Đề tài Khảo sát các đơn vị thành ngữ trong một số truyện ngắn của Nam Cao giai đoạn 1930-1945

MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU CHƯƠNG I: GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ NAM CAO - TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM CHƯƠNG II: PHÂN TÍCH, PHÂN LOẠI THÀNH NGỮ TRONG MỘT SỐ TRUYỆN NGẮN CỦA NAM CAO GIAI ĐOẠN 1930 - 1945 I. Những vấn đề chung về thành ngữ tiếng Việt 1. Thành ngữ trong tiếng Việt 2. Phân biệt thành ngữ với cụm từ tự do, với tục ngữ 2.1. Phân biệt thành ngữ với cụm từ tự do 2.2. Phân biệt thành ngữ và tục ngữ 3. Phân loại thành ngữ trong tiếng Việt hiện đai II. Phân tích, phân loại các đơn vị thành ngữ tiếng Việt trong các truyện ngắn của Nam Cao giai đoạn 30-45 1. Phân loại một cách khái quát 2. Phân tích 2.1. Thành ngữ ẩn dụ hoá đối xứng 2.1.1. Thành ngữ ẩn dụ hoá đối xứng bốn yếu tố 2.1.2. Thành ngữ ẩn dụ hoá đối xứng 6, 8 yếu tố 2.2. Thành ngữ phi đối xứng 2.2.1. Nhóm thành ngữ so sánh 2.2.2. Thành ngữ miêu tả CHƯƠNG III: CÁCH SỬ DỤNG THÀNH NGỮ CỦA NAM CAO QUA CÁC TRUYỆN NGẮN CỦA ÔNG I. Nhận xét chung về cách sử dụng thành ngữ của Nam Cao II. Về việc sử dụng thành ngữ gốc Hán III. Sự sáng tạo của Nam Cao trong việc sử dụng thành ngữ TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Nam Cao được coi là một trong những nhà văn tiêu biểu nhất của văn học Việt Nam thế kỉ XX. Ông đã để lại cho chúng ta một kho tàng to lớn những tác phẩm như tiểu thuyết( Sống mòn), truyện ngắn( Chí phèo, Một đám cưới ) cả trước và sau cách mạng. Qua những tác phẩm của mình, đặc biệt là truyện ngắn ông đã khắc họa thành công thế giới nhân vật cùng sự miêu tả tâm lí điêu luyện tạo nên một phong cách riêng cho văn xuôi Nam Cao. Và chính vì thế, tác phẩm của ông trở thành đối tượng nghiên cứu của các nhà phê bình Văn học, của các nhà ngôn ngữ học và ngày càng thu hút đông đảo lực lượng nghiên cứu. “Nam Cao toàn tập” là một bộ sách gồm ba tập: Tập I và II gồm những truyện ngắn Nao Cao viết trước cách mạng tháng 8 và truyện dài “Người hang xóm”. Tập III gồm những truyện viết sau cách mạng cùng tiểu thuyết “Sống mòn”. Đây là một tác phẩm có thể nói đã thống kê được khá đầy đủ các tác phẩm của Nam Cao và nó trở thành một nguồn tư liệu đáng quý cho các nhà nghiên cứu về Nam Cao, về tác phẩm của Nam Cao. Thông qua những truyện ngắn này người đọc cũng phần nào thấy rõ được những quan điểm sống, quan điểm sang tác, quan điểm nghệ thuật cùng với cách sử dụng ngôn ngữ trong việc xây dựng cốt truyện, lời kể, lời đối thoại giữa các nhân vật của Nam Cao. Rõ ràng trong quá trình sáng tạo nghệ thuật, mỗi nhà văn có một cảm quan hiện thực và một cảm hứng sáng tác riêng. Hệ thống ngôn ngữ được tác giả sử dụng thường rất dung dị, tự nhiên mang đậm hơi thở của cuộc sống. Hệ thống ấy có thể được tạo bởi thuật ngữ (từ ngữ nghề nghiệp), từ thông tục và cả những thành ngữ và quán ngữ nữa. Trong đó, các thành ngữ được các nhà văn sử dụng rất có hiệu quả. Và Nam Cao cũng không phải là một ngoại lệ, bởi quan điểm sáng tác của ông chủ trương là bám sát đời sống gần gũi với nông dân cùng khổ, với những lời ăn tiếng nói hàng ngày, thoát bỏ mọi quan điểm khuôn sáo ước lệ tượng trưng, cách điệu của ngôn văn học thời trung đại, bảo tồn và phát triển mọi giá trị truyền thống. Thành ngữ là một đơn vị ngôn ngữ mang tính chất dân tộc sâu sắc. Nó thường xuyên có mặt trong lời ăn tiếng nói của mỗi người dân trong cuộc sống. Bất kì nơi đâu, trong thời gian nào thì thành ngữ cũng có thể xuất hiện khi viết chuyện, khi viết thư, khi giao tiếp với nhau Nó là một sản phẩm quý báu cùng với kho tàng tục ngữ, ca dao. Nói cách khác, thành ngữ được sáng tạo ra trên quá trình sinh hoạt xã hội quần chúng. Vì thế chúng, như đã nói ở trên, thường xuất hiện trong môi trường dân dã. Tất cả những đặc điểm trên làm cho thành ngữ trở thành một đối tượng hấp dẫn đối với giới nghiên cứu không chỉ ở ngành ngôn ngữ học mà còn ở nhiều ngành khac như: dân tộc học, văn hóa Nghiên cứu thành ngữ cũng là một công việc có đóng góp rất lớn trong việc miêu tả một ngôn ngữ, so sánh đối chiếu các ngôn ngữ với nhau. Nam Cao trong các tác phẩm của mình cũng đã vận dụng khá thành công thành ngữ trong việc khắc họa hình ảnh nhân vật, miêu tả cuộc sống hiện thực lúc bấy giờ. Nghiên cứu về Nam Cao cùng những tác phẩm của ông từ trước tới nay đã có nhiều công trình nghiên cứu nhưng mới chỉ dừng lại ở việc đưa ra được đặc điểm này hay đặc điểm khác trong việc sử dụng từ ngữ của Nam Cao như: cách sử dụng từ “hắn” trong “Chí Phèo”, tìm hiểu tuyên ngôn nghệ thuật của Nam Cao thông qua hệ thống các nhân vật như Điền (Trăng sáng), Hộ (Đời thừa), Độ (Đôi mắt) Trong khi đó cách sử dụng thành ngữ của tác giả lại chưa được chú ý đúng mức. Đó chính là lí do chúng tôi chọn đề tài cho báo cáo của mình là: Khảo sát các đơn vị thành ngữ trong một số truyện ngắn của Nam Cao giai đoạn 1930-1945 2. Lịch sử vấn đề Nghiên cứu thành ngữ trong tiếng Việt nói chung có thể nói đến giai đoạn hiện nay đã thu được nhiều kết quả đáng ghi nhận. Công trình nghiên cứu đầu tiên trong tiếng Việt là “Về tục ngữ và ca dao” của Phạm Quỳnh được công bố năm 1921. Tuy nhiên, đến những năm 60 của thế kỉ XX, việc nghiên cứu thành ngữ mới có được cơ sở khoa học nghiêm túc. Cái mốc quan trọng trong việc nghiên cứu thành ngữ học Việt Nam là việc xuất bản từ điển “Thành ngữ tiếng Việt” (1976) của Nguyễn Lực và Lương Văn Đam. Công trình này tuy còn chưa bao quát được hết tất cả các thành ngữ tiếng Việt nhưng nó đã cung cấp cho các nhà ngôn ngữ học và những ai quan tâm đến vấn đề này một tài liệu bổ ích, có giá trị to lớn. Tiếp đó là năm 1989 xuất bản cuốn “Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam” của Nguyễn Lân và “Kể chuyện về thành ngữ tục ngữ” (1988-1990) do Hoàng Văn Hành chủ biên. Các công trình khác sau đó đều đi sâu vào nghiên cứu với mục đich tìm ra sự khác biệt giữa thành ngữ với các đơn vị khác có liên quan, tức là khu biệt giữa thành ngữ và tục ngữ, giữa thành ngữ với ngữ định danh, giữa thành ngữ với cụm từ tự do. Có thể kể đến các công trình đó như “Góp ý kiến về phân biệt tục ngữ và thành ngữ” (1973) của Cù Đình Tú, “Từ và vốn từ tiếng Việt hiện đại” (1976) của Nguyễn Văn Tu, “Vấn đề cấu tạo từ của tiếng Việt hiện đại” (1976) của Hồ Lê, “Tục ngữ Việt Nam” (1975) của Chu Xuân Diên, Lương Văn Đang, Phương Tri và gần đây nhất là “Phân biệt thành ngữ và tục ngữ bằng mô hình cấu trúc” (2006) của Triều Nguyên. Tuy nhiên, các công trình nêu trên vẫn chưa thực sự thuyết phục được các nhà nghiên cứu. Vậy nên thành ngữ cho đến hiện nay vẫn đang được tiếp cận theo từng khía cạnh khác nhau để có thể lập nên một tiếng nói chung về thành ngữ cho tất cả những ai quan tâm. Một trong những khía cạnh nghiên cứu thành ngữ đó chính là nghiên cứu nghệ thuật sử dụng thành ngữ của các nhà văn, nhà thơ - những tác giả lớn. Một loạt những luận văn thạc sĩ, những khóa luận tốt nghiệp cũng như nhiều báo cáo khoa học, nhiều bài viết đăng trên các tạp chí về vấn đề sử dụng thành ngữ của những tên tuổi lớn như chủ tịch Hồ Chí Minh, Nguyên Hồng, Tản Đà, Tô Hoài xuất hiện trong thời gian gần đây. Trong khi đó Nam Cao cũng là một đề tài khá hấp dẫn đối với các nhà nghiên cứu, nhiều nhà ngôn ngữ học cũng như những người quan tâm đã dành thời gian khá nhiều cho việc khám phá những đặc điểm nghệ thuật trong tác phẩm của Nam Cao, tức là chưa nghiên cứu một cách toàn diện ngôn ngữ trong tác