Đề tài Khả năng vận dụng một số kinh nghiệm về công nghiệp hóa của Malaixia vào Việt Nam

Luận án đã làm rõ một số thay đổi cơ bản trong nhận thức của Đảng ta về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đối với sự phát triển kinh tế của đất nước thời kỳ đổi mới và một số thành công, hạn chế trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta thời gian gần đây. Luận văn cũng làm rõ một số điểm tương đồng khác biệt giữa Việt Nam và Malaixia khi bước vào công nghiệp hóa. Trên cơ sở đó, luận văn đã trình bày khả năng vận dụng một số bài học kinh nghiệm của Malaixia nhằm đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam theo xu hướng hội nhập và phát triển bền vững. Nghiên cứu về công nghiệp hóa ở Malaixia trong thời kỳ 1957 - 1995, với mục đích rút ra những bài học kinh nghiệm có khả năng vận dụng vào Việt Nam, tác giả của luận văn đã hoàn thành những công việc sau: - Hệ thống hóa, góp phần làm rõ thêm những vấn đề lý luận về công nghiệp hóa, hiện đại hóa và các mô hình công nghiệp hóa đã và đang được áp dụng ở các nước đnag phát triển. Đó là những vấn đề khái niệm công nghiệp hóa và mối quan hệ giữa công nghiệp hóa và hiện đại hóa, bản chất, đặc trưng của công nghiệp hóa và tính tất yếu của công nghiệp hóa với các nước đang phát triển. Luận văn đã xem xét các mô hình công nghiệp hóa đã và đang được áp dụng ở các nước đang phát triển ở các giác độ mục tiêu, chính sách, kết quả và hạn chế. Từ đó, luận văn làm rõ thêm những vấn đề lý luận và thực tiễn của quá trình công nghiệp hóa ở các nước đang phát triển. Nó là cơ sở cho sự lựa chọn chiến lược công nghiệp hóa, cho việc hoạch định chính sách và các giải pháp thực thi công nghiệp hóa. Trong bối cảnh quốc tế hóa, toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới hiện nay, những thách thức đặt ra trong công nghiệp hóa luôn buộc các nước đang phát triển phải có sự điều chỉnh chiến lược công nghiệp hóa phù hợp. - Nghiên cứu thực trạng công nghiệp hóa ở Malaixia, luận văn đã làm rõ động thái phát triển kinh tế của Malaixia dưới tác động của công nghiệp hóa qua từng giai đoạn cụ thể và trong sự điều chỉnh chiến lược về công nghiệp hóa. Đó là cơ sở để luận văn rút ra một số bài học kinh nghiệm chủ yếu từ công nghiệp hóa của Malaixia. Đó là việc lựa chọn chiến lược trong công nghiệp hóa; lấy nông nghiệp tạo tiền đề phát triển công nghiệp trong công nghiệp hóa; tạo lập môi trường thuận lợi thu hút đầu tư nước ngoài; tăng cường vai trò nhà nước trong công nghiệp hóa; tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với sự bền vững trong phát triển. - Luận án đã làm rõ một số thay đổi cơ bản trong nhận thức của Đảng ta về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đối với sự phát triển kinh tế của đất nước thời kỳ đổi mới và một số thành công, hạn chế trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta thời gian gần đây. Luận văn cũng làm rõ một số điểm tương đồng khác biệt giữa Việt Nam và Malaixia khi bước vào công nghiệp hóa. Trên cơ sở đó, luận văn đã trình bày khả năng vận dụng một số bài học kinh nghiệm của Malaixia nhằm đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam theo xu hướng hội nhập và phát triển bền vững. Để tăng thêm tính khả thi trong vận dụng một số kinh nghiệm của Malaixia vào điều kiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay, luận văn có một số kiến nghị sau: - Chú trọng xây dựng thể chế, chính sách, luật pháp nhằm tạo môi trường thuận lợi cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa. - Xây dựng nhà nước vững mạnh để điều hành tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Do vậy, cần tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ nhà nước từ trung ương đến địa phương, thuộc các ngành các cấp. - Chú trọng kết hợp phát huy nội lực và ngoại lực để đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; chú trọng khai thác lợi thế so sánh; chú trọng gắn tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội; đồng thời kết hợp tốt giữa công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu và thay thế nhập khẩu, trong đó lấy hướng về xuất khẩu làm trọng tâm. - Chú trọng đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn với việc tăng cường đầu tư cơ sở vật chất - kỹ thuật hơn nữa và thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, nông thôn theo hướng sản xuất hàng hóa.

docx95 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1721 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Khả năng vận dụng một số kinh nghiệm về công nghiệp hóa của Malaixia vào Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
năng thực tế" [31]. Từ những kinh nghiệm thực tiễn công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thời gian qua, Đảng ta chủ trương: "Không lặp lại những mô hình công nghiệp hóa cổ điển, mà tự tìm lấy một mô hình phù hợp với hoàn cảnh đất nước và điều kiện thế giới ngày nay" [1]. Đại hội VI của Đảng đã xác định trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo "trước mắt là trong kế hoạch 5 năm (1986 - 1990) phải thật sự tập trung sức người, sức của vào việc thực hiện cho được 3 chương trình mục tiêu về lương thực thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu" [31]. Những chủ trương chính sách và biện pháp đổi mới của Đảng ta từ sau đại hội VI, đặc biệt là sau đại hội VII đã tạo ra những chuyển biến bước đầu rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế đất nước. Tuy nhiên, nền kinh tế phát triển chưa vững chắc và có nguy cơ tụt hậu so với nhiều nước trên thế giới và khu vực. Đứng trước thực trạng đó, Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành trung ương Đảng khóa VII và sau đó Đại hội VIII, IX của Đảng xác định đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa , thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hội nhập quốc tế, đồng thời đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế cao, bền vững. Do vậy, mục tiêu đến năm 2020 với nước ta là ra sức phấn đấu để cơ bản trở thành một nước công nghiệp: "Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hóa, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường; kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường an ninh - quốc phòng" [31]. Như vậy, công nghiệp hóa trước đây và hiện nay đều thống nhất về mục tiêu và định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo đường lối đổi mới rất khác về phương thức tiến hành so với trước đây. Có thể nói, phương thức tiến hành công nghiệp hóa hiện nay được xem là bước phát triển mới trong nhận thức của Đảng ta về công nghiệp hóa, phù hợp với đặc điểm của nước ta và bối cảnh quốc tế hiện nay. - Trước đây công nghiệp hóa được tiến hành theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu với các chỉ tiêu pháp lệnh, thì ngày nay, nó được tiến hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước. Để đảm bảo thành công, nhà nước một mặt phải tạo điều kiện cho mọi chủ thể, mọi thành phần kinh tế được tham gia vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa được quyền tự