sống, một số sản phẩm gỗ sơ chế. Đối những mặt hàng còn tiếp tục thu thuế xuất khẩu sẽ tiếp tục được nghiên cứu xử lý theo hướng giảm bớt mức thuế suất thuế xuất khẩu. Tiếp tục áp dụng thuế giá trị gia tăng 0% và hoàn thuế nhập khẩu nguyên liệu đầu vào của những hàng hoá và dịch vụ xuất khẩu vào các Khu chế xuất, thúc đẩy việc xuất khẩu sản phẩm nội địa vào Khu chế xuất. - Duy trì và tăng mức ưu đãi về thuế trực thu đối với các nhà đầu tư sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu, đặc biệt là đối với những ngành Việt Nam có lợi thế về nguồn nguyên liệu và lao động. Ví dụ, những doanh nghiệp có tỷ trọng sản phẩm xuất khẩu cao và sử dụng nhiều nguyên liệu trong nước sẽ được áp dụng thuế suất ưu đãi hoặc miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế sử dụng đất. Thực hiện bảo hộ có chọn lọc, có hiệu quả để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu đầu tư theo hướng hiệu quả nhằm tận dụng lợi thế so sánh, nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp sản xuất trong nước để tiến tới mở rộng xuất khẩu sản phẩm ra thị trường nước ngoài. Trước mắt, các cơ quan chức năng sẽ nghiên cứu để tăng thuế suất thuế nhập khẩu những mặt hàng cần khuyến khích đầu tư trong tương lai, giảm thuế suất thuế nhập khẩu một số mặt hàng đã được bảo hộ trong thời gian dài nhưng chưa phát triển nhằm thúc đẩy các doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh hàng hóa của Việt Nam với các nước trong khu vực, hiện tại là chiếm lĩnh thị trường xuất khẩu đã có, tiến tới mở rộng thị trường xuất khẩu mới và tăng dần tỷ trọng xuất khẩu những thị trường quen thuộc. Việc điều chỉnh thuế suất này phải tính đến các cam kết cắt giảm thuế quan CEPT của Việt Nam, nhưng nói chung khi xây dựng các Danh mục hàng hoá của Việt Nam, các cơ quan chức năng đã tính tới vấn đề bảo hộ cho các ngành sản xuất trong nước. Biểu thuế nhập khẩu cần được đơn giản hoá các mức thuế tức là giảm dần số lượng các mức thuế suất khác nhau. Việc này sẽ tạo điều kiện quản lý tốt hơn, tránh thất thu thuế. Đồng thời, giảm mức chênh lệch giữa biểu thuế ưu đãi và đặc biệt ưu đãi để hạn chế sự lệch lạc về nguồn nhập khẩu từ những nước được hưởng ưu đãi thuần tuý về thuế nhập khẩu mà ít dựa trên chất lượng và tính năng sử dụng của hàng hóa. Hơn nữa, cần có chính sách miễn giảm thuế hợp lý. Hiện nay, vẫn còn một số mặt hàng được xét miền giảm thuế theo mục đích sử dụng và những mục tiêu cần ưu tiên hỗ trợ. Các quy định về xét miễn giảm thuế quá phức tạp. Điều này dễ gây ra tình trạng gian lận, khai sai mục đích sử dụng để được hưởng ưu đãi, gây thất thu cho ngân sách. Vì vậy, cần quy định các trường hợp miễn giảm một cách rõ ràng và khoa học hơn. Nên chăng, với những mục tiêu cần ưu tiên, hỗ trợ, Nhà nước nên trợ cấp qua ngân sách, không nên sử dụng công cụ thuế để trợ giá. 2.3 Điều chỉnh chính sách đầu tư nước ngoài Một trong những cơ hội của Việt Nam khi tham gia thực hiện AFTA là tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài không chỉ từ các nước ASEAN mà còn nhiều quốc gia khác. Tuy nhiên, cơ hội này không chỉ dành riêng cho Việt Nam mà cho tất cả các quốc gia ASEAN vì mỗi quốc gia đều có những lợi thế riêng vì vậy, để tận dụng được cơ hội này, Việt Nam phải tích cực điều chỉnh chính sách đầu tư nước ngoài, tạo môi trường đầu tư thông thoáng. Mục tiêu của Việt Nam từ nay đến năm 2005 thu hút khoảng 11 tỷ USD vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (vốn