phẩm của ông. Nói như vậy có nghĩa là cách dùng thành ngữ của Nam Cao chưa được chú ý đúng mực, chưa có một chương trình nào nghiên cứu một cách cặn kẽ vấn đề này. 3. Ý nghĩa và dự kiến đóng góp của đề tài Thông qua việc thống kê, khảo sát những thành ngữ xuất hiện trong hơn 50 truyện ngắn trước cách mạng tháng Tám của Nam Cao chúng tôi hi vọng sẽ góp phần khẳng định sự sáng tạo và những đóng góp to lớn của Nam Cao đối với kho tàng thành ngữ của dân tộc đồng thời, tìm hiểu giá trị phong cách của những đóng góp này. Như vậy ý nghĩa trước hết của đề tài này đó chính là khẳng định them một lần nữa tài năng, sự sáng tạo của Nam Cao trong việc sử dụng ngôn ngữ xây dựng nên những trang văn kiệt tác, cùng với đó là làm rõ thêm giá trị của những thành ngữ mà ông sử dụng. Bài báo cáo khoa học này cũng còn một mong muốn khác đó là bằng việc nghiên cứu, phân tích kĩ những đặc điểm thành ngữ về cấu trúc, ngữ nghĩa, phân loại về loại hình, về phản ánh cách tư duy, về văn hóa ngôn từ trong giao tiếp để chúng tôi có thể cung cấp thêm nhiều thành ngữ hoàn thiện hơn, đầy đủ hơn cho cuốn từ điển thành ngữ sau này. Tuy nhiên, do thời gian có hạn cũng như do khả năng của chúng tôi còn chưa cao nên chúng tôi mới chỉ dừng lại ở việc khảo sát thành ngữ trong một số truyện ngắn của Nam Cao trước cách mạng tháng Tám chứ chưa thể khảo sát các đơn vị thành ngữ trong toàn bộ các tác phẩm của ông. Chính vì thế, với đề tài này chúng tôi chỉ hi vọng sẽ đóng góp một phần rất nhỏ trong công việc nghiên cứu thành ngữ ở giai đoạn hiện nay. 4. Phương pháp nghiên cứu và tư liệu nghiên cứu Phương pháp chúng tôi sử dụng để hoàn thành bài báo cáo này chủ yếu là phương pháp thống kê, sau đó so sánh và đối chiếu theo khuôn mẫu của cấu trúc thành ngữ. Tư liệu nghiên cứu của chúng tôi là các truyện ngắn của Nam Cao giai đoạn 30-45 in trong cuốn “Nam Cao toàn tập”, Nxb Hội Nhà văn. 5. Kết cấu của báo cáo Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và tài liệu tham khảo, phần nội dung của báo cáo gồm ba chương: Chương I: Giới thiệu chung về Nam Cao - tác giả và tác phẩm. Chương II: Phân tích, phân loại thành ngữ trong một số truyện ngắn của Nam Cao. Chương III: Các sử dụng thành ngữ của Nam Cao qua các truyện ngắn của ông Ngoài ra báo cáo còn bao gồm phần phụ lục: Danh sách thành ngữ và các biến thể của chúng trong một số truyện ngắn của Nam Cao giai đoạn 30-45.

doc58 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 3329 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Khảo sát các đơn vị thành ngữ trong một số truyện ngắn của Nam Cao giai đoạn 1930-1945, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cách khác,thành ngữ là những đơn vị định danh của ngôn ngữ. Thí dụ: “Nước mẳt cá sấu” là nước mắt giả dối…. Tuy nhiên nội dung của thành ngữ ngụ ý điều gì đó đằng sau các từ ngữ tạo nên thành ngữ chứ không hướng tới điều được nhắc đến trong nghĩa đen. Như vậy, “Thành ngữ là những tổ hợp từ “đặc biệt”, biểu thị những khái niệm một cách bóng bẩy( Hoàng Văn Hành, thành ngữ học tiếng Việt, 2004, Nxb KHKT) 2. Phân biệt thành ngữ với cụm từ tự do, với tục ngữ 2.1. Phân biệt thành ngữ với cụm từ tự do Cả thành ngữ và cụm từ tự do đều là những tổ hợp do từ cấu tạo nên và hoạt động với tư cách là những bộ phận cấu thành câu. Sự khác nhau giữa chúng có thể được cụ thể hoá qua bảng so sánh sau: Cụm từ tự do Thành ngữ Là một kết hợp tạm thời, mỗi lần dùng đều được cấu tạo mới và chỉ tồn tại trong phạm vi một văn cảnh nhất định Những bộ phận cấu thành cụm từ tự do có thể được thay thế bằng những từ khác cùng loại, chỉ làm tăng giảm nghĩa của từ cụ thể còn nghĩa của cụm từ không bị phá vỡ Là đơn vị ngôn ngữ có sẵn, có cấu trúc bền vững luôn được tái hiện dưới dạng có sẵn với cùng một thành phần yếu tố cố định. Thành ngữ không thể bỏ đi hay thay thế bất kì yếu tố nào mà không phá vỡ nghĩa của toàn thể thành ngữ Nghĩa của cụm từ tự do là nghĩa tổng hợp của các từ riêng lẻ Thường có ý nghĩa hình ảnh ẩn dụ, không thể suy trực tiếp từ nghĩa của các yếu tố cấu thành. Dùng để đinh danh như thành ngữ nhưg không có giá trị hình ảnh, biểu cảm. Dùng để gọi tên(định danh) hiện tượng sự vật tính chất, trạng thái… nhưng mang giá trị hình ảnh biểu cảm. Sự kết hợp chỉ phục tùng những chuẩn mực từ vựng, ngữ pháp. Thành ngữ thường có tổ chức âm điệu, tiết tấu của toàn cấu trúc. Vậy thành ngữ có tính nhạc. Như vậy, có thể nói không có ranh giới rõ ràng, tuyệt đối để phân biệt cụm từ tự do và thành ngữ. Bởi lẽ nếu những cụm từ tự do trở nên cố định và nghĩa của nó bị phức tạp hoá nó biến thành thành ngữ. 2.2. Phân biệt thành ngữ và tục ngữ Đây là công việc vô cùng khó khăn đối với các nhà nghiên cứu khi phân biệt giữa thành ngữ và tục ngữ. Và trên thực tế có thể nói sự lẫn lộn giữa hai đơn vị này là rất phổ biến, phổ biến đến mức người ta không còn coi nó như một sai phạm nữa. Sự phân biệt thành ngữ và tục ngữ lần đầu tiên được đặt ra qua “Việt Nam văn học sử yếu” (1943): theo cuốn sách này một câu tục ngữ tự nó phải có một ý nghĩa đầy đủ hay khuyên răn chỉ bảo điều gì. Còn thành ngữ chỉ là những lời nói có sẵn để ta tiện dùng mà diễn một ý gì hay tả một trạng thái gì cho có màu mè. Tác giả Vũ Ngọc Phan trong “Tục ngữ và dân ca Việt Nam” (1956) lại không tán thành với ý kiến trên. Với Cù Đình Tú ở bài viết “Góp ý kiến về phân biệt tục ngữ với thành ngữ” (1973) đã dùng chức năng làm tiêu chí phân biệt tục ngữ thành ngữ. Thành ngữ là những đơn vị có sẵn, mang chức năng định danh, nói khác đi dùng để gọi tên sự vật, tính chất, hành động. Tục ngữ thông báo một nhận định, một kết luận về một phương diện nào đó của thế giới khách quan. Do vậy, mỗi một câu tục ngữ đọc lên là một câu hoàn chỉnh về diễn đạt, trọn vẹn về ý tưởng. Hoàng Văn Hành và một số tác giả ở Viện Ngôn Ngữ học trong “Kể chuyện thành ngữ, tục ngữ” đã nhận xét thành ngữ tuy có nhiều nét tương đồng với tục ngữ nhưng khác tục ngữ về bản chất. Thành ngữ là những tổ hợp từ đặc biệt, biểu hiện những khái niệm một cách bóng bẩy, còn tục ngữ là những câu-ngôn bản đặc biệt, biểu thị những phán đoán một cách nghệ thuật Và chúng ta có thể tóm tắt sự khác biệt giữa chúng thông qua bảng sau: Thành ngữ Tục ngữ Thường thể hiện chức năng định dạng giống như từ và trong câu chúng hoạt động như những định vị điểm danh Là một thông báo đầy đủ, trong câu chúng hoạt động như những đơn vị thông báo Làm một bộ phận cấu thành câu Làm một câu độc lập hoàn chỉnh. Ví dụ:Thay da đổi thịt Ví dụ:Ăn vá học hay *)Sự giống nhau giữa thành ngữ và tục ngữ + Thành ngữ và tục ngữ là những đơn vị có sẵn với cấu trúc rất bền chặt, cố định, trong đó không thể dễ dàng thay đổi trật tự các yếu tố + Cả thành ngữ và tục ngữ đều có nội dung ngữ nghĩa mang tính khái quát hình ảnh và nghĩa bóng. Tính hình ảnh của tục ngữ cũng xuất hiện nảy sinh bằng con đường phát triển nghĩa mới, kết quả- trìu tượng giống như thành ngữ + Tục ngữ ngắn gọn về hình thức, phương pháp về nội dung, có vần điệu uyển chuyển giống như thành ngữ. Rõ ràng ranh giới giữa thành ngữ và tục ngữ là không rõ ràng, không dễ nhận biết bởi vì bao giờ cũng có những đơn vị quá độ, trung gian. Tuy nhiên có thể nói chúng khác nhau chủ yếu là ở mặt chức năng. Tóm lại, tổng hợp tất cả những tiêu chí như đã phân tích ở trên cho phép tách thành ngữ ra khỏi những đơn vị khác chúng ta có bảng sau: Nét khu biệt Đơn vị Tiêu chí Cụm từ tự do Thành ngữ Tục ngữ Đặc điểm cấu trúc Cố định - + + Không cố định + - - Đặc điểm ngữ âm Hài hoà - + + Không hài hoà + - - Đặc điểm ngữ nghĩa Nghĩa đen + - - Nghĩa bóng - + + Chức năng ngữ nghĩa Định danh + + - Thông báo - - + Chức năng ngữ pháp Bộ phận câu + + - Câu - - + 3. Phân loại thành ngữ trong tiếng Việt hiện đai Theo Nguyễn Thiện Giáp trong “Từ vựng học tiếng Việt”, thành ngữ có hai loại lớn đó là thành ngữ hợp kết và thành ngữ hòa kết. Về mặt cấu trúc của thành ngữ ta có thể hình dung hệ thống thành ngữ tiếng Việt bằng hai sơ đồ tổng quát sau đây: Thµnh ng÷ Thµnh ng÷ ®èi xøng Thµnh ng÷ Phi ®èi xøng Thµnh ng÷ Phi ®èi xøng d¹ng miªu t¶ Thµnh ng÷ Phi ®èi xøng d¹ng so s¸nh Kết cấu cú pháp của thành ngữ có một số khuôn mẫu nhất định đó là: quan hệ cụm chủ vị, quan hệ chính phụ, quan hệ đẳng lập và quan hệ đề thuyết. Trong báo cáo này chúng tôi sẽ tiến hành phân loại, phân tích các thành ngữ trong truyện ngắn của Nam Cao theo sự phân loại thành ngữ thành hai loại thành ngữ đối xứng và phi đối xứng như đã nói ở trên và đi sâu vào các kết cấu của thành ngữ. II. Phân tích, phân loại các đơn vị thành ngữ tiếng Việt trong các truyện ngắn của Nam Cao giai đoạn 30-45 1. Phân loại một cách khái quát Thành ngữ Tiếng Việt nói chung thường được chia thành 2 loại thành ngữ lớn đó là thành ngữ đối xứng và thành ngữ phi đối xứng hay còn được gọi là thành ngữ ẩn dụ hoá đối xứng và ẩn dụ hoá phi đối xứng. Trong mỗi loại lại chia thành nhiều dạng thành ngữ nhỏ hơn, chủ yếu là được phân chia theo đặ trưng cú pháp, đặc biệt là các mô hình. Trong báo cáo này chúng tôi xin theo cách phân loại đó để tiến hành phân tích các thành ngữ được Nam Cao sử dụng trong các truyện ngắn của ông. 2. Phân tích 2.1. Thành ngữ ẩn dụ hoá đối xứng Thành ngữ ẩn dụ hoá đối xứng là loại thành ngữ phổ biến nhất trong tiếng Việt. Theo thống kê của chúng tôi, trong các truyện ngắn của Nam Cao giai đoạn 30-45 loại thành ngữ này là 115/291 thành ngữ, chiếm 39,52%. Đặc điểm nổi bật của loại thành ngữ này về mặt cấu trúc đó là có tính chất đối xứng giữa các bộ phận và các yếu tố tạo nên thành ngữ. Chẳng hạn, trong thành ngữ “đổ đình đổ chùa” thì “đổ đình” đối xứng với “đổ chùa”…. Phần lớn các thành ngữ đối xứng đều gồm 4 yếu tố, lập thành 2 vế cân xứng với nhau. Quan hệ đối xứng giữa hai vế của thành ngữ được thiết lập nhờ vào những thuộc tính nhất định về ngữ pháp, ngữ nghĩa giữa các yếu tố được đưa vào trong hai vế đó. Khảo sát 115 đơn vị thành ngữ ẩn dụ hoá đối xứng mà chúng tôi thu được, chúng tôi nhận thấy loại thành ngữ bốn yếu tố có tới 105/115, chiếm 91,3%, số còn lại là các thành ngữ đối xứng có 6, 8 yếu tố. Như vậy có thể nói thành ngữ bốn yếu tố đối ngẫu cặp đôi là loại thành ngữ phổ biến, có số lượng nhiều và độc đáo, chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong hệ thống thành ngữ được Nam Cao sử dụng trong tác phẩm của mình. Chính vì điều này nên chúng tôi phân tích loại thành ngữ bốn yếu tố này riêng và loại thành ngữ 6, 8 yếu tố riêng. 2.1.1. Thành ngữ ẩn dụ hoá đối xứng bốn yếu tố Đây là loại thành ngữ có đặc điểm quan trọng và nổi bật nhất là tính cặp đôi và đối ngẫu (tương ứng) trong cấu trúc từ vựng- ngữ pháp, ngữ nghĩa và đặc biệt là về mặt ngữ âm. Thông thường, trên cơ sở khảo sát những quan hệ ngữ pháp giữa các yếu tố trong thành ngữ kết cấu hai vế đối xứng, các nhà nghiên cứu phân thành ngữ này thành bốn loại: - Thành ngữ hai vế cân xứng, mỗi vế là một thành tố. - Thành ngữ hai vế cân xứng, mỗi vế là một kết cấu chủ vị. - Thành ngữ hai vế cân xứng, mỗi vế là một kết cấu đề thuyết. - Thành ngữ hai vế cân xứng, mỗi vế là một kết cấu chính phụ. Áp dụng bốn mô hình này vào việc phân tích các thành ngữ ẩn dụ hoá đối xứng bốn yếu tố được sử dụng trong các truyện ngắn của Nam Cao chúng tôi nhận thấy rằng: + Thành ngữ hai vế câu xứng, mỗi vế là một thành tố Loại thành ngữ này chỉ có 15/105, chiếm 14,28%. Đặc điểm của thành ngữ này cũng là tính đối xứng hai vế và tương ứng trong cấu trúc từ vựng- ngữ pháp. Có thể đưa ra một số ví dụ cụ để khảo sát như: Bất công vô lý Mồ hôi nước mắt Đầu xuôi đuôi ngược Bữa bưng bữa vực (Bữa lưng bữa vực) Hán phù hộ độ trì Con sâu cái kiến Cờ bạc/ rượu chè Chết đói chết khát Trong các ví dụ trên hai vế của thành ngữ tương ứng về cấu trúc từ vựng. Chẳng hạn như ở thành ngữ “mồ hôi nước mắt” thì “mồ hôi” và “nước mắt” là hai danh từ, ở thành ngữ “cờ bạc rượu chè” thì “cờ bạc” và “rượu chè” cũng đều là hai danh từ chung,… còn ở thành ngữ “phù hộ độ trì” cũng như “chết đói chết khát” thì hai vế tương ứng của mỗi thành ngữ đều là nội động từ. + Thành ngữ hai vế cân xứng, mỗi vế là một kết cấu chính phụ. Trong số 105 thành ngữ ẩn dụ hoá đối xứng bốn yếu tố có tới 88 thành ngữ thuộc loại này, tức là chiếm 83,81%. Như vậy có thể nói loại thành ngữ này chiếm đại đa số và có vai trò rất lớn trong nghệ thuật sử dụng của nhà văn. Phân tích loại thành ngữ này chúng tôi xin đi sâu vào các mô hình thường gặp cụ thể như sau: *) Mô hình 1: động từ- danh từ + danh từ- tính từ. Loại thành ngữ thuộc mô hình này chiếm 39,77% tổng số thành ngữ đối xứng bốn yếu tố có mỗi vế là một kết cấu chính- phụ. Có thể kể ra một số ví dụ như: Cãi chày cãi cối. 1 2 3 4 Thắt lưng buộc bụng. 1 2 3 4 Giận cá chém thớt. 1 2 3 4 Trong thành ngữ thứ nhất, những yếu tố 1 và 3 -cãi - là động từ, 2 và 4 - chày- và cối là danh từ. Trong thành ngữ thứ hai, những yếu tố thứ 1 và 3 - thắt và buộc- là động từ, 2 và 4- lưng và bụng- là danh từ. Trong thành ngữ thứ 3, những yếu tố 1 và 3- giận và chém- là động từ, 2 và 4- cá và thớt- là danh từ. Tuyệt đại đa số các yếu tố trong mô hình này là thực từ, chúng có khả năng hoạt động độc lập. Tất nhiên là trừ những từ gốc Hán không có khả năng dùng độc lập trong tiếng Việt hiện đại. Điều đáng chú ý ở đây chính là các cặp yếu tố 1 và 3, 2 và 4 đều là những từ cấu tạo nên từ ghép đẳng lập. Chẳng hạn như trường hợp của thành ngữ “van ông lạy bà”. Thành ngữ này được cấu tạo trên cơ sở hai từ ghép đẳng lập “van lạy” và “ông bà”. Bên cạnh đó, một đặc điểm khác nữa trong số các thành ngữ thuộc loại này chúng tôi thu được đó là yếu tố 1 và 3 giống nhau, còn các yếu tố 2 và 4 là danh từ thuộc cùng một trường nghĩa. Loại thành ngữ này chúng tôi gặp khá nhiều trong quá trình khảo sát. Ví dụ như: Cãi chày cãi cối. Đổ đình đổ chùa. Cắn rơm cắn cỏ Bóp mồm bóp miệng Đè đầu đè cổ Trong số những thành ngữ thuộc mô hình này có một số thành ngữ mà nghĩa của chúng rất khó hiểu, bởi vì nghĩa và nguồn gốc của một thành tố nào đó không rõ ràng. Ví dụ như thành ngữ: Đâm ba chày củ (Mua danh, trích “Nam Cao toàn tập”, trang 341) Ở thành ngữ này chỉ có yếu tố 1 “đâm” là dộng từ có nghĩa và có thể dùng độc lập, ba yếu tố còn lại có nghĩa không hoàn toàn rõ ràng. Do đó có thể giải nghĩa của chúng theo nhiều cách khác nhau. *) Mô hình 2: danh từ- tính từ + danh từ- tính từ. Trong tiếng Việt hiện đại cụm “danh từ- tính từ” là cụm từ tự do rất phổ biến. Ví dụ: người đẹp, sách hay… Tuy nhiên trong số các thành ngữ đối xứng bốn yếu tố mỗi vế là một kết cấu chính phụ, thành ngữ loại này lại có rất ít. Có thể là do phạm vi nghiên cứu của chúng tôi hẹp nên kết quả thu được là chưa khả quan nhưng số lượng này lại cho thấy rằng Nam Cao trong tác phẩm của mình rất ít sử dụng loại thành ngữ này. Và đó cũng là một điểm quan trọng trong cách sử dụng thành ngữ của Nam Cao- một phần mục đích thực hiện đề tài này của chúng tôi. Cụ thể số thành ngữ này ở số liệu mà chúng tôi thu được chỉ có 7 thành ngữ, tức là chỉ chiếm 7,95%. Một số ví dụ là: Đầu bù tóc rối. Nay ốm mai đau. Chân yếu tay mềm. Lời hay ý đẹp. Cũng như ở mô hình thứ nhất, trong số thành ngữ thuộc mô hình này có những thành ngữ mang yếu tố lặp. Yếu tố lặp lại thường là ở yếu tố thứ nhất. Ví dụ: Ống thấp ống cao. Từ ghép có vai trò quan trọng trong việc tạo nên loại thành ngữ thuộc dạng này. Chẳng hạn như: Thành ngữ “đầu bù tóc rối” được tạo nên bởi từ ghép“ đầu tóc” kết hợp với từ đơn “bù” và “rối”. Thành ngữ “nay ốm mai đau” được tạo nên bởi sự xen ghép giữa hai từ ghép “nay mai” và “ốm đau”. Thành ngữ “chân yếu tay mềm” được tạo nên bởi sự xen ghép giữa hai từ ghép “chân tay” và từ “yếu mềm”. *) Mô hình 3: danh từ- động từ + danh từ- động từ. Loại thành ngữ có cấu trúc “danh từ- động từ + danh từ- động từ” chỉ chiếm 5,68% (5 trong số 88) thành ngữ ẩn dụ hoá đối xứng bốn yếu tố được sử dụng trong truyện ngắn Nam Cao. Ví dụ: Tiền mất tật mang Đầu trộm đuôi cướp Cơm bưng nước rót Thập tử nhất sinh Người ghét của ưa Cấu trúc “danh từ- động từ” là một trong những cấu trúc thường gặp nhất trong tiếng Việt. Quan hệ giữa các yếu tố trong trường hợp này thường rất rõ ràng. “đầu đuôi” và “trộm cướp” được tách ra và ghép vào nhau tạo thành một thành ngữ giàu tính biểu cảm thường mang nghĩa chê bai khinh thường. *) Mô hình 4: động từ-tính từ + động từ-tính từ. Trong số thành ngữ ẩn dụ hoá đối xứng bốn yếu tố chúng tôi thu được thì có 9/88 thành ngữ thuộc loại này (chiếm 10,22%). Ví dụ: Ăn đói mặc rách Ăn ngon mặc đẹp Ăn hoang phá hại Ở hiền gặp lành Loại thành ngữ này có thể có yếu tố lặp. Đó là những yếu tố ở vị trí 1, 3. Chẳng hạn yếu tố “chết” trong thành ngữ “chết dấm chết dúi” và “làm” trong “làm vụng làm trộm”. Bên cạnh đó chúng tôi còn thấy rằng loại thành ngữ này còn có thể được tạo nên bởi phương thức từ đơn xen vào giữa từ láy. Ví dụ là thành ngữ “chết dấm chết dúi”. Từ đơn “chết” lặp lại xen giữa từ láy “dấm dúi” làm cho thành ngữ càng mang sắc thái biểu hiện về sự chì chiết mạnh hơn bình thường. *) Mô hình 5: danh từ-danh từ + danh từ-danh từ. Thành ngữ loại này chiếm 10,22% tổng số thành ngữ ẩn dụ hoá đối xứng bốn yếu tố trong tư liệu của chúng tôi (trong số 88 thành ngữ ẩn dụ hoá đối xứng bốn yếu tố chúng tôi thống kê có 9 đơn vị thành ngữ loại này). Ví dụ: Năm bè bẩy bối Đầu bò đầu bướu Một nắng hai sương Con dòng cháu giống Tiền rừng bạc bể Tất cả bốn yếu tố trong số thành ngữ ví dụ nêu trên đều là danh từ đơn âm tiết. Các yếu tố 1, 3 và 2, 4 có quan hệ với nhau về mặt từ vựng- ngữ pháp và cả về mặt ngữ nghĩa, chúng cùng thuộc một trường nghĩa: “năm, bẩy”, “một, hai” , “nắng, sương”…. Các yếu tố thuộc thành ngữ loại này đều thuộc về một loại từ loại. Danh từ có vai trò rất quan trọng trong cấu trúc thành ngữ bốn yếu tố đối xứng. Nghĩa của các yếu tố danh từ trong thành ngữ loại này rất đa dạng: liên quan đến thiên nhiên, con người và hoạt động của con người, động vật, sự vật… tức là nó liên quan đến nhiều hiện tượng khách quan của thế giới bên ngoài. Số lượng những thành ngữ có yếu tố 1, 3 là số từ chiếm khá lớn. Ví dụ như: Năm bè bảy bối Một nắng hai sương Có trường hợp yếu tố 2, 4 là số từ như: “mồm năm miệng mười” Loại thành ngữ này có thể có yếu tố lặp. Danh từ ở vị trí 1 và 3 có sự lặp lại. Ví dụ: “đầu bò đầu bướu” . Trong số liệu của chúng tôi không có trường hợp yếu tố ở vị trí 2 lặp lại ở vị trí 4. *) Mô hình 6: tính từ-danh từ + tính từ-danh từ. Loại thành ngữ này có số lượng không lớn, chỉ thu được 4 đơn vị, chiếm 4,54% tổng số thành ngữ ẩn dụ hoá đối xứng bốn yếu tố Tím ruột tím gan Mát lòng mát dạ Mát lòng mát ruột Trơn lông đỏ da Trong các loại thành ngữ này chúng tôi nhận thấy có hai đặc điểm nổi bật nhất đó là cấu trúc lặp yếu tố 1, 3 và cách đảo ngược trật tự từ. Cũng như nhiều mô hình đã nói ở trên thành ngữ có thể có yếu tố lặp. Chẳng hạn: Mát lòng mát dạ Tím ruột gan Yếu tố lặp ở đây vẫn là ở vị trí 1 và 3. Đặc điểm thứ hai có thể nói đến đó là thông thường những từ như “ruột tím”, “gan tím” là chỉ màu sắc bộ phận của cơ quan người khi bị thương chẳng hạn, đó là những cụm từ tự do. Nhưng khi đảo ngược trật tự từ thành một thành ngữ là “tím ruột tím gan” nó lại chỉ trạng thái tức giận đến cực cùng của con người. Rõ ràng sự đảo ngược này có tác dụng rất lớn trong việc tạo giá trị biểu cảm cho thành ngữ. Cùng với đó, việc dùng cấu trúc tính từ-danh từ với trật tự từ đảo ngược cùng phép lặp cũng thường gặp trong loại thành ngữ này. *) Mô hình 7: tính từ-động từ + tính từ-động từ Số lượng từ ngữ thuộc loại này chúng tôi chỉ thống kê được 3/88 tổng số thành ngữ ẩn dụ hoá đối xứng bốn yếu tố, chiếm 3,41% Khôn sống dại chết Mềm nắn rắn buông No dồn đói góp Loại thành ngữ này không chỉ ít ở trong số lượng thành ngữ được Nam Cao sử dụng mà ngay cả trong tất cả các thành ngữ tiếng Việt cũng rất hiếm những đơn vị này. Nguyên nhân là do quan hệ giữa động từ và tính từ. Trật tự động từ-tính từ phổ biến hơn và gặp nhiều hơn còn trật tự tính từ-động từ thường bị quy định bởi cấu trúc toàn câu *) Mô hình 8: danh từ-đại từ + danh từ-đại từ. Tiền nào của ấy Chứng nào tật ấy Nay đây mai đó Đặt đâu ngồi đấy Đặc điểm loại thành ngữ này là sử dụng đại ngữ nghi vấn từng cặp: Nào-ấy Đây-đó Đâu- đấy Yếu tố 2, 4 của thành ngữ này rất hạn chế không được lựa chọn rộng rãi như các mô hình trước. Vậy nên số lượng thành ngữ loại này rất ít chỉ có 4/88, chiếm 4,54% tổng số. Trên đây là tám mô hình cơ bản của thành ngữ ẩn dụ hoá đối xứng bốn yếu tố, mỗi vế là một kết cấu chính phụ. Có thể nhận thấy vai trò rất to lớn của danh từ trong cấu trúc của loại thành ngữ này. 6/8 mô hình có sự tham gia của danh từ. Ví dụ: 1. động từ-danh từ/động từ-danh từ. 2.danh từ-động từ/danh từ-động từ. 3. danh từ-danh từ/danh từ-danh từ 4. danh từ-tính từ/danh từ-tính từ 5. tính từ-danh từ/tính từ-danh từ 6.danh từ-đại từ/danh từ-đại từ Trong quá trình phân tích trên chúng ta có thể dễ dàng nhận ra vấn đề từ ghép có tác dụng rất lớn trong việc cấu tạo nên thành ngữ. Chẳng hạn như: “ăn ngon mặc đẹp”: một từ ghép “ăn mặc” kết hợp với hai từ đơn “ngon” và “đẹp”. “chết dấm chết dúi”: một từ đơn kết hợp với một từ láy “dấm dúi”. “nay ốm mai đau”: xen kẽ hai từ ghép “nay mai” và “ốm đau”. “mát lòng mát dạ”: một từ đơn lặp lại kết hợp với hai từ đơn khác. “tím ruột tím gan”: một từ đơn lặp lại kết hợp với hai từ đơn khác. Như vậy, trên đây là 8 mô hình cơ bản nhất của thành ngữ ẩn dụ hoá đối xứng bốn yếu tố. Các thành ngữ còn lại là những thành ngữ có cấu trúc riêng biệt, lẻ loi không trở thành một hệ thống nên chúng tôi chỉ xin giới thiệu chứ không phân tích. Thậm chí, có những thành ngữ có lẽ do sự hạn chế về sự hiểu biết nên chúng tôi không thể hiểu được ý nghĩa. Nổi bật là “quản hồi vô pheng” (Nửa đêm, trích “Nam Cao toàn tập”,trang 494). Các thành ngữ khác thì quá quen thuộc như “nửa đùa nửa thật”… òn lại những thành ngữ cũng có bốn yếu tố như “Già néo đứt dây”, “chin bỏ làm mười”,… thì có lẽ chúng tôi xin xếp vào loại thành ngữ miêu tả bởi chúng không có sự đối xứng về mặt ngữ pháp cũng như ý nghĩa và từ loại + Thành ngữ ẩn dụ hoá đối xứng, mỗi vế là một kết cấu chủ vị. Loại thành ngữ này rất ít gặp, đặc biệt trong một loạt những thành ngữ mà chúng tôi thu được trong truyện ngắn Nam Cao. Chúng tôi chỉ gặp duy nhất một trường hợp này, đó là thành ngữ “Trời tru đất diệt” C V C V trong truyện ngắn Chí Phèo in trong tập “Nam Cao toàn tập” trang 92. + Thành ngữ ẩn dụ hoá đối xứng , mỗi vế là một kết cấu Đ-T Cũng giống như loại thành ngữ trên, chúng tôi chỉ thu một trường hợp thành ngữ thuộc loại này đó là: Tre già măng mọc Đ T Đ T (Chí Phèo, Nam Cao toàn tập, trang 85) 2.1.2. Thành ngữ ẩn dụ hoá đối xứng 6, 8 yếu tố Loại thành ngữ này chỉ có 10 đơn vị, chiếm8,7 %. Loại 6 yếu tố chiếm 6/10 tức 60% tổng số loại thành ngữ ẩn dụ hoá đối xứng 6, 8 yếu tố. Ví dụ như: “được bữa hôm, lo bữa mai” “con ông ấm, cháu ông cử” Hai vế của thành ngữ chủ yếu là cụm động ngữ hay danh ngữ, ít tính ngữ. “ăn không nên đọi nói chẳng nên lời” Như vậy, trong số các thành ngữ ẩn dụ hóa đối xứng mà chúng tôi thống kê được trong một số truyện ngắn của Nam Cao loại thành ngữ bốn yếu tố chiếm vị trí áp đảo so với các loại 6, 8 yếu tố. Bên cạnh đó, loại thành ngữ đối xứng với hai vế là kết cấu chính phụ cũng có một số lượng lớn và quan trọng tạo nên bộ mặt thành ngữ mà Nam Cao sử dụng trong văn của mình. Ranh giới giữa các thành ngữ dạng này với tục ngữ chỉ mang tính tương đối, rất dễ gây nhầm lẫn cho người đọc, người nghe hay cho tất cả người dân Việt Nam cũng như người nước ngoài. 