do sản xuất kinh doanh theo pháp luật, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, hợp pháp, hạn chế tối đa độc quyền sản xuất kinh doanh. Mặt khác, do cơ chế thị trường luôn chứa đựng những mặt tiêu cực vốn có của nó, để đảm bảo cho công cuộc công nghiệp hóa nói riêng, nền kinh tế nói chung phát triển nhanh, bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa, việc tăng cường vai trò điều hành quản lý của Nhà nước là rất quan trọng. Nhà nước phải có những biện pháp quản lý dựa trên cơ sở kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể và quốc gia, phải tạo môi trường và hành lang pháp lý ổn định, an toàn cho hoạt động kinh tế, nhà nước hướng dẫn và hỗ trợ cho đầu tư phát triển chủ động hình thành cơ cấu công nghiệp hợp lý đáp ứng mục tiêu của công nghiệp hóa ở nước ta là xây dựng xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. - Công nghiệp hóa trước đây theo xu hướng khép kín, tự cung tự cấp thì ngày nay công nghiệp hóa được tiến hành theo hệ thống kinh tế mở, hướng mạnh về thị trường khu vực và thế giới, vừa tăng cường xuất khẩu vừa thay thế nhập khẩu có hiệu quả. Công nghiệp hóa trước đây được tiến hành nhằm mục tiêu chính là nâng cao khả năng tự đáp ứng các nhu cầu của sản xuất và đời sống ở trong nước. Do đó, vấn đề đầu tiên là phải ưu tiên phát triển công nghiệp nặng để tự giải quyết các nhu cầu về vật tư, trang bị kỹ thuật thay thế nhập khẩu, phải phát triển cùng một lúc mọi ngành công nghiệp và xem đó là phương án tối ưu để xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ không lệ thuộc bên ngoài. Xu hướng khép kín, tự túc tự cấp còn được thể hiện trong cơ cấu sản xuất và đầu tư ở từng ngành, từng địa phương thậm chí ngay cảng từng cơ sở sản xuất. Do không tính đến điều kiện và khả năng thực tế của đất nước, nguồn vốn đầu tư bị dàn trải nên hiệu quả đầu tư thấp. Công nghiệp hóa ngày nay được tiến hành theo quan điểm xây dựng nền kinh tế mới tăng cường hợp tác và hội nhập với kinh tế thế giới trên cơ sở đó, khai thác tối đa lợi thế so sánh của Việt Nam trong phân công lao động quốc tế, đồng thời thông qua xuất nhập khẩu để thu hút vốn công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến của nước ngoài phục vụ cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Do vậy, nhiều vấn đề mới nảy sinh không chỉ ở biện pháp, chính sách mà còn ở quy hoạch phát triển. - Trước 1986, trong mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương xây dựng một nền kinh tế thuần khiết, chủ yếu dựa vào hai thành phần kinh tế cơ bản là kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể nên hầu như mọi nguồn vốn cho công nghiệp hóa chỉ dựa vào nguồn đầu tư của Nhà nước, thông qua khu vực quốc doanh và tập thể. Vì vậy, trên thực tế từ cơ sở hạ tầng đến các đơn vị sản xuất kinh doanh, kể cả nhà ở đô thị đều do Nhà nước đầu tư. Kể từ đại hội VI đến nay, Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Thực hiện nhất quán chủ trương này, công nghiệp hóa, hiện đại hóa được coi là sự nghiệp của toàn dân với sự tham gia của tất cả các thành phần kinh tế. Do đó, nguồn lực phục vụ cho công nghiệp hóa dựa vào việc phát huy tiềm năng của mọi thành phần kinh tế. Bên cạnh đó, nguồn vốn nước ngoài cũng được xác định là một yếu tố đóng vai trò quan trọng. Phương châm đa dạng hóa, đa phương hóa kinh tế đối ngoại nhằm mở rộng đối tác đầu tư và các hình thức thu hút vốn nước ngoài. - Trong quá trình công nghiệp hóa trước đây chúng ta chưa chịu sức ép của cách mạng khoa học - kỹ thuật ghê gớm như ngày nay. Hiện nay đất nước luôn bị đặt trước nguy cơ tụt hậu về khoa học - công nghệ. Do vậy, phải xác định khoa học - công nghệ là yếu tố quan trọng hàng đầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tuy nhiên ở xuất phát điểm thấp. Việt Nam không thể đầu tư và phát triển cùng một lúc những kỹ thuật và công nghệ hiện đại, mà phải lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản cho việc lựa chọn. Do đó, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta là phải kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại, đồng thời tranh thủ đi nhanh, đi thẳng vào công nghệ hiện đại ở những khâu, những ngành có vai trò quyết định, tác động mạnh mẽ và sâu sắc đến sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. - Nhằm đả bảo sự phát triển bền vững của đất nước, công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày nay không phải chỉ tập trung cho công nghiệp mà song song với quá trình đó phải thúc đẩy nông nghiệp phát triển. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa còn được tiến hành trên cơ sở sử dụng tài nguyên hợp lý, có hiệu quả để xây dựng đất nước phát triển một cách bền vững. Như vậy, công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo đường lối đổi mới của Đảng đánh dấu bước phát triển quan trọng về nhận thức. Trong công nghiệp hóa, nước ta đi sau nhưng không nhất thiết phải tuần tự theo các bước mà các nước công nghiệp đã trải qua. Con đường đó là sự kết hợp đồng thời nhiều trình độ công nghệ, vừa bước đi tuần tự, vừa hết sức tranh thủ công nghệ hiện đại để đi tắt theo điều kiện cho phép. Chúng ta tranh thủ tối đa khả năng heịen đại hóa, song sự lựa chọn công nghệ theo tiêu chuẩn hiệu quả phải phù hợp với điều kiện thực tế, chưa thể bỏ qua hoàn toàn công nghệ truyền thống và những bước cơ giới hóa. Đồng thời cần huy động tối đa nguồn nội lực và ngoại lực trong phát triển và hội nhập quốc tế. 3.1.2. Một số kết quả chủ yếu và hạn chế trong công nghiệp hóa ở nước ta 3.1.2.1. Một số kết quả chủ yếu Công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và mở cửa nền kinh tế đã huy động được mọi tiềm năng kinh tế trong và ngoài nước cho đầu tư phát triển. Thời gian qua, nguồn vốn đầu tư xã hội tăng lên, đặc biệt từ sau năm 1990 khi quan hệ kinh tế quốc tế đã được khai thông và luật đầu tư nước ngoài đã phát huy tác dụng. Bảng 8: Cơ cấu vốn đầu tư xã hội 1991 - 2000 (%) Năm Từ ngân sách Nhà nước (*) Doanh nghiệp nhà nước Tư nhân và dân cư Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 29,8 35,3 38,5 24,1 25,6 28,2 31,7 36,9 37,1 37,0 14,5 5,2 7,5 12,5 9,7 10,7 14,0 16,7 17,1 17,0 47,0 44,6 31,6 34,1 30,8 26,9 22,8 21,3 21,8 21,5 9,7 15,0 21,4 29,4 33,9 34,1 31,5 25,1 24,0 24,5 Nguồn: Bộ Kế hoạch và đầu tư; (*) Đầu tư từ ngân sách Nhà nước tính cả ODA và tín dụng nhà nước. Quá trình công nghiệp hóa trong thời kỳ đổi mới ở nước ta đã đem lại những biến đổi quan trọng trong sự phát triển kinh tế đất nước, tạo đà cho công cuộc đổi mới tiếp tục đi vào chiều sâu và đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế. Do vậy, vào những năm 90, kết quả về tăng trưởng kinh tế của Việt Nam vẫn đạt mức cao hơn so với nhiều nước trên thế giới và khu vực. Tính chung cả giai đoạn 1991 - 2000, Việt Nam đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 7,45%. Bảng 9: Tốc độ tăng trưởng kinh tế qua các giai đoạn (%) 1986 - 1990 1991- 1995 1996 - 2000 1991 - 2000 GDP Công nghiệp Nông nghiệp Dịch vụ 3,9 6,0 3,6 6,1 8,2 12,7 4,3 9,0 6,7 10,4 3,6 5,3 7,45 11,6 3,96 7,1 