thực hiện), chính sách đầu tư của Việt Nam trong thời gian tới phải điều chỉnh theo hướng: - Mở rộng, đa dạng hoá các lĩnh vực thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, mở thêm kênh thu hút vốn (bao gồm cả việc mở dần thị trường chứng khoán) phù hợp với những cam kết trong quá trình hội nhập. Trong đó, khuyến khích mạnh đầu tư trực tiếp nước ngoài đầu tư vào các ngành công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, chế biến, công nghiệp phục vụ phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn, các dự án ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, dầu khí, điện tử, vật liệu mới, viễn thông, phát triển hạ tầng... - Thiết lập một mặt bằng pháp lý chung để tạo dựng môi trường kinh doanh ổn định, bình đẳng giữa các loại hình đầu tư, tiếp tục thực hiện lộ trình giảm chi phí đầu tư, tiến tới áp dụng một giá thống nhất cho cả hình thức đầu tư trong nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài, cải cách hệ thống thuế theo hướng đơn giản hoá... Bên cạnh đó, cần loại bỏ dần và cam kết không đặt ra bất kỳ hạn chế nào khác đối với việc thành lập và hoạt động của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (về hình thức đầu tư, phương thức góp vốn, thị trường tiêu thụ, chính sách ngoại hối, tỷ lệ nội địa hoá, tỷ lệ xuất khẩu, công nghệ, lao động...). Nguyên tắc Đối xử quốc gia và quy chế Tối huệ quốc trong đầu tư phải được thực hiện đầy đủ. - Đơn giản hoá thủ tục đầu tư, mở rộng diện các dự án đầu tư được đăng ký cấp phép, bãi bỏ các giấy phép không cần thiết gây cản trở, ách tắc đối với hoạt động đầu tư và công khai hoá các chính sách, quy định đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài, đảm bảo nhất quán về chính sách đầu tư từ Trung ương đến các địa phương. - Thủ tục sau khi cấp phép, đặc biệt trong vấn đề giải phóng mặt bằng, thu đổi ngoại tệ phải được đơn giản hoá rõ rệt. - Cung cấp thông tin kinh doanh cũng như nhanh chóng hoàn thiện công tác hành chính, đảm bảo các yếu tố trong sạch, trách nhiệm, giải thích rõ ràng và khả năng có thể dự đoán trước. Việt Nam phải phát triển hệ thống khuyến khích đầu tư, cung cấp thông tin ra các nước về cơ hội và môi trường đầu tư ở Việt Nam. Cho đến nay, các nhà đầu tư vẫn chưa có đủ thông tin thông qua Internet hoặc các websites. - Về vấn đề chuyển giao công nghệ, Chính phủ xem xét bãi bỏ các quy định hạn chế việc chuyển giao công nghệ của nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, chẳng hạn như quy định trong khoản 2, Điều 81 của Nghị định 24/2000/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 2000 liên quan đến giới hạn góp vốn bằng công nghệ. Theo đó, Chính phủ nên bãi bỏ quy định khống chế giá trị công nghệ chuyển giao dùng để góp vốn không được vượt quá 20% vốn pháp định. Việc bãi bỏ giới hạn về tỷ lệ góp vốn bằng giá trị công nghệ sẽ tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, đồng thời thúc đẩy việc chuyển giao công nghệ hiện đại từ nước ngoài vào trong nước. 2.4 Điều chỉnh chính sách tài chính - tiền tệ Chính sách tài chính - tiền tệ, đặc biệt là chính sách tỷ giá hối đoái có vị trí quan trọng hàng đầu trong các chính sách thương mại. Trong quá trình hội nhập AFTA hướng tới hình thành đồng tiền chung, nền kinh tế nước ta đang gặp nhiều khó khăn nghiêm trọng: trong hầu hết mọi lĩnh vực kinh tế, chi phí sản xuất đều rất cao, làm cho giá hàng Việt Nam cao hơn, khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam thấp so với các nước trong khu vực. Theo ý kiến của nhiều chuyên gia kinh tế, để thoát khỏi tình trạng hiện nay, tự do hoá kinh tế nhanh và quyết liệt hơn kết hợp với phá giá vừa phải tỷ giá danh nghĩa là giải pháp phù hợp nhất. Tuy nhiên, việc phá giá tiền tệ là một trong những quyết định hết sức khó khăn và nhạy cảm vì nó liên quan đến rất nhiều khía cạnh của hoạt động kinh tế, xã hội và đời sống của dân chúng. Do đó, cần phải nghiên cứu thận trọng trước khi quyết định có phá giá nội tệ hay không. Trong năm 2001, tỷ giá danh nghĩa của đồng tiền Việt Nam đã được cho xuống giá từ từ khoảng 4%. Trong hiện trạng nền kinh tế Việt Nam hiện nay có thể thực hiện phá giá thêm 15 -20% vì phá giá trong bối cảnh hiện nay sẽ cho phép giải quyết một loạt các vấn đề nan giải trong nền kinh tế và xã hội: nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, chuyển nền kinh tế sang phát triển hướng ngoại, cải thiện tình hình sản xuất kinh doanh của khu vực doanh nghiệp, củng cố hệ thống ngân hàng, tăng thu nhập cho nông dân, tạo ra thêm nhiều việc làm, giảm tỷ lệ đô thị hoá và các tệ nạn trong xã hội. Ngoài ra, phá giá tiền tệ trong bối cảnh thặng dư ngoại tệ hiện nay đi kèm với chính sách tài chính - tiền tệ chặt sẽ không kéo theo tâm lý đầu cơ ngoại tệ, không làm tỷ lệ lạm phát tăng ngoài tầm chấp nhận được. Tuy vậy, phá giá nội tệ sẽ có những ảnh hưởng tiêu cực đến các khoản nợ Chính phủ bằng ngoại tệ, đến thu nhập cố định của người lao động và sự ổn định xã hội. Đây là những yếu tố Việt Nam cần xem xét khi quyết định phá giá trong giai đoạn hiện nay. Nhìn một cách tổng thể, chúng ta sẽ được lợi nhiều hơn khi phá giá thêm đồng tiền Việt Nam kết hợp với toàn bộ các chính sách kể trên. Trong điều kiện Việt Nam tham gia AFTA , hướng tới hình thành đồng tiền chung, vấn đề chúng ta quan tâm nhất là phá giá tiền tệ làm nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Lý thuyết và kinh nghiệm quốc tế đều khẳng định phá giá tiền tệ chủ động, đủ tầm trong bối cảnh chưa phát sinh những mất cân bằng kinh tế trầm trọng sẽ có tác dụng rất lớn tới tăng cường sức cạnh tranh của nền kinh tế, tăng xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu vì phá giá tiền tệ làm cho chi phí sản xuất trong nước thấp hơn giá cả quốc tế. Trước hết, phá giá tiền tệ là nhân tố thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu. Kinh nghiệm ở Việt Nam từ khi đổi mới cũng cho thấy ảnh hưởng tích cực của các cuộc phá giá (năm 1987-1988, năm 1991 và từ năm 1997 đến nay) tới tăng trưởng xuất khẩu. Tuy nhiên, cần phải nhấn mạnh rằng mặc dù phá giá tiền tệ là giải pháp quan trọng trong giai đoạn hiện nay, nhưng tiếp tục xây dựng và thực hiện những giải pháp khác để động viên xuất khẩu vẫn là nhiệm vụ cần thiết và cấp bách vì như đã nói ở trên, phá giá tiền tệ phải đi kèm với tự do hoá toàn diện thì mới phát huy hết hiệu quả của nó. Phá giá tiền tệ làm tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế, cho phép giảm hàng rào bảo hộ mậu dịch và đầu tư, tiến tới chủ động hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. Sức cạnh tranh của một nền kinh tế thường được đo bằng tỷ lệ giữa chi phí sản xuất trong nước và giá cả quốc tế. Khi đồng tiền bị đánh giá cao và kéo dài, chi phí sản xuất trong nước sẽ cao hơn giá cả quốc tế, tức là nền kinh tế mất sức cạnh tranh. Trong nhiều năm, việc đánh giá cao nội tệ ở Việt Nam đòi hỏi phải tăng thêm