2.2. Thành ngữ phi đối xứng 2.2.1. Nhóm thành ngữ so sánh Theo kết quả thống kê của chúng tôi, số lượng thành ngữ so sánh được sử dụng trong truyện ngắn của Nam Cao xuất hiện khá lớn. Sở dĩ như vậy là bởi loại thành ngữ so sánh có sắc thái hình ảnh và tu từ rõ rệt, có tần số sử dụng cao và đặc biệt là trong khẩu ngữ. Truyện ngắn Nam Cao với một loạt những đoạn văn miêu tả, hội thoại giữa các nhân vật, ngôn ngữ gần với người dân, chính vì thế, điều đã nói trên là dễ hiểu. Theo tác giả Triều Nguyên, trong bài “Phân biệt thành ngữ và tục ngữ bằng mô hình cấu trúc”, tạp chí Ngôn Ngữ số 5/2006 đã đưa ra 7 mô hình so sánh. Riêng đối với các thành ngữ được Nam Cao sử dụng trong truyện ngắn của mình, chúng được cụ thể hoá theo các mô hình như sau: *) X như Y: (X là vị trí, Y là vị từ) Loại thành ngữ này có 11 trên tổng số 95 thành ngữ, chiếm 11,58%. Ví dụ: Nói như móc họng, mắng như băm như bổ, ngủ say như chết, vã ra như tắm, mềm như tơ, béo như phù, trút ra như mưa như gió,… *) X như XA ( X là vị từ, ngữ vị từ; XA là cụm động từ) Ví dụ : ngơ ngẩn như người mất vía, mắng như tát nước, khát như cháy họng, tức như chọc họng, đi như đi chợ…. *) X như A: X là vị từ, A là danh từ, ngữ danh từ (60 thành ngữ, chiếm 63,14%) Ví dụ: hiền như đất, nghich như giống tinh, quấy như mương rứt, bạc như giống giận, sáng như mắt vọ, trũng như hai cái hố, mềm như con bún, ngọ nguậy như một con trâu, hì hục như một con trâu, câm như hến, đẹp như tiên, xấu xí như ma, giết người như ngoé, hẻo lánh như bãi tha ma, đỏ như gấc chín, ngọt như đường, đen như thằng quỷ, im như tóc, trẻ như măng, nhăn như mặt khỉ, dốt như bò, khinh như rác, hiền như đất nặn, nát như tương, nhăn nhó như mặt khỉ, ngu như bò, trốn (lẩn) như trạch, rẻ như bèo, xác như tổ đỉa, khẳng khiu như chân gà, tối như hũ nút, ngang như cua, cục như chó, béo như con cun cút, gấy như một cái que, ngu như một đàn bò, tối như hang, hiền lành như đất, nhạt như nước ốc, bóng loáng như đồng điêu, loắt choắt như một con chuột, đặc như rươi, nhăn như mặt hổ phù, bành bạnh như cái vại, to như lưng trâu, đi lại như mắc cửi, khóc như ri, gắt như mắm thối, rối lên như canh hẹ, cau có như khỉ, gầy như một cái tăm, khổ như một con chó, hiền như ông bụt đất, đen như hạt nhãn, nhỏ như răng chuột, trố như ốc nhồi, ngủ như lợn (heo), béo như phù, lạnh như nước đá, buốt như kim nhọn Đây là loại thành ngữ có số lượng nhiều nhất *) X như CVB: vị từ, động từ có thể khuyết B(10/95, chiếm 10,52%) Ví dụ: đen như cột nhà cháy, nóng như lửa đốt, chắc như đinh đóng cột, hiền như đất nặn, khóc như cha chết, nhiều như lá trên rừng, tíu tít như con mẹ dại, xanh bủng như người ngã nước, tức như chọc họng, day như con chó day giẻ, há mồm như con chim non… *) A như Y/B A là danh từ, Y là vị từ, b là danh từ (2/95,chiếm 2,1%) Ví dụ: tiếng như ngỗng đực, mắt sắc như dao *) Mô hình có “như” ở đầu. (10/95, chiếm 10,52%) - Như X ( X là ngữ vị từ) Ví dụ: như đổ mẻ vào mặt, như bị ma bóp cổ. Như A (A là ngữ danh từ) Ví dụ: Như nơi ma ở Như súng thần công Như rơm như rác (như cái rơm cái rác) Như cơn nóng giận của thiên lôi Như mũi hổ phù Như CVB Ví dụ: Như đỉa phải vôi Như mèo thấy mỡ Như nhện ôm khư khư bọc trứng Nhận xét: Như vậy thông qua việc thống kê trên đây chúng ta có thể nhận thấy một cách rõ ràng rằng loại thành ngữ so sánh có mô hình X như A (X là vị từ, A là danh từ, ngữ danh từ) xuất hiện rất phổ biến trong các truyện ngắn trước cánh mạng của Nam Cao. Cùng với đó loại thành ngữ so sánh cũng có một tần số sử dụng khá lớn trong vốn thành ngữ mà chúng ta thông kê được. Sở dĩ như vậy chúng ta có thể lí do. So sánh là một phương thức tự nhiên, dùng để truyền đạt tư tưởng một cách hình ảnh trên cơ sở chiếu vật này với vật khác, thường là đơn giản nhưng rất biểu cảm và quen thuộc đối với người Việt. Chính vì thế, ngôn ngữ mà Nam Cao dùng trong việc khắc hoạ hình ảnh nhân vật, miêu tả tâm lí cùng với những lời đối thoại rất gần gũi với nhân dân. Việc sử dụng thành ngữ như thế này Nam Cao đã đạt một thành công lớn trong việc đưa tác phẩm của mình, thế giới nhân vật của mình gần gũi với độc giả nhiều hơn. 2.2.2. Thành ngữ miêu tả Ngoài số lượng khá lớn loại thành ngữ ẩn dụ hóa đối xứng cũng như thành ngữ so sánh, trong tổng số thành ngữ tiếng Việt được Nam Cao sử dụng trong các truyện ngắn của ông còn có loại thành ngữ miêu tả hay còn gọi là thành ngữ có cấu trúc vị ngữ. Có cả thảy 81 đơn vị cùng với biến thể của chúng( trong số 291 ), chiếm 27,83%. Đặc biệt những thành ngữ có bốn yếu tố thuộc loại này có phần giống với những thành ngữ bốn yếu tố đối xứng cặp đôi. Điều dẫn đến sự khó phân biệt bởi chúng đều giống nhau về mặt cấu trúc, tức là chia hai vế song tố. Nhưng giữa chúng có sự khác biệt. Thành ngữ đối xứng bốn yếu tố chia hai vế riêng biệt đối xứng với nhau cả về mặt từ vựng, ngữ pháp và ý nghĩa. Vị trí 1, 3 và 2, 4 thông thường là 2 cặp đối xứng. Trong khi đó, thành ngữ miêu tả bốn yếu tố cũng thường có hai vế song tố nhưng lại không có sự đối xứng như ở loại thành ngữ đã nói trên. Phân tích loại thành ngữ này chúng tôi xin đi sâu vào ba mô hình chính đó là: 1. Mô hình là ngữ vị từ. 2. Mô hình là ngữ danh từ 3. Mô hình là kết cấu CVB. *) Mô hình là ngữ vị từ. (37 thành ngữ, chiếm 45,68%) Ví dụ: Giết người không gươm Lo xanh mắt Đứt đuôi con nòng nọc Nói toạc móng heo Nhìn vào một số các ví dụ nêu trên chúng ta cũng một phần nào hình dung được mô hình thành ngữ miêu tả là ngữ vị từ. Theo thống kê và phân tích của chúng tôi loại mô hình này có thể chia thành các tiểu mô hình như sau: - Mô hình X-Y ( X, Y là vị từ) Ví dụ : nuôi báo cô, nuốt không trôi… - Mô hình X-OA ( X là ngữ vị từ, Oa là danh từ có yếu tố phủ định trước) Ví dụ: Vắt mũi chưa sạch Giết người không gươm Bán trời không giấy (văn tự) Giết người không run tay - Mô hình X-YB (X: vị từ, YB: ngữ vị từ có danh từ, ngữ danh từ làm trung tâm) Ví dụ: Không bõ dính răng Lo sốt gáy Gầy giơ xương Nuôi làm bà cô tổ Nói toạc móng heo Đau quắn đít Trông mặt bắt hình dong Già còn chơi trống bỏi - Mô hình X-A/B Ví dụ: Trơ mắt ếch Thét ra lửa Nắm đằng chuôi Đứt đuôi con nòng nọc Nghèo rớt mồng tơi Vái cả nón Buộc chỉ cổ tay Khôn róc đời…. - Mô hình X-CVB Ví dụ: dạy đĩ vén váy Như vậy thành ngữ thuộc loại mô hình là ngữ vị từ chiếm số lượng lớn trong tất cả các thành ngữ miêu tả. Sự kết hợp của vị từ đối