Nguồn: Tổng hợp theo niên giảm thống kê Kết quả ấy, trước hết nhờ bố trí lại cơ cấu kinh tế, điều chỉnh lại cơ cấu đầu tư, xác định lại vị trí ưu tiên của các ngành sản xuất, tăng cường vốn đầu tư từ các nguồn khác nhau (ngoài ngân sách nhà nước) cho nên cơ cấu nền kinh tế quốc dân đã có sự chuyển dịch hợp lý hơn, khắc phục một bước tình trạng đơn điệu, mất cân đối, trái với quy luật phát triển chung của những nước tiến hành công nghiệp hóa từ xuất phát điểm thấp. Hai là, cơ cấu nội bộ ngành công nghiệp cũng có sự điều chỉnh tương đối hợp lý. Công nghiệp nói chung phát triển theo hướng gia tăng tương đối tỷ trọng các ngành công nghiệp chế biến, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, trong khi vẫn duy trì được một số ngành công nghiệp nặng có tác dụng tích cực đối với nền kinh tế. Ba là, trong những năm tiến hành đổi mới, nhờ có chính sách đẩy mạnh các hoạt động kinh tế đối ngoại, đặc biệt là việc ban hành luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (12/1987), mở rộng giao lưu hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật với nhiều nước trên thế giới, trình độ khoa học công nghệ của Việt Nam đã có bước phát triển tích cực, cho phép nước ta bắt đầu đầu tư theo chiều sâu đối với một số xí nghiệp, một số ngành và lĩnh vực nhất định, đặc biệt đối với một số ngành công nghiệp nhẹ như dệt, may mặc, giầy da… Bốn là, sản xuất công nghiệp đã đạt tốc độ tăng trưởng khá cao và liên tục góp phần quan trọng vào việc khắc phục tình trạng khủng hoảng kinh tế, xã hội đồng thời tạo tiền đề phát triển cho những năm sau. Thời gian qua, công nghiệp hóa, hiện đại hóa tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh tỷ trọng của công nghiệp, tỷ trọng nông nghiệp trong nền kinh tế giảm. Năm 1986, nông nghiệm chiếm 34,7%, công nghiệp chiếm 26,8% và dịch vụ chiếm 38,5% trong GDP; năm 2000 nông nghiệp giảm xuống chiếm 24,2%, công nghiệp tăng lên 36,9% và dịch vụ là 38,9% trong GDP. Như vậy, cơ cấu kinh tế mới đã hình thành và động tái chuyển dịch cơ cấu kinh tế phản ánh xu hướng tích cực của các nước vốn có nền kinh tế ở điểm xuất phát thấp đang vươn lên trong công nghiệp hoá. Bảng 10: Cơ cấu ngành trong GDP (%) 1986 1990 2000 Nông nghiệp 34,7 32,0 24,2 Công nghiệp 26,8 25,2 36,9 Dịch vụ 38,5 42,8 38,9 Nguồn: Trần Văn Thọ, Kinh tế Việt Nam 1955 - 2000, tr. 298 và Tổng cục Thống kê. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa góp phần thúc đẩy hoạt động xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu hàng năm cũng tăng nhanh, năm 1991 là 2.087 triệu USD, năm 2000 là 14,308 triệu USD [28]. Nhìn chung tốc độ tăng trưởng của xuất khẩu hàng năm cao hơn so với tốc độ tăng trưởng kinh tế và ngoại thương thực sự đã trở thành động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Bảng 11: Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu so với tăng trưởng kinh tế của Việt Nam 1992 - 2000 (%) Năm 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 Xuất khẩu 23,6 15,7 35,8 34,4 33,2 26,6 19,0 23,1 19,6 GDP 8,6 8,1 8,8 9,5 9,3 8,8 5,8 4,8 6,7 Nguồn: Trần Văn Thọ, kinh tế Việt Nam 1955 - 200… NXB Thống kê, tr.185. Như vậy, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã thu được một số thành tựu cơ bản. Đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội. Sản xuất đã cơ bản đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng và giành một phần tích lũy. Năm 1986, tiêu dùng cuối cùng ở mức 98,8% của GDP; năm 1999, tiêu dùng cuối cùng chỉ bằng 3/4 GDP. Hạ tầng kinh tế - kỹ thuật trong nền kinh tế được tăng cường. Những kết quả đạt được đã tạo ra thế và lực mới cho kinh tế Việt Nam bước vào thế kỷ XXI với mục tiêu đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 3.1.2.2. Những hạn chế Bên cạnh những thành tựu kinh tế đạt được, nền kinh tế Việt Nam cũng bộc lộ không ít hạn chế: - Tăng trưởng kinh tế nước ta thời gian qua còn phụ thuộc nhiều vào vốn từ nước ngoài (chiếm hơn 1/3 tổng số vốn đầu tư toàn bộ xã hội), mà chưa thực sự tăng trưởng dựa trên đổi mới công nghệ thiết bị, sức cạnh tranh của hàng hóa, năng lực quản lý, tiếp thị…. - Cơ cấu kinh tế đã diễn ra sự chuyển dịch nhưng do ảnh hưởng của một số nhân tố chủ quan, khách quan nên sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế vẫn chưa đạt được ý đồ mong muốn, nông nghiệp còn chiếm một tỷ trọng lớn trong GDP. Nông nghiệp tuy tăng trưởng ổn định nhưng cơ cấu biến đổi chậm. Công nghiệp tuy tỷ trọng có tăng, nhưng sự yếu kém còn thể hiện khá rõ ở năng suất, chất lượng và hiệu quả. Do vậy, sự phát triển chêch lệch kinh tế giữa các vùng, sự chênh lệch về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư còn khá lớn. - Kinh tế Việt Nam tuy có đạt được tốc độ tăng trưởng cao so với một số nước trong khu vực nhưng chưa thật vững chắc. Nhiều ngành sản xuất, chất lượng sản phẩm chưa đáp ứng nhu cầu cạnh tranh trên thị trường thế giới và khu vực. - Vấn đề giải quyết việc làm và thu nhập với một bộ phận khá lớn dân cư đang là vấn đề khó khăn, đặc biệt là ở các vùng nông thôn nơi sinh sống của gần 80% cư dân cả nước. Tóm lại, những hạn chế trên cho thấy, hiện nay thách thức gay gắt nhất đối với nước ta là phải nâng cao được chất lượng của sự tăng trưởng, thể hiện ở hiệu quả và sức cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ của các ngành kinh tế cũng như toàn bộ nền kinh tế Việt Nam, trước hết phải tập tủng ở ngành công nghiệp. Điều này đang là một khó khăn rất lớn với công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước ta trong điều kiện hội nhập quốc tế khi thị trường thế giới gần như phân chia xong và Việt Nam cũng là nước đi sau bước chân vào thị trường thế giới. Do vậy, những vấn đề cần chú trọng giải quyết là lựa chọn chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa phù hợp gắn với việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng năng động, hiệu quả. Đồng thời trong đa dạng hóa sản phẩm xuất khẩu, cần tạo sản phẩm xuất khẩu chủ yếu và nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường quốc tế. 3.2. Một số điểm tương đồng và khác biệt của Việt Nam và Malaixia khi thực hiện công nghiệp hóa. Mấy thập kỷ qua, Malaixia cũng như hầu hết các nước đang phát triển lần lượt tiến hành công nghiệp hóa. Ở các nước đang phát triển công nghiệp hóa có sự đa dạng về mô hình với những thành công và hạn chế trong triển khai. Malaixia là nước đã thu được những thành công trong công nghiệp hóa và đang chuẩn bị gia nhập hàng ngũ các nước công nghiệp mới. Việc xem xét những điểm tương đồng và khác biệt giữa Việt Nam và Malaixia khi thực hiện công nghiệp hóa sẽ là điều kiện cần thiết để chúng ta tiếp thu có chọn lọc một số kinh nghiệm của Malaixia trong quá trình tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo đường lối đổi mới của Đảng hiện nay. 3.2.1. Tính tương đồng - Việt Nam và Malaixia là những quốc gia nằm ở vùng Đông Nam Á trước đây đều là thuộc địa của chủ nghĩa thực dân. Hai nước sau khi giành được độc lập, phải gánh chịu những di sản kinh tế nặng nề do chủ nghĩa thực dân để lại. Nền