bảo hộ sản xuất nội địa, trong khi đó, bảo hộ sản xuất nội địa lại bóp méo và kìm hãm các hoạt động xuất nhập khẩu đồng thời sẽ khuyến khích đánh giá cao nội tệ ở mức cao hơn. Đây là vòng xoáy rất nguy hiểm cần phải thoát ra. Vì vậy, để tăng sức cạnh tranh và đảo ngược xu hướng bảo hộ mậu dịch và đầu tư hiện nay, phá giá tiền tệ là con đường cơ bản nhất. Phá giá tiền tệ làm tăng nhanh sức cạnh tranh của nền kinh tế, giảm được các sức ép phải ưu đãi và bảo hộ sản xuất nội địa, từ đó cho phép giảm dần các hàng rào bảo hộ và đầu tư, tiến tới thoả mãn từng bước những điều kiện hội nhập AFTA, hướng tới hình thành đồng tiền chung của khu vực. 2.5 Hoàn thiện cơ chế thị trường và ổn định các điều kiện kinh tế vĩ mô Việc tham gia CEPT/AFTA của Việt Nam đã tác động tích cực đến việc hình thành và hoàn thiện cơ chế thị trường ở Việt Nam. Tuy vậy, đến nay cơ chế thị trường của Việt Nam vẫn còn sơ khai, nền kinh tế chưa được vận hành hoàn toàn theo cơ chế thị trường. Lãi suất và tỷ giá hối đoái chưa hoàn toàn được hình thành theo cơ chế thị trường, vẫn có sự kiểm soát của Nhà nước. Các thủ tục hành chính vẫn còn quá rườm rà, cơ chế “xin-cho” đã được khắc phục nhưng vẫn còn tồn tại, tệ tham nhũng, cửa quyền,... Nhìn chung, Việt Nam vẫn còn nhiều khác biệt và bất cập so với các nước khác về cơ chế, chính sách, hệ thống luật pháp cũng như thực tiễn hoạt động kinh tế. Do vậy, yêu cầu đặt ra đối với Việt Nam trong quá trình thực hiện CEPT/AFTA là tiếp tục đẩy mạnh việc đổi mới cơ chế và hoàn thiện cơ chế thị trường một cách đồng bộ, hoàn chỉnh, phù hợp với thông lệ quốc tế, phù hợp với trình độ phát triển kinh tế của Việt Nam. Chúng ta cần phải xem xét lại một cách toàn diện thể chế kinh tế hiện hành để sửa đổi những điều không phù hợp, bổ sung những luật lệ, chính sách mới để đảm bảo sự nhất quán, hoàn chỉnh của chính sách kinh tế. Ngoài ra, cần tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường như thị trường vốn, thị trường lao động, thị trường công nghệ, loại bỏ cơ chế “xin-cho” và những phương thức điều hành kinh tế của thời kỳ bao cấp để lại. Trong một cơ chế thị trường như trên, ổn định kinh tế vĩ mô là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển kinh tế. Chính sách tài chính-tiền tệ được thực hịên nhằm đảm bảo quản lý tốt thâm hụt ngân sách, duy trì mức lạm phát thấp, quản lý được nợ nước ngoài và duy trì tỷ giá hối đoái cạnh tranh. Các yếu tố như: tốc độ tăng trưởng, tốc độ gia tăng xuất khẩu, mức lạm phát, cán cân thương mại,... cần giữ ổn định ở một con số hợp lý nhất, tuỳ từng chỉ tiêu. Nếu đảm bảo được mức thâm hụt ngân sách Nhà nước ở mức 5% GDP và ở mức lạm phát hàng năm ở một con số có thể coi như đảm bảo giữ vững ổn định về kinh tế. Cùng với sự ổn định về chính trị và xã hội, ổn định kinh tế sẽ là một trong những lợi thế của Việt Nam trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp vào Việt Nam trong quá trình thực hiện AFTA. Trong những năm gần đây, mặc dù cơ cấu kinh tế của Việt Nam đã có sự chuyển dịch tích cực một phần do tác động của quá trình hội nhập kinh tế khu vực, tuy vậy, trong cơ cấu kinh tế này nông nghiệp vẫn chiếm một tỷ lệ cao so với các nước trong khu vực. Với một cơ cấu kinh tế như vậy, Việt Nam sẽ gặp nhiều bất lợi trong quan hệ thương mại với các nước trong khu vực. Vì vậy, chúng ta cần phải tận dụng những tác động tích cực của việc tham gia AFTA để đẩy mạnh quá trình chuyển dịch kinh tế hơn nữa. Chúng