với các đơn vị khác là khá phong phú, đặc biệt là động từ, bổ ngữ trực tiếp tạo thành một khối chặt chẽ. *) Mô hình là ngữ danh từ (7 đơn vị thành ngữ thuộc loại này, chiếm 8,64 %) - Mô hình A-B ( A: là danh từ, B: là bổ ngữ cho danh từ). Ví dụ: Đầu hai thứ tóc Đầu tổ quạ Lông mày sâu róm Răng bàn cuốc *) Mô hình là một kết cấu CVB. Loại thành ngữ này có số lượng khá nhiều trong tổng số các thành ngữ miêu tả. Cụ thể là 31 đơn vị/ 81, chiếm 38,27% Ví dụ: Chân nam đá chân chiêu Thân gần miệng lỗ Chuột gặm chân mèo Trời sinh voi sinh cỏ Thánh nhân đãi kẻ khù khờ Trong cái rủi có cái may Da búng ra sữa được… Từ những mô hình được nêu ra cùng ví dụ, chúng tôi hi vọng sẽ một phần nào đó đóng góp vào công việc nghiên cứu cách sử dụng từ ngữ, cụ thể là thành ngữ của nhà văn Nam Cao, thông qua đó giúp mọi người có thể hiểu một cách đầy đủ hơn, tòan diện hơn về nghệ thuật viết truyện của nhà văn. Mặt khác, với sự phân tích, phân loại này, chúng tôi có thể bổ xung them một nguồn tư liệu mới cho những nghiên cứu thành ngữ về sau. Trong quá trình thống kê và phân tích, có một số ít các thành ngữ gây khó khăn cho chúng tôi (6 thành ngữ). Thậm chí có những cụm chúng tôi không đủ khả năng để xem nó là thành ngữ hay tục ngữ, đặc biệt là đối với những thành ngữ có cấu trúc dạng Đ-T hay C-V (CVB). Chính vì vậy vấn đề nghiên cứu về thành ngữ tục ngữ vẫn đang rất cần những công trình nghiên cứu công phu và có hiệu quả cao hơn nữa. CHƯƠNG III CÁCH SỬ DỤNG THÀNH NGỮ CỦA NAM CAO QUA CÁC TRUYỆN NGẮN CỦA ÔNG I. Nhận xét chung về cách sử dụng thành ngữ của Nam Cao Thành ngữ là một trong các phương tiện diễn đạt nội dung thông tin, tư tưởng. Như đã phân tích ở trên, thành ngữ là một đơn vị ngôn ngữ, có tính cố định về cấu trúc và mang tính biểu cảm cao. Sử dụng thành ngữ trong giao tiếp sẽ đạt được hiệu quả khá cao, bởi nói ít mà nghĩa của nó lại nhiều. Hiện nay, một trong những xu hướng vận động và phát triển của ngôn ngữ văn chương đặc biêt là truyện ngắn thời kì hiện đại ở nước ta đó là bám sát đời sống, vương tới chiếm lĩnh và làm chủ lời ăn tiếng nói hang ngày của nhân dân, thoát bỏ mọi khuôn sáo ước lệ, tượng trưng, cách điệu của ngôn ngữ văn học thời Trung đại, bảo tồn và phát triển mọi giá trị truyền thống theo hướng tinh gọn, chắt lọc và giản dị. Việc sử dụng ngôn ngữ của Nam Cao nằm trong xu hướng này. Còn đối với việc sử dụng thành ngữ lời nói cửa miệng của dân gian thì Nam Cao đã rất nhuần nhuyễn trong sáng tác của mình, đặc biệt là trong các truyện ngắn của ông giai đoạn 30-45. Sự xuất hiện những thành ngữ với những biểu trưng của chúng làm cho câu văn uyển chuyển hơn, bóng bẩy hơn và sống động hơn. Như vậy, có thể nói Nam Cao là một trong những tác giả sử dụng thành ngữ khá nhiều và đạt được giá trị cao. II. Về việc sử dụng thành ngữ gốc Hán Trong số 330 thành ngữ chúng tôi thống kê được trong các truyện ngắn của Nam Cao giai đoạn 30-45 thì chỉ có 9 thành ngữ gốc Hán. Như vậy có thể nói, trong tác phẩm của mình, Nam Cao hầu như rất ít khi sử dụng thành ngữ gốc Hán. 100% các thành ngữ gốc Hán đều được ông sử dụng dưới dạng nguyên bản, tức là sử dụng nguyên dạng các thành ngữ gốc Hán chứ không sử dụng những thành ngữ dịch tương ứng từng chữ. Ví dụ: Thất cơ lỡ vận Tận tâm tận lực Tha phương cầu thực Thập tử nhất sinh…. Lí do có thể giải thích cho việc Nam Cao ít sử dụng thành ngữ gốc Hán trong các tác phẩm của mình đó là thành ngữ loại này có nội hàm lớn và mang tính chân lí cao nên sẽ rất khó cho quần chúng bạn đọc có thể thu nhận một cách dễ dàng. Những thành ngữ gốc Hán được dùng thường là những thành ngữ khá quen thuộc với người Việt. Hơn nữa, dựa vào trình độ học vấn, giới tính, lứa tuổi của đối tượng giao tiếp thì các nhà văn sẽ chọn cách thức sử dụng từ ngữ sao cho phù hợp nhất, đạt hiệu quả cao nhất. Truyện ngắn của Nam Cao giai đoạn 30-45 chủ yếu viết về đời sống nơi thôn quê, cuôc trao đổi nói chuyện hầu như chỉ là giữa những người dân chân chất, giản dị và bình thường. Câu chuyện của nhân vật đa phần xoay quanh những vấn đề như cái nghèo cái đói, thuế má, một hiện tượng nổi bật trong làng, xóm… chính vì thế nên thành ngữ Hán ít xuất hiện trong những trang văn của Nam Cao cũng là điều dễ hiểu. Những thành ngữ Hán có xuất hiện thì cũng chỉ xuất hiện trong lời ăn tiếng nói của những nhân vật có it nhiều chữ nghĩa như cụ bá, cụ đồ hay những thầy bói, thày cúng mà thôi. III. Sự sáng tạo của Nam Cao trong việc sử dụng thành ngữ - Nam Cao đã sử dụng linh hoạt những thành ngữ có cấu trúc bình thường (tức là những thành ngữ nguyên dạng). Chẳng hạn nói về những suy nghĩ của Bá Kiến khi mời Chí Phèo vào nhà lúc Chí Phèo vạch mặt ăn vạ lần thứ nhất, Nam Cao viết “Bá Kiến quả có ý muốn dàn xếp cùng hắn thật. Không phải cụ đớn, chính thật cụ khôn róc đời, thứ nhất sợ kẻ anh hùng, thứ hai sợ kẻ cố cùng liều thân. Chí Phèo không là anh hùng, nhưng nó là cái thằng liều lĩnh. Liều lĩnh thì còn ai thèm chấp ! Thế nào là mềm nắn rắn buông? Cái nghề làm việc quan, nếu nhất nhất cái gì cũng đè đầu ấn cổ thì lại bán nhà đi cho sớm”. Rõ ràng những thành ngữ được sử dụng trong đoạn văn trên có tác dụng rất lớn trong việc khắc hoạ hình ảnh Bá Kiến với những suy nghĩ thâm thuý, sâu xa trong cách cư xử với Chí Phèo để mình không bị thiệt. Hay như Năm Thọ- một tên trùm lưu manh cũng được Nam Cao miêu tả với những thành ngữ giàu sức biểu cảm “Năm Thọ vốn là một thằng đầu bò đầu bướu . Hồi ấy, bá Kiến mới ra làm lý trưởng, nó hình như kình nhau với lão ra mặt; lý Kiến muốn trị nhưng chưa có dịp. Ðược ít lâu, hắn can dự vào một vụ cướp bị bắt giam; lý Kiến ngấm ngầm vận động cho vào tù . Vẫn tưởng một người vai vế như Năm Thọ mà thất cơ lỡ vận đến nỗi tội tù làm gì còn dám vác cái mặt mo về làng?”. Còn khi miêu tả người vợ của Năm Thọ, Nam Cao lại viết “Bởi vì chị vợ ở nhà còn trẻ, mới hai con, cái mắt sắc như dao lại hồng hồng đôi má, bỗng nhiên lại sinh ra vắng chồng, của ngon trờ trờ ngay trước mắt, ai mà chịu được?”. Ở đây Nam Cao sử dụng thành ngữ “mắt sắc như dao” mang tính hình ảnh và giàu chất biểu cảm. Tương tự như vậy khi tả Dần trong “Một đám cưới” thành ngữ cũng được ông huy động để đạt được mục đích miêu tả của mình “Con người ta, có cơm vào là có da, có thịt ngay. Chẳng lâu đâu. Người mẹ nghĩ và mừng. Thị chắc chỉ vài, ba tháng sau, nếu Dần được một ngày rỗi rãi về chơi với các em, cả nhà sẽ ngạc nhiên thấy nó béo như con cun cút. Mà trắng, mà đẹp, mà lành lặn, ra phết cô con gái lắm!...Dần có về thật, nhưng nó vẫn gầy như một cái que. Nó khóc hu hu. Nó đòi ở nhà với các em, muốn cho ăn thế nào thì cho, muốn bắt làm gì thì bắt, chỉ đừng bắt nó ở cho nhà bà chánh nữa. Cơm nhà giàu khó nuốt. ăn của họ mà không làm lợi cho họ được thì họ làm cho đến phải mửa ra mà giả họ. Dần chân yếu tay mềm lắm. Nó thà nhịn đói mà ở cửa, ở nhà còn hơn. Mẹ Dần nhất định không nghe. Thương con thì để bụng.” - Bên cạnh những thành ngữ được sử dụng nguyên dạng có không ít thành ngữ được Nam Cao biến đổi ít nhiều về hình thức cấu trúc. Trong số đó, tách các thành ngữ có sẵn là thủ pháp được ông thường sử dụng nhất. Ví dụ: “Bèo cũng không rẻ thế!” (Trẻ con ko biết đói);“Tại sao ở hiền không phải bao giờ cũng gặp lành?” (Ở hiền). - Có không ít lần ông thêm bớt một vài yếu tố của thành ngữ có sẵn một cách khá tài tình không những không làm mờ mất tác dụng biểu đạt to lớn của thành ngữ gốc mà còn khiến chúng hoà quyện một cách tự nhiên trong lời văn, mạch văn. Chính