kinh tế trong trạng thái nghèo nàn, lạc hậu. Kinh tế nông nghiệp là chủ yếu, công nghiệp nhỏ bé, cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế yếu kém. Có thể nói đó là khó khăn lớn nhất khi bước vào công nghiệp hóa của Việt Nam và Malaixia. - Việt Nam và Malaixia là những nước có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, có tiềm năng nông nghiệp, có nguồn lao động dồi dào. Đó là một thuận lợi rất lớn cho công nghiệp hóa. Hai nước đều nằm ở vùng châu Á - Thái Bình Dương, là một trong những trung tâm kinh tế phát triển năng động của thế giới. Tác động từ sự phát triển của khu vực sẽ ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế của hai nước. - Việt Nam và Malaixia tiến hành công nghiệp hóa trong bối cảnh cách mạng khoa học kỹ thuật thời đại đang diễn ra mạnh mẽ, cùng tiến hành mở cửa hội nhập quốc tế, cùng phát triển kinh tế thị trường. Đó là điều kiện thuận lợi cho hai nước tiến hành công nghiệp hóa có thể tiếp thu được những thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến của thời đại để rút ngắn tiến trình công nghiệp hóa; đồng thời việc mở cửa nền kinh tế tạo điều kiện cho việc tiếp nhận vốn, công nghệ từ đầu tư của nước ngoài. Bên cạnh đó, việc mở cửa nền kinh tế còn tạo điều kiện mở rộng xuất khẩu, thúc đẩy sự phát triển kinh tế trong nước. - Việt Nam và Malaixia hiện nay đều là những thành viên của ASEAN, đang tích cực tham gia vào hợp tác kinh tế khu vực. Sự phát triển và ổn định kinh tế - xã hội của mỗi nước đều có tác động tích cực đến tình hình các nước trong khu vực. Trong quá trình hội nhập AFTA, cả hai nước đều hướng tới mục tiêu tự do hóa thương mại khu vực. 3.2.2. Những điểm khác biệt - Malaixia tiến hành mở cửa và phát triển kinh tế thị trường sớm hơn Việt Nam. Do vậy, đã thu hút được đầu tư mạnh mẽ cả trong nước và nước ngoài. Đặc biệt trong thời kỳ thế giới hình thành hai hệ thống xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa, Malaixia đã được sự hỗ trợ về kinh tế - kỹ thuật của thế giới tư bản. Kinh tế Malaixia đã sớm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng xuất khẩu. Malaixia đã sớm hội nhập vào thị trường thế giới rộng lớn. Việt Nam từ năm 1986 mới thực hiện chính sách mở cửa và phát triển kinh tế thị trường. Do vậy, việc tận dụng những cơ hội thuận lợi về vốn, công nghệ, thị trường cho công nghiệp hóa có nhiều khó khăn hơn so với Malaixia. - Về thể chế chính trị và định hướng thị trường. Malaixia là nước theo thể chế dân chủ dựa trên chế độ chính trị đa nguyên và đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Malaixia là nước sớm phát triển nền kinh tế theo hướng thị trường tự do Ở Việt Nam, Đảng cộng sản luôn giữ vai trò lãnh đạo đối với toàn bộ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Từ năm 1986, Việt Nam thực hiện đổi mới, mở cửa nền kinh tế. Từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung chuyển sang nền kinh tế thị trường cùng với quá trình mở cửa đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ quốc tế nhưng Việt Nam vẫn kiên trì đi theo con đường của chủ nghĩa xã hội. Nhìn chung, khi tiến hành công nghiệp hóa, xét về phương diện kinh tế xã hội, tự nhiên và các mối quan hệ kinh tế quốc tế ta dễ dàng nhận thấy những nét tương đồng và khác biệt giữa Việt Nam và Malaixia. Đó chính là cơ sở cho việc tiếp thu có chọn lọc một số kinh nghiệm của Malaixia trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay. 3.3. Một số kinh nghiệm về công nghiệp hóa của Malaixia có thể vận dụng vào Việt Nam Để hướng tới mục tiêu của Đảng, đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Từ thực trạng kinh tế đất nước, nhiều vấn đề cũng được đặt ra cần giải quyết trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Kinh nghiệm các nước cho thấy, con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta không thể sao chép một cách máy móc về hình thức và bước đi của các nước trên thế giới, trong đó có Malaixia. Nó phải được tính toán đầy đủ từ điều kiện kinh tế cụ thể trong nước, quốc tế và xu thế vận động phát triển của nền kinh tế thế giới ngày nay. Từ những kinh nghiệm trong công nghiệp hóa của Malaixia, Việt Nam có thể tham khảo một số bài học kinh nghiệm sau trong quá trình tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 3.3.1. Lựa chọn chiến lược công nghiệp hóa phù hợp Trong bối cảnh quốc tế mới, việc lựa chọn chiến lược công nghiệp hóa phù hợp là hết sức quan trọng, ví nó không chỉ đáp ứng nhu cầu tăng trưởng kinh tế mà còn đảm bảo các mục tiêu chính trị - xã hội đối với sự phát triển của đất nước. Trên thực tế, công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu không còn phù hợp vì nền kinh tế toàn cầu đang tiến gần đến sự vận hành như một guồng máy thống nhất. Bên cạnh đó, cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu á (1997) cho thấy công nghiệp hóa hướng ra xuất khẩu cũng không phải là hoàn toàn tối ưu. Vì sự lệ thuộc vào nguồn vốn, công nghệ, thị trường bên ngoài tiềm ẩn những rủi ro mà hậu quả không lường trước được. Từ kinh nghiệm của Malaixia cho thấy, với Việt Nam trong công nghiệp hóa đang đứng trước thực tế phải lựa chọn giữa công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu hay công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu. Thực tế, sự lựa chọn dựa nhiều vào các yếu tố bên trong hay dựa nhiều vào các yếu tố bên ngoài là tùy thuộc vào điều kiện của mỗi nước và những thay đổi trong đời sống kinh tế quốc tế. Kinh nghiệm cho thấy, dựa vào bất kỳ phía nào một cách thái quá cũng đều bất lợi. Vậy cần có sự bổ sung kinh tế nghĩa là bổ sung những nhân tố thiếu để kết hợp chúng với những nhân tố thiếu để kết hợp chúng với những nhân tố sẵn có bên trong các nước đang phát triển nhằm đạt tới hiệu quả tối đa xét cả về mặt kinh tế và xã hội. Việt Nam đang thiếu vốn, thiếu kỹ thuật tiên tiến, thiếu thị trường, vì vậy cần mở cửa nền kinh tế để tranh thủ những khả năng đó. Đồng thời để phát triển, trong công nghiệp hóa chúng ta cũng không thể coi trọng những lợi thế bên trong về lao động, tài nguyên và thị trường trong nước. Đảng ta đã chỉ rõ, công nghiệp hóa theo đường lối đổi mới hướng vào xây dựng hệ thống kinh tế mở trên cơ sở giao lưu thông suốt trên thị trường trong nước và hội nhập với kinh tế trên thế giới. Thực tế cho thấy: - Cơ cấu sản xuất và đầu tư tối ưu phải hướng vào những sản phẩm và dịch vụ tận dụng được lợi thế so sánh , có khả năng cạnh tranh, đáp ứng nhu cầu của thị trường trong và ngoài nước. Nhập khẩu nhiều không hẳn là lệ thuộc vào bên ngoài nếu cán cân thương mại quốc tế đi dần tới cân bằng và tiến tới xuất siêu. - Hướng mạnh về xuất khẩu, thực chất là đặc sản phẩm trong nước (kể cả hàng hóa và dịch vụ) trong quan hệ so sánh với sản phẩm của nước ngoài, buộc sản phẩm trong nước phải có sức mạnh cạnh tranh không chỉ trên thị trường quốc tế mà cả thị trường trong nước. Chỉ có hướng mạnh về xuất khẩu, nâng cao sức cạnh tranh, mới phát huy được lợi thế so sánh, mở rộng được thị trường trong nước và ngoài nước, đẩy nhanh đổi mới công nghệ và chuyển dịch