ta đang hướng tới một nền kinh tế với cơ cấu hiện đại trong đó các ngành công nghiệp và dịch vụ chiếm tỷ lệ cao với mục tiêu năm 2020 về cơ bản đưa Việt Nam trở thành một nước công nghiệp 2.6 Đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả hoạt động xúc tiến thuơng mại Xúc tiến thương mại là hoạt động nhằm tìm kiếm, thúc đẩy cơ hội buôn bán hàng hóa và dịch vụ thương mại, bao gồm các hoạt động chủ yếu như: thông tin thương mại, hội chợ, triễn lãm, quảng cáo, trưng bày giới thiệu hàng hoá, tư vấn và môi giới thương mại, đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ để nâng cao năng lực kinh doanh,...Đương nhiên hoạt động xúc tiến thương mại gắn liền với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, đồng thời là trách nhiệm của chính doanh nghiệp. Song không chỉ ở nước ta mà nhiều doanh nghiệp của các nước khác cũng không có khả năng đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại nhằm tìm kiếm thị trường và bạn hàng do thiếu kinh nghiệm nghiệp vụ, thiếu vốn. Do đó, Nhà nước không những cần chia sẻ, gánh vác mà còn quản lý và định hướng cho hoạt động quan trọng này. Để đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả các hoạt động xúc tiến thương mại trong thời gian tới, Nhà nước và các tổ chức xúc tiến thương mại cần chú ý một số điểm sau: Thứ nhất, quán triệt đầy đủ ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác xúc tiến thương mại ở tất cả các cấp độ kể cả Trung ương và chính quyền địa phương, các tổ chức xúc tiến thương mại và các doanh nghiệp trong tình hình hiện nay là vô cùng cần thiết. Trong bối cảnh Việt Nam tham gia AFTA với mục tiêu tự do hóa về thương mại và đầu tư, không chỉ riêng Việt Nam mà tất cả các nước ASEAN, đều rất quan tâm đến lĩnh vực xúc tiến thương mại nhằm mục đích hỗ trợ cho doanh nghiệp đón nhận được những cơ hội kinh doanh, giành phần thắng trong cuộc cạnh tranh thương mại trong khu vực. Thứ hai, Nhà nước sớm thống nhất, hoàn chỉnh thể chế và năng lực hành động của hệ thống xúc tiến thương mại trên cơ sở chiến lược xuất khẩu của cả nước, của từng ngành, từng địa phương ở những cung độ ngắn, trung, dài hạn. Thứ ba, xây dựng cơ sở hạ tầng cho hoạt động xúc tiến thương mại. Hiện nay ở trong nước, kể cả Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh rất thiếu địa điểm có trang thiết bị, phương tiện và tiện nghi để có thể tổ chức những cuộc triển lãm thương mại tầm cỡ khu vực và quốc tế. Thứ tư, đào tạo đội ngũ xúc tiến thương mại cho các doanh nghiệp từ ngoại ngữ, kiến thức luật pháp thương mại quốc tế, nghệ thuật đàm phán,... 2.7 Phát triển kinh tế - xã hội tạo việc làm để giải quyết thất nghiệp Phát triển kinh tế xã hội tạo mở việc làm là giải pháp cơ bản nhất, quan trọng nhất, quyết định việc tăng, giảm chỗ làm việc. Do vậy, phải thực hiện các hoạt động nhằm giải quyết hợp lý mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tạo mở việc làm nhằm đạt mục tiêu ổn định việc làm cho người đã có việc làm và tạo 5 - 5,5 triệu chỗ làm việc mới trong 5 năm. Nhà nước cần tập trung một số chương trình phát triển kinh tế trọng điểm tạo việc làm, thu hút nhiều lao động bao gồm: Thứ nhất, các chương trình phát triển nông nghiệp và nông thôn - Tập trung thâm canh hơn 8 triệu ha đất nông nghiệp, chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, đặc biệt là những vùng trọng điểm sản xuất nông nghiệp hàng hoá, chú trọng đầu tư phát triển kinh tế trang trại. - Đầu