điều này vừa làm tăng thêm cái chất mộc mạc, hồn hậu cho nhân vật, cảnh vật được miêu tả lại vừa giữ được cái sâu sắc ý nhị vốn có của lối diễn đạt có thành ngữ. Ví dụ: “Cưỡi lên đầu lên cổ” (Mua danh); “Nuốt của nó không trôi” (Thôi, đi về); “Chàng muốn có đủ can đảm để giết người. Phải dám giết mà không run tay khi cần phải giết. Còn làm được trò gì nữa nếu chỉ giết mọt con chó mà tim cũng đập?” ( Cái chết của con Mực). - Ngoài ra một đặc điểm nữa về cách sử dụng thành ngữ khẳng định sự sáng tạo của Nam Cao đó chính là cách thay thế một vài yếu tố trong thành ngữ có sẵn. Ví dụ : “Lạy (vái) cả nón”, “Ðiền phải đi. Ði để giữ cho lòng mình tươi lâu. Ðiền sẽ làm bất cứ cái gì đó để có ăn. Rồi Ðiền bình tĩnh viết. Có như vậy Ðiền viết mới ra hồn được. Lời phải đẹp. ý phải thanh cao. Ngọn bút của Ðiền mới khơi nguồn cho những tình cảm đầy thơ mộng. Nghệ thuật chính là cái ánh trăng xanh huyền ảo nó làm đẹp đến cả những cảnh thật ra chỉ tầm thường, xấu xa...” (Trăng sáng); “Trốn như trạch” (Mua danh)… Chưa dừng lại ở đó, trong một vài trường hợp ông chỉ sử dụng một vế của thành ngữ. Chẳng hạn như trong truyện ngắn “Nhỏ nhen” thay vì sử dụng thành ngữ đầy đủ “đứt đuôi con nòng nọc” thì tác giả chỉ sử dụng “đứt đuôi…rồi còn gì.”, thay vì thành ngữ đầy đủ “cắn răng chịu đựng” thì tác giả chỉ sử dụng “cắn răng…” Sự sáng tạo của Nam Cao còn thể hiện ở chỗ ông có không ít những lời văn ít nhiều mang dáng dấp của một thành ngữ “nhổ được cái đinh trước mắt” (Chí Phèo), “động đến chân lông” (Ở hiền)… - Cuối cùng, Nam Cao đã khai thác mọi biến thể có thể có của thành ngữ cũng như tận dụng tôi đa các thành ngữ đồng nghĩa, gần nghĩa để xây dựng hình tượng nhân vật, miêu tả cảnh vật, gửi gắm ý đồ của mình trong từng trang viết, từng cảnh đời. Chẳng hạn, tả làn da người ông đã khai thác mọi phương diện, sắc thái cho mọi đối tượng mà ông đề cập. Ví dụ: “da bấm ra nước được”, “da như da con tằm bủng”… Như vậy, có thể nói rằng các thành ngữ mà Nam Cao đã sử dụng trong các truyện ngắn của minh rất đa dạng và phong phú bởi nó được tác giả lựa chọn và sáng tạo sao cho thể hiện một cách tốt nhất ý đồ của tác giả. Ông ít dùng những thành ngữ Hán Việt bởi nó quá cao xa và mang tính triết lí đối với người dân. Các thành ngữ còn lại trong quá trình sử dụng, ông luôn có sự biến đổi trên cơ sở sáng tạo hơn để phù hợp với từng trang viết, tạo được ấn tượng sâu sắc với độc giả. Có thể chính việc sử dụng thành ngữ này của Nam Cao đã đóng góp nên một phần rất lớn trong sự nghiệp văn chương của ông, nhờ nó mà thế giới nhân vật trong các truyện ngắn gần gũi hơn, quen thuộc hơn với bạn đọc. KẾT LUẬN 1. Báo cáo này nghiên cứu cách dùng thành ngữ trong một số truyện ngắn của Nam Cao giai đoạn 30-45 nhằm đóng góp vào việc nghiên cứu đặc trưng phong cách ngôn ngữ Nam Cao. Các thành ngữ trong truyện ngắn Nam Cao được xem xét theo ba khía cạnh sau: - Số lượng thành ngữ trong 52 truyện ngắn viết trước cách mạng in trong tập “Nam Cao toàn tập” - Tiến hành phân loại, phân tích các thành ngữ thu được để làm rõ hơn những đặc điểm cấu trúc của thành tiếng Việt nói chung - Sự sáng tạo của Nam Cao trong việc sử dụng thành ngữ 2. Báo cáo đã thống kê tương đối đầy đủ số lượng thành ngữ trong các truyện ngắn của Nam Cao. Chúng tôi đã thống kê được 291 thành ngữ, việc thống kê này dựa trên cơ sở ngôn ngữ học và môtip thành ngữ Việt Nam. Trên cơ sở lí thuyết như đã trình bày trong phần nội dung, chúng tôi tiến hành phân loại thành ngữ Nam Cao sử dụng theo cấu trúc cú pháp trong mối quan hệ với từ loại. Chúng tôi có thể tóm tắt sự phân loại của mình thông qua bảng tổng hợp sau đây: Thành ngữ ẩn dụ hoá đối xứng Thành ngữ ẩn dụ hoá phi đối xứng 4 yếu tố 6, 8 yếu tố Thành ngữ dạng so sánh Thành ngữ miêu tả Mỗi vế là một thành tố Mỗi vế là một kết cấu C_P Mỗi vế là một kết cấu C-V Mỗi vế là một kết cấu Đ-T Chủ yếu là các động ngữ hay danh ngữ Nhiều mô hình 3 mô hình chính 14,28% 83,81% 0,87 % 0,87% 8,69% 32,65% 27,83% 3. Việc sử dụng thành ngữ trong một số truyện ngắn trước cách mạng của Nam Cao là một trong những nét đặc trưng trong phong cách nghệ thuật Nam Cao. Mặc dù số lượng thành ngữ mà chúng tôi thống kê được ở tác phẩm là không nhiều nhưng có thể nói rằng định lượng này đã cho chúng ta thấy được những đặc điểm của phong cách nhà văn Nam Cao. Dưới ngòi bút tài tình của nhà văn, các thành ngữ vốn là những đơn vị có giá trị biểu cảm và mang tính cố định càng trở nên dễ hiểu và đạt hiệu quả cao nhất trong việc thể hiện tư tưởng tình cảm của mình đối với người nghe, người đọc. Trong quá trình sử dụng thành ngữ của mình, Nam Cao không chỉ sử dụng những thành ngữ nguyên dạng mà còn rất sáng tạo trong việc sử dụng những biến thể của chúng và thông qua những thao tác như tách ghép, thêm hay bớt từ…tạo nên những thành ngữ rất đa dạng và có giá trị biểu đạt cao. 4. Kết quả nghiên cứu của bài báo cáo một mặt khẳng định những đóng góp to lớn của Nam Cao trong việc sử dụng vốn ngôn ngữ dân tộc và sáng tạo nên những thành ngữ mới bằng việ đan xen, thêm bớt từ…làm giàu lời ăn tiếng nói của nhân dân, mặt khác cũng cho chúng ta nhiều bài học về ý thức sử dụng ngôn ngữ , giữ gìn và bảo vệ ngôn ngữ và sử dụng ngôn ngữ gắn liền với việc lựa chọn cách tiếp cận gần gũi với bạn đọc nhất. Bên cạnh đó kết quả nghiên cứu của bản báo cáo này cũng có thể góp phần hữu ích vào việc gợi mở cách hiểu đúng và có thể dung đúng thành ngữ tiếng Việt, phục vụ cho việc học tập thành ngữ nói riêng và tiếng Việt nói chung. TÀI LIỆU THAM KHẢO Đỗ Hữu Châu, 1981, Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt, Nxb GD. Nguyễn Thiện Giáp, 2005, Từ vựng học tiếng Việt, Nxb GD. Hoàng Văn Hành, 2004, Thành ngữ học tiếng Việt, Nxb KHXH. Nguyễn Nhã Bản, 2003, Cuộc sống của thành ngữ, tục ngữ trong kho tàng ca dao người Việt, Nxb Nghệ An. Nguyễn Văn Hằng, 1999, Thành ngữ bốn yếu tố trong tiếng Việt hiện đại, Nxb KHXH. Nam Cao- con người và tác phẩm( sưu tập tư liệu nghiên cứu, phê bình), 2003, Nxb Hội Nhà Văn. Nam Cao- nhà văn hiện thực xuất sắc, 2003, Nxb VHTT. Triều Nguyên,Phân biệt thành ngữ và tục ngữ bằng mô hình cấu trúc,tạp chí ngôn ngữ số 5/2006 Mai Thị Nhung, Nghệ thuật sử dụng thành ngữ trong sáng tác của Tô Hoài, Tạp chí Ngôn ngữ số 12/ 2007 Hiện tượng biến thể và đồng nghĩa của thành ngữ tiếng Việt, Tạp chí Ngôn ngữ số 3/ 2007 Kiều Thanh Hương, Khảo sát thành ngữ trong tác phẩm Hồ Chí Minh, 2006, Luận văn PHỤ LỤC Danh sách thành ngữ và các biến thể của chúng trong các truyện ngắn Nam Cao giai đoạn 30 - 45 STT Tên truyện STT Các thành ngữ 1 Tình già 1 Nuôi báo cô 2 Một nách hai con 3 Đầu đuôi xuôi ngược 4 Nghịch như giống tinh 5 Quấy như mương rứt 6 Bữa bưng bữa vực 7 Phù hộ độ trì 8 Bạc như giống rận 9 Vợ lẽ con thêm 10 Người ghét của ưa 11 Già còn chơi trống bỏi 2 Hai người ăn tết lạ 12 Cãi chày (cãi cối) 13 Buốt như kim nhọn 14 Muốn ăn không muốn làm 15 Mất ăn mất ngủ 16 Sái hàm răng 17 Gối đầu tay nhau 3 Nửa đêm 18 Như cơn nóng giận của thiên lôi 19 Đen như cột nhà cháy 20 Sáng như mắt vọ 21 Như mũi hổ phù 22 Trũng như hai cái hố 23 Như bị ma bóp cổ 24 Cờ bạc rượu chè 25 Mẹ góa con côi 26 Mềm như con bún 27 Làm xuôi làm ngược 28 Đổ đình đổ chùa 29 Đổ nhà đổ cửa 30 Tháo cũi xổ lồng 31 Hiền như đất 32 Ngọ nguậy như một con sâu 33 Trời sinh voi sinh cỏ 34 Hì hục như một con trâu 35 Tiền nào của ấy 36 Câm như hến 37 Đẹp như tiên 38 Xấu xí như ma 39 Thắt lưng buộc bụng 40 Quân hồi vô phèng 41 Cái rác