cơ cấu kinh tế có hiệu quả. - Hướng về xuất khẩu không có nghĩa là coi nhẹ thị trường nội địa; hàng xuất khẩu được thì cũng đáp ứng được nhu cầu trong nước, cạnh tranh được với hàng nước ngoài trên thị trường nội địa; kim ngạch xuất khẩu tăng thì sức mua nội địa tăng, khả năng nhập khẩu cho sản xuất và đời sống trong nước cũng được nâng cao. Hướng về xuất khẩu không loại trừ việc thay thế nhập khẩu, nhưng không phải thay thế với bất cứ giá nào mà phải lựa chọn những mặt hàng sản xuất trong nước có hiệu quả, có sức cạnh tranh với hàng nước ngoài. Do vậy, trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay ở nước ta cần có những biện pháp để bảo vệ nền công nghiệp trong nước, nhất là những ngành công nghiệp non trẻ có nhiều triển vọng có xu hướng phát triển thành công trên thị trường thế giới. Thực tế, tự do hóa quan hệ kinh tế đối ngoại và bảo hộ công nghiệp trong nước là hai mặt không hề đối lập nhau, mà bổ sung cho nhau. Sự kết hợp giữa hai loại biện pháp đó đang là một thực tế ở một số nước đang phát triển. Vì vậy với nước ta, sự tồn tại song song, xen kẽ của hai chiến lược thay thế nhập khẩu và hướng về xuất khẩu sẽ cho phép chúng ta khai thác được những hạt nhân hợp lý của lý thuyết về lợi thế so sánh để mở rộng sự tham gia vào phân công lao động quốc tế, tranh thủ cơ hội phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Như vậy, thừa nhận tính tất yếu của chiến lược hướng về xuất khẩu, có thay thế nhập khẩu đóng vai trò bổ sung có nghĩa là xét về lâu dài thì hướng vào xuất khẩu sẽ là xu hướng chi phối nền kinh tế nước ta trong quá trình công nghiệp hóa. Việc bảo hộ một số ngành công nghiệp trong nước là cần thiết để tiến tới xây dựng một nền kinh tế quốc dân mạnh làm chỗ dựa vững chắc cho độc lập dân tộc. Tuy nhiên, hội nhập quốc tế khi cạnh tranh quốc tế ngày càng diễn ra gay gắt, công nghiệp hóa theo hướng hội nhập quốc tế trong bối cảnh tình hình kinh tế có nhiều biến động sẽ có những ảnh hưởng tích cực cũng như tiêu cực đến quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hoá ở nước ta. Do vậy: + Khi triển khai công nghiệp hóa cần kịp thời nắm bắt tình hình biến động của kinh tế thế giới để điều chỉnh sự phát triển kinh tế, sắp xếp cơ cấu kinh tế theo hướng năng động, hiệu quả nhằm phát huy tối đa lợi thế so sánh cũng như đảm bảo sự phát triển bền vững. Thực tế ấy chỉ ra rằng, nước ta cần phải kết hợp tốt công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu và công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu, thực hiện tăng trưởng bền vững theo hướng hội nhập quốc tế. Trong đó, công nghiệp hóa hướng vào xuất khẩu là trọng tâm, đóng vai trò quyết định và chi phối, còn thay thế nhập khẩu sẽ đóng vai trò bổ sung. + Phải tuân thủ quy luật phát triển khách quan của thị trường trong nước và ngoài nước, phải tính đến xu thế mới, tận dụng được thời cơ, vượt qua được thách thức để mở mang kinh tế đối ngoại, không thể bị lôi cuốn với bất cứ giá nào, trong đó ý thức tự lực tự cường, tự trang trải, tự hạn chế để tìm tòi từng bước đi vững chắc ổn định và điều tư phải giữ cho được. Như vậy, hội nhập vào đời sống kinh tế khu vực và thế giới phải trên cơ sở phát huy tới mức cao nhất nội lực và không thể bỏ quên thị trường nội địa. Phải khẳng định nước ta có một dung lượng thị trường với khoảng 80 triệu dân nên với ta vấn đề là cách sản xuất thay thế nhập khẩu phải được thực hiện như thế nào cho có hiệu quả và việc nhập khẩu được khuyến khích khi nó góp phần thúc đẩy sản xuất trong nước và cũng để tăng cường xuất khẩu. + Để rút ngắn giai đoạn phát triển, cần thực hiện chiến lược đi tắt đón đầu vào một số ngành công nghiệp mũi nhọn tạo động lực cho sự tăng trưởng kinh tế. Tính chiến lược của các ngành này được thể hiện qua các tiêu chuẩn sau: một là, phải có tốc độ tăng trưởng cao, có giá trị gia tăng cao và duy trì trong một thời gian dài, ít nhất là 5 năm, hay dài hạn hơn; hai là, chúng phải có tác động lan truyền quyết định và mang tính đột phá tới tăng trưởng của nhiều ngành và lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế; ba là, phải có hàm lượng công nghệ tiên tiến đảm bảo nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa trên thị trường, đồng thời có tác động đổi mới công nghệ tới nhiều ngành và nhiều lĩnh vực của nền kinh tế; bốn là, chúng có khả năng tạo ra nhiều việc làm cho xã hội. Đó có thể là các ngành như công nghệ sinh học, công nghệ thông tin, điện tử. + Để đẩy mạnh được xuất khẩu trong điều kiện cạnh tranh quốc tế gay gắt cần đa dạng hóa sản phẩm xuất khẩu đi đôi với việc xây dựng một số hàng hóa xuất khẩu chủ lực; tăng phần chế biến các hàng hoá xuất khẩu thô để tăng giá trị gia tăng cho hàng hóa, tăng hàm lượng lao động và công nghệ trong hàng hóa và cũng để tạo thêm việc làm nâng cao năng lực công nghệ trong nước. 3.3.2. Chú trọng phát triển nông nghiệp gắn với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn Kinh nghiệm của Malaixia cho thấy, nông nghiệp không phải là một ngành sản xuất độc lập hoàn toàn với các ngành sản xuất và các lĩnh vực khác, trái lại khi đã vượt qua ngưỡng sản xuất tự túc sang sản xuất hàng hóa theo xu hướng tiến triển của công nghiệp hóa thì mối quan hệ giữa nông nghiệp với các ngành kinh tế khác ngày càng chặt chẽ. Vấn đề này cần được xem xét và xử lý phù hợp. Trong suốt thời gian dài công nghiệp hóa ở Malaixia, nông nghiệp luôn được coi trọng là tiền đề cho phát triển công nghiệp trong bước đi ban đầu và khi cơ cấu kinh tế đã có sự thay đổi dưới tác động của công nghiệp hóa, Malaixia vẫn chú trọng đến phát triển nông nghiệp. Hiện nay, nước ta có trên 60% lao động làm nghề nông và 80% dân cư sống ở nông thôn. Sản xuất nông nghiệp, nông thôn nước ta về cơ bản còn mang tính chất sản xuất nhỏ, thủ công, lạc hậu và phân tán, trình độ phát triển kinh tế hàng hóa còn thấp kém. Thực tế ấy cho thấy, phát triển nông nghiệp nông thôn cũng là một vấn đề mấu chốt trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Để đưa nông thôn thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu vấn đề công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn đang là một trong những nội dung mà Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Nông thôn nước ta có nhiều tiềm năng, đó là nền nông nghiệp với nông, lâm, thủy sản, ngoài nông nghiệp nhiều vùng nông thôn. Tuy vậy, tự thân nông nghiệp và nông thôn không thể phát huy được những tiềm năng đó. Do vậy, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn cần phải có được sự tác động mạnh mẽ từ phía Nhà nước. Thực tế khu vực nông thôn không thể tự mình đổi mới công nghệ, tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật, giải quyết lao động dôi dư và nhiều vấn đề kinh tế - xã hội nảy sinh trong quá trình phát triển. Trong điều kiện đó, sự hỗ trợ của Nhà nước và các ngành kinh tế với phát triển nông nghiệp và nông thôn là điều kiện không thể thiếu được. Giải quyết được vấn đề này sẽ tạo ra những biến đổi trong đời sống kinh tế - xã hội nông thôn, đồng thời chính công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn sẽ tạo ra những điều kiện tiên đề có tính chất trọng yếu về kinh tế - xã hội cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Do vậy theo quan điểm của Đảng ta, nội dung công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn phải gắn liền với việc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế với phân công lại lao động ở nông thôn; phát triển thị trường nông thôn đặc biệt là chú trọng giải quyết vấn đề tiêu thụ nông phẩm, nông sản; thực hiện công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn cần tập trung phát triển sản xuất gắn với công nghiệp chế biến một số loại sản phẩm thiết yếu cho nhân dân. Trên cơ sở đó sẽ khai thác có hiệu quả tiềm năng to lớn về đất đai, rừng biển, tiềm năng lao động ở nông thôn và hướng nông thôn phát triển toàn diện, nâng cao chất lượng cuộc sống và tạo sự ổn định chính trị - xã hội nông thôn. Vì vậy: - Phát triển kinh tế nông thôn phải được đặt trong chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa của cả nước. Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, mục tiêu, nội dung và bước đi của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn cần phải được quán triệt không chỉ trong nhận thức mà trong mọi hoạt động của Nhà nước, của các ngành kinh tế đối với nông nghiệp. - Nhà nước cần có chính sách đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và tạo vốn cho phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Thực tế tỷ trọng vốn đầu tư xây dựng cơ bản cho nông nghiệp, nông thôn hiện nay còn nhiều hạn chế. Vì vậy, trong thời gian tới Nhà nước cần hỗ trợ tích cực hơn nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản. Bên cạnh đó, nhà nước cần cung cấp nguồn tín dụng trung hạn, dài hạn để hỗ trợ cho hoạt động sản xuất của nông thôn. Đồng thời Nhà nước cần có những biện pháp cụ thể về hỗ trợ kỹ thuật, chính sách trợ giá và cung cấp những thông tin kinh tế - kỹ thuật, thông tin về giá cả cho người sản xuất. Đặc biệt khi chuyển sang kinh tế thị trường, kinh tế nông thôn thường gặp nhiều trở ngại so với khu vực đô thị trong việc tiếp cận các loại thị trường khác nhau nên họ thường bị thua thiệt và cần có sự can thiệp của nhà nước. Điều đó cho thấy, cần có sự kết hợp hài hòa giữa mở mang thị trường với các chính sách kinh tế đối với nông thôn là điều kiện đảm bảo cho kinh tế nông nghiệp, nông thôn phát triển theo hướng bền vững và hiệu quả. Trước những vấn đề bất cập về sản xuất và tiêu thụ nông phẩm ở nông thôn hiện nay, Nhà nước cần tạo môi trường mở mang phát triển thị trường tiêu thụ nông phẩm, cùng với việc phát triển các dịch vụ sản xuất (chế biến, chuyển giao kỹ thuật, đào tạo ngành nghề kỹ thuật…) nhằm khuyến khích và nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất trong nông thôn. - Nhà nước cần có những biện pháp tích cực thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng sản xuất hàng hóa, tạo phân công lao động tại chỗ trên cơ sở đa dạng hóa ngành nghề nông thôn. Chính trên cơ sở đó sẽ tạo ra bước chuyển biến về phân công lao động xã hội nông thôn. Lao động nông nghiệp sẽ được chuyển dần sang hoạt động công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn. Điều đó sẽ giải quyết vấn đề bức xúc của nông thôn hiện nay, tình trạng dân số tăng nhanh, diện tích ruộng đất có hạn, thiếu việc làm, thu nhập thấp. - Nhà nước cần xây dựng các kế hoạch phát triển kinh tế nông thôn, gắn với việc quy hoạch ngành nghề, định hướng phát triển ngành nghề. Do vậy, phát triển công nghiệp nông thôn hiện nay cần tập trung vào các ngành tiểu thủ công nghiệp truyền thống; công nghiệp chế biến các sản phẩm nông, lâm, ngư nghiệp; công nghiệp sản xuất thức ăn gia súc; công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng và thi công xây dựng; các ngành nghề truyền thống, gia công hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, kể cả nhận gia công, chế tạo bộ phận, các chi tiết của sản phẩm cho xí nghiệp ở thành thị và khu công nghiệp tập trung. Đồng thời phát triển giao thông vận tải; dịch vụ thương mại, kỹ thuật cả đầu vào và đầu ra phục vụ sản xuất và tiêu dùng ở nông thôn. Kinh nghiệm cho thấy, cần xác định rõ thế mạnh và thế yếu của nông thôn so với đô thị để tập trung phát triển các ngành nghề mà công nghiệp nông thôn có khả năng phát triển ổn định, lâu dài, đem lại hiệu quả cao, như ngành nghề sử dụng nhiều lao động, cần ít vốn, sử dụng ít năng lượng và nguồn nguyên liệu sẵn có tại chỗ, quy mô sản xuất nhỏ… cho phù hợp với điều kiện của nông thôn, nhất là trong thời kỳ bắt đầu công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn. Từ đó sẽ góp phần cải thiện mức sống, chất lượng sống tại các vùng nông thôn và hạn chế dòng dân di cư quá mức từ nông thôn ra thành thị. 3.3.3. Tạo môi trường thuận lợi thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cho công nghiệp hóa. Vốn hay nguồn lực tài chính mặc nhiên được thừa nhận như là trung tâm của quá trình sản xuất vật chất trong tất cả các xã hội. Giống như mọi nguồn lực khác, vốn không phải là nguồn lực vô tận. Hơn nữa, sự khan hiếm nguồn lực tài chính còn tăng thêm bởi quá trình công nghiệp hóa ngày càng lan rộng ở các nước đang phát triển và bởi cả quá trình cơ cấu lại lực lượng sản xuất ở các nước công nghiệp phát triển. Nói chung, cầu về vốn thường lớn hơn cung về vốn. Tuy nhiên thế giới ngày nay, cụ thể hơn là đời sống kinh tế thế giới đang vận động theo xu hướng quốc tế hóa và toàn cầu hóa. Vì vậy, nền sản xuất thế giới đang diễn ra trên không gian rộng lớn, các nền kinh tế của các quốc gia có sự xâm nhập vào nhau. Trong bối cảnh ấy, các yếu tố của sản xuất vật chất vận động mạnh mẽ, di chuyển theo quy luật cung cầu của nền kinh tế thị trường, trong đó đặc biệt là vốn và công nghệ. Nhờ vậy mà tình trạng khan hiếm tương đối các nguồn lực giữa các quốc gia được giải quyết một phần đáng kể. Do đó, trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài luôn diễn ra sự cạnh tranh gay gắt, mà muốn vượt qua mỗi nước phải có những chính sách và giải pháp thu hút đầu tư nước ngoài đa dạng hơn. Kinh nghiệm Malaixia cho thấy, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế. Tuy vậy, cần thấy rằng bản chất của đầu tư trực tiếp nước ngoài là các hoạt động tìm kiếm lợi nhuận nên các nhà đầu tư rất quan tâm đến môi trường kinh doanh giúp đồng vốn của họ được sinh lời cao. Do đó, các nhà đầu tư nước ngoài rất chú ý đến các chính sách khuyến khích đầu tư và sự ổn định trong các chính sách của nước tiếp nhận đầu tư. Việt Nam bước vào công nghiệp hóa khi nền kinh tế còn ở điểm xuất phát thấp, nên khả năng tích lũy vốn cho đầu tư phát triển còn hạn chế. Để đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì nhu cầu về vốn đầu tư cho phát triển ngày càng tăng lên. Thực tế, giải quyết vấn đề này không dễ dàng. Trong thu hút và công nghệ từ đầu tư trực tiếp nước ngoài cần phải tính tới những điều kiện cụ thể của đất nước. Đó là tình trạng dư thừa lao động, thiếu việc làm, trình độ khoa học và công nghệ còn thấp. Đây chính là cơ sở cho việc định hướng và