tư, khai thác tiềm năng của các tỉnh đồng bằng để phát triển nuôi trồng thuỷ sản, khai thác tiềm năng biển, mở rộng nghề đánh bắt ngoài khơi, tạo việc làm và tăng kim ngạch xuất khẩu. - Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn như thuỷ lợi, kiên cố hoá kênh mương, giao thông nông thôn, các công trình phúc lợi nhằm tăng thời gian sử dụng lao động. Thứ hai, các chương trình phát triển công nghiệp và dịch vụ Phát triển công nghiệp và dịch vụ đóng vai trò quyết định đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, nâng cao chất lượng lao động và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Theo định hướng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2001-2005, trong lĩnh vực việc làm cần chú trọng các chương trình: - Chương trình xây dựng và phát triển các khu công nghệ cao, chủ yếu ở các vùng kinh tế động lực, các đô thị lớn, thu hút lao động có trình độ cao để tăng sức cạnh tranh. - Chương trình xây dựng và phát triển các trung tâm văn hoá, thể thao, các khu du lịch. - Các công trình kinh tế-xã hội trọng điểm của Nhà nước: đường Hồ Chí Minh, thuỷ điện Sơn La, hoá dầu Dung Quất, sân bay, bến cảng,... thu hút nhiều lao động. Thứ ba, các chương trình mở rộng, phát triển làng nghề, xã nghề, phố nghề, các doanh nghiệp vừa và nhỏ tạo việc làm mới và việc làm thêm cho người lao động, từng bước rút dần lao động nông thôn ra khỏi khu vực nông nghiệp. 2.8 Đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu lao động giải quyết việc làm Trong tình hình nước ta hiện nay, xuất khẩu lao động là một giải pháp mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội. Những năm gần đây, mỗi năm Việt Nam xuất khẩu được hơn 30.000 lao động, góp phần giải quyết tình trạng thất nghiệp. Đối với người lao động, việc đi xuất khẩu lao động giúp họ có nguồn thu nhập cao, tích luỹ vốn để cải thiện đời sống và điều kiện làm việc. Đối với Nhà nước, xuất khẩu lao động trong thời gian qua đã giảm được khoản đầu tư trong nước cho việc đào tạo nghề và tạo việc làm, đồng thời nguồn ngoại tệ quốc gia cũng được bổ sung hơn 1 tỷ USD mỗi năm do người lao động chuyển về nước. Tuy vậy, hoạt động xuất khẩu nước ta đang gặp nhiều khó khăn. Về mặt khách quan, sự cạnh tranh giữa các quốc gia tại các thị trường tiếp nhận lao động ngày càng gay gắt. Về mặt chủ quan, hoạt động này của Việt Nam còn nhiều hạn chế về chất lượng lao động, cơ chế, chính sách, sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan chức năng đối với các doanh nghiệp làm công tác xuất khẩu lao động,...Vì vậy, để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu trong thời gian tới, một số giải pháp đưa ra là: -Hoàn thiện hệ thống văn bản về xuất khẩu lao động, ban hành sửa đổi, bổ sung những cơ chế chính sách cho phù hợp với sự vận động của thị trường, đó là chính sách đầu tư phát triển thị trường cần có các quy định về tái đầu tư cho các doanh nghiệp xuất khẩu lao động từ nguồn thuế doanh nghiệp phải nộp từ hoạt động xuất khẩu lao động trong 5 năm. Hỗ trợ cho doanh nghiệp từ Quỹ đầu tư phát triển thị trường của Bộ, ngành, địa phương. Thêm vào đó, Nhà nước cần tiếp tục bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách nhất là cơ chế về tài chính để nâng cao khả năng hoạt động và tạo sự chủ động cho doanh nghiệp xuất khẩu, ví dụ cho phép các doanh nghiệp áp dụng phí môi giới theo thông lệ quốc tế tuỳ tình hình thị trường. -Việc sắp xếp và tổ chức lại các doanh nghiệp xuất