cái rơm 42 Giết người như ngóe 43 Đời cha ăn mặn đời con khát nước 44 Thân gần miệng lỗ 45 Hẻo lánh tựa như bãi tha ma 46 Vắng như chùa bà Đanh 47 Như một nơi ma ở 4 Đón khách 48 Có đầu có đuôi 49 Tiếng như ngỗng đực 50 Trơ thổ địa 51 Răng bàn cuốc 52 Đỏ như gấc chín 5 Điếu văn 53 Như đỉa phải vôi 54 Nói như móc họng 55 Vắt mũi đút miệng 56 Được bữa hôm lo bữa mai 57 Thánh nhân đãi khù khờ 58 Chứng nào tật ấy 59 Cơm bưng nước rót 60 Ngọt như đường 61 Mát lòng mát ruột 62 Đóng cũi sắt 6 Lang Rận 63 Thầy già con hát trẻ 64 Cậy dỉ mũi chưa sạch 65 Chép miệng ngoặc đầu 66 Trông mặt mà bắt hình dong 67 Có bệnh thì vái tứ phương 68 Chết đói chết khát 69 Con ông ấm cháu ông cử 70 Cắn răng mà chịu 71 Như da con tằm bủng 72 Đầu gio mặt muội 73 No lắm dửng nhiều 74 Như mèo thấy mỡ 75 Đen như thằng quỷ 76 Mắng như băm như bổ 77 Im như thóc 78 Cái hỏa nó bốc lên đầu 79 Nửa quả hồng còn hơn 80 Con ông nọ cháu bà kia 81 Tím ruột tím gan 7 Nhìn người ta sung sướng 82 Khổ từ trong trứng khổ ra 83 Trẻ như măng 84 Chết khô chết nỏ 85 Một tấc lên đến trời 86 Không dám động đến chân lông 87 Nay ốm mai đau 88 Được người được nết 89 Nóng như lửa đốt 90 Xỏ chân lỗ mũi 8 Một truyện Xú vơ nia 91 Quần ống thấp ống cao 92 Nhăn nhó như mặt khỉ 93 Mồm năm miệng mười 94 Con cú đậu cành mai 95 Tụm năm tụm ba 9 Rình trộm 96 Khôn sống dại chết 97 Dốt như bò 98 Cơm nhà ma vợ 99 Chuột gậm chân mèo 100 Ngủ như chết 10 Rửa hờn 101 Chạy ngược chạy xuôi 102 Da trông bấm ra nước được 103 Chẳng có cái khố mà đeo 104 Khinh như rác 105 Giận cá chém thớt 106 Cắn rơm cắn cỏ 11 Ở hiền 107 Ở hiền…gặp lành 108 Động đến chân lông nó 109 Cứng cổ 110 Hoa hòe hoa sói 111 Hiền như đất nặn 112 Chắc như đinh đóng cột 113 Khóc như mưa 12 Tư cách mõ 114 Im như thóc 115 Hiền như đất 116 Cày thuê cuốc mướn 13 Mua danh 117 Nát như tương 118 Nhăn nhó như mặt khỉ 119 Cái may cũng như cái rủi 120 Cưỡi lên đầu lên cổ 121 Ngu như bò 122 van ông lạy bà 123 Lẩn như trạch 14 Thôi, đi về 124 Chân nam đá chân xiêu 125 Nuốt của nó không trôi 126 Chửi lắm mỏi miệng 127 Không có lửa thì lấy đâu ra khói 128 Mặt không còn hột máu 129 Trơ mắt ếch 15 Trẻ con không biết đói 130 Miếng ăn không nên vội 131 Không bõ dính răng 132 Bóp mồm bóp miệng 133 Bèo cũng không rẻ thế 16 Làm tổ 134 Đen như mực 135 Khóc như cha chết 136 Rẻ như bèo 137 Nắm đằng chuôi 138 Tay làm hàm nhai 139 Vô công rồi nghề 140 Xác như tổ đỉa 141 Dọc đường dọc lối 142 Cuốc giật vào lông 17 Từ ngày mẹ chết 143 Bền đến thiên niên vạn đại 144 Ngơ ngẩn như mất vía 145 Gầy giơ xương 146 Cha chết thì ăn cơm… 18 Một bữa no 147 Thắt lưng buộc bụng 148 Thập tử nhất sinh 149 Bữa lưng bữa vực 150 Trái gió trở trời 151 Cậy dỉ mũi còn chưa sạch 152 Trơn lông đỏ da 153 Nuôi làm bà cô tổ 154 Nửa đùa nửa thật 155 No dồn đói góp 19 Quái dị 156 Khẳng khiu như chân gà 157 Đầu trộm đuôi cướp 158 Tối như hũ nút 20 Trẻ con không được ăn thịt chó 159 Như ống bễ lò rèn 160 Buộc chỉ cổ tay 161 Miếng ăn là miếng nhục 162 Trông gà hóa cuốc 163 Nghèo rớt mồng tơi 164 Thương con để bụng 165 Ăn hoang phá hại 166 Cắn răng (chịu đựng) 167 Ngang như cua 168 Cục như chó 169 Thượng cẳng chân hạ cẳng tay 170 Con sâu cái kiến 21 Đòn chồng 171 Mắt năm mắt mười 22 Một đám cưới 172 Có da có thịt 173 Của nhà giàu khó nuốt 174 Béo như con cun cút 175 Gầy như một cái que 176 Chân yếu tay mềm 177 Thương con để bụng 178 Đào ông bới cha 179 Vắt dỉ mũi chưa sạch 180 Như đi chợ 181 Tiền rừng bạc bể 182 Làm vụng làm trộm 183 Giàu bán chó khó bán con 184 Miếng bùi chui qua cổ 185 Chín bỏ làm mười 186 Mát lòng mát ruột 23 Con mèo 187 Đầu lâu hoa cái 188 Ngủ như chết 189 Nhảy loi choi 190 Đầu tổ quạ 24 Lão Hạc 191 Đói reo đói rắt 192 Thắt lưng buộc bụng 25 Đôi móng giò 193 Đè đầu đè cổ 194 Nhiều như lá trên rừng 195 Há miệng mắc quai 196 Nhân lão tâm bất lão 197 Như súng thần công 198 Như chọc vào lỗ tai 199 Chết mất xác 26 Dì Hảo 200 Một nắng hai sương 201 Con dòng cháu giống 27 Giờ lột xác 202 Như mưa như gió 28 Chú Khì 203 Ngu như một đàn bò 204 Tối như hang 29 Nghèo 205 Tíu tít như con mẹ dại 206 Như con chim non 207 Xanh bủng như người ngã nước 208 Xương bọc da 30 Cái chết của con Mực 209 …giết …không run tay 210 Đỏ như gấc chín 31 Chí Phèo 211 Quyền thu quyền bổ 212 Thét ra lửa 213 Khôn róc đời 214 Mềm nắn rắn buông 215 Đè đầu ấn cổ 216 Xa phủ xa tỉnh 217 Quần ngư tranh thực 218 Năm bè bảy bối 219 Cưỡi lên đầu lên cổ 220 Bám thằng có tóc ai bám thằng trọcđầu 221 Đầu bò đầu bướu 222 Thất cơ lỡ vận 223 Nhổ được cái đinh trước mắt 224 Tre già măng mọc 225 Hiền quá hóa ngu 226 Nghèo rớt mồng tơi 227 Mắt sắc như dao 228 Đầu hai thứ tóc 229 Hiền lành như đất 230 Uống máu người không tanh 231 Già néo đứt dây 232 Vợ đẹp con đàn 233 Tứ cố vô thân 234 Biết mềm biết cứng 235 Một thước cắm dùi không có 236 Tức như chọc họng 237 Trời chu đất diệt 238 Nhạt như nước ốc 239 Hiền như đất 240 Đau quắn đít 32 Đui mù 241 Giống như đúc 33 Hai cái xác 242 Giơ tay quắc mắt 34 Nguyện vọng 243 Chỉ còn xương với da 35 Hai khối óc 244 Bóng loáng như đồng điếu 245 Manh áo… che thân 246 Bất công vô lý 247 Rách bươm xơ mướp 248 Ăn đời ở đời 249 Giàu từ trong trứng giàu ra 36 Cũng ở chỗ này 250 Nhìn chòng chọc 37 Một bà hào hiệp 251 Nẩy lên nẩy xuống 252 Loắt choắt như một con chuột 253 Nay đây mai đó 254 Con sen đứa ở 255 Chết mê chết mệt 256 Vò đầu rứt tóc 257 Có tài mà chưa có tiếng 38 Cảnh cuối cùng 258 Xướng ca vô loài 259 Học ăn học nói 39 Những cánh hoa tàn 260 Đặc như rươi 40 Cái mặt không chơi được 261 Lạnh như nước đá 262 Đặt đâu ngồi đấy 263 Đảo đồng đảo địa 41 Những chuyện không muốn viết 264 Nhăn như mặt hổ phù 265 Chết dấm chết dúi 266 Giết người không gươm 267 Tan xương nát thịt 268 Đầu đuôi xuôi ngược 42 Trăng sáng 269 Năm chừng mười họa 270 Bành bạnh như cái vại 271 To như lưng trâu 272 Gồng thuê gánh mướn 273 Ăn ngon mặc đẹp 274 Như đỉa phải vôi 275 Lời phải đẹp ý phải thanh cao 43 Mua nhà 276 Tận tâm tận lực 277 Mồ hôi nước mắt 278 Chạy ngược chạy xuôi 44 Truyện tình 279 Viết chày viết cối 45 Nhỏ nhen 280 Trẻ tuổi thích làm ngang 281 Như mắc cửi 282 Đứt đuôi con nòng nọc 283 Thắt lưng buộc bụng 284 Ăn đói mặc rách 46 Đời thừa 285 Khóc như mưa 286 Nay ốm mai đau 287 Ngủ say như chết 288 Như nhện ôm khư khư bọc trứng 289 Ghen bóng ghen gió 290 Lo xanh mắt 291 Vá trời lấp biển 292 Đau như dần 47 Sao lại thế này 293 Như rơm như rác 294 Biết người biết của 295 Đầu bù tóc rối 296 Ăn không nên đọi nói chẳng nên lời 48 Quên điều độ 297 Ăn khỏe ngủ khỏe 298 No dồn đói góp 49 Cười 299 Như con chó day giẻ 300 Ngủ say như chết 301 Cải lão hoàn đồng 302 Gắt như mắm thối 303 Rối lên như canh hẹ 304 Như đổ nước vào mặt 305 Lạy (vái) cả nón 306 Cau có như khỉ 307 Tiếng bấc đưa đi tiềng chì đưa lại 50 Nước mắt 308 Nay thuốc mai thuốc 309 Làm chẳng đủ ăn 310 Tiền mất tật mang 311 Nhịn mặc nhịn ăn 312 Lo sốt gáy 313 Gầy như một cái tăm 314 Nói toạc móng heo 315 Trơ mắt ếch 316 Khát như cháy họng 317 Vã ra như tắm 318 Nay ốm mai đau 319 Nay đau bụng mai đau bụng 320 Khổ như một con chó 321 …như tát nước 322 Khóc như ri 51 Bài học quét nhà 323 Hiền như ông bụt đất 324 Đen như hạt nhãn 325 Nhỏ như răng chuột 326 Năm thì mười họa 327 Trố như ốc nhồi 328 Mềm như tơ 329 Nóng như lửa đốt 330 Ngủ ủ ỉ như lợn 52 Xem bói 331 Bụng đói hoàn đói 332 Lông mày như sâu róm 333 Mở mày mở mặt 334 Béo như phù 335 Tha phương cầu thực 336 Ngang như cua MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docnn01.doc