hoạch định chiến lược gọi vốn đầu tư nước ngoài vào từng lĩnh vực kinh tế, từng ngành kinh tế dưới nhiều hình thức. Do vậy từ 1987, Luật đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam được ban hành. Thời gian qua, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam đã tăng lên. Bên cạnh kết quả đạt được trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vẫn còn nhiều vấn đề bất cập nảy sinh ảnh hưởng đến kết quả thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Hiện nay, trong điều kiện cạnh tranh gay gắt ở khu vực và trên thế giới, Việt Nam cần có giải pháp mạnh mẽ hơn để là nơi hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Do vậy, chúng ta phải tích cực cải thiện môi trường đầu tư: - Trước hết là hoàn chỉnh luật pháp, đơn giản hóa thủ tục và bảo đảm thực hiện nghiêm minh, thống nhất, khắc phục tệ cửa quyền sách nhiễm làm nản lòng các nhà đầu tư, thực hiện tốt các ưu đãi về thuế, tín dụng, cơ sở hạ tầng đối với các đối tác đầu tư. - Cải tiến việc xét duyệt các dự án đầu tư, chú trọng nhiều đến tiến trình triển khai dự án, nâng cao tỷ lệ vốn đầu tư vào thực hiện. Tập trung xử lý dứt điểm và kịp thời các dự án đang được triển khai để củng cố lòng tin của các nhà đầu tư vào Việt Nam. - Đặc biệt coi trọng việc lựa chọn, đào tạo đội ngũ cán bộ đủ bản lĩnh tham gia quản lý các cơ sở liên doanh với nước ngoài và đội ngũ cán bộ, công nhân kỹ thuật đủ khả năng tiếp nhận, làm chủ công nghệ mới. - Mặt khác, muốn tiếp nhận và sử dụng có hiệu quả vốn bên ngoài cần có nguồn lực đối ứng trong nước. Kinh nghiệm Malaixia cho thấy, trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài cần chú ý sự lạm dụng vốn nước ngoài luôn tiềm tàng nguy cơ dẫn đến khủng hoảng. Vấn đề đặt ra cho chúng ta hiện nay là làm thế nào vừa thu hút được vốn nước ngoài phục vụ cho công nghiệp hóa mà tránh sự lệ thuộc về kinh tế. Nguồn lực trong nước không chỉ có vai trò quyết định ở ý nghĩa lâu dài mà còn là điều kiện không thể thiếu để thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn bên ngoài. Chính vì vậy, chúng ta cần có vốn trong nước, chúng ta cần có biện pháp tích cực để huy động và sử dụng tốt. Bên cạnh việc đảm bảo vững chắc khả năng kiềm chế lạm phát, thực hiện luật đầu tư trong nước sửa đổi, giải quyết ổn thỏa giữa phần tích lũy tập trung và ngân sách với nguồn tích lũy để lại cho các doanh nghiệp tái đầu tư thì những vấn đề cấp bách, nóng bỏng nhất cần quan tâm là đẩy mạnh tiến trình cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước; hình thành và phát triển thị trường vốn, thúc đẩy phát triển thị trường chứng khoán; thực hiện triệt để chủ trương tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham nhũng. - Đổi mới công tác xúc tiến đầu tư. Kinh nghiệm của Malaixia cho thấy việc xúc tiến đầu tư là biện pháp quan trọng để thu hút đầu tư trực tiếp. Thực tế cho thấy, khả năng và sự chuẩn bị của các đối tác Việt Nam để tham gia hợp tác liên doanh với nước ngoài còn nhiều hạn chế. Với Việt Nam hiện nay cần: + Thực hiện các hoạt động xúc tiến đầu tư một cách thường xuyên, là công việc bắt buộc cần có những chi phí thích đáng. + Cần đa dạng hóa các hoạt động xúc tiến đầu tư, chính phủ cần chủ động tổ chức các đoàn đi vận động đầu tư ở những nước, khu vực có khả năng đáp ứng được tốt nhất các yêu cầu thực hiện phát triển các ngành nông nghiệp mà Việt Nam lựa chọn. Hình thành một số ăn phòng đại diện xúc tiến đầu tư ở nước ngoài và cả các trung tâm xúc tiến đầu tư ở các địa phương trong cả nước 3.3.4. Tăng cường vai trò của Nhà nước trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa Từ kinh nghiệm của Malaixia cho thấy, nhà nước đóng vai trò vô cùng quan trọng và được coi là yếu tố quyết định đem lại thành công cho công nghiệp hóa. Ở Việt Nam, công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo đường lối đổi mới của Đảng trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và mở cửa hội nhập là vấn đề mới mẻ đối với sự phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Điều đó đòi hỏi chức năng định hướng, điều hành và quản lý của nhà nước phải được đề cao. Do vậy, nhà nước cần: - Tạo môi trường và hành lang pháp lý ổn định, an toàn cho hoạt động kinh tế bao gồm: duy trì sự ổn định chính trị - xã hội tạo môi trường thuận lợi cho công nghiệp hóa; hoàn thiện pháp chế, hệ thống văn bản pháp luật; sử dụng hiệu quả các công cụ điều tiết vĩ mô, kiểm soát lạm phát, ổn định tài chính tiền tệ, thu hút mọi nguồn lực của toàn xã hội và mọi thành phần kinh tế phục vụ công nghiệp hóa. - Định hướng và tạo điều kiện hỗ trợ cho đầu tư phát triển, đầu tư xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế - kỹ thuật, hỗ trợ nghiên cứu ứng dụng công nghệ, vốn, thông tin…. dùng đòn bẩy kinh tế để khuyến khích phát triển xã hội theo định hướng và mục tiêu kế hoạch. - Sử dụng có hiệu quả nguồn vốn của Nhà nước, quản lý tốt tài sản công nhằm hỗ trợ cho việc hình thành cơ cấu kinh tế mới, thông qua các hình thức cấp phát ngân sách, cho vay tín dụng hay góp cổ phần với các liên doanh, mua cổ phiếu của các công ty cổ phần trong những lĩnh vực mà Nhà nước thấy cần hỗ trợ hoặc cần tham gia kiểm soát trực tiếp. - Trong hoạch định chiến lược công nghiệp hóa cần xây dựng cơ cấu kinh tế phù hợp, vừa chú ý đến các vùng kinh tế trọng điểm vừa từng bước tăng đầu tư cho các vùng khác, chú trọng công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn. 3.3.5. Chú trọng tăng trưởng kinh tế gắn với sự bền vững trong phát triển Từ kinh nghiệm của Malaixia cho thấy, theo đuổi mục tiêu tăng trưởng để vươn lên phát triển là cần thiết. Tuy vậy, cần phải chú trọng đến sự bền vững trong phát triển. Điều đó phải được hiểu đầy đủ trên các giác độ kinh tế - kỹ thuật, xã hội, môi trường. Đồng thời, hiệu quả kinh tế phải được xem xét không chỉ trước mắt mà cả những giai đoạn tiếp nối trong tiến trình phát triển. Thực tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế sẽ không tránh khỏi những tác động tiêu cực. Cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á (1997) đã thức tỉnh nhiều nước đang phát triển phải quan tâm đến chất lượng của tưng trưởng và phát triển trong thực hiện công nghiệp hóa. Do vậy, nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện thể chế và tạo điều kiện đảm bảo tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững. Đặc biệt, các chính sách kinh tế vĩ mô chỉ có thể được phối hợp một cách nhịp nhàng và có hiệu quả trong điều kiện tiếp tục đẩy mạnh quá trình cải cách kinh tế ở nhiều lĩnh vực. Hiệnnay ở nước ta, đứng trước không ít vấn đề bất cập đặt ra trong công nghiệp hóa, cần tạo lập môi trường thể chế phù hợp cho công nghiệp hóa. Đồng thời, nhà nước cần tiếp tục đẩy mạnh cải cách hệ thống tài chính, ngân hàng theo hướng đổi mới và hiện đại hóa hệ thống ngân hàng; chủ động nắm bắt những biến động của tình hình kinh tế thế giới (cả xu hướng tích cực và tiêu cực) để điều chỉnh chiến lược phát triển phù hợp; kết hợp tốt điều kiện trong nước và quốc tế để phát triển trên cơ sở khai thác tối đa lợi thế