khẩu lao động dựa trên cơ sở hoạt động của các doanh nghiệp (các tiêu chí về chất lượng tuyển chọn, đào tạo, giáo dục định hướng cho lao động và các bộ quản lý lao động ở nước ngoài, chấp hành chế độ tài chính, chế độ đăng ký hợp đồng, chế độ báo cáo, quy mô lao động đi từng thị trường,..). Tiến hành thanh tra kiểm tra, kiểm tra định kỳ hoạt động của các doanh nghiệp xuất khẩu lao động. Các Bộ, ngành, địa phương chủ quản cần lựa chọn sắp xếp lại doanh nghiệp xuất khẩu lao động đảm bảo số lượng phù hợp nhưng chất lượng cao. -Tăng cường trách nhiệm của các Bộ, ngành, địa phương trong xây dựng, quản lý, chỉ đạo hoạt động của các doanh nghiệp xuất khẩu lao động. Đầu tư về cơ sở vật chất và cán bộ, đáp ứng nhiệm vụ mở cửa thị trường và quản lý hoạt động xuất khẩu lao động. Quản lý, kiểm tra, kiểm soát hoạt động của các doanh nghiệp xuất khẩu lao động. Chỉ đạo, xử lý các vướng mắc, vi phạm của doanh nghiệp, phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý các hiện tượng tiêu cực. KẾT LUẬN Khu vực hoá và toàn cầu hoá là hai xu hướng nổi bật trong quan hệ kinh tế quốc tế của vài thập kỷ qua. Mặc dù hai xu hướng này có tác động không giống nhau đến từng khu vực và mỗi quốc gia nhưng không một khu vực , quốc gia nào trên thế giới có thể đứng ngoài hai xu hướng này. Quá trình hội nhập kinh tế sẽ tạo ra những cơ hội và thuận lợi lớn mà nếu các quốc gia biết tranh thủ, khai thác sẽ thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Do vậy, các quốc gia đều nỗ lực hoà nhập vào xu thế chung với mục đích tận dụng tối đa sự hợp tác quốc tế để tăng cường sức mạnh dân tộc. Xu thế khu vực hoá và toàn cầu hoá ngày càng mạnh mẽ cũng đã và đang khuyến khích sự ra đời của các liên minh tiền tệ. Sau sự ra đời của Liên minh tiền tệ châu Âu, lý thuyết và thực tiễn đều cho thấy rằng ở ASEAN có thể hình thành một liên minh tiền tệ. Nhưng cho dù ASEAN đã có những tiền đề cần thiết để hình thành một liên minh tiền tệ và nhận thức được rõ những lợi ích mà việc tham gia vào một liên minh tiền tệ như vậy đem lại thì con đường để tiến tới một liên minh tiền tệ thành công rõ ràng vẫn rất chông gai. Châu Âu đã phải mất gần nửa thế kỷ để vượt qua những khó khăn và hình thành một liên minh như thế. ASEAN cũng sẽ phải đối mặt với những thách thức không kém phần to lớn. Nhưng cũng cần nhớ rằng nếu như các nước châu Âu đã phải mất hàng thế kỷ để công nghiệp hoá thành công thì nhiều nước ASEAN chỉ phải mất vài thập kỷ để hoàn thành công việc đó. Tương tự như vậy, chúng ta có thể hy vọng rằng con đường tiến tới một liên minh tiền tệ ASEAN sẽ không quá dài như với EMU. Bất chấp những tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực, AFTA sẽ vẫn được hoàn thành theo đúng lịch trình đã đề ra, thậm chí còn sớm hơn so với mốc năm 2008 ban đầu. Cùng với AFTA, Sáng kiến Chiang Mai là những bước tiến đầu tiên tới một liên minh tiền tệ trong tương lai, mặc dù ở giai đoạn này, các nước ASEAN vẫn được phép theo đuổi các mục tiêu và áp dụng các chính sách kinh tế độc lập với nhau, đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ. Quá trình hình thành một liên minh tiền tệ nhất thiết sẽ lâu dài và bao gồm nhiều giai đoạn. Các nước ASEAN mới chỉ đi những bước đầu tiên nhưng với kinh nghiệm của EU và khả năng "rút ngắn thời gian" của khu vực này, đồng tiền chung ASEAN chắc chắn sẽ không phải là một đích đến quá xa.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc8095.doc