so sánh… KẾT LUẬN Nghiên cứu về công nghiệp hóa ở Malaixia trong thời kỳ 1957 - 1995, với mục đích rút ra những bài học kinh nghiệm có khả năng vận dụng vào Việt Nam, tác giả của luận văn đã hoàn thành những công việc sau: - Hệ thống hóa, góp phần làm rõ thêm những vấn đề lý luận về công nghiệp hóa, hiện đại hóa và các mô hình công nghiệp hóa đã và đang được áp dụng ở các nước đnag phát triển. Đó là những vấn đề khái niệm công nghiệp hóa và mối quan hệ giữa công nghiệp hóa và hiện đại hóa, bản chất, đặc trưng của công nghiệp hóa và tính tất yếu của công nghiệp hóa với các nước đang phát triển. Luận văn đã xem xét các mô hình công nghiệp hóa đã và đang được áp dụng ở các nước đang phát triển ở các giác độ mục tiêu, chính sách, kết quả và hạn chế. Từ đó, luận văn làm rõ thêm những vấn đề lý luận và thực tiễn của quá trình công nghiệp hóa ở các nước đang phát triển. Nó là cơ sở cho sự lựa chọn chiến lược công nghiệp hóa, cho việc hoạch định chính sách và các giải pháp thực thi công nghiệp hóa. Trong bối cảnh quốc tế hóa, toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới hiện nay, những thách thức đặt ra trong công nghiệp hóa luôn buộc các nước đang phát triển phải có sự điều chỉnh chiến lược công nghiệp hóa phù hợp. - Nghiên cứu thực trạng công nghiệp hóa ở Malaixia, luận văn đã làm rõ động thái phát triển kinh tế của Malaixia dưới tác động của công nghiệp hóa qua từng giai đoạn cụ thể và trong sự điều chỉnh chiến lược về công nghiệp hóa. Đó là cơ sở để luận văn rút ra một số bài học kinh nghiệm chủ yếu từ công nghiệp hóa của Malaixia. Đó là việc lựa chọn chiến lược trong công nghiệp hóa; lấy nông nghiệp tạo tiền đề phát triển công nghiệp trong công nghiệp hóa; tạo lập môi trường thuận lợi thu hút đầu tư nước ngoài; tăng cường vai trò nhà nước trong công nghiệp hóa; tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với sự bền vững trong phát triển. - Luận án đã làm rõ một số thay đổi cơ bản trong nhận thức của Đảng ta về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đối với sự phát triển kinh tế của đất nước thời kỳ đổi mới và một số thành công, hạn chế trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta thời gian gần đây. Luận văn cũng làm rõ một số điểm tương đồng khác biệt giữa Việt Nam và Malaixia khi bước vào công nghiệp hóa. Trên cơ sở đó, luận văn đã trình bày khả năng vận dụng một số bài học kinh nghiệm của Malaixia nhằm đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam theo xu hướng hội nhập và phát triển bền vững. Để tăng thêm tính khả thi trong vận dụng một số kinh nghiệm của Malaixia vào điều kiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay, luận văn có một số kiến nghị sau: - Chú trọng xây dựng thể chế, chính sách, luật pháp nhằm tạo môi trường thuận lợi cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa. - Xây dựng nhà nước vững mạnh để điều hành tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Do vậy, cần tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ nhà nước từ trung ương đến địa phương, thuộc các ngành các cấp. - Chú trọng kết hợp phát huy nội lực và ngoại lực để đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; chú trọng khai thác lợi thế so sánh; chú trọng gắn tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội; đồng thời kết hợp tốt giữa công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu và thay thế nhập khẩu, trong đó lấy hướng về xuất khẩu làm trọng tâm. - Chú trọng đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn với việc tăng cường đầu tư cơ sở vật chất - kỹ thuật hơn nữa và thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, nông thôn theo hướng sản xuất hàng hóa. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Báo Nhân dân ngày 16-2-1997. Bài phát biểu của đồng chí Đỗ Mười tại Hội nghị khoa giáo toàn quốc, Hà Nội, 15-2-1997. 2. Nguyễn Hữu Cát - Nguyễn Thị Thu Hà. Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong quá trình công nghiệp hóa của các nước ASEAN và bài học cho Việt Nam. Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, tháng 4/1996, tr 31-36. 3. G.Crelott. Cơ cấu và chiến lược phát triển kinh tế. Viện quản lý kinh tế trung ương dịch, 1989, tr 104. 4. Nguyễn Trí Dĩnh. Vai trò nhà nước ở các nước ASEA. NXB Thống kê, Hà Nội 1991, tr 197. 5. Nguyễn Trí Dĩnh. Lịch sử kinh tế quốc dân. NXB Giáo dục, Hà Nội 1996, tr 162 - 163. 6. Vũ Đức Đam - Phan Thảo Nguyên. Vài nét về tình hình phát triển kinh tế Malaixia. Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới, số 5 tháng 10/1995, tr.49 - 52. 7. Đỗ Đức Định. Một số vấn đề về chiến lược công nghiệp hóa và lý thuyết phát triển. NXB Thế giới, 1999. 8. Thượng Tiến Hồng. Những bài học kinh nghiệm về phát triển kinh tế của Malaixia. Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 231 tháng 2/1996, tr.72-76. 9. Phạm Khiêm Ích - Nguyễn Đình Phan. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam và các nước trong khu vực. NXB Thống kê, Hà Nội 1994, tr.50. 10. Võ Đại Lược. Quá trình phát triển kinh tế của Malaixia và chiến lược thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới, số 3 tháng 6/1995, tr.19-25. 11. Võ Đại Lược. Những xu hướng phát triển của thế giới và sự lựa chọn mô hình công nghiệp hóa của nước ta. NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 1999. 12. Nguyễn Thị Luyến (chủ biên). Công nghiệp hóa, hiện đại hóa: Những bài học thành công của Đông Á. Viện kinh tế thế giới, 1998 13. Đỗ Đức Mạnh. Tình hình kinh tế Malaixia những năm đầu thập kỷ 90. Tạp chí Châu Á - Thái Bình Dương, số 1 tháng 6/1995, tr. 42-44 14. Đỗ Đức Mạnh. Kinh tế Malaixia trên đường phát triển. Tạp chí Châu á - Thái Bình Dương, số 3 tháng 9/1995, tr.59 -62 15. Malaixia - Thặng dư mậu dịch nhờ xuất khẩu hàng công nghiệp. Thời báo kinh tế Sài gòn, 27/4/1995. 16. Malaixia - những dự án khổng lồ. Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới, số 6 tháng 12/1995, tr.51-54. 17.Đào Lê Minh - Trần Lan Hương. Kinh tế Malaixia. NXB Khoa học xã hội Hà Nội 2001, tr.70-72, 83, 86-87, 92-97, 100-105, 115 - 116, 141-146, 181-183,195. 18.Trần Trọng Ngợi. Bốn thập kỷ kinh tế Malaixia - Giải pháp và kết quả. Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, tháng 1/1996, tr.72-79. 19. Phùng Xuân Nhạ. Đánh giá tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến vốn đầu tư nội địa của Malaixia. Tạp chí Kinh tế và dự báo, số 294 tháng 10/1997, tr.33-34. 20. Phùng Xuân Nhạ. Vai trò của FDI đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Malaixia. Tạp chí Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương, số 4 tháng 6/1998, tr.47-53. 21. Phùng Xuân Nhạ. Đầu tư trực tiếp nước ngoài phục vụ công nghiệp hóa ở Malaixia. NXB Thế giới, Hà Nội 2000. Tr.64-68, 70-73, 80-83, 105-106, 145, 178, 186. 22. Những vấn đề công nghiệp hóa của các nước đang phát triển. NXB Tư tưởng, Matxcơva 1972. (Bản dịch của trường Đại học Kinh tế kế hoạch, 1973, tr.1).

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxLV Kinh nghiem CNH o Malaixia.docx
Tài liệu liên quan